Thứ Bảy, 4 tháng 8, 2018

Thơ Tranh: Xuân Tái Hồi

(Phỏng Họa: Thu Chia Phôi - Kim Phượng)

Thơ: Chinh Nguyên/H.N.T
Thơ Tranh: Kim Oanh

Nhiếp Ảnh Tầm Sen



(Tặng huynh Bảo Trâm)

Anh chụp cảnh hồ Sen tươi bát ngát
Nơi chân trời có nắng Hạ yêu thương
Nét thanh tao tinh khiết gữa cõi thường
Vươn lên khỏi bùn lầy xinh đẹp nở

Lắng thanh tịnh nhìn em ...thiền hơi thở
Kiếp tha phương tưởng nhớ bóng người thân
Sen Tịnh Tâm, Đại Nội thắm vô ngần
Mùa lễ lớn đi Chùa dâng cúng Phật

Nơi đất khách tưởng chừng như hụt hẩng
Gót phong sương dừng lại nét hoa mơ
Bóng quê hương dịu vợi chẳng phai mờ
Hồn lãng tử êm đềm say giáng ngọc

Màu hạnh phúc vươn lên mặt trời mọc
Mây trong xanh hoà quyện nét duyên ngời
Em tinh khôi hé nhuỵ thắp lòng đời
Hoa khởi sắc cho tình mênh mông dậy

Minh Thuý
25 tháng 7_2018

Gọi Mãi Người Ơi!



Bài Xướng:
Gọi Mãi Người Ơi!

(Thuận-Nghịch độc)

Ơi người! gọi mãi nhớ nhau không?
Buốt giá hồn ai chợt tủi lòng
Lời vắng để đau niềm vắng bạn
Cảnh sầu thêm xót nỗi sầu đông
Khơi tàn mộng cũ hoa nào thắm
Chuốc huyễn mơ xưa rượu mấy nồng
Rời rã bóng nghiêng chiều nắng lụi
Vơi đầy chén đắng lệ cùng đong.

Đọc nghịch:

Đong cùng lệ đắng chén đầy vơi
Lụi nắng chiều nghiêng bóng rã rời
Nồng mấy rượu xưa mơ huyễn chuốc
Thắm nào hoa cũ mộng tàn khơi
Đông sầu nỗi xót thêm sầu cảnh
Bạn vắng niềm đau để vắng lời
Lòng tủi chợt ai hồn giá buốt
Không nhau nhớ mãi gọi người ơi!

Nguyễn Gia Khanh
***
Các Bài Họa: 


Sầu Đong


Ơi nàng nhớ mãi mối tình không!
Quặn thắt tâm can giá buốt lòng
Lời vụn vỡ đau niềm lẻ bạn
Mộng tàn phai xót nỗi buồn đông
Khơi dòng nguyện ước hương mờ nhạt
Chuốc chén nguyền câu rượu nặc nồng
Rời rạc dạ suy hoài cảm luống
Vơi tình lệ đắng giọt sầu đong.

Nghịch:

Đong sầu giọt đắng lệ tình vơi
Cảm luống hoài suy dạ rạc rời
Nồng nặc rượu câu nguyền chén chuốc
Nhạt mờ hương ước nguyện dòng khơi
Đông buồn nỗi xót phai tàn mộng
Bạn lẻ niềm đau vỡ vụn lời
Lòng buốt giá can tâm thắt quặn
Không tình mối mãi nhớ nàng ơi.

Liêu Đình Tự
***
Không Thương! Nhớ Bạn

(Thuận nghịch độc)

Ơi tình hỡi bạn! nhớ thương không?
Mãi tủi hờn đau ruột thắt lòng!
Lời đắng cũng tay chia bái biệt
Tiếng buồn xót dạ não tàn đông
Khơi về thuở đó còn son sắc
Bới lại tro đây sao thắm nồng
Rời rạc phiếm rề cung nhạc điệu
Vơi ngày bóng lẻ khúc chao đong

Đọc nghịch:

Đong chao khúc lẻ bóng ngày vơi
Điệu nhạc cung rề phiếm rạc rời
Nồng thắm sao đây tro lại bới
Sắc son còn đó thuở về khơi
Đông tàn não dạ xót buồn tiếng
Biệt bái chia tay cũng đắng lời
Lòng thắt ruột đau hờn tủi mãi
Không thương! nhớ bạn hỡi tình ơi!

Hải Rừng
***
Nhớ Người Xưa


Ơi ai, dáng liễu, sắc nhòa không?

Nhớ mỏi mòn trông, tủi dạ lòng
Lời tiếng ngọt lan, vui nắng hạ
Tóc làn êm tỏa, níu hàn đông
Khơi tràn nghĩa tỏ, đâu mờ nhạt
Đọng lắng tình sâu, vẫn thắm nồng
Rời rạc xác mơ, hồn bảng lảng
Vơi nào mộng ước, vọng sầu đong.

Đọc nghịch: 

Đong sầu vọng ước, mộng nào vơi
Lảng bảng hồn mơ, xác rạc rời
Nồng thắm vẫn sâu, tình lắng đọng
Nhạt mờ đâu tỏ, nghĩa tràn khơi
Đông hàn níu tỏa, êm làn tóc
Hạ nắng vui lan, ngọt tiếng lời
Lòng dạ tủi trông, mòn mỏi nhớ
Không nhòa sắc liễu, dáng ai ơi!

Đoàn Đình Sáng
***
Ai Thương Nhớ Ai? 

Ơi bậu ... Ai chờ ai biết không?
Trắng đêm thờ thẩn xót xa lòng
Lời cay đắng cũ sầu mưa Bắc
Cảnh sắt se buồn lạnh gió Đông
Khơi nhớ phai tàn thu lá úa
Gợi thương nhòa nhạt nét môi nồng
Rời xa bến mộng tình dang dở
Vơi khuyết trăng mờ lệ mãi đong!

Đọc nghịch:

Đong mãi lệ mờ trăng khuyết vơi!
Dở dang tình mộng bến xa rời
Nồng môi nét nhạt nhòa thương gợi
Úa lá thu tàn phai nhớ khơi
Đông gió lạnh buồn se sắt cảnh
Bắc mưa sầu cũ đắng cay lời
Lòng xa xót thẩn thờ đêm trắng
Không biết ai chờ ai...bậu ơi ?

Thy Lệ Trang
***
Thuyền Ơi!

Ơi thuyền đỗ bến có ngờ không ?
Nuối tiếc tình trao thẹn cả lòng !
Lời ngỏ khó sai đàn lỗi nhịp
Bậu chờ luôn ngỡ tuyết hoài đông
Khơi nguồn sưởi ấm hồn băng giá
Kết chỉ mong vui dạ thắm nồng
Rời gót tiễn ai rồi nghĩ trộm
Vơi buồn nỗi nhớ chẳng lường đong!

Đọc nghịch:

Đong lường chẳng nhớ nỗi buồn vơi!
Trộm nghĩ rồi ai tiễn gót rời ?
Nồng thắm dạ vui mong chỉ kết
Giá băng hồn ấm sưởi nguồn khơi
Đông hoài tuyết ngỡ luôn chờ bậu
Nhịp lỗi đàn sai khó ngỏ lời
Lòng cả thẹn trao tình tiếc nuối
Không ngờ có bến đỗ thuyền ơi!

Như Thu

Thiên Là Trời


Thiên 天 là Trời, Thiên 千 là Một Ngàn, Thiên 偏 là Thiên Lệch, Thiên 遷 là Di Dời ... Ở đây, ta chỉ nói đến chữ Thiên 天 là Trời, là phần không gian ở trên đầu của ta mà thôi. Theo "Chữ Nho ...Dễ Học", ta có chữ Nhân là người được viết như thế nầy 人. Đây là chữ Tượng Hình đơn giản nhất, cơ bản nhất và cũng ... Tượng hình nhất : Hình người đứng xoạt 2 chân hiên ngang giữa trời đất đúng như sách Tam Tự Kinh ngày xưa dạy : Tam tài giả, THIÊN ĐỊA NHÂN 三才者,天地人。( TAM TÀI là TRỜI, ĐẤT và NGƯỜI ). Con Người là một thành viên của vũ trụ, hợp với Trời và Đất tạo nên cái thế giới nầy ! 
Nên ...
Khi cần diễn tả sự to lớn thì chữ nhân 人 dang thêm hai tay ra theo lối CHỈ SỰ 指事 ( Mượn việc dang hai ta ra để chỉ sự to lớn gọi là Chỉ Sự ) thành chữ ĐẠI 大 , theo diễn tiến của chữ viết sau đây:

Giáp Cốt Văn Đại Triện Tiểu Triện Lệ Thư

Nên...
ĐẠI là To, là Lớn, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng phát sinh : là Vĩ Đại, là Trưởng thành ... Nhưng ...
Con người dù cho có cao lớn đến đâu cũng không thể cao lớn bằng Trời được, cho nên thêm một nét ngang tượng trưng cho bầu trời lên phía trên chữ Đại 大, thì ta có chữ THIÊN 天 là TRỜI, được hình thành theo lối HỘI Ý 會意 , theo diễn tiến của chữ viết như sau đây:

Giáp Cốt Văn Đại Triện Tiểu Triện Chữ Lệ 

Theo như Giáp cốt văn và Đại Triện ở trên, ta thấy rõ ràng hình người có cái đầu to tượng trưng cho Đầu Đội Trời, Chân Đạp Đất, gọi là " Đỉnh thiên lập địa 頂天立地 " như Từ Hải trong Truyện Kiều vậy :
ĐỘI TRỜI đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông.
Nên ...
Chữ Thiên 天 chỉ phần cao nhất của cơ thể con người, vượt lên trên đĩnh đầu cao vòi vọi, đó là Trời.

Về mặt thể chất, thì con người không thể cao bằng Trời, lớn bằngTrời được, nhưng về chí khí thì cũng có những người có chí lớn muốn CHỌC TRỜI Quấy Nước làm nên những chuyện Kinh Thiên Động Địa. Cho nên, chữ Thiên 天 mà nhô đầu lên theo chiều dọc để CHỌC thủng Trời thì sẽ thành chữ PHU 夫 là người đàn ông cao lớn mạnh khỏe hiên ngang đứng giữa trời đất, theo diễn tiến của chữ viết như sau:

Giáp Cốt Văn Đại Triện Tiểu Triện Lệ Thư

Nên ... 
PHU 夫 : là Người đàn ông trưởng thành, mạnh mẽ, hiên ngang mà các bà các cô ai cũng ước mong trở thành người hôn phối của mình, nên ...
PHU 夫 còn có nghĩa là CHỒNG với các từ ghép nghe cho êm tai và âu yếm là : Phu Tế 夫婿, Phu Lang 夫郎, Phu Tướng 夫相, Trượng Phu 丈夫 ... Như trong Truyện Kiều tả lúc Từ Hải chia tay với Kiều để lên đường lập nghiệp ... 

Nửa năm hương lửa đang nồng,
TRƯỢNG PHU thoát đã động lòng bốn phương.
Chữ PHU 夫 lại làm cho ta ...
... Nhớ lại 2 câu thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong bài "Không Chồng Mà Chửa" là:
Duyên THIÊN chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận LIỄU sao đà nẩy nét ngang ?!

Nữ sĩ đã chơi chữ bằng cách chiết tự rất lý thú và lí lắt như sau:
Duyên THIÊN 天 là duyên trời run rủi, chưa thấy nhô đầu dọc, là chưa thành chữ PHU 夫, nghĩa là chưa có chồng.
Phận LIỄU 了 (là Liễu bồ, là Phận gái) sao đà nẩy nét ngang ? Chữ LIỄU 了 mà " nẩy " nét ngang thì sẽ thành chữ TỬ 子 là CON. Nên 2 câu thơ trên có nghĩa :

Duyên trời nào thấy đâu run rủi,
Phận gái sao đà đã có con ?

Trong dân gian Nam Kỳ Lục Tỉnh, ở Cái Răng Ba Láng quê tôi, lúc nhỏ tôi cũng thường nghe bà con lối xóm hát rằng:

Không chồng có chửa mới ngoan,
Có chồng có chửa thế gian sự thường !

Về chữ LIỄU 了 là Kết thúc, kết liễu, đồng âm với chữ LIỄU 柳 là Dương Liễu chỉ phái nữ mềm yếu dịu dàng ẻo lả như nhánh liễu. Ở đây, Hồ Xuân Hương đã chơi chữ bằng cách sử dụng từ Đồng Âm để đánh đồng 2 chữ Liễu theo âm Hán Việt. Chớ chữ Liễu là Dương Liễu thì làm sao có được nét ngang mà "nẩy" ?!

Thiên 天 là Trời, chữ đầu tiên trong sách Tam Thiên Tự 三千字 của soạn giả Đoàn Trung Còn khi mới bắt đầu học chữ Nho hồi xưa :

天 Thiên trời, 地 Địa đất, 舉 Cử cất, 存 Tồn còn, 子 Tử con, 孫 Tôn cháu, 六 Lục sáu, 三 Tam ba, 家 Gia nhà, 國 Quốc nước, 前 Tiền trước, 後 Hậu sau...


Thiên 天 là Trời, là phần không gian cao ngất ở trên đầu ta, nhưng trong dân gian theo tín ngưỡng của người dân Đông Á chịu ảnh hưởng của Nho Thích Đạo, thì Trời là thế giới của cỏi trên, có đủ các thành phần Tiên Phật Thần Thánh của thượng giới, và có đời sống giống như ở dân gian, đứng đầu là Ngọc Hoàng Thượng Đế mà ta quen gọi là Ông Trời, và ông Trời hiện diện đầy đủ trong các mặt vui buồn của cuộc sống con người, ta vẫn thường nghe các câu:
- Vui qúa Trời !
- Buồn qúa Trời !
- Sướng qúa Trời !
- Khổ qúa Trời !....
Vui buồn sướng khổ gì đều kêu Trời cả ! Nên theo truyện cổ tích dân gian thì ... Ngày xửa ngày xưa, ông Trời ở rất gần ta, chỉ cao khỏi ba xào một chút mà thôi, nhưng vì hễ động một chút là người ta kêu Trời : Hôm nay ăn no qúa Trời; Con đói qúa Trời ơi ! Cái con nhỏ đó đẹp qúa Trời ! Nhỏng nhẻo qúa Trời; Thấy "ghét" qúa Trời đi !... Nhất nhất cái gì cũng kêu Trời, kể cả "Con mắc ... qúa Trời ơi !". Nên ... Ông Trời nghe thét rồi chán qúa mới "vọt" tuốt lên 9 từng mây mà ở trển luôn cho yên thân ! Chẳng những giới bình dân kêu trời, mà trong văn chương trí thức cũng kêu trời, như Vương Viên Ngoại trong Truyện Kiều, khi biết cô Kiều đã bán mình, ông cũng đã kêu lên :

Trời làm chi cực bấy Trời,
Này ai vu thác cho người hợp tan !?

hay lúc cô Kiều kể cho Vương Bà nghe về nhân cách của Mã Giám Sinh "Gẫm ra cho kỹ như hình con buôn" thì :

Vương Bà nghe bấy nhiêu lời, 
Nỗi oan đã muốn vạch Trời kêu lên. 

hay khi bị Sở Khanh gạt, rồi còn muốn hành hung nữa, thì cô Kiều cũng đã kêu trời:

Nàng rằng: Trời nhé có hay!
Quyến anh rủ yến sự này tại ai?
Đem người đẩy xuống giếng khơi,
Nói lời rồi lại ăn lời được ngay!

Thiên 天 là Trời, là phần đầu của con người như chữ Tượng Hình Hội Ý đã nói ở phần trên, nên trong sách tướng số gọi cái trán là Thiên Đình 天庭, phần giữa trán gọi là Thiên Môn 天門 và phần xương phía trên trán gọi là Thiên Linh 天靈, nên ta mới có từ Thiên Linh Cái 天靈蓋 là cái Mỏ Ác. Lúc còn bé thì phần Mỏ Ác nầy chỉ là một lớp sụn rất mềm, nên người lớn bắt nạt con nít hay nói câu : " Coi chừng tao cú cho một cái lủng Mỏ Ác bây giờ !". Khi lớn, Mỏ Ác đã cứng khó mà "cú" cho lủng, thì lại trở thành "cứng đầu cứng cổ"!.

Từ Thiên Linh Cái 天靈蓋 còn tượng trưng cho cả Cái Đầu, cái Xương Sọ hoặc cái Đầu Lâu, như các thầy Pháp, thầy Phù Thủy luyện Thiên Linh Cái là chuyên sưu tập đầu lâu và xương sọ của các cô gái đã chết và như trong truyện "Trang Tử Cổ Bồn Ca 莊子鼓盆歌", mà ta quen gọi là truyện "Trang Tử Thử Vợ", thì Thiên Linh Cái tượng trưng cho cái đầu với nội dung câu truyện như sau:

Trang Tử tên Chu 周 ( Châu ), tự là Tử Hưu 子休, người nước Tống 宋 thời Chiến Quốc (690-286 TCN), cùng vợ là Điền Thị ẩn cư ở phía nam núi Hoa Sơn. Một hôm, trên đường về nhà, trông thấy một thiếu phụ dùng quạt để quạt một nấm mộ bên đường. Trang Tử thấy lạ bèn hỏi, thiếu phụ cho biết là mộ của chồng mình, vì khi còn sống hai vợ chồng rất thương yêu nhau, nên có hẹn nhau là khi chồng chết, thì sau tang lễ, phải đợi cho mộ khô rồi mới tái giá, nhưng gần đây mưa gió cứ dập dìu, mộ không khô được, nên phải quạt cho mộ mau khô! 

Trang Tử nghe nói, thầm cười cho thế thái nhân tình nhưng cũng thi triển pháp lực giúp thiếu phụ quạt khô mộ chồng. Khi về nhà, đem truyện kể lại với vợ là Điền Thị, Điền Thị vô cùng phẫn nộ, chê trách thiếu phụ và bảo rằng: " Trung thần bất sự nhị quân, Liệt nữ bất sự nhị phu 忠臣不事二君,烈女不事二夫 ". Có nghĩa " Tôi trung không thờ hai chúa, gái tiết liệt chẳng lấy hai chồng ". Mấy tháng sau, Trang Tử bệnh chết, có một thiếu niên anh tuấn dắt theo một lão bộc, tự xưng là Vương tôn của nước Sở, vì mộ tiếng của Trang Tử mà tìm đến để theo học đạo. Nay tuy Trang Tử đã mất, nhưng cũng nguyện thủ tang theo lễ thầy trò, ở lại cư tang một trăm ngày và để đọc Nam Hoa Kinh của Trang Tử. 

Điền Thị rất vui dạ vì cảm cái vẻ cao sang tuấn tú của Vương tôn, mới nhờ lão bộc làm người mai mối, rồi xuất tiền lo cho hôn sự của hai người. Đêm động phòng hoa chúc, Vương tôn bỗng phát bệnh đau tim, thoi thóp sắp đứt hơi. Lão bộc cho biết là nếu có óc của người sống hoặc của người chết chưa quá bốn mươi chín ngày hòa với rượu uống vào thì khỏi bệnh. Điền Thị bèn xách búa bổ quan tài của Trang Tử định lấy óc ra làm thuốc cứu mạng Vương Tôn. Không ngờ khi quan tài vừa vỡ ra thì Trang Tử cũng vừa sống lại. Điền Thị cả thẹn, biết mọi việc đều do Trang Tử biến hóa an bày, nên treo cổ mà chết. Trang Tử gỏ bồn làm nhịp ca bài điếu tang rồi cảm khái ngâm rằng:

從茲了卻冤家債, Tòng tư liễu khước oan gia trái,
你愛之時我不愛。 Nhĩ ái chi thời ngã bất ái.
若重與你做夫妻, Nhược trùng dữ nhĩ tố phu thê,
怕你斧劈天靈蓋。 Phạ nhĩ phủ phách Thiên Linh Cái.

Có nghĩa:
Từ nay đã hết nợ oan gia,
Nàng bảo yêu, ta hết thiết tha.
Tiếp tục vợ chồng như thuở trước,
Có ngày búa bổ vỡ đầu ta.

Ngâm xong, nổi lửa đốt sạch nhà cửa quan tài ở dưới núi Hoa Sơn rồi đi mất. Dân chúng quanh vùng chỉ nhặt lại được hai quyển Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh chưa bị thiêu rụi mà thôi.
"Phủ phách Thiên Linh Cái" là búa bổ cho vỡ sọ đầu ra ! Đây là chuyện "Trang Tử Thử Vợ" thường tình của " cải lương ", của phim ảnh theo như truyện kể của dân gian đời Tống (960-1279), những người theo Tống Nho dùng để khuyến thế răn đời, chớ con người cao khiết siêu thoát với tư tưởng của Lão Trang như Trang Tử sao lại có thể dùng tiểu xảo gài bẫy để thử vợ một cách không quang minh chính đại như thế!? 

Trở lại với Thiên 天 là Trời, trong Nho Giáo THIÊN 天 không phải là Ông Trời, mà là Thiên Lý 天理 là cái Lẽ Trời, nói theo bình dân, là Cái Lý Lẽ tự nhiên công bằng chính trực, chí công vô tư, chí cao vô thượng của Trời, nên cái gì hợp với tự nhiên của nhân tình thế thái thì cái đó là ... Thiên. Ví dụ như : 
-Thiên Lương 天良: là Tấm lòng lương thiện ngay thẳng bẩm sinh của trời ban, là cái Lương Tâm vốn có của con người, mà cụ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đã gán cho mình cái nghĩa vụ thiêng liêng là phải phổ biến, gợi mở, khơi dậy cái thiên Lương ở trong lòng mỗi người, nên ông mới mượn bài thơ " Hầu Trời " để nói thác:

Trời rằng: " Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc "thiên lương" của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay"... 

- Thiên Bình 天平: là Sự cân bằng thẳng hàng không thiên lệch về bên nào cả, là biểu tượng của Cán Cân Công Lý ở các tòa án, pháp đình, và là cái cân có 2 dĩa cân của các tiểu thương buôn bán ở ngoài chợ, một bên để trái cân một bên để hàng hóa lên đến khi nào cân bằng thì thôi. Nên... Thiên Bình là sự bình đẵng tự nhiên của trời, sự công bằng không thiên lệch cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. 
Biểu tượng cái cân của tòa án ngầm bảo rằng mọi người đều bình đẵng trước pháp luật và trước... Trời!

- Thiên Võng 天網: là Cái Lưới của Trời, nó không phải là cái lưới có thật, mà nó là biểu tượng của cái công cụ bảo vệ công lý của trời. Ai làm trái cái lý trời thì sẽ bị cái lưới nầy tóm lấy để trừng trị, như câu nói sau đây :

Chủng qua đắc qua, 種瓜得瓜,
Chủng đậu đắc đậu. 種豆得豆,
Thiên võng khôi khôi, 天網恢恢,
Sơ nhi bất lậu ! 疏而不漏。 

Có nghĩa:
Trồng dưa thì được dưa,
Trồng đậu thì được đậu.
Lưới trời lồng lộng, 
Tuy thưa nhưng không lọt!

Ý muốn nói, gieo nhân nào sẽ gặt qủa nấy, làm lành sẽ gặp lành, làm ác sẽ gặp ác, không sai chạy bao giờ, chỉ sớm hay muộn mà thôi !
Thiên võng khôi khôi, 天網恢恢,
Ông trời luôn luôn đứng về phía người hiền, người lương thiện, nên Tăng Quảng Hiền Văn cũng có câu:
Nhân hữu thiện nguyện, 人有善願, 
Thiên tất hựu chi ! 天必祐之!
Có nghĩa:
Người mà có những ước nguyện tốt lành, thì...
Trời sẽ phù trợ ủng hộ cho người đó !

- Thiên Chức 天職 : Không phải là cái chức tước do trời ban, mà là trách nhiệm vốn có mà trời đặt để cho mỗi con người trong xã hội. Như Thiên Chức của Cha Mẹ là phải nuôi dạy con cái cho nên người, và con cái thì phải biết hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ...

- Thiên Bẩm 天禀, Thiên Tài 天才, Thiên Phú 天賦, Thiên Tư 天資 : đều là những cái sanh ra đã có sẵn mà trời ban riêng cho người nào đó mà người khác không thể có được. Như cụ Nguyễn Du đã khen cô Kiều :

Thông minh vốn sẵn Tư Trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Tư Trời là Thiên Tư của trời ban cho đó !

Cái gì thuộc về tự nhiên thì đều gán hết cho Trời, và được gọi là Thiên Nhiên 天然, ví dụ như Trời Mưa, Trời Nắng, Trời Gió... và Tai họa do những thứ đó gây ra như Mưa lũ, Hạn hán, Gió bão...đều được gọi là Thiên Tai 天災, là tai họa chết chóc, đổ vỡ do trời gây ra cho con người. Song song với Thiên Tai thì Trời cũng set-up sẵn một chỗ để tưởng thưởng cho những người lương thiện, mà tôn giáo nào cũng có, đó chính là Thiên Đàng 天堂, nơi yên vui sung sướng nhất mà mọi người đều mong ước. Tất cả những hiện tượng thời tiết mùa màng xảy ra chung quanh cuộc sống con người đều là những thứ sỡ hữu của trời như câu nói :

Thiên hữu tứ thời xuân tại thủ, 天有四時春在首,
Nhân sanh bách hạnh hiếu vi tiên. 人生百行孝為先。

Có nghĩa:
Trời có bốn mùa thì mùa xuân là mùa đứng đầu, còn...
Người thì có cả trăm phẫm hạnh, hiếu là phẩm hạnh trước tiên.

Ông Trời làm nên tất cả, cả thân phận của con người cũng do trời đặt để, như cụ Nguyễn Du đã nói:

Trời kia đã bắt làm người có thân,
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao

Bỉ sắc 彼嗇 thì tư phong 茲豐, có nghĩa Cái kia cạn thì cái nầy đầy, hết cơn bỉ cực thì đến ngày thái lai. Ông trời luôn bắt người ta phải " phong trần " trước, rồi mới cho " thanh cao " sau. Bắt cô Kiều phong trần mười lăm năm rồi mới cho gặp lại Kim Trọng. Thế mà khi đoàn viên lại phải cảm kích cái lòng tốt của ông trời :

Trời còn để có hôm nay,
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời.
Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa !
Khéo mà nói sạo để... nịnh ông trời !

Còn giới bình dân thì không khách sáo gì cả, vợ chồng cứ đẻ sòn sọt năm một, mỗi năm một đứa, nhà trên mười anh chị em là chuyện " thường tình " ở quê tôi, đời sống nheo nhóc nhưng lại rất lạc quan mà... đổ thừa cho ông trời :
- Trời sanh trời nuôi.
- Trời sanh voi sanh cỏ !
Tội nghiệp cho ông trời, cứ đẻ cho đã rồi đổ thừa cho ông trời là xong ngay ! Nhưng... nói cũng lạ, " nhờ Trời " rồi tất cả cũng đều khôn lớn nên người, lắm gia đình lại còn trở nên khá giả giàu có nữa là đằng khác ! Các Thầy Đồ ta ngày xưa thường nói:

Hữu nhi bần bất cửu, 有兒貧不久,
Vô tử phú bất trường. 無子富不長。

Có nghĩa:
Có con thì nghèo không lâu, vì khi lớn lên con sẽ làm ra thêm của cải. Còn ... Không có con thì giàu không bền, vì không có ai làm thêm của cải cho mình. Nên các Cụ cứ... đẻ thả giàn !

Thiên 天 là Trời, nên Thiên Hạ 天下 là dưới gầm trời nầy, là núi non sông nước, là đất đai ruộng vườn mầu mở của dân cư, là lãnh thổ, là cương thổ mà theo quan niệm phong kiến ngày xưa thì ai có tài thao lược giỏi giang, ai có đức trị dân thì sẽ là chúa tể của cái Thiên Hạ nầy, nên mới có thành ngữ Trục Lộc Thiên Hạ 逐鹿天下, có nghĩa là Đuổi bắt con nai trong thiên hạ nầy theo xuất xứ sau đây : 

Trục Lộc Thiên Hạ 逐鹿天下 

Theo "Sử Ký. Hoài Âm Hầu Liệt Truyện 史記˙淮陰侯列傳": Tần chi cương tuyệt nhi duy thỉ, sơn đông đại nhiễu, dị tính tịnh khởi, anh tuấn ô tập. Tần thất kỳ lộc, thiên hạ cộng trục chi, ư thị cao tài tật túc giả tiên đắc yên.秦之綱絕而維弛,山東大擾,異姓並起,英俊烏集。秦失其鹿,天下共逐之,於是高材疾足者先得焉。Có nghĩa :

" Giềng mối của nhà Tần đã hết nên lỏng lẻo, đất Sơn Đông đại loạn, các họ khác đều nổi lên, anh hùng các nơi tập hợp. Tần như làm sổng mất con nai, nên thiên hạ đều cùng đuổi bắt, vì thế, ai tài giỏi và nhanh chân thì sẽ bắt đựơc." Và...
Các lộ anh hùng lại tiêu diệt lẫn nhau, cuối cùng đưa đến thế Hán Sở Tranh Hùng, như World-cup vào đến vòng chung kết vậy ! Nên... 
Thiên Hạ là của chung, ai giỏi thì giành được. Ngày xưa, quan niệm Thiên Hạ là đất Trung Nguyên mầu mở với dân cư đông đúc, nên thành ngữ trên còn được nói là Trục Lộc Trung Nguyên 逐鹿中原, và tại sao phải là Lộc mà không phải là con vật khác ? Vì chữ Lộc 鹿 là con Nai đồng âm với chữ Lộc 祿 là Thiên Lôc 天祿, có nghĩa là " Lộc của trời ban", chính là cái ngôi vua của Thiên Tử 天子 là con trời, vì Thiên Tử mới là người xứng đáng hưởng Thiên Lộc mà thôi !

Còn "Thiên Hạ" trong tiếng Việt Nam ta là Phiếm Chỉ Đại Từ, có nghĩa là : Người ta, Người Khác hay chỉ chung Quảng Đại Quần Chúng...như :
- "Thiên hạ" đồn rằng...
- Đó là chuyện của "thiên hạ", đâu phải chuyện của mình.
- Hơi sức đâu mà lo chuyện của "thiên hạ" !...
Ông tú Vị Xuyên Trần Tế Xương trong bài tứ tuyệt "Chợt Giấc" cũng đã buồn cho thời cuộc mà lẫy rằng:

Nằm nghe tiếng trống, trống canh ba,
Vừa giấc chiêm bao chợt tỉnh ra.
Thiên Hạ dễ thường đang ngủ cả,
Việc gì mà thức một mình ta ?!

Còn Thiên Hạ trong đạo Phật là cỏi Ta-Bà, là bể khổ trầm luân, nên khi Bổn sư Thích Ca Mâu Ni thác sinh làm Thái Tử Tất Đạt Đa, sau khi đi bảy bước nở ra bảy đóa hoa sen thì một tay chỉ Trời, một tay chỉ đất và nói câu : Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn 天上天下唯我獨尊, có nghĩa : " Trên trời dưới trời duy chỉ có TA là tôn qúy ". Cái TA hay cái NGÃ đó chính là Chân Ngã 真我, là Pháp Thân 法身thường trụ, không bao giờ hoại, bao trùm khắp không gian và thời gian mà chúng sinh đều có. TA đó chính là Phật Tánh 佛性, là Chân Tâm 真心 để giải thoát cho tất cả mọi loài khỏi trầm luân trong bể khổ của cái Thiên Hạ Ta-Bà nầy ! Chính cái Phật Tánh đó là Thiên Hạ độc tôn, chớ không phải Đức Như Lai tự cho mình là độc tôn trong Thiên Hạ. 


Trong quyển tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng của Kim Dung là " Thiên Long Bát Bộ " có một nhân vật nữ theo Đạo Gia là Thiên Sơn Đồng Mỗ, nhưng lại tu tập môn võ công của Phật Gia là " Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn Công " rất lợi hại, bà ta cầm đầu và khống chế cả 81 Động và 72 Đảo võ lâm bàng môn tả đạo đều phải nghe theo lệnh của bà ta răm rắp . 

Còn Thiên Hạ của Đạo Giáo 道教 ( Lão Giáo ) là Cỏi Hồng Trần 紅塵, nơi bụi bặm mịt mù mà con người chỉ là những cái hình chiếu từ cuộc sống thực tế ở trên trời, như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã viết trong Cung Oán Ngâm Khúc là:
Cái quay búng sẵn trên trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm !

nên con người phải biết tu tập theo đạo pháp để trở về với cuộc sống thực ở trên trời, tức là thành Tiên để về nơi Thượng Giới !
Thiên Hạ của ngày nay là Năm Châu Bốn Bể, là bề mặt của qủa địa cầu nầy, là cả thế giới như bài học thuộc lòng ngày xưa của lớp Đồng Ấu :

... Người bốn giống : đen, vàng, đỏ, trắng,
Trời bốn phương : nam, bắc, đông, tây.
Đi cho biết đó biết đây,
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn ?!

Thiên 天 là Trời, khi nào thì ta thấy được trời : Ban Ngày, nên Thiên 天 là Ban Ngày, như Tam Thiên Tam Dạ 三天三夜 là Ba ngày ba đêm. Thiên còn có nghĩa là Ngày, nên Kim Thiên 今天 là ngày hôm nay; Khi trời sáng trở lại là ngày hôm sau, nên Minh Thiên 明天 là ngày mai... 
Thiên còn có nghĩa là Thời Tiết, Mùa Màng, như : Thiên Vũ 天雨 là Trời mưa, nhưng Vũ Thiên 雨天 là Mùa Mưa. Tương tự, Thiên Tình 天晴 là Trời nắng, Tình Thiên 晴天 là Mùa nắng. Như thời tiết ở Miền Nam nước ta, mỗi năm chỉ có 2 mùa Mưa và Nắng, theo như câu nói :
Tứ thời vô xuân hạ, 四時無春夏,
Nhất vũ tiện thành thu. 一雨便成秋。

Có nghĩa:
Bốn mùa không có xuân hạ gì cả, hễ...
Mưa xuống một cái thì thành mùa thu ngay !

Thiên còn là cái gì cao quý nhất, cần thiết nhất, như câu nói trong sách Hán Thư 漢書 : Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên 王者以民為天,而民以食為天. Có nghĩa : " Bậc vương giả lấy dân làm cao nhất, còn dân thì lấy cái ăn làm cao nhất."

Ý nói: Vua thì coi dân là cần thiết nhất, vì không có dân thì làm vua với ai đây ? Còn dân thì coi cái ăn là cần thiết nhất, vì không có cái ăn thì làm sao mà sống ?! Câu nói nầy thường hay bị nói sai thành : Dân dĩ thực vi TIÊN 民以食為先, có nghĩa : Dân thì lấy cái ăn làm trước hết. Sai mà không Sai, chỉ là một cách nói khác đi mà thôi, nhưng ý của chữ TIÊN 先 không mạnh bằng ý của chữ THIÊN 天 là Cao nhất, là Cần thiết nhất. 

Thiên 天 là Trời, Thăng Thiên 升天 là Lên trời, Phi Thiên 飛天 là Bay lên trời, còn Quy Thiên 歸天 là Về trời, là chết. Nhưng không phải ai chết cũng được về trời, vì trời chỉ có 9 tầng mà thôi, ta hay nghe nói Cửu Trùng Thiên 九重天, còn địa ngục thì có tới 18 tầng lận, gấp đôi số tầng của trời. Điều nầy cho thấy là ở trên đời người xấu nhiều gấp đôi người tốt, nên Địa Ngục phải xây 18 tầng mới đủ chỗ chứa ! 
Về từ Cửu Trùng Thiên 九重天, ngoài nghĩa là 9 tầng trời ra, Cửu Trùng Thiên còn được dùng để chỉ ông vua thời phong kiến ngày xưa, như 2 câu thơ mở đầu trong bài thơ Tả Thuyên chí Lam Quan thị điệt tôn Tương 左遷至藍關示侄孫湘 của Hàn Dũ đời Đường:
Nhất phong triêu tấu Cửu Trùng Thiên, 一封朝奏九重天,
Tịch biếm Triều Dương lộ bát thiên. 夕貶潮陽路八千 .
Có nghĩa:
Buổi sáng trình lên nhà vua một phong tấu sớ,
Buổi chiều bị đày đi Triều Dương xa tám ngàn dặm đường.

Cửu Trùng Thiên 九重天 là Vua, còn được gọi là Đấng Cửu Trùng, hay Cửu Trùng mà trong tiếng Nôm ta gọi là Chín Tầng, như câu thơ trong đoạn mở đầu của Chinh Phụ Ngâm do Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm :

Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
CHÍN TẦNG gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.

Thiên còn là Thiên Thời 天時, ngoài nghĩa chỉ Thời tiết mùa màng ra, Thiên Thời còn có nghĩa là Thời Cơ của Trời, là cái cơ trời vận hành đến một lúc nào đó, như Thúy Vân đã phân bua :
Cơ Trời dâu bễ đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình !

Ta thường nghe câu nói trong sách Mạnh Tử là "Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa 天時不如地利,地利不如人和". Có nghĩa : Thời cơ của trời không bằng lợi thế của đất, cái lợi thế của đất không bằng cái hòa đồng hòa hợp của con người. Ví dụ như : 
Fifa World-cup 2018 kỳ rồi tổ chức ở Russia, nên đội bóng Nga có lợi thế về THIÊN THỜI là đã quen với thời tiết giá lạnh của xứ mình; ĐỊA LỢI vì được đá ở sân nhà; NHÂN HÒA vì có cổ động viên đông nhất so với các đội bóng khác. Nên đội Nga đã thắng đậm ngay trận đầu 5-0 trước Saudi Arabia và đi một lèo đến Tứ Kết, trở thành 8 đội bóng mạnh nhất hành tinh ! 

Thiên thời 天時, Địa lợi 地利, Nhân hòa 人和 còn được nói thành Thiên Tường 天祥, Địa Nghi 地宜, Nhân Thuận 人顺. Có nghĩa :
* Thiên Tường 天祥 : là cái Điềm lành của trời, là cái mặt tốt về thời cơ, thời vận, là Thiên Thời đó.
* Địa Nghi 地宜 : là cái Tiện nghi của đất, của cái nơi mà ta định làm hay cái chỗ mà sự việc xảy ra, là Địa Lợi đó. 
* Nhân Thuận 人顺 : là Nhân sự được suông sẻ, mọi người đều đồng ý, không ai chống đối, là Nhân Hòa đó.

Nhưng đối với bà con lối xóm ở quê tôi thì THIÊN TƯỜNG là " Thương Tiền ", từ dùng để chỉ những người keo kiệt hà tiện mà tham lam chỉ biết có TIỀN, cả câu như thế nầy :
" Thiên tường tác biệt hựu thu sương ". 
Có nghĩa là: " Thương tiền, Tiếc bạc lại Thương xu ". 
Có một câu chuyện vui kể rằng : Có ông trưởng giả nhà quê nọ mời bạn ăn mừng thọ lục tuần. Thiệp mời có kèm theo môt câu như thế nầy : Sách có câu chữ rằng " Xuân đình hiền tạ tống mặt khơi ". Câu sách đó có nghĩa là : " Xin đừng hà tiện tới mặt không !".

Cái Thời Cơ của Trời, chính là cái Thiên Lý đã được đề cập ở phần đầu bài viết nầy, nói lên cái lý lẽ công bằng tự nhiên của Trời, như câu : 

Tử sinh hữu mệnh, 死生有命,
Phú quý tại thiên. 富貴在天.

Có nghĩa:
Chết sống đều có số mạng,
Giàu sang là do trời ban.
... và không phải ai cũng được trời ban, phải đúng với cái lẽ trời thì mới được, như trong Minh Tâm Bửu Giám ghi lại câu nói nổi tiếng của Khổng Minh Gia Cát Lượng là : 

Mưu sự tại nhân, 謀事在人,
Thành sự tại thiên. 成事在天,
Nhân nguyện như thử như thử, 人願如此,如此,
Thiên lý vị nhiên vị nhiên ! 天理未然,未然!
Có nghĩa:
Mưu tính công việc là ở người, còn...
Thành công hay thất bại là do trời,
Người muốn như thế nầy, như thế nầy đây, nhưng...
Cái lẽ trời cho biết là còn chưa được, còn chưa được ! 


Gia Cát Khổng Minh là người giỏi cả binh thư thao lược, trên thông thiên văn dưới thông địa lý, mang chí lớn muốn khôi phục lại nhà Hán, lập rất nhiều công lớn trong việc giúp Lưu Bị tam phân thiên hạ, lập nên nhà Thục Hán, nhưng lục xuất Kỳ Sơn đều thất bại, cuối cùng đành ôm hận mà chết với câu than bất hủ là " Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên " như đã nêu trên.

Con người khi còn nằm trong bụng mẹ, chưa được sanh ra, chưa thấy trời, thì gọi là Tiên Thiên 先天. Được sanh ra rồi, mở mắt đã thấy trời rồi, thì gọi là Hậu Thiên 後天. Hằng ngày phải đầu tắt mặt tối đội trời để làm việc kiếm sống, thì gọi là Thiên Thiên 天天. Vui vẻ trong cuộc sống thì gọi là Lạc Thiên 樂天. Buồn thảm trong cuộc sống thì gọi là Bi Thiên 悲天. Khi nhắm mắt xuôi tay rồi thì gọi là Quy Thiên 歸天. Tuổi thọ và những năm tháng mà ta có được gọi là Thiên Niên 天年.

Mong rằng tất cả đều quy thiên 歸天 trong cái tâm tình lạc thiên 樂天 để đều được vui hưởng những thiên niên 天年 tuyệt vời trong cuộc sống !

Đỗ Chiêu Đức 

Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2018

Thơ Tranh: Nắng Thu


Thơ: Đỗ Bình
Thơ Tranh: Kim Oanh

Hoa Hồng



Muôn màu, trăm sắc đóa hoa hồng,
Giọt nước ngàn năm long lánh bông.
Quân Tử có thương, xin mắt ngắm
Hái hoa, cần nhớ có gai chông

Khôi Nguyên
***
Gai Nhánh Hồng

Quyến rũ tươi màu thắm đóa hồng
Mê say điểm sắc ngát hương bông
Nâng niu xin nhớ hoa bên lá
Nhung đỏ cành gai bén nhọn chông


Mai Xuân Thanh
Ngày 04/08/2018
***
Hoa Hồng

Trân trọng nâng lên một đóa hồng,
Cài lên ngực áo rỡ ràng bông.
Đỏ tươi tình mẹ hương ngan ngát,
Trắng bạch lòng con tựa vướng chông !

Đỗ Chiêu Đức

Những Giao Mùa*



H
Nắng hanh nồng vuốt ve thềm
Hong khô suối tóc lưng mềm lả lơi
Nghĩ gì môi nở nụ tươi
Phải chăng em trải ra phơi tình hồng?

Thu
Xanh rờn sâu thẳm mênh mông
Trời thu đang chớm ...bao lòng chờ say
Vài làn hương thoang thoảng bay
Lẫn len trong gió lung lay lá vàng

Đông
Thu đi Đông đến không màng
Vòng tay em quấn mộng vàng ai khuân
Mặc hoa trắng rụng đầy sân
Đôi mắt say đắm trong ngần ước mơ

Xuân
Sương mai bám gương đục lờ
Nụ hoa hàm tiếu đang chờ bên song
Rồi đây đầy ắp nắng hồng
Bước chân dung dẽ tiễn đông xuân về

Anh Tú
07/30/2018
*Mượn vần của Tình Khúc Bốn Mùa của Nhật Quang

Lục Thủy - Tùng Thiện Vương



淥水             Lục Thủy

淥水青山常在, Lục thủy thanh sơn thường tại,
孤雲野鶴同飛。 Cô vân dã hạc đồng phi.
短艇柳邊客釣, Đoản đĩnh liễu biên khách điếu,
小橋月下僧歸。 Tiểu kiều nguyệt hạ tăng quy.
Tùng Thiện Vương
***
Dịch Thơ:
Nước Biếc

Nước biếc non xanh mãi vậy thôi
Mây đơn hạc nội vẫn song đôi.
Thuyền con bờ liễu ai câu cá?
Cầu nhỏ sư về bóng nguyệt trôi!

Mailoc
***
Nước Biếc


Còn đây nước biếc non xanh
Hạc hoang mây lẻ đồng hành về đâu
Thuyền neo cạnh liễu khách câu
Dưới trăng nhẹ bước qua cầu bóng sư.

Quên Đi
***
Nước Biếc

Đương nhiên nước biếc mãi non xanh
Mây hạc cùng bay thấy cũng nhanh
Câu cá thuyền neo bờ liễu rũ
Sư về cầu nhỏ dưới trăng thanh

Mai Xuân Thanh
Ngày03/08/2018

Charlie


Người ấy với tôi cùng tuổi, cùng lớp, cùng ở một chỗ. Chàng có dáng thư sinh, vui  vẻ, cởi mở. Đó là năm 1954-1955, mười bẩy, mười tám tuổi. Tuy sống trong cảnh chẳng ra học, chẳng ra làm, nhưng mấy thằng rất vui, cười giỡn hoài. Có bữa 5 thằng vét túi chỉ  có một đồng(!) (Cái hồi một đồng xé làm hai, năm cắc cũng mua được một món)
               
Hôm nay Bảo cứ việc thổi cơm. Năm cắc cà chua năm cắc tôm (gạo thì đã có viện trợ đầy lu, nhưng canh cà chua nấu với tôm khô, năm thằng ăn rất ngon, mỗi thằng bốn năm chén)
Chàng là một chân chạy, ra đường nhiều, không ngồi dưới mái nhà tôn, chống cằm suy nghĩ chuyện đế vương!
Một bữa chàng ngoài phố về, kể chuyện bạn bị ức hiếp, chàng ra tay can thiệp. Mười chín thằng du côn vây quanh, có mấy đứa có dao nữa, chàng đánh bay, đánh gục … chạy hết (chàng học judo có đai đen mà).

 Chàng kể chuyện đánh lộn, máu me, như là chuyện vui! Bảo vệ bạn không phải là chuyện vui sao?  Giáo Sư Phạm Lợi đã từng đặn dò là học võ để giữ mình và giúp người chứ không phải suốt ngày đi đánh lộn để khỏi ngứa chân tay! Thế cho nên chàng đai đen này trông rất nho nhã, vui vẻ, cởi mở.

Sau đó tôi vào Sư Phạm, chàng đi lính. Và sau này nghe tin chàng tôi rất vui vì có một người bạn như thế.
Chàng hòa đồng với đời sống quân ngũ. Người trong đơn vị không gọi chàng theo cấp bậc! mà gọi Anh Năm
Đẹp thay
Người vợ thắp nến, nhìn bánh sinh nhật, đợi chồng không về
Đẹp thay
Các con thần tượng bố có một cuộc sống hào hùng
Đẹp thay
Không chống nổi hỏa lực của địch, người Sĩ quan cho lính rút hết, còn mình (đang bị thương) ngồi ôm cây Đại Liên! Một mình nơi rừng núi, ngồi tâm sự với cây đại liên
Đẹp thay !!!

Chân Diện Mục

Thứ Năm, 2 tháng 8, 2018

Thơ Tranh: Còn Một Chút Gì


Thơ: Kim Quang
Thơ Tranh: Kim Oanh


Cuối Xuân Và Nỗi Nhớ

Mượn ý mượn lời người xưa, ghi lại đôi chút nỗi niềm còn cảm nhận được trong một khoảnh khắc về cuối xuân của một đời người xa xứ. 
Cũng chỉ là mong để đọc cho vui với nhau thôi trong lúc đầu óc còn tỉnh táo chưa đến nỗi "I haven't lost my mind /half of it just wandered off /and the other half went looking for it ". 
Liên tưởng lang bang: 
"Người đi một nửa hồn tôi mất 
 Một nửa hồn kia bỗng dại khờ " 
(Hàn Mặc Tử). 



Nghe tiếng cuốc kêu, động lòng cố quốc tha hương
Bước lên lầu cao nhìn ra ngoài xa không biết quê nhà nơi nao 
Đương lúc, hoa rụng tơ bay một trời xuân mộng
Cảnh quan sông núi giờ đã điêu tàn không còn như trước nữa 
Nhớ lại thuở nào ca quạt đa tình một vầng trăng sáng lung linh
Áo múa vô ý phất phơ đẹp như mấy dải mây thâu lượn lờ lưng trời
Chúa Xuân nay đã đi rồi, hoa nở muôn hồng nghìn tiá cũng đã tàn theo
Bỏ lại ai kia vườn xưa hương lạnh và nguyên cả một mùa thu buồn 

Nghe tiếng cuốc kêu động khách sầu,
Lầu cao dõi mắt bóng quê đâu.
Tơ hoa bay rụng trời thơ mộng,
Sông núi hoang tàn cảnh bể dâu.
Ca quạt lung linh vầng nguyệt tỏ,
Áo xiêm lất phất áng mây thâu.
Xuân đi bỏ lại đời cô lữ,
Hương lạnh vườn xưa nỗi bạc đầu.

Phạm Khắc Trí

Cầu Mỹ Thuận Kỷ Niệm Xưa



Em ở Tiền Giang, anh Vĩnh Long
Đôi bờ cách trở một dòng sông
Xưa toan viếng bậu chờ phà máy
Nay muốn thăm O vượt móng rồng
Bến đợi chậm chân nôn nóng ruột
Cầu treo nhanh bước hả hê lòng
Công ơn nước Úc xây cầu mới
Đôi bến nay liền, thỏa ước mong.


Bùi Văn Thân

Một Nửa Vầng Trăng



Trời cao treo bóng nguyệt
Lơ lửng trên mái đầu
Thương sao vầng trăng khuyết
Đêm tàn đi về đâu ?

Tôi đi trong thương nhớ
Chậm bước hồn chơi vơi
Bỗng dưng nghe nhịp thở
Ngẹn ngào kiếp mồng tơi.

Trăng về đâu trăng ơi
Trăng có già không vậy
Tóc ta bắt đầu bạc
Mòn hơi cuối cuộc đời.

Trăng nhắn dùm người ấy.
Ta chờ hãy đến mau
Sao trăng hờ hững mãi
Không giúp được gần nhau.

Đêm nay trăng một nửa
Còn phần kia đâu rồi
Trăng ơi trăng hãy hứa
Mang người về cho tôi!

Dương hồng Thủy

Thương Ảo



Trẻ thời nay vừa tròn mười sáu
Suốt cả ngày tình ảo tình phây
Thay tình yêu như thể thay giầy
Thích ai (là) hắn tỏ bày ngon ơ

Phone gọi ngay, nhắn máy hẹn giờ
Chẳng có chuyện nằm mơ bóng nàng
Đâu cần theo gót hay bóng gió
Muốn gì texto ta cứ gỏ

Yêu đến vội, tạ từ không khó
Ngàn dậm xa cũng dễ có nhau
Hàn huyên trên ảo ào ào
Giờ nào cũng được ai rào ai ngăn
Yêu trên ảo hỏi có bền chăng ?
Trăm tình mấy mối “Răng long bạc đầu”
“Thương Ảo” là mode hiện trào
Yêu trên “ di động “ muôn màu muôn nơi

Trúc Lan KTP

Đất Phương Nam 1- Chính Sách Dễ Dãi Của Xứ Đàng Trong Đối Với Người Minh Hương



Chính Sách Dễ Dãi Của Xứ Đàng Trong Đối Với Người Minh Hương Và Sự Đóng Góp Của Người Hoa Trong Việc Khẩn Hoang Và Phát Triển Đất Phương Nam:

Ngay từ khi những người Hoa đầu tiên theo chân các tướng Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch và Mạc Cửu đến xứ Đàng Trong, các chúa Nguyễn đã có những chánh sách hết sức dễ dãi cho họ trong vấn đề khẩn đất và làm ăn trong vùng đất mà bây giờ chúng ta gọi là Nam Phần. Nhờ vậy mà di dân người Hoa đã tận dụng những điều kiện có lợi trong việc làm ăn sinh sống để tạo nên những cộng đồng người Hoa rất thịnh vượng và đoàn kết trên khắp xứ Đàng Trong. Khởi đầu bằng những cộng đồng Minh Hương ở vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Mỹ Tho Đại Phố, Hà Tiên... rồi sau đó phát triển đến các vùng Prei Nokor(37), Bình Dương, Bình Long, Phước Long, Tân An, Gò Công, Mộc Hóa, Tây Ninh, Cao Lãnh, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sa Đéc, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, An Giang, Châu Đốc và Rạch Giá. Chính sự dễ dãi của chính quyền xứ Đàng Trong mà các công đồng người Minh Hương đã phát triển vững mạnh cho đến ngày nay. Theo tài liệu lịch sử của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, rõ ràng các chúa Nguyễn đã cậy tay người Hoa làm những người dẫn đạo và chỉ huy trong công cuộc khai phá hoang địa Nam Kỳ thời đó. Theo tài liệu lịch sử của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, rõ ràng các chúa Nguyễn đã cậy tay người Hoa làm những người dẫn đạo và chỉ huy trong công cuộc khai phá hoang địa Nam Kỳ thời đó. Theo quyển Văn Hóa & Cư Dân Đồng Bằng Sông Cửu Long, đa số những lưu dân Nam Kỳ đều là những nông dân nghèo ở miền ngoài hay những người Hoa không chịu hợp tác với Thanh Triều. 

Đây là những nông dân, binh lính, địa chủ và thương gia người Hoa ở các vùng Quảng Đông, Quảng Tây và Phước Kiến đã vì yêu nước và bảo vệ dân tộc chống lại sự đàn áp của triều đại Mãn Thanh. Họ còn lànhững nông dân bị cướp đất đuổi ra khỏi vùng môi sinh mà họ đã khai phá ở các vùng ngoại ô các thành phố miền Nam Trung Hoa(38). Khi đến xứ Đàng Trong, họ được sự bao dung đón nhận của một dân tộc hiền hòa hiếu khách, thà chịu “chật bụng chứ không chật nhà” như dân tộc Việt Nam, thêm vào đó vùng đất phương Nam quả đúng như lời truyền tụng từ bao đời nay là vùng của “đất lành chim đậu”, nên những người Hoa một khi đã đến đây là muốn ở lại luôn chứ không còn có ý định muốn trở về xứ nữa. Chính nhờ vậy mà sau đó những khu buôn bán sầm uất ở Đông Phố (Biên Hòa), Bến Nghé (Sài Gòn), Chợ Lớn, Hà Tiên, và Bạc Liêu tuần tự được thành hình.

Ngoài ra, các chúa Nguyễn cũng hết sức dễ dãi cho người Hoa trong mọi vấn đề khiến cho cuộc sinh hoạt của họ trên vùng đất mới khai phá phương Nam thật là thuận tiện. Trước tiên, các chúa Nguyễn cho người Hoa được tự do lựa nơi cư trú. Chính vì thế mà sau khi tướng Trần Thượng Xuyên đã thành lập khu cù lao Phố, một số không nhỏ người Hoa đã lần mò đi đến các vùng xa hơn như Biên Hòa, Bình Long, Phước Long, Xuyên Mộc, Tây Ninh, Lộc Ninh, Hớn Quản, Bình Dương. Sau cuộc chạm trán khốc liệt giữa nghĩa quân Tây Sơn và quân của Nguyễn Ánh tại vùng cù lao Phố vào năm 1776, rất nhiều người Hoa bị kẹt giữa hai chiến tuyến và đã chết trong trận chiến nầy, nên sau đó những người còn sống sót đã bỏ đi thật xa, họ chạy về phía tây nam của vùng Bến Nghé, tức vùng Prei Nokor thời đó hay vùng Chợ Lớn ngày nay để thành lập một cộng đồng người Hoa lớn nhất cả nước. 

Hiện nay tại Hội An vẫn còn một tấm bia “Tuy Tiên Đường Bi” hãy còn ghi lại một đoạn văn nói về sự thiên di của nhóm ‘mười vị đại lão’ như sau: “Ban đầu họ ở Trà Nhiêu, sau dọn về Hội An, chia thôn đào giếng, dựng cổng xây tường, lưu truyền cho con cháu đến ngày nay.” Đây là một bằng chứng hiển nhiên về sự tự do lựa chọn chỗ ở của người Hoa ở xứ Đàng Trong. Kế đến, các chúa Nguyễn còn cho phép những người Hoa được tự do lựa chọn nghề nghiệp. Nói về buôn bán, chỉ cần họ đóng thuế đầy đủ, còn thì họ được tự do làm ăn tùy theo điều kiện và phương tiện mà họ có. Nói về làm ruộng rẫy, theo Đại Nam Thực Lục, họ có thể tự mình khẩn đất để làm ruộng rẫy hay họp lại thành nhóm khẩn đất để lập nên những đồn điền(39). Thời đó chính nhờ vậy mà rất nhiều người Minh Hương đã phiêu lưu tới những vùng xa để phá rừng làm rẫy như tại các vùng Biên Hòa, Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, Lộc Ninh, Hớn Quản, Hà Tiên, Rạch Giá, Long Xuyên (Cà Mau), Trấn Di (Bạc Liêu), Ba Thắc (Sóc Trăng), Trà Vinh và Trấn Giang (Cần Thơ). 

Chính nhờ chánh sách dễ dãi đối với sự di dân của người Hoa ngay từ thời các chúa Nguyễn, rồi đến thời các vua nhà Nguyễn, rồi đến thời Pháp thuộc và sau cùng là thời Việt Nam Cộng Hòa, nên lưu dân người Hoa đến lập nghiệp ở Nam Kỳ ngày càng đông. Năm 1955, theo thống kê của VNCH, tổng số người Hoa từ vĩ tuyến 17 trở vào là hơn 800 ngàn người. Riêng tại Sài Gòn-Chợ Lớn đã có trên 500 ngàn, Rạch Giá khoảng 27 ngàn, Bạc Liêu khoảng 26 ngàn, Sóc Trăng khoảng 25 ngàn, Trà Vinh và Gia Định mỗi nơi khoảng 20 ngàn người; trong khi đó toàn miền Trung từ Quảng Trị vào Phan Thiết chỉ có khoảng chừng 25 ngàn người mà thôi. Sau năm 1975, tổng số người Hoa trên toàn quốc khoảng từ 1,3 đến 1,5 triệu người(40).

Ngoài việc trồng lúa nước, người Minh Hương còn lên líp làm rẫy và trồng nhiều loại hoa màu khác như củ cải, thuốc lá, bí, dưa, bắp, khoai. Chính những hoa màu phụ nầy đã giúp người Minh Hương làm giàu ở nhiều nơi như dọc theo bờ sông Ba Lai và cửa biển Mỹ Thanh(41). Bên cạnh việc buôn bán và làm ruộng rẫy, người Minh Hương còn làm nghề đánh bắt thủy hải sản và làm muối như tại các vùng Bạc Liêu và Hà Tiên(42). Ngoài ra, dầu ở Nam Kỳ không có nhiều quặng mỏ như các vùng Bắc và Trung bộ, vẫn có một số người Hoa làm nghề khai thác quặng mỏ, như những người Phúc Kiến khai thác quặng sắt ở núi Lò Thổi, thuộc trấn Biên Hòa. Họ lấy sắt đúc chảo, nồi, và nhiều vật gia dụng khác. Trong tất cả mọi ngành nghề mà người Minh Hương làm ở xứ Đàng Trong phải nói đến nghề buôn bán, đây là sở trường của người Hoa. Họ thường tập trung sinh sống tại những nơi có điều kiện mua bán như tại các đầu mối giao thông, các hải cảng, giang cảng, hoặc khu trung tâm của địa phương. 

Cũng giống như những người tiên phong của họ đã làm ở cù lao Phố, Mỹ Tho Đại Phố và Hà Tiên, vân vân, họ xây dựng phố sá để buôn bán ở những nơithuận tiện, tạo nên cảnh quang thật tấp nập, trên bến dưới thuyền. Ngay từ cuối thế kỷ thứ 16, đầu thế kỷ thứ XVII, người Hoa đã lập nên những phố Thanh Hà ở Phú Xuân, phố Khách ở Hội An và Quảng Ngãi. Đến cuối thế kỷ thứ XVII, đầu thế kỷ thứ XVIII, ở vùng Đồng Nai-Gia Định, họ đã lập ra cù lao Phố, Mỹ Tho Đại Phố, và những khu phố sá buôn bán của người Hoa ở Hà Tiên. Đến giữa thế kỷ thứ 18, hầu hết những khu phố của người Minh Hương ở Nam Kỳ đã trở thành những nơi buôn bán phồn thịnh nhất trong vùng. Theo Gia Định Thành Thông Chí, Nông Nại Đại Phố ở đầu phía tây cù lao Đại Phố, lúc đầu tướng Trần Thượng Xuyên chiêu tập nhiều người Hoa đến xây dựng phố sá, mái ngói, tường vôi, lầu cao, quán rộng, dọc theo bờ sông liền lạc tới 5 dặm, chia vạch làm 3 đường phố, đường phố lớn lót đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lót đá xanh, đường phố rộng bằng phẳng, kẻ buôn tụ tập, ghe thuyền lớn ở biển và ở sông đến đậu neo, có những xà lan liên tiếp nhau, ấy là một chỗ đo hội.”(43)

Đến khoảng hậu bán thế kỷ thứ XVIII, khoảng năm 1776, sau trận chiến giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn, số người Minh Hương còn sống sót đã bỏ cù lao Phố để chạy về vùng Prei Nokor, tức vùng Chợ Lớn ngày nay, để thành lập một khu thương mại của người Hoa, chẳng những lớn nhất ở Nam Kỳ, mà có thể nói là lớn nhất trong cả nước. Trịnh Hoài Đức đã ghi lại vùng Chợ Lớn trong Gia Định Thành Thông Chí như sau: “Đường phố lớn thẳng, suốt ba đường giáp đến bờ sông, bề ngang một con đường giữa và một con đường dọc theo sông. Các con đường ấy xuyên giáp nhau như hình chữ điền, phố sá liên tiếp sát mái nhau, người Tàu và người ta ở chung lộn dài độ ba dặm... Ấy là một thị phố lớn và đô hội náo nhiệt.”(44). Đến thời Pháp thuộc, họ cho sáp nhập hai thành phố Bến Nghé và Chợ Lớn lại với nhau để thành lập đô thành Sài Gòn-Chợ Lớn, lúc đó Chợ Lớn là kho hàng chính của toàn miền Nam. Thời đó, Chợ Lớn là điểm tập trung phân phối hàng hóa cho sáu tỉnh miền Nam. 

Đồng thời, vào cuối thế kỷ thứ 18, nhiều khu phố khác của người Minh Hương đã được thành lập dọc theo bờ sông Cửu Long như Vĩnh Long, Sa Đéc, An Giang và Châu Đốc. Tuy nhiên, những nơi nầy chỉ là những điểm chuyển tiếp, họ mua hàng hóa tại địa phương để chuyển về Chợ Lớn, và ngược lại họ lấy hàng hóa mà địa phương của họ không có từ Chợ Lớn để mang về phân phối lại cho các vùng xa trong tỉnh. Nói như vậy không có nghĩa là thương nhân người Hoa chỉ tập trung buôn bán tại những trung tâm buôn bán lớn, mà họ còn phiêu lưu đi về các vùng xa xôi hẻo lánh, tại các bờ sông, cửa biển, vân vân. Nói chung, hễ chỗ nào có cư dân người Việt hay người Khmer là có người Hoa tới cộng cư. Một điểm đặc biệt khác khiến cho các cộng đồng người Hoa ngày càng phát triển vững mạnh, dù họ ở đâu, họ cũng mở trường dạy tiếng Hoa cho con cháu của họ và dù làm gì đi nữa bên ngoài xã hội, đến khi về nhà họ chỉ nói tiếng Hoa chứ không nói tiếng Việt. Người Việt gốc Hoa ở Vĩnh Long và Bến Tre cũng như hầu hết người Việt gốc Hoa ở các nơi khác, họ sống co cụm thành nhóm và lập thành những bang hội, mỗi bang có một bang trưởng lãnh đạo. Họ sống rất đoàn kết, nếu cần thì bang của họ có thể đứng ra giúp đỡ về tài chánh để họ cùng làm ăn vươn lên với nhau. Chính vì vậy mà đa phần họ làm kinh tế rất mạnh.

Tóm lại, với chánh sách thật dễ dãi của các chúa Nguyễn đối với người Hoa đã góp phần không nhỏ trong việc khiến cho vùng đất Nam Kỳ đi sau mà đến trước. Ngày nay, ai trong chúng ta cũng đều phải công nhận Nam Kỳ chẳng những là vựa lúa lớn nhất cho cả nước, mà nó còn là trung tâm thương mại phát triển mạnh nhất trên toàn quốc. Trong sự nghiệp khai khẩn và phát triển vùng đất phương Nam, dĩ nhiên người Việt luôn đóng vai trò chính yếu và chủ động; tuy nhiên, nếu không có sự góp sức một cách tích cực của người Hoa, thiết tưởng Nam Kỳ chưa có được bộ mặt của nó như ngày nay. Chính những người Minh Hương mà khởi đầu từ các bậc tiền bối Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch và Mạc Cửu... cùng nhiều thế hệ con cháu của họ đã đóng góp vào việc khẩn hoang lập ấp, định hình làng xã và bộ máy hành chánh, rồi mở mang sản xuất và phát triển mọi ngành nghề. Họ đã cùng chia ngọt sẻ bùi với các cộng đồng người Việt, người Khmer và người Chăm, vân vân, trong mọi hoàn cảnh lịch sử và trải qua một thời gian gần bốn thế kỷ nay. Là con dân Nam Kỳ chúng ta không thể nào không nhớ ơn các bậc tiền hiền và hậu hiền người Minh Hương, những người đã góp phần không nhỏ trong việc khai khẩn và phát triển, khiến cho vùng đất Nam Kỳ trở nên phồn thịnh như ngày nay.

Người Long Hồ 
Anaheim ngày 3 tháng 8 năm 2011 
Copyright © 2012 by Ngoc Tran. All rights reserved.

Chú Thích:
(1) Theo Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quý Đôn đã ghi chép về việc xứ Đàng Trong buôn bán với các thuyền buôn của thương nhân Trung Hoa như sau: “Xứ Thuận Hóa, đường thủy đường bộ liên tiếp với xứ Quảng Nam, phía hữu xứ Quảng Nam lại thông với các phiên quốc. Về đường biển thì xứ Thuận Hóa và Quảng Nam chỉ cách tỉnh Phúc Kiến, tỉnh Quảng Đông không đến 3, 4 ngày đường, nên các tàu buôn của Trung Quốc từ xưa đến nay thường tụ tập ở hải phận Thuận Hóa và Quảng Nam.”

(2) Ngay từ thế kỷ thứ XVI, những thương nhân người Hoa đã thành lập cộng đồng đầu tiên của họ tại Hội An của xứ Đàng Trong.

(3) Trên đường lên thượng nguồn sông Đồng Nai, đến khúc Bến Gỗ, Trần Thượng Xuyên đã ra lệnh hạ trại và khởi công khai khẩn đất hoang. Tuy nhiên, sau đó Trần Thượng Xuyên đã quyết định về khai phá vùng cù lao Phố. Sở dĩ Trần Thượng Xuyên cho di chuyển từ vùng Bến Gỗ về Cù Lao Phố là vì ông nhận thấy tại vùng cù lao Phố có những điều kiện thuận lợi chẳng những về việc sinh sống, mà còn rất tốt cho việc phát triển kinh doanh buôn bán về sau nầy. Lúc đó vùng cù lao Phố là một bãi phù sa nằm giữa sông Đồng Nai. Phía Nam cù lao Phố là sông Phước Long, phía bắc có sông Rạch Cát hay Sa Hà, có vực sâu rất tiện lợi cho tàu bè ghé lại. Trần Thượng Xuyên quả là một nhân tài lỗi lạc, chẳng những về quân sự, mà ngay từ thời đó, ông đã nhìn thấy được tương lai của thương cảng Cù Lao Phố về sau nầy. Ngày nay cù lao Phố thuộc xã Hòa Hiệp, cách thành phố Biên Hòa khoảng 1 cây số (cách Sài Gòn khoảng 31 cây số), thuộc tỉnh Đồng Nai. Phía bắc giáp đường Thống Nhất, phía nam giáp xã Tân Vạn, đông giáp phường An Bình và xã Tam Hiệp, phía tây giáp xã Bửu Hòa. Cù Lao được nối liền với thành phố Biên Hòa bởi hai cầu Rạch Cát và Cầu Gành (trên quốc lộ 1).

(4) Theo Phan Quang trong “Bút Ký Đồng Bằng Sông Cửu Long”, TPHCM: NXB Trẻ, 2002, tr. 136-139.

(5) Sở dĩ những di thần nhà Minh không ghé lại xứ Đàng Ngoài vì họ sợ xứ Đàng Ngoài quá gần với Trung Hoa và đang thần phục Thanh Triều, nên rất có thể vua Lê và Chúa Trịnh chẳng những không dung chứa họ, mà còn có thể giải giao họ về cho nhà Thanh.

(6) Cũng theo Gia Định Thành Thông Chí, phía bắc gành đá có vực sâu làm chỗ cho tàu biển các nước tới đậu. Xưa nay thuyền buôn đến đây bỏ neo xong thì lên bờ mướn phố để trú ngụ. Sau đó họ đi đến nhà các chủ vựa để thương lượng bán hàng. Thường thì chủ vựa định giá và mua tất cả hàng hóa bất kể tốt xấu. Trong lúc lưu lại Đại Phố, các chủ thương thuyền cũng đi tìm mua hàng hóa trước khi nhổ neo về xứ.

(7) Thuở đó, lúa gạo Đồng Nai nhiều nên rất rẻ. Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn, Q.III, tr. 223, đồng tiền xưa thì một tiền (60 đồng) đong được 16 đấu thóc. Cứ lường theo bát được gạt bằng miệng mà dân địa phương thường dùng thì ba bát ngang với 30 bát của nhà nước. Một quan tiền đong được 300 bát đồng của nhà nước, tức bát định chuẩn.

(8) Năm 1776, khi đại quân Tây Sơn kéo vào vùng Gia Định để tảo thanh tàn quân của Nguyễn Ánh, nhưng ở vùng Cù Lao Phố quân Tây Sơn không được sự yểm trợ của người Minh Hương nên quân Tây Sơn đã bị tổn thất khá nặng. Nguyễn Nhạc nghĩ rằng chính những người Hoa ở đây đã theo phe Nguyễn Ánh để đánh lại Tây Sơn, nên ông đã cho đốt phá và tàn sát rất nhiều người Minh Hương trong vùng cù lao Phố. Sau sự kiện nầy, đa số người Hoa đã bỏ vùng cù lao Phố để chạy về phía Nam, dọc theo sông Tân Bình, để thành lập nên khu Chợ Lớn ngày nay. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, sau khi đánh phá vùng Nông Nại Đại Phố, quân đội Tây Sơn cho dỡ lấy hết nhà cửa, gạch đá và mang hết của cải về Qui Nhơn. Sau khi Gia Long lên ngôi, dân chúng có trở về đây xây dựng lại, nhưng chưa được một phần trăm thời trước.

(9) Theo Nam Bộ Đất & Người của Viện Khoa Học Lịch Sử, TPHCM: NXB Trẻ, 2004, tr. 155-156.

(10) Nay thuộc tỉnh Định Tường.

(11) Nay thuộc Biên Hòa.

(12) Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Tập I, Quyển V, theo bản dịch của Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Viện Sử Học, NXB Giáo Dục, tr. 91.

(13) Người Âu châu nói chung.

(14) Theo chữ Khmer, chức Ốc Nha là một chức quan nhỏ, tương đương với chức quận trưởng của Việt Nam.

(15) Trong đó có nhiều sắc tộc khác nhau như Quảng Đông, Triều Châu, Phước Kiến, Hẹ, Hải Nam, vân vân, nhưng đông nhất là nhóm người Triều Châu tháp tùng theo Mạc Cửu. Nhóm người nầy người Việt gọi là Minh Hương, vì cho rằng họ là những người trung thành với quê hương của nhà Minh.

(16) Thuộc vùng Hà Tiên ngày nay.

(17) Kompong Som ngày nay.

(18) Kampot ngày nay.

(19) Vạn Tuế Sơn, thuộc vương quốc Thái Lan ngày nay.

(20) Cà Mau ngày nay.

(21) Vùng Bạc Liêu và Bãi Xàu mà bây giờ thuộc Sóc Trăng.

(22) Cần Thơ ngày nay.

(23) Vùng Rạch Giá ngày nay.

(24) Chúa Nguyễn cho ông nối nghiệp Mạc Cửu với chức vụ Hà Tiên Trấn Đại Đô Đốc, tước là Tông Đức Hầu.

(25) Lúc nhỏ thì ông có tên là Mạc Thiên Tứ, nhưng khi lớn lên thì đổi làm Mạc Thiên Tích; tuy nhiên, người ta vẫn gọi ông là Mạc Thiên Tứ. Ông còn có tên Miên là Práh Sàtắt.

(26) Kim Dự Lan Đào, Bình San Diệp Túy, Tiêu Tự Thần Chung, Giang Thành Dạ Cổ, Thạch Động Thôn Vân, Châu Nham Lạc Lộ, Đông Hồ Ẩn Nguyệt, Nam Phố Trừng Ba, Lộc Trĩ Thôn Cư, và Lư Khê Ngư Bạc.

(27) Gia Định Thành Thông Chí, Q.III, tờ 63a – 64b.

(28) Theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Q.III, Đệ Nhất Kỷ tr. 255.

(29) Người Trung Hoa.

(30) Theo Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Q.VII, tr. 115.

(31) Kỳ thật khi tướng Dương Ngạn Địch đi vào Mỹ Tho Đại Phố, ông đã cho một số nhỏ ghé lại khai khẩn vùng Lôi Lạp rồi.

(32) Ngày nay là hai vùng Vĩnh Long và Bến Tre.

(33) Theo Gia Định Thành Thông Chí, Q.III, tờ 63a – 64b.

(34) Sông Hưng Hóa là tục danh của sông Vũng Gù, cách trấn Phiên An khoảng 160 dặm về phía tây, cách lỵ trấn Định Tường khoảng 47 dặm về phía đông), vùng hạ lưu sông Bát Chiên (hồi nầy cũng thuộc trấn Định Tường.



(35) Vùng Trường Tàu cách cửa sông Bassac khoảng 60 dặm về phía tây.

(36)Hồi nầy cửa biển Mỹ Thanh thuộc trấn Vĩnh Thanh. 
(37)Vùng Chợ Lớn ngày nay.

(38)Theo Nguyễn Công Bình-Lê Xuân Diệm-Mạc Đường trong “Văn Hóa & Cư Dân Đồng Bằng Sông Cửu Long”, NXB Khoa Học Xã Hội, 1990, tr. 223-224.

(39)Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Tập III, đệ nhất kỷ, bản dịch của NXB Sử Học Hà Nội, 1963, tr. 94.

(40)Theo Phan Quang trong “Bút Ký Đồng Bằng Sông Cửu Long”, NXB Trẻ, TPHCM, 2002, tr. 139-140. (41)Theo Gia Định Thành Thông Chí, Q.II, Xuyên Sơn Chí, tờ 64b.

(42)Theo Gia Định Thành Thông Chí, Q.V, Sản Vật Chí, tờ 7b. (43)Gia Định Thành Thông Chí, Q.III, Thành Trì Chí, tờ 28a. (44)Gia Định Thành Thông Chí, Q.VI, Thành Trì Chí, tờ 18b.

Nhấp vào Links:


Thứ Tư, 1 tháng 8, 2018

Thơ Tranh: Hương Đời

Anh Gia Khanh mến. Kim Oanh mừng gia đình anh vừa có tin vui
Chúc cháu Yến Thương và Baby mạnh khoẻ
Đại gia đình hạnh phúc nhé.
(KimOanh)

Thơ: Nguyễn Gia Khanh
Thơ Tranh: Kim Oanh

Hồng Đào, Kiến Sen

(Mận Kiến Sen- Khánh Hà)

Bao năm dài gặp lại
Em Kiến Sen, Hồng Đào
Vẫn má hồng môi thắm
Nồng nàn như thuở nào

Nhìn em ta nhớ lắm
Vị tuơi mát ngọt ngào
Lá thơm thơm huơng mận
Ôi ! Ao uớc làm sao...

Xưa em bên bờ ao
Trái từng chùm xinh xắn
Xưa em trong vuờn nắng
Gió đùa lá lao xao

Giờ em sân chùa vắng
Vẳng tiếng chuông boong boong
Quê nguời hay quê cũ
Bao năm em vẫn còn...


Khánh Hà

Thu Tàn



Bài xướng:
Thu Tàn


Chẳng còn nắng đẹp với trời xanh
Lặng lẽ thu buồn cất bước nhanh
Gió táp đôi làn tơi tả lá
Mưa sa vài trận trụi trơ cành
Đông về lối cũ, len qua liếp
Tuyết rớt đường xưa đọng trước mành
Ngập phủ mây chiều hồn ảm đạm
Tìm đâu sợi nắng, dẫu mong manh.

Thanh Hòa
***
Thu Tàn
(Bát vĩ đông vận)

Một khoảng trời buồn sắc hết xanh
Chim thôi ríu rít tiếng trên cành
Giăng chiều xám xịt mây trôi vánh
Sải cánh mịt mờ nhạn ruổi nhanh
Xót nỗi tình đơn nhòa nhạt cảnh
Thương người áo mỏng tả tơi manh
Tàn thu gió thoảng từng cơn lạnh
Cứ ngỡ tay ai khẽ động mành.

Nguyễn Gia Khanh


Chiêm Bao



Bài Xướng: Chiêm Bao

Hỏi anh đếm được mấy vì sao
Có thấy mắt em ở chốn nào?
Một phút xôn xao mây phủ nhẹ
Muôn đời luyến tiếc má phai mau
Chập chùng sương trắng đầu non lạnh
Thăm thẳm rêu xanh đáy biển sầu
Dỗ giấc tình yêu đầy mộng mị
Âm thầm giọt nhớ suốt canh thâu.

Âm thầm giọt nhớ suốt canh thâu
Cũng đủ vì ai bạc mái đầu
Anh thấy sao trời trong mắt biếc
Em tìm biển ái giữa đêm sâu
Nụ hôn tỏa ngát mùi trinh bạch
Suối lệ nồng hương vị ngọt ngào
Xiết chặt vòng ôm hơn chút nữa
Giật mình, sực tỉnh giấc chiêm bao !!!

Thy Lệ Trang
***
Bài Họa
Tâm Tình Mạng Ảo

Nguyệt khuyết trời tây-chẳng thấy sao
Tìm đôi mắt biếc ở nơi nào ?
Xuân về Én đợi, xuân qua lẹ
Hạ đến Oanh chờ, hạ lướt mau
Mượn vận "Đường thi" trao nỗi nhớ
Vay vần "Lý Bạch" gửi cơn sầu
Giang Hà cách trở mờ nhân ảnh
Mạng ảo tâm tình- bút chẳng thâu.

Mạng ảo tâm tình- bút chẳng thâu
Người nơi cuối biển kẻ sơn đầu
Thuyền về" Biển hẹn" gieo tình đậm
Bến đợi "Tương phùng" gửi nghĩa sâu
Gió nhẹ, sóng vờn vui sóng lượn
Trăng nghiêng,rọi bóng lộng trăng ngào
Ngập tràn mộng thực nơi quê mẹ
"Hồn Bướm mơ Tiên"- đẹp biết bao !!!

Ngọc Ẩn Nhi Huyền