Thứ Bảy, 1 tháng 7, 2023

Yêu - Sáng Tác Văn Phụng - Tiếng Hát Đình Lộc


Sáng Tác Văn Phụng - Tiếng Hát Đình Lộc

Nhớ Hè Quê Ngoại

 

Trên gác trọ, những ngày Hè đất khách
Nhìn nắng Hè như lửa đổ ngoài xa
Nhớ Hè ngày xưa ở chốn quê nhà
Hè quê tôi nóng hơn Hè xứ lạ.
Đàn công cấy trên đầu che nón lá
Anh cầm cày cởi áo quấn quanh đầu
Bên kia đường trên thửa ruộng sâu
Bầy trâu trầm mình trong bùn tránh nắng.
Trên lưng đàn trâu, một bầy cò trắng
Chờ cho nước trong, kiếm cá đỡ lòng.
Bà ngoại tôi, cụ già không chịu nóng
Phe phẩy liền tay chiếc quạt mo cau
Có những trưa, Ngoại ngồi cạnh bờ ao
Dùng khăn nhúng nước, lau người cho mát.
Xa cách quê hương, trên đường phiêu bạt
Nhớ lại những Hè quê Ngoại ngày nào
Tôi chợt nghe lòng nhớ Ngoại biết bao!

Trần Công/Lão Mã Sơn

Quý Hơn Bạc Vàng

  

Vàng bạc thời tôi nào có mô 
Nhưng vì danh thánh Chúa Ki tô 
Người thời hiến tế cho nhân loại 
Người đã hy sinh cứu tội đồ 
Hãy đến sẻ chia và chúc tụng! 
Hãy quì đón nhận với tung hô! 
Đây Chiên Thiên Chúa-Lời hằng sống 
Đấng đã hiển vinh ra khỏi mồ. 

Thái Huy 
6/28/23

Chiều Nghe Tiếng Chim Cu


Nghe tiếng chim Cu phương trời viễn xứ
Chạnh lòng ta miền cố xứ xa xôi!
Áo vai mỏng, gót mòn đời lữ thứ,
Nẽo mây ngàn còn đọng bóng chiều trôi.
Giữa bận rộn bao sắc màu dâu bể
Muôn âm thanh lay động mấy vui buồn!
Theo dòng đời, dẫu lên tuồng ngạo nghễ
Cát bụi mê lầm chìm dưới hoàng hôn.
Trăng vẫn nhớ bao mùa về Hiệp Phố
Con thuyền xưa, dù tách bến xa xưa.
Vẫn lay động máy chèo trên sóng nước,
Tình trăng sao còn hẹn buổi giao mùa.
Chim Cu gáy, tiếng rơi trong bóng nắng
Dấu thời gian chấm phá xuống quê hương.
Trời cố xứ vẫn muôn trùng xa vắng,
Nhưng lòng ta nào lạc giữa mê đường!

Florida, tàn đông 2021.
Mặc Phương Tử

Thơ Tình Chín Đoạn



Mãi mãi làm thơ để tặng người
Cuộc đời như một cuộc rong chơi
Trăm năm một ý về chung một
Thân thế thấp cao chỉ một thời

Thơ phú qua đi một chỗ ngồi
Chiếu cao chiếu thấp cũng vui thôi
Sắc màu nhân thế xanh vàng đỏ
Hạnh phúc riêng phần dẫu lẻ loi

Thơ viết qua lòng lắm vấn vương
Trái tim năm tháng vẫn vô thường
Nào ai biết được tình thi sĩ
Lắm mộng nhiều mơ những đoạn trường

Thơ đã vì em đậm dấu tình
Đường về vàng lối đẹp lung linh
Câu thơ con chữ đời thêm tuổi
Giữa cõi trời hoa nhưng mỏng manh

Tình đã vì em nhẹ tuổi buồn
Tấm lòng còn lại tấm lòng son
Bài thơ tròn vận dài thân phận
Trên những trang đời một nét son

Đã có tình em thôi ước ao
Bước đời sau trước chẳng còn bao
Tư riêng muôn vạn vài câu đến
Em đã cho tôi chút tự hào

Vẫn với lòng tôi muôn nắng hoa
Tình thơ gìn giữ chẳng phôi pha
Mùa xanh như đã vàng sau tuổi
Chiều đã xuống dần nơi cõi xa.

Là người Thi sĩ của em thôi
Nên bước thênh thang giữa cõi đời
Thích viết thơ tình vì thích viết
Người thương người giận vẫn nguồn vui

Bài thơ chín đoạn nắng mông lung
Từng chữ thương yêu để ấm nồng
Sau trước ân tình không vẩn đục
Cho dù còn chỉ chốn hư không.

Seattle 06/06/2023
Hoa Văn

Bức Tranh Quê Ngoại

 

(Gửi tặng thi sĩ “Nhớ Hè Quê Ngoại”
Trần Công Lão Mã Sơn)

Nắng hè ở quê tôi
Ngoại ngồi cạnh bờ ao
Chiếc quạt mo phe phẩy
Ngoài đồng gió lao xao

Bầy trâu ngâm xuống bùn
Tránh cái nắng hanh hao
Trên lưng bày cò trắng
Nhớ ngoại tôi biết bao.

Bao la đồng lúa xanh
Cánh cò trắng lả lơi
Chồng cầy thì vợ cấy
Chiều về lòng thảnh thơi.

Gió lùa nhánh mù u
Tiếng ai hò vọng đưa
Ngoại nhìn bến sông vắng
Tôi nhớ ngoại hơn xưa.

Tế Luân


Thơm Ngát Hương Đời


Cây cam trước cửa sổ phòng làm việc của bà Vi đã nở đầy hoa, dày đặc những chùm hoa trắng nõn nà. Một số cánh hoa từ từ rụng xuống để lại những chùm trái nhỏ xíu lấm tấm như những đầu chiếc đinh ghim mầu xanh ngộ nghĩnh. Sáng nay bà Vi dậy sớm, thư thả ngồi nhìn ra cửa sổ, mải mê ngắm hai con chim đang bay ra bay vào xây cái ổ tít trên cành cao của cây cam. Chiếc tổ chim vừa hoàn thành, những sợi cỏ khô mỏng mảnh đã được bện thành một cái tổ gọn gàng, nhỏ bằng hai bàn tay chụm lại. Chúng khôn quá, xây tổ trên cành cam, khi chim con ra đời sẽ được thưởng thức mùi hương hoa cam thơm ngát. Bà mỉm cười nghĩ thầm, rồi rảo mắt nhìn ra phía vườn sau.

Joe và thằng Út Lam đã thức dậy từ khi nào; hai đứa đang mạnh mẽ bổ những nhát cuốc đào mấy hố đất để sửa soạn đổ móng, đóng cột xây thêm phòng ăn ngoài trời ngay gần phía hồ bơi. Ngôi nhà này Út Lam của bà mới mua năm 2020, ngay giữa mùa đại dịch Covid. Trước đó vợ chồng bà cũng sống trong nhà Út, một căn “duplex” nhỏ hai gian, mỗi gian có hai phòng ngủ, cây cối bà Vi trồng đã xum xuê, đã cho hoa tươi, trái ngọt. Hai ông bà ở một bên, Út Lam ở gian bên cùng Joe, là bạn và cũng là roommate thuê phòng từ hơn chục năm qua; mọi người sống rất êm đềm, thuận thảo.

Dọn sang nhà mới thì Joe cũng dọn theo. Vợ chồng bà Vi ở cái phòng được xây nối bên hông, Joe và Út ở hai phòng riêng trong nhà chính, có thêm phòng tập thể thao trong nhà, hồ bơi ở vườn sau, nên hai anh chàng có vẻ vui thích lắm. Joe là một thanh niên Mỹ trắng trẻo, cao lớn nhưng dáng vẻ thư sinh, tính nết điềm đạm, ăn nói nhỏ nhẹ, đặc biệt lại rất khéo tay và chịu khó. Ở ngay bên cạnh, có gì trong nhà hư bà gọi là Joe nhanh nhẹn sang giúp sửa liền. Đôi khi bà đùa:
- Joe, con đúng là thằng con trai của mẹ!
- I try, I try... Mom!
Cậu ta trả lời với nụ cười tươi.
Ở gần lâu ngày, Joe cũng chịu khó học những câu tiếng Việt. Đôi khi ra vườn sau gặp ông hay bà nó cũng ngọng nghịu véo von:
- Chào bác, bác có khỏe không?

Vợ chồng bà Vi rất quý mến Joe, nên mỗi lần tụ họp cả gia đình chi nhánh nhỏ, hay đại gia đình, Joe đều có mặt. Và tất cả các cháu trong đại gia đình bà cũng thương yêu, đùa giỡn thân mật với Joe, và chúng thường gọi uncle Joe và uncle Lam bằng tên gọi tắt U. J và U. L cho thân mật. Năm vừa rồi mấy đứa con bà tổ chức kỷ niệm 50 năm ngày cưới cho cha mẹ, Joe cũng tham gia sắp hàng cùng mọi người bước lên khán đài tặng hoa, tặng quà cho ông bà như một thành viên trong gia đình.

Nghĩ tới đây, bà Vi chợt bồi hồi xúc động. Mới đó mà ông bà đã sống với nhau hơn năm chục năm. Thời gian mấy mươi năm chỉ như là cái chớp mắt. Trong phút chốc, những chuyện xưa bỗng ào ạt hiện về.
***
Trước 1975, ông là nhà giáo, bà là dược sĩ. Ngay sau ngày mất nước ông phải đi tù “cải tạo” mất ba năm. Tuy làm nghề gõ đầu trẻ, nhưng mang danh Trung Uý biệt phái từ bộ Tổng Tham Mưu của VNCH nên ông phải bị đi tù. Nước mất, bà Vi bị quăng vào đời một cách tàn nhẫn. Chưa đến ba mươi tuổi, một nách hai đứa con thơ. Hai cột trụ chính của gia đình là cha và chồng phải khăn gói đi tù không biết ngày về.

Trời Sài Gòn không còn đẹp nữa; nắng Sài Gòn không còn tươi; và cảnh vật Sài Gòn ủ ê khoác lên một màu xám. Với tâm trạng ngậm ngùi đó, bà Vi thơ thẩn lên thương xá Tam Đa, đánh liều mướn một quầy nhỏ trong gian hàng của PMC, để may, thêu, vẽ... Tận dụng hết các nghề tay trái để kiếm gạo nuôi con. NH chia cửa hàng của chị làm năm phần, ngoài cùng là hai quầy nhỏ, bà Vi một bên, hai chị em Vân Ly một bên. Đằng sau bà là quầy hàng của nhà văn NC, có cô em BH tươi vui, nhí nhảnh. Đối diện với NC là gian hàng của vợ chồng NXH với cô vợ DT khéo léo, đảm đang. Không ngờ bà lại được lọt vào một nơi toàn văn nghệ sĩ!

Sau khi ông ra tù, thoát khỏi nhà tù nhỏ để về sống trong “nhà tù lớn”, bà Vi có thêm người đỡ bớt tay chân. Nhưng ông làm sao sống nổi trong cái đất nước mà người dân “Mỗi tháng sắp hàng mua lạng thịt/Từng năm đợi mét vải che thân” và đầu óc luôn căng thẳng vì ngơm ngớp lo âu.

Năm 1980 ông bà dắt hai con và hai đứa em vượt biển thành công, sang định cư tại California. May mắn có gia đình cô em sang trước 75 mới mua nhà ở Irvine mời gia đình anh chị và hai em về ở chung. Chân ướt chân ráo; mới vượt biên sang vùng đất hứa; mới được thở hít không khí tự do, hưởng thụ ánh sáng văn minh; và được sống trong căn nhà đẹp, rộng rãi mà nhiều người mơ ước. Hai đứa con tạm đủ lớn, thằng con nhỏ đã chín tuổi, không phải lo lắng nhiều.

Nhưng rồi, ông bà lại bắt đầu phải lo con mọn! Chả là một tháng nọ bà Vi bỗng thấy “thất kinh”. Nhìn chiếc que thử thai hai ông bà đã giật mình. Ông nhìn bà, bà nhìn ông. Ông bà đã cẩn thận kiêng cữ mà sao vẫn bị vỡ kế hoạch! Đành phải chấp nhận thôi, họ bảo nhau, tự an ủi, đứa con Trời cho thì cứ nhận!! Và ông bà rất vui mừng khi sinh được Út Lam. Thằng bé ra đời đem niềm vui đến với ông bà, thật hạnh phúc khi có bé luẩn quẩn loanh quanh, hủ hỉ với cha mẹ.

Thời kỳ đó sang Mỹ trở lại nghề cũ hơi khó. Phải đi học lại, tốn nhiều thời gian nên chồng bà Vi liền ghi tên học một khóa computer và đúng một năm sau ông đã có việc làm. Phần bà, khi ấy chưa có chương trình thi lấy bằng dược sĩ tương đương. Buổi sáng bà đi học Med – Tech, buổi chiều bà học ESL tại Saddleback College gần nhà.

Một cơ hội may mắn đến, các em bà Vi xúm lại giúp đỡ để bà mua được một ngôi chợ nhỏ ở một thành phố thuộc miền bắc Cali, chủ cũ về hưu nên bán rẻ. Thế là bà mang cu Út theo lên miền Bắc, đi làm ăn với mẹ. Hai đứa lớn tạm ở lại Irvine với bố, phải giữ một lương để bảo đảm vì cửa hàng mới mở chưa biết sẽ lời lỗ ra sao.

Để tiết kiệm, bà cho sửa sang căn phòng kho chứa đồ phía sau, ngăn vách thành một phòng nhỏ để vừa một cái giường của mẹ, một cái giường bé xíu cho Út Lam. Cũng may đó là khu hỗn hợp giữa thương mại và nhà ở nên mẹ con bà Vi mới được ở ngay tại tiệm, vừa tiện việc trông coi vừa không phải di chuyển mà lại đỡ tốn tiền thuê nhà riêng.

Thời kỳ đầu chợ chưa có khách, hàng hoá còn thưa thớt, bà Vi phải vắt óc tìm cách kiếm thêm thu nhập và tăng số lượng khách hàng. Bà nhận sửa quần áo, may vá, và nhận thêm việc dịch giấy tờ như khai sinh, giá thú, học bạ, cho một số đồng hương Việt. Trời thương, thằng bé Út Lam quá hiền lành cứ lủn tủn bên mẹ. Bé thì nằm ngoan ngoãn trong chiếc giỏ xách baby; lớn lên bíết bò, biết tập đứng tênh tênh thì yên chí bò lổm ngổm hay đứng vịn thành cái lồng playpen để bên cạnh mẹ như con chó con hiền lành trong cũi; bé không bao giờ quậy phá hay kêu khóc.

Bà Vi một mình chèo chống ngôi chợ bằng sự quyết tâm và kiên nhẫn tột cùng giữa cái thành phố Mỹ lộng lẫy của miền Bắc Cali. Và rồi trời cao không phụ kẻ có lòng. Hai năm sau, nhờ sự nổ lực của bà, ngôi chợ phát triển, chồng bà đưa hai con lớn lên miền Bắc để gia đình đoàn tụ về một mối.

Cả nhà hợp sức làm việc, 7 ngày một tuần, 12 tiếng một ngày, từ 9 giờ sáng đến 9 giờ tối. Ngôi chợ ngày càng phát triển mạnh, dần dần biến thành một cửa hàng bách hóa đúng nghĩa, có đủ mặt hàng gia dụng, kể cả quần áo và vải vóc. Bà Vi còn mở thêm dịch vụ nhận đóng thùng quà gửi về VN. Chồng bà đặt một bàn giấy chuyên lo những dịch vụ giúp người Việt, dịch giấy tờ hộ tịch, điền đơn bảo lãnh, bán bảo hiểm. Bà còn nhận may đo trực tiếp theo ni tấc cho khách hàng, kể cả khách Mỹ.

Mấy năm sau, ông bà mua được căn nhà riêng. Cu Út có anh chị nên không phải theo ra chợ nữa. Thằng Út “vét mót” này rất thông minh, khi sắp đi học pre - school, Út đã nói rành cả hai thứ tiếng Mỹ - Việt. Một hôm mấy cô em bà Vi đến chơi, vui chuyện bà kể là vì “accident” mới sinh ra Út. Khi họ ra về, thằng bé kéo mẹ vào phòng phụng phịu:
“Mommy, am I unwanted child?”
Bà Vi nghe lời con trẻ mà hết hồn, xót dạ, vội ôm bé vào lòng dỗ dành:
“No, no! You’re the gift from God! Không phải đâu cục cưng của mẹ! Con là món quà quý Trời ban cho mẹ! Mẹ yêu con nhất! Nhất!”

Thằng bé nghe thế thì vít đầu mẹ xuống hôn chụt vào má của mẹ và nhoẻn miệng cười. May mà bé nói ra chứ nếu nó cứ ôm giữ trong lòng mà hậm hực buồn tủi thì không biết hậu quả sẽ ảnh hưởng đến cuộc đời nó như thế nào. Từ đó bà Vi phải cẩn thận về lời nói hơn trước.

Công việc làm ăn của ngôi chợ ngày càng phất lên như diều gặp gió. Tiệm may của bà Vi cũng đông khách hơn, bà phải mướn một thợ may người Mỹ đến phụ việc. Thêm nhiều khách Mỹ đến đưa may, ngay cả may áo cưới, áo dự thi Fashion Show. Bà Vi sáng tạo ra những mẫu áo đẹp, độc, lạ, nên khách hàng Mỹ rất ưa thích. Bên phần gửi quà về VN, bà mướn thêm một ông già người Việt để giúp việc đo vải, đóng thùng.

Khi tiền bạc rủng rỉnh, vợ chồng bà Vi quay qua kinh doanh thêm về địa ốc. Bước đầu bà mua đấu giá một căn “fourplex” rách nát, bỏ hoang phế lâu ngày với giá chỉ sáu chục ngàn, trả hết bằng tiền mặt. Bà bỏ thêm mấy chục ngàn nữa sửa lại toàn bộ. Căn nhà sau khi tân trang đã biến đổi, như cô bé lọ lem thoát xác thành nàng công chúa thật diễm kiều.

Bà Vi bán ngay, được lời gấp đôi giá vốn! Thừa thắng xông lên, bà dùng tiền bán nhà “down” hết, mua bốn căn nhà khác, sửa lại cho đẹp rồi cho thuê. Tiếp theo, ông bà dùng tiền giành dụm và lợi tức từ cửa hàng đem mua nhà từ từ, khi mua được vài căn nữa thì ngưng. Tiền cho thuê, bà Vi trả hết vào tiền nợ nhà. Dự tính đến khi về hưu nợ nhà vơi đi, ông bà sẽ cho ba đứa con mỗi đứa một căn. Chừa lại một căn để ông bà cư ngụ, còn thì cho thuê lấy lợi tức an hưởng tuổi già. Nếu còn khỏe mạnh, ông bà sẽ đi du lịch đó đây để mở tầm con mắt và vui hưởng những cảnh đẹp thiên nhiên cho bõ với những tháng ngày làm lụng cực khổ.

Nhưng ở đời, có những bài học kinh nghiệm mà khi học được thì đã trễ. Ngày ấy bà Vi đâu có biết gì đến dịch vụ các công ty Mỹ quản lý cho thuê nhà ăn huê hồng. Công ty sẽ lo hết thủ tục phỏng vấn chọn người thuê có lý lịch tốt, nếu bị hư có nhân viên sửa chữa rồi trừ vào tiền thuê nhà. Họ cũng có những tiêu chuẩn đặt cọc được ký trong họp đồng để lấy tiền đền nếu người thuê làm hư nhà cửa. Và họ có cách quảng cáo để những ngôi nhà thuê không bị bỏ trống. Bà Vi tự đăng báo cho thuê, lựa chọn người theo cảm tính, không biết lấy tiền cọc về bồi thường, nên căn nhà nào cho thuê cũng chỉ được một năm đầu êm ả, rồi thì những vấn nạn xẩy ra. Nhà luôn bị trống vài căn; nhà có người thuê thì ít lâu họ lại dở chứng quịt tiền nhà, khi bị trục xuất thì phá tan hoang trước khi đi, lại phải sửa chữa để đợi người mới.

Tiếp đến bong bóng thị trường địa ốc bị bể. Nhà không có người thuê, muốn bán thì không có người mua. Cứ thế mà cầm cự mấy năm trời thì nguồn vốn cạn kiệt. Mọi việc đến với vợ chồng bà Vi như cơn lốc xoáy. Của cải đến rồi đi tựa dòng nước lũ cuốn ra sông. Và ông bà mất trắng!

Khi ấy hai đứa con lớn của bà Vi đang học ở UC Berkeley. Út Lam vừa học hết bậc tiểu học. Ông bà đành gạt nước mắt để ba đứa con lại, nhờ ông bà ngoại và các dì của cháu trông nom để đi xuyên bang làm ăn. Và rồi trong một buổi sáng Tháng Ba sương mù dầy đặc, có đôi vợ chồng tuổi mới trung niên bước thấp bước cao lên máy bay rời bỏ thành phố xinh đẹp San Francisco với tâm trạng rối bời và đau xót. Phần thì thương con, phần thì tiếc của, bà Vi bước chân đi mà lòng như bị ai xát muối!

Từ bỏ Cali ra đi, cuối cùng vợ chồng bà Vi cũng ổn định tại một thành phố nhỏ ở một tiểu bang xa. Ông làm trong một hãng shipping, bà làm việc trong một tiệm bán và nhận sửa quần áo. Lương chỉ đủ để sinh tồn, nhưng cũng là lúc ông bà hiểu thế nào là lẽ vô thường, tự nhìn lại mình, và tự an ủi rằng cũng đã cố gắng làm việc hết sức mình và cũng từng thực hiện được giấc mơ Mỹ tuyệt đẹp: Từng làm chủ, có nhà cửa, xe cộ đàng hoàng, tiền bạc rủng rỉnh. Nhưng vận hạn đến lúc không may nên đã tính toán sai lầm, dồn hết trứng vào một giỏ. Bạo phát nên bạo tàn. Ôi cũng là định mệnh!

Ông bà bằng lòng với cuộc sống giản dị lúc đó. Mỗi ngày làm việc tám tiếng xong là về nghỉ. Tâm trí không vướng bận những tính toán, lo toan như thời làm việc tại ngôi chợ ở Cali. Chỉ có việc phải sống xa các con là nỗi buồn nhớ quắt quay, nhất là nhớ thương thằng Út. Không biết thằng bé lớn lên bằng cách nào khi thiếu bàn tay chăm nom của mẹ. Từ nơi xứ lạ, ông bà chỉ biết thành tâm cầu khẩn Trời Phật, tổ tiên phù hộ cho ba đứa con có cuộc sống êm đềm, học hành giỏi dang, ra đời thì thành đạt. Nếu có nghiệp chướng từ tiền kiếp thì ông bà xin gánh chịu hết trong những năm cuối đời này, xin đừng bi lụy đến đời các con cháu.
***
Có tiếng xe cộ và tiếng lao xao của trẻ con ở đàng trước. Chắc mấy đứa con và các cháu đã đến họp mặt cuối tuần, cũng là để giúp Út thu xếp nhà cửa. Bà cảm thấy thật vui, khi nghĩ đến hiện tại các con đã trưởng thành, hai đứa lớn rất thành công, học xong ra trường đi làm, lập gia đình, và đã có con, nhà cửa ổn định. Riêng Út Lam dù đã ổn định nó vẫn còn độc thân. Hồi nhỏ Út hay thủ thỉ mộng ước của bé là muốn học thành bác sĩ để có thể săn sóc bố mẹ lúc về già. Út rất thông minh và học giỏi. Nhưng vì hoàn cảnh không may của gia đình nên nó quyết định học PA (Physician Assistant) cho nhanh. Học ra Bác Sĩ phải lâu hơn và tốn kém hơn nhiều vì dù có mượn nợ để học nhưng phải đi xa và tiền nhà cửa, chi phí cũng không nhỏ. Út Lam ra trường có việc làm ngay, với mức lương ngày càng khá. Giành dụm vài năm nó mua một ngôi “Duplex” và đón bố mẹ về ở cho tới ngày nó mua thêm ngôi nhà này.
Lâu nay, bà Vi đã để ý tìm dâu, kiếm vợ cho Út Lam. Biết là tuổi trẻ bây giờ không thích chuyện mối mai, bà tạo những cơ hội như thật tình cờ để con gặp thêm bạn mới, và nhắc nhở con đã đến lúc phải lập gia đình. Đây là mơ ước cuối cùng của đời bà. Nhưng Út Lam vẫn tảng lơ né tránh và có khi bà hối thúc lắm thì nó nói bừa, “Con sẽ không lấy vợ...”
- Mẹ ơi...
Tiếng gọi của Út Lam từ sân sau.
- Gì vậy bé?
Bà hỏi vọng ra.
- Bé của mẹ đã gần bốn mươi rồi đó mẹ ơi!

Tiếng thằng anh cả kèm tiếng cười khúc khích của mấy đứa trẻ. Bà cũng cười, vì Út Lam luôn là thằng con bé bỏng của bà, nên lâu lâu phản xạ từ tiềm thức bà gọi Út là “Bé” làm các cháu nghe cũng phải buồn cười.
Bà bước ra khu vườn gần hồ bơi, cả đám con cháu đang cùng nhau ngắm nghía, trầm trồ, công trình chúng mới hoàn tất. Một căn phòng nhỏ xinh xinh núp dưới hai cây cam cổ thụ dành riêng cho bà.
Cô con gái hỏi:
- Mẹ muốn đặt tên gì đây?
Thằng anh lớn nói:
- Phòng Thiền, Phòng Vẽ, hay Thư Viện?
- Khiêm Cung Am!
Bà nháy mắt trêu.

Chả là anh con lớn là người “design” và là trưởng nhóm xây cất; thằng cháu đích tôn, con của anh con trưởng được ông nội đặt tên là Khiêm Cung. Cả nhà cười ồ thích thú.
Khi bà ngỏ ý muốn có một cái lều ngoài vườn để có chỗ ông bà ra ngoài sống gần với thiên nhiên, uống trà buổi sáng hay nằm võng nghỉ ngơi sau “công việc đồng áng” hàng ngày, anh con trưởng xung phong:
- Mẹ để tụi con lo! Tụi con sẽ xây cho mẹ một căn phòng xinh để mẹ muốn làm gì thì làm.

Thế rồi cả lũ con trai xúm lại chỉ hai ngày “weekend” đóng xong ngay cái sườn nhà. Phần còn lại xây tường, lợp mái, lót sàn thì chỉ còn thằng cả và “uncle Joe” anh chàng Mỹ thuê phòng siêng năng tốt bụng đi làm về tà tà thêm bớt, và đến hôm nay thì hoàn tất. Bà rất vui vì con cái yêu thương đùm bọc lẫn nhau, lũ cháu nội ngoại cũng rất thân nhau.

Hàng ngày ngoài việc chăm sóc khu vườn, bà Vi còn viết văn, vẽ tranh, ngồi thiền, và đi họp hành cùng các bạn trong hội nhà văn. Cuộc sống vợ chồng bà vậy là gần như trọn vẹn, giờ bà chỉ mong ước thằng Út Lam lấy vợ nữa là toại nguyện.

Một buổi tối ngày Rằm Tháng Tám trăng tròn, vợ chồng bà Vi ra ngồi ở vườn sau uống trà và ngắm chị Hằng trên cao. Không gian thật tĩnh lặng, gió nhè nhẹ thổi, mơn man cành lá, quanh vườn thơm ngát hương hoa.


Bỗng đâu Út Lam trong nhà bước ra, ngồi xuống bên cạnh mẹ với vẻ lúng túng, hai tay đan vào nhau. Gió đung đưa cành lá trong vườn, ánh trăng vờn qua làm loang lổ khuôn mặt đầy vẻ căng thẳng của nó. Hình như Út có chuyện gì muốn nói. Vẻ băn khoăn đó làm cho bà Vi lo sợ. Bà linh cảm có điều gì kinh khủng lắm sắp xảy ra, nên chăm chú nhìn con trai nhưng không dám hỏi, như thể hỏi câu hỏi của bà sẽ làm vụn vỡ bầu không khí của đêm trăng yên bình.

Thình lình, Út Lam hít mạnh một hơi, rồi nói:
- Mẹ! Mẹ có... thương con không?
Bà Vi ngơ ngác:
- Có chuyện gì vậy? Sao con lại hỏi ngớ ngẩn thế?
- Con...con... nói... điều này xin bố mẹ đừng buồn, đừng giận... con nha!
Nó ngập ngừng, rồi bất chợt chụp lấy hai tay mẹ nói thật nhanh:
- Con thương Joe! Chúng con... yêu nhau, và muốn sống với nhau trọn đời!

Như tiếng sét nổ bên tai. Bà Vi sững sờ, chết lặng, miệng há hốc. Một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng. Bà rùng mình và bàng hoàng đến không thở nổi. Có lẽ nào. Tại sao lại như thế. Bà lảo đảo đứng lên không nói một lời. Và bà bước vội vô nhà quên cả xỏ chân vào đôi dép.
Thấy thằng Út nhìn theo mẹ với vẻ hoảng hốt, ông vội vã trấn an:
- Để bố đưa mẹ vào trong, con đi ngủ đi, mai hãy nói chuyện tiếp.

Ông vội chạy theo, dìu bà vào trong nhà. Là đàn ông, có lẽ ông đã nhận ra điều khác thường của đứa con trai nên không tỏ vẻ ngạc nhiên.

Suốt đêm bà Vi không ngủ. Nỗi dằn vặt, khổ đau, trộn lẫn với sự hối hận, đã bóp nát trái tim người mẹ. Nước mắt tuôn rơi, bà tự trách mình với đủ lý do. Có lẽ vì sự vỡ kế hoạch khi dùng thuốc ngừa thai, vì sự buồn lo vì có thai ngoài ý muốn, kể cả sự bỏ con cho ngoại và các dì nuôi nấng khi nó còn quá nhỏ, vì không được mẹ chăm sóc nên đã dẫn đến việc ảnh hưởng, thay đổi giới tính thằng bé chăng? Đứa con trai mà bà yêu thương, trăn trở những ngày đêm phải xa nó, đã mong nó có một mái gia đình êm ấm, có con cái như các anh chị nó. Vậy mà bây giờ!

Bà trằn trọc. Bà khóc, và bắt đầu nhớ lại, điểm lại chuyện của Út. Thì ra ngay từ nhỏ Út Lam đã có những tính cách khác thường, nhỏ nhẹ, dịu dàng, mỏng mảnh như con gái. Bé thích chải đầu, cuộn tóc, chăm chú ngồi sơn móng tay, móng chân cho mẹ. Hồi bố mẹ phải đi xa, bé đã may thêu chiếc gối nhỏ hình trái tim để khi đi thăm bố mẹ thì đem tặng. Bà chỉ biết cười và khen Út giỏi, không chút nghĩ suy gì. Mới năm, sáu tuổi bé đã thích xem phim tình cảm ủy mị sướt mướt của Quỳnh Giao, và cùng cười cùng khóc với nhân vật trong phim. Trong nhà chị mắng thì em cũng chỉ biết ngồi khóc, không bao giờ cãi lại. Út là đứa con chí hiếu, chăm sóc cha mẹ rất chu đáo kỹ càng. Mỗi lần bà bịnh thằng bé cũng ăn không ngon, ngủ không yên. Tính tình rất nhu mì nên trong họ ngoài làng bà con bạn bè đều yêu mến. Càng nghĩ bà càng thương con xót xa.

Thật khuya, khi thấy bà đã ngưng khóc, ông sà tới sát lại gần, dỗ dành:
- Tội nghiệp thằng bé, nói ra được với bố mẹ chắc nó cũng trút đi gánh nặng trong lòng. Tôi ủng hộ nó, tôi không biết phản ứng của bà ra sao nên lâu nay không dám nói. Theo tôi, mình nên chúc phúc cho chúng nó. Chúng nó là những người tốt, khỏe mạnh, thiện lành, và vô tội mà!

Bà như không nghe thấy lời ông nói. Bà bận nhớ đến những lúc sau này các anh chị nó đã có nói gần, nói xa, nói những lời bâng quơ, khi thấy Joe đối xử với Út Lam dịu dàng, âu yếm, có lẽ là để chuẩn bị tinh thần cho bà. Nhưng bà nào để ý, chỉ nghĩ là chúng nó trêu ghẹo cái cách tiếp xúc “rất Mỹ” của thằng Joe. Thì ra mọi người trong nhà đều biết, chỉ riêng bà không biết!

Bà Vi bị sốc nặng khi đối diện sự thật. Trước giờ bà biết rằng khi nói đến “đồng tính” người đời đều cho rằng đó là những kẻ không hợp với lẽ trời, sống trái với thiên nhiên; những kẻ trác táng, bịnh hoạn; những kẻ tò mò muốn khám phá cảm giác mới. Xã hội thì lên án, không công nhận, người đời xa lánh, nhìn bằng con mắt lạ lẫm, nên những người đồng tính thường phải che dấu, trốn lánh vì sợ ảnh hưởng tới gia đình.
- Thật tội nghiệp con tôi!
Bà chợt buột miệng nói lớn.
- Xác nhận mình là một người đồng tính quả không dễ dàng!
Như chỉ chờ có thế, ông biết trái tim người mẹ làm sao chối bỏ con mình, nên ông vội nói:
- Đúng vậy! Quả là không dễ dàng!
Rồi ông nói tiếp một hơi.
- Nhưng thời buổi bây giờ, qua những trải nghiệm trong đời sống, những nghiên cứu của nhiều nhà xã hội học, khoa học, đã chứng minh rằng Giới Tính của con người có nhiều loại. Riêng về Tính Dục cũng có ít nhất là năm loại: Dị tính (Yêu người khác phái) – Đồng tính (Yêu người đồng phái) – Lưỡng tính (Yêu cả hai phái) – Vô tính (không yêu ai hết) – Chuyển giới (Chuyển đổi giới tính). Người Mỹ gom tất cả những giới tính “bất bình thường” gọi là LGBT. (Lesbian, Gay, Bisexual, Transgender). Họ cũng là những người do Đấng Tạo Hoá sinh ra, nên họ phải được tôn trọng và được sống theo giới tính thực sự của mình. Không nên phủ nhận giới tính của họ, để họ được sống và yêu như người bình thường.

Ông còn nói nhiều nữa, nhưng bà vẫn mở mắt nhìn thao láo lên trần nhà. Bà nghĩ đến thằng Joe. Bây giờ nhớ lại từng chi tiết, bà thấy Joe rõ ràng là thật tâm thật lòng muốn gia nhập vào gia đình bà, muốn làm một đứa con thật sự của bà. Biết bà thích trồng cây, cậu ta đóng ngay cho bà mấy thùng gỗ để bà có mảnh vườn ngăn nắp. Joe còn tập ăn thức ăn Việt, học nói tiếng Việt, tìm hiểu về phong tục và văn hóa Việt. Ngày biết bà thắng được giải Danh Dự VVNM của Việt Báo, Joe tỏ vẻ rất vui, chúc mừng bà rối rít, và kêu bà đưa bài viết thắng giải cho nó bỏ vào Google dịch để đọc một cách vô cùng thích thú. Khi đó bà Vi thật vui, cảm động và nghĩ thầm, anh chàng Mỹ này chắc kiếp trước là người Việt Nam nên kiếp này mới thích người Việt như vậy. Bây giờ nhớ lại, bà mới vỡ lẽ, thì ra lâu nay thằng Joe đang... làm rể nhà bà!
Đến gần sáng, bà Vi chợt ngồi bật dậy mở máy tính lên Google tìm kiếm. Bà không cam tâm.

Phải tìm cho ra nguyên nhân. Phải tìm xem trên trái đất này có bao nhiêu người lâm vào cái cảnh dở khóc dở cười như đứa con trai út bửu bối của bà.
Và những thông tin tìm thấy làm cho bà Vi sửng sốt. Theo Cục Điều Tra Dân Số Hoa Kỳ (The United States Census Bureau), trong năm 2019 có đến 980,276 gia đình có cặp đôi là đồng tính. Chỉ nói sơ trong hệ thống chính phủ Mỹ, đã có 2 Thượng Nghị Sĩ và 11 Dân Biểu Quốc Hội Hoa Kỳ là người đồng tính.

Người ta nói, “Có tật có tài” quá đúng. Không phải chỉ mình Út của bà thông minh như bà từng tự hào. Bà Vi còn tìm thấy nhiều người Mỹ đồng tính thông minh tột đỉnh. Họ đã thành công trong nhiều lãnh vực và trở thành những người nổi tiếng của nước Mỹ. Họ kết hôn với người cùng giới và có cuộc sống vợ chồng như những người bình thường. Điển hình là ông Pete Buttigieg, Bộ Trưởng Giao Thông Hoa Kỳ, người từng tranh cử chức Tổng Thống Mỹ. Ông kết hôn hợp pháp với người đồng giới Chasten Glezman, một giáo viên và là nhà văn.

Kế đến là Tim Cook, là CEO, cũng là đồng sáng lập công ty Apple cùng Steve Jobs. Tim Cook chưa kết hôn, nhưng ông đã công khai mình là người đồng tính, Gay, vào năm 2014 trong một bài xã luận, trên Bloomberg Businessweek.

Còn Michael Kors chủ thương hiệu Michael Kors nổi tiếng người Mỹ. Kors đã kết hôn với “chồng” là ông Lance Le Pere, một nhà thiết kế thời trang người Mỹ tại New York. Họ là một trong những cặp đôi đồng tính nam đầu tiên tổ chức đám cưới vào năm 2011, sau khi luật pháp tiểu bang cho phép điều đó.
Và còn nhiều, nhiều lắm những nhân vật tiếng tăm lừng lẫy, giàu có, quyền cao chức trọng trên thế giới thuộc vào nhóm LGBT.

Một trang tin quan trọng nhất bà Vi dừng lại đọc thật kỹ là “Yale School of Public Health.” Theo John Pachankis, Tiến Sĩ tại Trường Đại Học Yale thì việc “che giấu xu hướng tính dục của một người có thể dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe thể chất và tinh thần, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và giảm khả năng hiển thị trước công chúng cần thiết để thúc đẩy quyền bình đẳng”(Yale School of Medicine).

Đọc đến đây bà Vi vội vã tắt máy đứng lên. Bà thương Út Lam quá, nó sửa soạn cho thật chín mùi, chịu đựng sự dằn vặt bao nhiêu năm bây giờ mới can đảm thổ lộ, vì không biết phản ứng của bố mẹ sẽ ra sao. Bây giờ đã hiểu ra, nên bà sẽ không như những người khác, khi biết con của họ sống chung với người đồng phái đã ghét bỏ, cho là chuyện xấu hổ của gia đình. Bà từng nghe nhiều đứa con đã vì sợ hãi không dám về nhà; nghe nhiều cha mẹ nhất định từ bỏ chúng để rồi mất luôn con và cả hai bên cùng đau khổ! Đã có nhiều trường hợp bào chí đăng, vì bị gia đình ghét bỏ nên những đứa con đồng tính mang mặc cảm tội lỗi, rồi đi đến trầm cảm, dẫn đến tự huỷ hoại tấm thân! Không, không, bà không thể để con bà rơi vào tình trạng đó!

Bà bước vội qua bên phía của hai đứa. Ngôi nhà vắng tanh, lạnh lùng hoang vắng.

Phòng Joe khép hờ trống trơn với chăn màn ngăn nắp, chắc cậu ta đã đi làm. Nhưng cửa phòng Út Lam vẫn còn đóng kín. Bà thấy lo nên vội bước đến gõ cửa dồn dập. Không có tiếng trả lời bà đẩy cửa vào, và thấy thằng Út nằm im không động đậy. Hoảng hốt, bà vừa lay nó vừa kêu toáng lên:
- Ông ơi! Ông ơi! Vào đây mau!
Ông lật đật chạy qua, cũng là lúc thằng Út mở mắt ngồi dậy. Mặt mày nó bơ phờ, với đôi mắt trũng sâu đầy những tia gân máu đỏ. Bà ôm lấy ngực hú hồn mà thương đứt ruột, chắc cả đêm rồi nó không ngủ nên sáng mới ngủ mê man. Ngồi xuống giường, bà choàng tay ôm Út vào lòng và nói:
- Mẹ đã suy nghĩ cả đêm, và giờ mẹ đồng ý. Bố thì không có vấn đề gì, nhưng mẹ muốn biết con đã suy nghĩ kỹ chưa, quyết định chắc chưa?
Út mặt mày sáng bừng mừng rỡ, tươi tỉnh thấy rõ như vừa uống thuốc tiên, quay qua ôm mẹ:
- Thanks mom, I love you! Dạ, chắc chắn! Nó gật đầu lia lịa như sợ bà đổi ý.
- Chúng con quen nhau đã lâu. Memorial Day sang năm là đúng 14 năm. Joe ở bên bố mẹ gần 10 năm rồi, chắc bố mẹ biết phần nào về nó. Tụi con tính sang năm 2023 làm đám cưới. Xin bố mẹ chấp thuận!
- Sure! Bây giờ biết được tình yêu của các con là “true love” bố mẹ và cả gia đình, đại gia đình mình, phải sẵn sàng ủng hộ, giúp đỡ con!
Bà nói nhanh cho thằng con yên lòng.
***
Chỉ còn vài tháng nữa là đến ngày đám cưới của Joe và Út Lam. Cả nhà rộn ràng sửa soạn. Giấy mời đã được gửi đi. Danh sách số người tham dự ước tính phải đến một trăm mấy chục người, đó là chỉ mời người trong họ thật gần, gia đình các anh chị họ ở Paris, London cũng hẹn về. Gia đình Joe từ Ohio sang. Một số bạn bè của Joe và Lam. Hai đứa bàn với cả nhà là sẽ tổ chức đám cưới tại nhà cho thân mật và ấm cúng. Tiền mướn chỗ làm đám cưới sẽ dùng để tu bổ vào căn nhà này.

May mắn thay, Út Lam của bà được sống ở Mỹ, một đất nước tôn trọng tuyệt đối quyền tự do của con người, và may mắn hơn nữa, là được sống tại “Tiểu Bang Vàng” California, nên gia đình bà mới có cơ hội tổ chức cái đám cưới mà có lẽ sẽ là rất...lạ lẫm đối với nhiều người!

Sáng nay Joe và Lam đi làm cùng lúc, chỉ còn vợ chồng bà Vi ở nhà. Ăn sáng xong hai người lững thững ra sân sau đi bộ quanh vườn. Không gian yên tĩnh êm đềm. Xung quanh vườn những bụi hồng nhung đang trổ hoa đủ mầu đủ sắc. Còn hai năm nữa ông tròn chín mươi, bà gần tám chục. Quỹ thời gian thu ngắn dần. Hơn năm mươi năm chung sống ông bà còn có nhau đến giây phút này. Bà cầu Trời Phật cho ông bà luôn khỏe mạnh để buổi hoàng hôn rơi xuống thật êm đềm, buổi chiều tà hạnh phúc, không phiền muộn các con. Bà không tiếc nuối, không phiền hà, oán trách. Không tự dằn vặt mình vì những chuyện thành bại đã xẩy ra trong cuộc đời. Bà tin mọi việc đều có sự sắp đặt nhiệm mầu của bàn tay Thượng Đế.

Đang đi, bà Vi bỗng dừng lại dưới bóng mát của một cành cam, hít một hơi dài bầu không khí đây hương hoa vào trong lồng ngực. Bà nghĩ đến ngày cưới của Út Lam, và cảm thấy một niềm hạnh phúc vô biên. Bây giờ bà đứng đây thưởng thức hương hoa, nhưng thằng Út Lam nhà bà rồi đây sẽ được tự do thưởng thức hương vị cuộc đời. Sau cái đám cưới hợp pháp, Út sẽ có thể ngẩng mặt lên một cách tự hào và đầy hạnh phúc khi đi ra đường cùng Joe. Nghĩ đến cái ngày cùng ông cầm tay thằng Út trao cho “chồng” nó là thằng Joe, bà bất giác mỉm cười.

Trên trời vài vầng mây bạc lững lờ bay. Bầu trời rạng ngời trong xanh bên vầng dương buổi sáng. Nắng vàng tươi. Đám chim chóc trên cây đang chuyền cành cũng đùa nhau ríu rít như chia sẻ niềm vui cùng bà Vi.

Đỗ Dung

Thứ Sáu, 30 tháng 6, 2023

Giấc Mơ Tình Say - Lời: Tuấn Sông Thu - Nhạc: Hà Sơn - Tiếng Hát: Ngọc Huyền


Lời: Tuấn Sông Thu
Nhạc: Hà Sơn
Tiếng Hát: Ngọc Huyền

Nặng Phần Trình Diễn!

(Bài Hát Nói cảm ơn và đáp lễ Nhiếp Ảnh Gia taotran Trần Đức Tạo đã chuyển đến bộ ảnh “Điệu bộ bắt mồi của Cò Xanh”.)

Coi kìa! Cò Xanh điệu bộ!
Người thì còm cõi! Cổ thì dài ngoằng!
Mắt láo liên! Cánh thì thô sơ lọng cọng! Chân thì lõm bõm, lằng nhằng!
Bụng thì lép kẹp! Đói đã bao ngày? Chỉ mong bắt được mồi bằng quả Nhót!

Rình mò nhẩy nhót! Mồi nhanh “dọt”!
Đuổi bắt tung tăng! Cá vội “de”!
Anh “quá nặng phần trình diễn” nên cả trời đất, ao hồ, bèo tấm đều “chê”!
Cứ kiên gan, chịu khó âm thầm lo việc , bỏ ngoài tại “bàn đề”, lăng nhăng la chộ!

Không chừng mồi cũng bắt được mà “nửa kia” cũng tình tứ, ân cần hiện lộ!
Để “dựa hơi, hưởng lây” thành quả ngon tươi của Cò Xanh phong độ, “thứ thiệt”, đẹp trai!
Mau tỉnh ngộ đi! Anh Hai!


Đức Hùng
Sydney, Úc Châu, 30/05/2023
Kết quả: bắt hụt vì bị bèo tấm cho kín mặt nước.


Hình Ảnh: Trần Đức Tạo




Mơ Em Về

   

Mơ em về dưới nắng hồng
Hàng cây ngước mặt ngóng trông từng giờ
Lá vàng xào xạc bóng thu
Bến xưa con sóng vỗ bờ chiêm bao

Mơ em về gió thầm thào
Đưa lời âu yếm ngọt ngào xưa qua
Cúc vàng trổ vội chùm hoa
Vàng lên nỗi nhớ đôi tà áo hương

Mơ em về dưới mưa buồn
Tóc em ướt ngọn gió luồn lênh đênh
Thơ tôi lau vội tóc tình
Chiếc dù che ấm bóng hình lứa đôi

Mơ em về đỏ môi cười
Líu lo chim hót những lời thương yêu
Con đò buông lỏng tay chèo
Thu về trên ánh trăng treo dịu dàng

Mơ em về mái tóc ngoan
Cột tình tôi với nồng nàn nhớ thương
Quên đi xa cách dỗi hờn
Vòng tay cuống quít ôm tròn lòng nhau

Mơ em về gió lao xao
Tóc bay nghiêng nón qua cầu phiêu du
Và mơ, mơ chỉ là mơ
Con đường góc phố đợi chờ chênh vênh

Cà phê ngồi uống một mình
Khuấy lên nỗi nhớ bập bềnh gió mây
Xa người đã biết bao ngày
Nhớ người lòng mãi quắt quay mơ màng

Trầm Vân

Hè Năm Ấy

 

Hè sắp về rồi em ơi!
Phượng đỏ nhuộm cà bầu trời...
Bước chân em...đi vào xa vắng...
Hồn anh lạc lõng chơi vơi!
Hè về rồi đó hả em!
Còn đâu...ngày tháng êm đềm!
Suối mắt tình...đưa anh vào bến mộng!
Cầu xin đời...gió thuận thuyền êm!
Anh lang thang...nhặc cánh phương hồng
Ép vào tim..cho đở nhớ mong...
Tiếng ve sầu...ôi buồn bã!
Mây trôi, gió cuốn...sắt se lòng!
Cám ơn...hè đã trôi qua!
Mái trường xưa...trở lại đậm đà!
Ánh mắt, nụ cười...cửa tim nở...
Nụ tình thơ mộng...rộ ngàn hoa!
Anh lại lo...hè mới sẽ đến gần!
Gió mây...rồi sẽ rẽ phân...
“Học tài thi phận “ai biết được!
Cầu xin Tơ Nguyệt...chớ chuyển vần!


Tô Đình Đài

Nai Tìm Cỏ Non, Người Tìm Tâm Phật

 

Một vùng tuyết trắng phủ bao la,
Ba chú nai tơ đứng trước nhà
Ngơ ngẩn hỏi tìm đâu cỏ quí
Như ta đã thấy những ngày qua

Tuyết trắng lấp che bải cỏ mềm
Như người cứ mãi cố tìm xem:
Đâu là Thật Tướng, là Tâm Phật
Nhưng vẫn đa mang nghiệp chướng thêm

Thương thay nai nhỏ vẫn ngây thơ
Tội khách trần gian mãi đợi chờ
Cỏ non, Tâm Phật tìm đâu thấy
Chỉ thấy Tâm mê, Không, Sắc mờ

Nai bới tuyết lên cỏ hiện liền
Người tìm Tĩnh Lạc sẽ bình yên
Cỏ non ẩn hiện sau màn tuyết
Tâm Phật luôn luôn ở Tĩnh, Thiền

Sương Lam

Hồ Sen Trăng Sáng

 

Thơ & Thơ Tranh: Minh Lương

Hoài Cựu(Tô Đông Pha - Đời Tống)


Năm nay, trong tiết đông lạnh, vùng Plano Texas, chỗ chúng tôi ở, trời trở chứng, nhiệt độ trong ngày lên xuống thất thường, dường như cơ thể già nua đã không thích ứng kịp , đầu gối bị đau nhức , đôi khi chịu không thấu , lại nhớ đến...con lừa trong thơ Tô Đông Pha. "Lộ trường , nhân khốn , kiển lư tê" . Đường còn xa, người đã mỏi mệt , mà con lừa cưỡi thì chân lại đi khập khiễng, kêu đau. Trong cơn đau nhức trời hành này , năm cùng tháng tận, tôi ngồi viết mấy hàng chữ này để mọi người thân quí trong nhà đọc cho vui cùng tôi và cùng nhau, thân tâm an lạc , đón mừng năm 2014, một Năm Mới an lành,hanh thông, và như ý.
PKT 12/29/2013

Hoài Cựu

Nhân sinh đáo xứ tri hà tự
Ưng tự phi hồng đạp tuyết nê
Nê thượng ngẫu nhiên lưu chỉ trảo
Hồng phi na phục kế đông tây
Lão tăng dĩ tử thành tân tháp
Hoại bích vô do kiến cựu đề
Vãng nhật kỳ khu hoàn ký phủ
Lộ trường nhân khốn kiển lư tê

Tô Đông Pha (1037 - 1101)

Phụ chú:

Nguyên đề bài là: Họa Tự Do Mãnh Trì Hoài Cựu, họa bài Mãnh Trì Hoài Cựu của Tử Do. Tử Do là em của Tô Đông Pha. Mãnh Trì là tên huyện thuộc tỉnh Hà Nam.

Dịch Xuôi: Hoài Cựu

Đời người rồi sẽ đi về đâu nhỉ
Có phải tựa như một con chim hồng bay đạp trên tuyết rơi
Ngẫu nhiên để lại dấu chân trên tuyết
Rồi thoắt đó bóng hình chim đã bay vút đông tây mất hút rồi
Vị tăng già đã viên tịch , ngôi tháp mới cho tăng vừa mới xây xong
Bức tường cũ thơ đề nay đã đổ nát không còn thấy chữ viết nữa
Không biết đường đi gian truân ngày trước có được ghi lại không
Bây giờ chỉ biết, đường còn xa, người đã mỏi mệt, con lừa khập khiễng kêu đau

1/
Nhớ Xưa
(PKT - Mây Tần)

Ðời người rồi sẽ về đâu nhỉ,
Một cánh hồng bay trong tuyết rơi.
Mới đó dấu chân còn lỗ chỗ,
Mà giờ hình bóng đã mù khơi.
Tăng già tháp mới chôn phần xác,
Thơ viết tường rêu lấp mất lời.
Khổ nạn ngày qua như mộng ảo,
Ðường dài, lừa ốm, tội nhau thôi.

2/
Tha Hương Cảm Tác
Mây Tần - PKT

Một đời lận đận bao gian khổ,
Số kiếp phong sương những đoạn trường.
Lòng đỏ khôn nguôi niềm biệt xứ,
Trời xanh khéo bỡn nỗi tha phương.
Ba chìm, bảy nổi còn ngơ ngác,
Chín ghét, mười thương những vấn vương.
Đất khách, tuổi già quay ngó lại,
Chiếc thân khôn dại cõi vô thường!

Phạm Khắc Trí
***
Hoài Cựu

Đi về đâu hỡi, kiếp con người ?
Tựa cánh chim bằng lướt tuyết rơi
Vừa thấy dấu chân in thảm trắng
Thì đà bóng dáng khuất mù khơi
Tăng già yên nghỉ sâu lòng tháp
Tường cũ tang thương nhạt chữ lời
Hiểm trở đường xưa, ai có nhớ
Lừa đau, người mỏi, nẻo xa xôi. 

Lộc Mai
***
Hoài Cựu

Đường vạn nẻo đời người chẳng biết
Tựa cánh hồng giẫm tuyết rơi đầy
Dấu chân bỗng chốc còn đây
Mà hồng heo hút đông tây xa vời
Trong tháp mới sư già thâm tịch
Tường đổ rồi dấu tích thơ đâu
Nhớ thương khập khểnh dãi dầu
Mệt nhoài la mỏi nỗi sầu đường xa

Mailoc phỏng dịch
Cali 29-12-13
***
Nhớ Xưa

Nhân sinh nào biết về đâu nhỉ?
Như cánh chim hồng giẫm tuyết rơi.
Ôi dấu chân kia còn rõ đó
Mà hình bóng ấy đã xa rồi.
Tăng già tháp giữ thân yên ổn
Tường cũ lời ghi nét nhạt phai.
Đường trần muôn thuở luôn gian khổ
Dặm thẳm. người lừa mệt quá thôi.

Chiều ngày 30/12/2013
Quang Tuấn
***
Kính Thưa Quý Thầy, Cô, Anh, Chị,
Vừa nhận được Bài của Các Thầy Cô, tôi tìm ngay bản chữ Hán gởi ra đây để cùng nhau tham khảo.

和子由澠池懷舊 Hoạ Tử Do Mãnh Trì Hoài Cựu

人生到外知何似, Nhân sinh đáo xứ(?) tri hà tự
應似飛鴻踏雪泥。 Ứng tự phi hồng đạp tuyết nê
泥上偶然留指爪, Nê thượng ngẫu nhiên lưu chỉ trảo
鴻飛那復計東西。 Hồng phi ná phục kế đông tê(tây)
老僧已死成新塔, Lão tăng dĩ tử thành tân tháp
壞壁無由見舊題。 Hoại bích vô do kiến cựu đề
往日埼嶇還記否, Vãng nhật kỳ khu hoàn ký phủ
路人長困蹇驢嘶。 Lộ nhân trường khốn kiển lô đề.

Có một điều ở câu thứ nhất, chữ thứ tư (外) là chữ ngoại có nghĩa là bên ngoài.

Nhớ Lại Nơi Xưa

Sinh ra rồi sẽ đến đâu đây
Tựa cánh hồng đi trên tuyết lầy
Móng vuốt hãy còn lưu dấu vết
Bay nhanh chẳng thiết hướng đông tây
Sư già tháp mới vùi xương cốt
Tường đổ thơ đề mất tiếc thay
Hiểm trở lối xưa giờ vẫn nhớ
Người la mệt lả đoạn đường này

Quên Đi
***
和子由澠池懷舊 Họa Tử Do Mãnh Trì Hoài Cựu

人生到處知何似, Nhân sinh đáo xử, tri hà tự
應似飛鴻踏雪泥。 Ưng tự phi hồng đạp tuyết nê
泥上偶然留指爪, Nê thượng ngẫu nhiên lưu chỉ trảo
鴻飛那復計東西。 Hồng phi na phục kế đông tê.
老僧已死成新塔, Lão tăng dĩ tử, thành tân tháp
壞壁無由見舊題。 Hoại bích, vô do kiến cựu đề.
往日埼嶇還記否     Vãng nhật kỳ khu, hoàn ký bĩ
路長人困蹇驢嘶。 Lộ trường nhân, khốn kiển lư đề.

蘇軾                        Tô Thức

Họa Bài Mãnh Trì Hoài Cựu của Tử Do

Chuyện xử thế của con người, ta biết theo ai!
Bắt chước con chim hồng lướt trên bùn tuyết ư?
Bùn tuyết chỉ tình cờ ghi lại dấu vết của nó.
Kế sách "Hồng bay" cũng đâu giải quyết được gì trước nay
Hay như Lão tăng vừa viên tịch để lại ngôi tháp mới xây.
Vì bức tường đã hỏng, bài thơ của ông đề không còn thấy nữa
Ngày trước thật uổng cái kỳ công, vì lời ghi không hay .
Đi đường dài gặp cơn khốn đốn chỉ vì sự thua kém nên chỉ biết kêu lên.

Vài từ ngữ

Đáo xử: đến chuyện xử thế
Ưng tự: nên theo cái nào
Na phục: đâu giải quyết được
Kế đông tây: kế sách xưa nay
Tân tháp: tháp xây dùng đựng cốt nhà sư mới viên tịch
Hoàn ký bĩ: chỉ vì lời ghi không hay (ám chỉ lời chê lúc trước của ông về thơ Vương An Thạch).
Kiển lư: ngựa què từ ngữ chỉ sự thua kém

Bài thơ này, theo tôi nghĩ, là ông than vì chuyện xử thế vụng của mình mà bị đày đi xa (chuyện ông sửa thơ của Vương An Thạch và bị Thạch để tâm, khi hắn lên làm Thừa tướng, hắn đã trả thù bằng cách đày ông đến nhiệm sở mới nơi mà trước đây đã hình thành bài thơ của Thạch, cũng giống chuyện nhạc sĩ Văn Cao, hồi trước có lần Tố Hữu rủ ông lại nhà để khoe mấy bài thơ ông ta mới làm, Văn Cao trả lời : thơ cậu thì có gì mà phải đọc. Tố Hữu để tâm thù, khi nắm quyền đã đày ải Văn Cao suốt đời không ngóc đầu lên nổi, nhờ Văn Cao là tác giả bài Quốc ca nên mới không bị đi tù như các bạn hữu của ông).

Nội dung bài này rất khó dịch cho lọn nghĩa mà không làm sai lạc ý thơ. Nhân đầu năm, thôi thì cũng xin góp lời kẻo bạn Lộc lại hỏi : sao dạo này anh còn dịch thơ Đường nữa không ?

Họa Bài Mãnh Trì Hoài Cựu Của Tử Do

Đường đời xử thế, biết chi nêu
Bắt chước chim hồng, vượt tuyết rêu ?
Rêu tuyết tình cờ in dấu vết
Hồng phi há dễ giải nan điều!
Lão tăng vừa tịch, tháp còn đấy,
Tường nát, khó tìm, thơ đã tiêu.
Công uổng trước kia, phê hạ sách
Đường dài, tài mọn, chỉ đành kêu.


Danh Hữu dịch
***
1. Nguyên Tác Của Bài Thơ:

和子由澠池懷舊 Họa Tử Do Mãnh Trì Hoài Cựu

人生到處知何似, Nhân sinh đáo xứ tri hà tự
應似飛鴻踏雪泥。 Ưng tự phi hồng đạp tuyết nê
泥上偶然留指爪, Nê thượng ngẫu nhiên lưu chỉ trảo
鴻飛那復計東西。 Hồng phi nả phục kế đông tê (tây)
老僧已死成新塔, Lão tăng dĩ tử thành tân tháp
壞壁無由見舊題。 Hoại bích vô do kiến cựu đề
往日埼嶇還記否?   Vãng nhật kỳ khu hoàn ký phủ?
路長人困蹇驢嘶。 Lộ trường nhân khổn kiển lô đề.

蘇軾                        Tô Thức

2. Xuất Xứ Của Bài Thơ:

Năm Gia Hựu Nguyên niên đời Tống Nhân Tông ( năm 1056 ), Tô Tuân dẫn Tô Thức và Tô Triệt lai kinh ứng thí, trên đường đi ngang qua huyện Mãnh Trì, đêm trọ lại cư thất của Phụng Nhàn Hòa Thượng, có đề thơ trên vách chùa.

Năm Gia Hựu thứ 6, Tô Thức ( Tự là Tử Chiêm, Hiệu là Đông Pha Cư Sĩ ) đến nhậm chức quan ở Phụng Tường, trên đường đi, lại đi ngang qua huyện Mãnh Trì, được em là Tô Triệt ( tự là Tử Do ) gởi cho bài thơ " Hoài Mãnh Trì kí Tử Chiêm Huynh Thi " 懷澠池寄子瞻兄詩, nên mới làm bài thơ nầy để họa lại.

3. Góp Ý:

a) Về chữ thứ tư của câu đầu : Bạn Huỳnh Hữu Đức ghi chữ NGOẠI 外 là vì bạn nhầm với chữ Giản Thể của chữ Xứ 處 được viết như thế nầy : 处. Nên câu đầu căn cứ theo nguyên tác phải là :
Nhân sanh đáo XỨ tri hà tự.
b) Chữ đầu của câu thứ 2 phải đọc là ƯNG.
Chữ 應 đọc là ƯNG là Phó từ , có nghĩa : PHẢI, NÊN. Ví dụ : Ưng Thị, Ưng tự( Phải là ).
Đọc là ỨNG là Động Từ, có nghĩa : LÊN TIẾNG. Ví dụ : Đồng Thanh Tương Ứng, Hưởng Ứng.
c) Chữ 那 , ở đây phải đọc là NẢ, vì đúng ra chữ nầy phải được viết như thế nầy : 哪, là Nghi vấn từ dùng để hỏi, có nghĩa là NÀO?, là SAO?.
d) Câu chót phải là:

Lộ Trường Nhân Khổn  kiển lư tê.

Lộ Trường Nhân Khổn là Đường dài người mỏi. Chữ nầy 困 đọc là KHỐN, có nghĩa là KHÓ, ta có từ Khốn Khó. Còn đọc là KHỔN thì có nghĩa là Mỏi Mệt.

4. Diễn Nôm:

Họa Bài Mãnh Trì Hoài Cựu Của Tử Do 

Cuộc sống người đời chẳng biết sao?
Tựa chân nhạn đạp tuyết hôm nào.
Ngẫu nhiên dấu ấn lưu trên tuyết,
Bình thản cánh hồng bay đến đâu?
Tháp mới sư già vừa viên tịch,
Tường hư thơ mất mới hôm nao!
Chông gai ngày cũ quên hay nhớ?
Người mõi đường xa lừa hí đau!

Đỗ Chiêu Đức.
Bài thơ nây còn ẩn Ý THIỀN ở bên trong!
***
1/
Nhớ Mẫn Trì Gởi Anh Tử Triêm

Cầm tay từ biệt trên đồng Trịnh
Cùng nói đường xa sợ tuyết lầy
Ngựa cưỡi về quanh Lương ruộng lớn
Người đi chắc hẳn khỏi Hào tây
Từng làm quan huyện dân còn biết?
Đã trọ tăng phòng viết vách đây
Xa nghĩ độc hành vui ít có
Lặng thinh, ngựa hí tiếng buồn day!


2/
Họa Tử Do Nhớ Chuyện Cũ Mẫn Trì


Đời người phiêu bạt như gì vậy?
Chắc giống chim hồng tuyết đạp lầy
Trên tuyết tình cờ lưu móng vuốt
Hồng bay chẳng kể hướng đông tây
Sư già đã mất thân vào tháp
Tường nát chẳng lưu chữ viết đây
Ngày cũ gập ghềnh còn luyến nhớ?
Đường dài người mỏi, tiếng lừa day!

Lộc Bắc
Jul2023

Chữ An


AN 安 là YÊN, YÊN là Yên Ổn, Yên Bình mà ta thường nói thành Bình Yên, mà Bình Yên là do chữ Nho BÌNH AN 平安 mà ra. Theo "CHỮ NHO... DỄ HỌC" thì AN thuộc dạng chữ Hội Ý, có diễn tiến của chữ viết như sau:

Giáp Cốt Văn Kim Văn Đại Triện Tiểu Triện Lệ Thư

Ta thấy:
Chữ AN 安 có bộ MIÊN 宀 là cái nóc nhà có hai mái đàng hoàng ở phía trên, bên dưới là chữ NỮ 女 là cô con gái; với Hội ý là "Cô gái mà ngồi ở trong nhà thìsẽ không bị bắt nạt, là biểu thị của sự an toàn, yên ổn. Nên AN có nghĩa gốc là YÊN, và các nghĩa phát sinh như sau :

* AN 安 là Yên. Như : An Tâm 安心, An Nhàn 安閒, An Toàn 安全, An Thân 安身...
* AN 安 là Làm cho yên. Như : An Ủy 安慰 (An Ủi), An Dân 安民 là làm cho dân chúng sống được yên ổn.
* AN 安 là cảm thấy yên. Như : Tâm An 心安 là Trong lòng yên ổn, không lo sợ; An Cư 安居 là Sống Yên ổn không lo lắng...
* AN 安 là không nguy hiễm. Như : Bình An 平安, Chuyển Nguy Thành An 轉危為安 là Xoay chuyển cho từ nguy hiễm đến an toàn. Ta còn có thành ngữ : CƯ AN TƯ NGUY 居安思危 Có nghĩa : Ở nơi An toàn luôn phải nghĩ đến lúc có Nguy hiễm, chớ không được ỷ y xem thường . Đây cũng là bốn chữ hiện diện trên phù hiệu của trường Võ Bị Thủ Đức để cảnh giác "Lúc cảm thấy an toàn nhất cũng phải đề phòng sự nguy hiễm đang rình rập đâu đây. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ : Tả truyện 左傳: "Cư an tư nguy, tư tắc hữu bị, hữu bị vô hoạn 居安思危, 思則有備, 有備無患 (Tương Công thập nhất niên 襄公十一年). Có nghĩa : Đương lúc ở yên thì phải nghĩ đến lúc nguy cấp, nghĩ thì phải có phòng bị, mà có phòng bị thì sẽ không lo lắng.


* AN 安 là đặt để. Như : An Trí 安置; An Táng 安葬...
* AN 安 là sắp xếp sẵn . Như : An Bài 安排; An Vị 安位 ...
* AN 安 là Nghi vấn tự. Như : An Năng 安能? là Làm sao có thể ?... An Tại 安在? là Ở đâu?... An Đắc 安得 ? Làm sao để có được ?...
Bài thơ thất ngôn cổ thi Tẩy Binh Mã 洗兵馬 (Rửa khí giới quân đội) của Thi Thánh Đỗ Phủ có 2 câu kết là:

安得壯士挽天河, AN ĐẮC tráng sĩ vãn thiên hà;
淨洗甲兵長不用. Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng.
Có nghĩa:
- Làm Sao Để Có Được một tráng sĩ kéo nước trên sông Ngân Hà xuống, để...
- Rửa sạch hết các giáp binh khí giới rồi vĩnh viễn không dùng tới nữa !

Hai câu thơ trên của Đỗ Phủ đã được danh tướng Đặng Dung 鄧 容 đời Trần của ta mượn ý trong bài thơ THUẬT HOÀI 述懷 rất nổi tiếng của ông là:

世事悠悠奈老何 Thế sự du du nại lão hà !
無窮天地入酣歌 Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
時來屠釣成功易 Thời lai đồ điếu thành công dị,
運去英雄飲恨多 Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
致主有懷扶地軸 Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
洗兵無路挽天河 Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
國讎未報頭先白 Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
幾度龍泉戴月磨 Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma!

Có nghĩa:

Thế sự dằng dai đã lão rồi,
Đất trời say khước hát ca chơi.
Có thời câu cá thành công dễ,
Hết vận anh hùng nuốt hận thôi.
Giúp chúa những mong xoay đại cuộc,
Bãi binh còn muốn kéo sông trời.
Quốc thù chưa báo đầu đà bạc,
Mài mãi Long Tuyền dạ chẳng nguôi!

Hai câu 5 và 6 có nghĩa:

- Giúp chúa lòng những muốn xoay lại trục của trái đất (xoay lại đại cuộc),
- Muốn rửa sạch giáp binh (muốn chấm dứt chiến tranh) nhưng không có đường để kéo nước trên sông Ngân Hà xuống (ý nói Đành bất lực!).

Sống trên đời, trước tiên là ai cũng muốn được yên thân, vì thân có yên thì tâm mới yên; Thân An tâm tắc An, mà TÂM AN thì LÝ ĐẮC. TÂM AN LÝ ĐẮC 心安理得 là thành ngữ chỉ : Lòng có yên, có bình thản, thì lý lẽ cũng sẽ vững vàng chắc chắn hơn ! Cho nên, gặp bất cứ việc gì trước tiên là phải giữ cho lòng được yên tĩnh rồi mới tính chuyện giải quyết sau.

Chữ AN là YÊN, nghe như đơn giản, nhưng lại hiện diện trong tất cả các mặt của đời sống con người, kể cả những người bình dị, chất phác nhất, cho đến các hiền nhân quân tử, anh hùng hảo hán, chí đến những vua chúa đế vương... đều không thể xa rời chữ AN được !

Người bình dân chất phác thì chỉ cầu mong cho có được một cuộc sống an bình yên vui, theo như câu nói của ông bà xưa để lại :

隨感而應, Tùy cảm nhi ứng,
隨遇而安. Tùy ngộ nhi AN.

Có nghĩa:

- Tùy theo cái cảm xúc của mình mà ứng tiếng hành xử, và...
- Tùy theo cái hoàn cảnh mà mình đang có để sống cho yên thân. Ý là ...

Sống tự nhiên vui vẻ theo cảnh ngô trước mắt, không đòi hỏi cao xa, không ước mơ những điều qúa tầm tay với của mình theo như câu thành ngữ :

安份守常 AN phận thủ thường,

Có nghĩa:

- Phải biết sống yên ổn với cái thân phận vốn có của mình mà giữ lấy cái nếp sống bình thường nầy.
Ta gọi là AN PHẬN THỦ THƯỜNG chớ người Hoa gọi là AN PHẬN THỦ KỶ 安份守己. Đây là Tập quán Ngôn ngữ, là thói quen của mọi tiếng nói, Tuy có khác nhau một chữ nhưng tựu trung thì ý nghĩa cũng "xem-xem" như nhau mà thôi. AN PHẬN THỦ KỶ là giữ lấy cái thân phận của mình mà sống, và có như thế thì mới AN CƯ LẠC NGHIỆP 安居樂業 được !
AN CƯ LẠC NGHIỆP là sống yên ổn và vui với cái nghề nghiệp vốn có của mình ! Không đứng núi nầy trông núi nọ, không so bì với người khác, không cầu mong có được những của hoạnh tài như cờ bạc, trúng đề, trúng số...

Nếu biết sống AN CƯ LẠC NGHIỆP thì khi về già sẽ có cuộc sống AN NHÀN TỰ TẠI 安閒自在. AN NHÀN là Yên ổn nhàn nhã; TỰ TẠI là Tự do tự tại,không bị gò bó trói buộc gì cả ! Đây là đời sống của những người hưu trí thảnh thơi, không còn biết đến tranh danh đoạt lợi gì nữa cả ! Như đời sống của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm vậy:

Một mai một cuốc một cần câu,
Thơ thẩn vào ra vui thú nào.
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao!...

"Đến chốn lao xao" là đến chỗ đông người, đến những nơi thị thành chợ búa đông đảo để bon chen, để tìm lợi danh tiền bạc như người đời thường nói :

鬧裡有錢, Náo lí hữu tiền,
靜處安身。 Tịnh xứ an thân.

Có nghĩa:
- Ở nơi náo nhiệt nhộn nhịp thì có tiền, còn...
- Ở nơi vắng vẻ yên tịnh thì được yên thân.

Nhưng trước khi muốn yên thân thì con người ta thường phải bươn chải để kiếm sống, để làm giàu, nên vẫn thích ở nơi thị thành náo nhiệt hơn. Vì ai cũng có tính háo thắng, cũng muốn tranh danh đoạt lợi, thậm chí tranh quyền đoạt vị, mưu cầu quan tước, và nếu thời cơ thuận lợi đưa đẩy còn có thể tranh bá đồ vương để thi thố tài năng AN BANG TẾ THẾ 安邦濟世.
AN BANG TẾ THẾ hay TẾ THẾ AN BANG 濟世安邦 có xuất xứ từ "Cửu Thế Đồng Đường" của Vô Danh Thị đời nhà Nguyên 元·無名氏《九世同堂》:...Tế thế an bang sách, án lục thao tam lược thư 濟世安邦策,按六韜三略書。Có nghĩa :... cứu giúp người đời và làm cho nước nhà ổn định, theo sách nói về Lục Thao Tam Lược". Nên muốn AN BANG TẾ THẾ thì phải là người có tài thao lược, có tài trị nước an dân, phải là những bậc vua chúa ngày xưa hay là những Thủ Tướng, Tổng Thống, Chủ Tịch nước... của ngày hôm nay mới có tài AN BANG ĐỊNH QUỐC 安邦定國 là giúp cho đất nước được yên ổn vững vàng.


Người có tài AN BANG ĐỊNH QUỐC cũng là người có tài làm cho người khác được AN CƯ LẠC NGHIỆP. Theo chương Công Dã Tràng trong sách Luận Ngữ 《論語·公冶長》, Khi Thầy Tử Lộ hỏi về chính sách an dân thì... Tử viết : "Lão giả an chi, bằng hữu tín chi, thiếu giả hoài chi 子曰:老者安之,朋友信之,少者怀之。" Có nghĩa : Khổng Tử nói rằng :"Người già thì được sống an nhàn, bạn bè thì tin tưởng nhau, còn trẻ nhỏ thì được quan tâm chăm sóc". Câu nói trên chứng tỏ chí hướng của Khổng Tử rất cao xa và rộng mở, luôn lấy Nhân Từ và Tín Nghĩa làm đầu; Đây cũng là mục tiêu phấn đấu tu dưỡng của người quân tử trong đạo Nho và cũng là chính sách nhân từ đòi hỏi phải có của các bậc vương hầu, là giai cấp thống trị ngày xưa.
Ta thấy câu nói trên đây của Khổng Tử đã hơn hai ngàn năm trước, nhưng có hơi hám của "Xã Hội Chủ Nghĩa" là :"...Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng... Người già và trẻ nhỏ không làm nhưng cũng được hưởng...". Nhưng, "Xã Hội Chủ Nghĩa" không làm được những điều đã nói. Trái lại, chính sách về "AN SINH XÃ HỘI" của Mỹ lại làm rất tốt vấn đề xã hội nầy. AN SINH 安生 là Sống một cách An Ổn Yên Lành. Trẻ nhỏ được hưởng chính sách giáo dục miễn phí cho 2 bậc Tiểu học và Trung học, còn có xe đưa đón và trợ cấp ăn trưa trong trường học nữa. Người già thì ngoài tiền hưu trí ra, còn có tiền An Sinh Xã Hội (SSI), tiền trợ cấp thực phẩm (Food stamps), tiền trợ cấp y phí (Medicare)...

Tăng Quảng Hiền Văn có câu:

黃金未為貴, Hoàng kim vị vi qúy,
安樂值錢多。 AN LẠC trị tiền đa.

Có nghĩa:
- Vàng ròng chưa chắc đã là qúy giá, chớ...
- Sự YÊN VUI mới đáng giá nhiều tiền...

Ý là:
Có nhiều vàng nhiều tiền, giàu sang phú qúy chưa chắc đã là qúy giá; Sống yên vui hạnh phúc, không bệnh tật lo lắng mới đáng giá ngàn vàng. Vì thế, nên lại có câu khuyên ta rằng :

君子安貧, Quân Tử An Bần,
達人知命。 Đạt nhân tri mệnh.

Có nghĩa:
- Người quân tử sống yên thân với cái nghèo của mình, cũng như...
- Người thành đạt thì nên biết mạng trời (mà không đòi hỏi gì thêm nữa!)

Câu nói trên đây có xuất xứ từ bài "Đằng Vương Các Tự 滕王閣序" nổi tiếng của người đứng đầu "Sơ Đường Tứ Kiệt" là Vương Bột 王勃. Câu ĐẠT NHÂN TRI MỆNH 達人知命 còn có nghĩa là : Người thông tình đạt lý là người hiểu rõ mệnh trời, nên không oán trách và đòi hỏi gì thêm nữa mà phải biết yên thân, như câu:

富貴定要安本分, Phú qúy định yếu an bổn phận,
貧窮不必枉思量。 Bần cùng bất tất uổng tư lương.

Có nghĩa:
- Đã giàu sang phú qúy rồi thì nên yên với cái phước phần vốn có của mình đi; Còn bần cùng nghèo khổ thì cũng phải biết thân biết phận của mình mà đừng có lo buồn nghĩ ngợi làm gì cho vô ích !
Nói thì nói thế, chớ nghèo khổ thì ai mà chịu chấp nhận bao giờ; phải "tận nhân lực 盡人力" rồi mới "tri thiên mệnh 知天命" chớ. Tức là : Phải cố gắng làm hết sức mình rồi mới biết mệnh trời ra sao !
Nói chung,
Chữ AN là YÊN; nhưng cũng tùy theo năng lực và khả năng mà YÊN ở mức độ nào. Nếu người tài trí bình thường thì cứ AN PHẬN THỦ THƯỜNG mà sống đời sống AN CƯ LẠC NGHIỆP hay AN BẦN LẠC ĐẠO; còn nếu có chí lớn để giúp đời hoặc làm nên sự nghiệp lớn để TẾ THẾ AN BANG hay lớn hơn nữa là AN BANG ĐỊNH QUỐC thì cứ mặc tình mà thi thố tài năng để tạo phước cho muôn người.

Trở lại với chữ AN là Nghi Vấn Tự. Ta có AN NĂNG 安能 ? Có nghĩa là : Làm sao đươc? Làm sao có thể ? Mời nghe một giai thoại về "Liễn Khống" rất thú vị sau đây :

Đời nhà Minh, đất Giang nam có bốn người tài tử nổi tiếng được xưng tụng là GIANG NAM TỨ ĐẠI TÀI TỬ 江南四大才子; đứng đầu nổi tiếng nhất là Đường Bá Hổ 唐伯虎, kế đến là Chúc Chi Sơn 祝枝山, Văn Trưng Minh 文徵明 và Châu Văn Tân 周文賓. Ta chỉ nhắc đến thư pháp của Chúc Chi Sơn dưới đây thôi. Truyện kể...

Chúc Chi Sơn và Giang Nam Tứ Đại Tài Tử qua điện ảnh

Chúc Chi Sơn 祝枝山 (1460 - 1526), tên là DOÃN MINH, tự là HY TRIẾT, vì bàn tay phải dư ra một ngón nên mới có biệt hiệu là CHI CHỈ SANH 枝指生 (nghĩa là : Ngón tay mọc thêm ), gọi mãi thành CHI SANH, rồi gọi trại thành CHI SƠN và chết tên luôn là CHÚC CHI SƠN 祝枝山. Ông người xứ Trường Châu tỉnh Giang Tô (Tô Châu). Xuất thân từ một gia đình danh nho vọng tộc, rất giỏi về thư pháp, ông viết được nhiều kiểu chữ và viết rất đẹp, nhất là chữ Thảo. Người đương thời thường xưng tụng : Họa thì có Đường Bá Hổ, Thư pháp thì có Chúc Chi Sơn....
Có một lần, ông đến thăm Đường Bá Hổ ở Hàng Châu, nhưng lại ở trọ nhà của Châu Văn Tân, nấn ná lần lừa mà đã đến giao thừa lúc nào không hay. Dân chúng ở Hàng Châu có tục lệ là chỉ dán liễn KHỐNG không có chữ, lấy ý là : suốt năm được Bình An Vô Sự. Trong cơn tửu hứng cuối năm, Chúc Chi Sơn cười bảo rằng : Họ muốn bình an vô sự, năm nay ta phải cho họ "hữu sự" mới được !. Bèn bảo gia đồng của mình chuẩn bị mực viết và mượn thêm một thư đồng của Châu Văn Tân để xách lồng đèn dẫn đường....
Sau khi cúng Giao thừa, mọi nhà đều đóng cửa đi ngủ, nhà nào cũng dán sẵn một đôi liễn đỏ không có chữ gì cả. Khi đến một nhà lớn xây mặt về hướng đông, thư đồng bảo rằng đây là nhà của một đại thiện nhân (nhà hảo tâm hay làm việc thiện) ở địa phương, Chúc bèn dừng lại, viết đôi câu đối sau :

向陽門第春常在, Hướng dương môn đệ xuân thường tại,
積善人家樂有餘. Tích thiện nhân gia lạc hữu dư.

Có nghĩa:
- Nhà xây về hướng mặt trời, nên mùa Xuân thường ngự nơi đó.
- Người trong nhà hay làm việc thiện, nên niềm vui luôn có thừa.

Khi đến một căn nhà nhỏ, nhưng cũng khá khang trang, thư đồng bảo rằng :
- Lúc ban chiều, khi người chồng đi làm xa về, vợ lục lọi trong tay nải, thấy không có đem tiền gì về ăn Tết cả, nên không cho ăn cơm đoàn viên chiều 30 Tết, đến khi phát hiện trong túi quần của chồng có đến mấy chiếc nhẫn vàng, chị vợ mới dịu giọng cho ăn cơm và thân cận, bây giờ thì họ đã ngủ yên rồi ! Chúc Chi Sơn bèn cả cười và cất bút đề rằng :

Nang nội vô tiền, hưu tưởng ẩm thực nam nữ ,
囊 内 無 錢, 休 想 飲 食 男 女. 
Đại trung hữu vật, tiện thành sài mễ phu thê.
袋 中 有 物,便 成 柴 米 夫 妻.
Có nghĩa :
- Túi xách không tiền, đừng hòng gái trai ăn uống,
- Trong lưng có bạc, mới mong chồng vợ cháo cơm .

Sài Mễ Phu Thê ân ái đa (Vợ chồng tấm mẳn thương nhau lắm)
Cứ thế, họ đi hết dãy nầy đến dãy khác.....

Khi đi đến một tòa nhà cao cửa rộng, sơn son thếp vàng, thư đồng bảo Chúc Chi Sơn đừng viết liễn ở cửa nầy, vì đây là nhà của một ác bá nổi tiếng của xứ nầy, Chúc bảo thế thì càng cần phải viết, thấy có 2 lớp cửa, cửa lớn ở ngoài dán đôi liễn trống thếp vàng, Chúc bèn viết đôi câu đối như vầy :

明日逢春,好不晦氣, Minh nhật phùng xuân, hảo bất hối khí,
终年倒運,少有馀财. Chung niên đão vận, thiểu hữu dư tài.
Có nghĩa :
Ngày mai đón xuân, chẳng xui xẻo lắm sao,
Suốt năm lận đận, ít có tiền tài dư dã.

Cửa trong , nhỏ hơn, dán đôi liễn trống màu đỏ, Chúc bèn viết:

此地 安能 居住, Thử địa an năng cư trú,
其人 好不 悲傷. Kỳ nhân hảo bất bi thương.

Có nghĩa:
- Nơi nầy làm sao mà ở được!
- Người ở đây sao khỏi buồn thương!

Viết xong, ông lại ký tên đàng hoàng là : Tô Châu Giải Nguyên Chúc Chi Sơn thư. làm cho 2 đứa thư đồng đều hoảng sợ, lo lắng......

Sáng sớm hôm sau, Mùng Một Tết, Cả thành Hàng Châu xôn xao hẵn lên, vì tất cả liễn khống đều đã được ai đó viết chữ lên....Dĩ nhiên, có người rất hoan hỉ, vui vẻ vì những lời chúc Tết tốt đẹp ở trên đó, như Nhà Hảo tâm làm việc thiện kia vậy, có người cũng lỡ khóc lỡ cười như 2 vợ chồng nhà nghèo nọ, nhưng...cũng có người giận dữ và thưa lên Quan Phủ, như nhà Ác bá kia... Chúc Chi Sơn đã chuẩn bị tư thế sẵn sàng đi hầu quan từ sáng sớm, nên khi được mời là ông lập tức đến ngay. Quan Phủ kính trọng ông vì ông là một Giải Nguyên, lại là Tài Tử nổi tiếng của xứ Giang Nam, nên chỉ hỏi ông, vì sao viết những lời xui xẻo, xấu xa cho nhà ác bá kia?. Ông cười và trả lời rằng : Đó toàn là những lời chúc tốt đẹp cả mà !. Tên Ác bá cải lại rằng : Ông có chắc là những lời tốt đẹp không ?. Chúc bảo : Thư pháp của ta, một chữ giá đáng ngàn vàng (Nhất tự trị thiên kim 一字值千金), ông không trả công cho ta còn thưa gởi lôi thôi !. Tên Ác bá cải : Nếu quả thực là những lời tốt đẹp, ta sẽ sẵn sàng trả cho ông một ngàn lượng bạc, bằng ngược lại thì ông tính sao đây?. Chúc đáp là mình sẽ chịu mọi hình phạt do quan xử. Được lời của hai bên, Quan Phủ bèn cho sai nha đến nhà của tên Ác bá gở hai đôi liễn xuống, mang đến công đường. Tên Ác bá dương dương tự đắc, phen nầy cho nhà ngươi hết chạy tội, còn Quan Phủ thì lo ra mặt, vì thấy đôi câu đối xấu quá, không biết phải xử sao cho phải. Chỉ có Chúc Chi Sơn là tươi cười giải thích rằng : Vì suốt đêm bận viết liễn, nên khi viết đến nhà của tên Ác bá ông đã quên chưa kịp chấm câu, và ông bèn mượn cây bút trên bàn của Quan Phủ, chấm lại đôi câu đối như sau :

Câu 1:
Minh nhựt phùng xuân hảo, bất hối khí, 明日逢春好, 不晦氣,
Chung niên đão vận thiểu, hữu dư tài. 终年倒運少, 有馀财.

Có nghĩa:
Ngày mai đón xuân tốt đẹp, không có gì xui xẻo,
Suốt năm vận xui rất ít, có tiền bạc dư dã.

Câu 2:
Thử địa an, năng cư trú,
Kỳ nhân hảo, bất bi thương.

Có nghĩa:
Nơi đây yên lành, có thể ở được,
Người ở đây tốt, không có chuyện buồn thương.

Kết quả như thế nào thì chắc các Bạn cũng đoán được rồi... Chỉ biết là sau đó, Chúc Chi Sơn về lại nhà của Châu Văn Tân, mời cả Đường Bá Hổ cùng đến, anh em cùng Ăn Tết và cùng nhậu...mút mùa cũng không hết một ngàn lượng bạc...

AN 安 là Yên ổn; KHANG 康 là Mạnh khỏe; THỊNH 盛 là có nhiều và đầy đủ, VƯỢNG 旺 là Dồi dào rực rỡ; nên AN KHANH THỊNH VƯỢNG 安康盛旺 là vừa Mạnh khỏe yên vui, lại vừa Phát đạt dồi dào đầy đủ. Vì thế mà ai cũng ao ước và ai cũng chúc nhau trong dịp đầu xuân, vì ai cũng muốn cho gia đình mình và thân nhân bè bạn, tất cả mọi người đều được : AN KHANG THỊNH VƯỢNG 安康盛旺 !

Mong ước lắm thay!

杜紹德
Đỗ Chiêu Đức