tiêu đề Nhãn
- BIÊN KHẢO
- CÂU ĐỐI
- CỔ THI
- GIA CHÁNH
- GIẢI TRÍ
- HÌNH ẢNH HỘI NGỘ
- HÌNH ẢNH NAY
- HÌNH ẢNH XƯA
- HỘI HỌA
- KHOA HỌC
- LỊCH SỬ
- LỜI HAY Ý ĐẸP
- LƯU NIỆM
- NHẠC
- SỨC KHOẺ
- SƯU TẦM
- THƠ
- THƠ CẢM TÁC
- THƠ DỊCH
- THƠ DIỄN NGÂM
- THƠ NHẠC
- THƠ PHỔ NHẠC
- THƠ SƯU TẦM
- THƠ TRANH
- THƠ TRANH NGHỆ SĨ
- TIN BUỒN
- TIN VUI
- VĂN
- VŨ HỐI THƯ HỌA
- VƯỜN THƠ VIÊN NGOẠI
- XƯỚNG HỌA
- YOUTUBE
Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2014
Ta Về Nhúm Lửa Cho Nhau
Đi tiếc đời nhau sông nước cũ
Ta về nhúm lửa đợi cơm sôi
Nhớ em đầy chén thơm trong khói
Tình nở xanh khua chạm đáy nồi
Ngày em lúa trổ ta xuôi ngược
Chim chóc kêu bầy lung nước trong
Em thơm trái chín cây bình bát
Tình nở xanh mùa em biết không
Về đây hơ ấm lòng chăn chiếu
Củi cháy kêu than đỏ mắt chiều
Đâu nụ cười em môi chín bói
Bên giàn bếp cũ mái nhà xiêu
Cho ta mồi lửa em ma quái
Đốt ngọn đèn hoa cháy ngọt ngào
Thấy mưa về ướt hai lồng ngực
Chạnh ấm vai ta nước mắt nào
Chờ ta mồi lửa em âm ĩ
Nhúm lại đời nhau sắp tối trời
Còn giữ nụ cười môi chín bói
Tình xanh đâu dể bạc em ơi!
Lâm Hảo Khôi
Qua Xóm Nhỏ - Mạnh Phát - Minh Thư
Đây là câu chuyên tình buồn nơi một làng quê, chàng trai ra đi thời gian dài, rổi trở lại quê nhà thì người con gái đã bước xuống thuyền hoa sang bến khác,còn lại một mình cô đơn trống trải anh chàng ngồi ôn lại kỹ niệm mà cõi lòng tan nát . . .
Sáng Tác:Mạnh Phát
Tiếng Hát:Minh Thư
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình
Nối Lại Vườn Thơ Cũ
Trót mấy ngày qua"vườn"* vắng tanh!
Không ai thăm viếng mốc rêu xanh
Một thời ngọn bút cây thêm nhánh
Mấy thuở vần văn nụ nảy cành
Chẳng lẽ hồn thơ đà cạn ý??
Hay là thi tứ đã tàn canh??
Tri âm nối lại thời gian cũ
Xướng họa cùng nhau chẳng độc hành!
Song Quang
***
Các Bài Họa:
Khơi Lại Nguồn Cảm Hứng
Xa em trống trải thấy buồn tanh,
Cơm nước ai lo đói ốm xanh.
Mới thấy cây xinh nhờ có nhánh,
Cho hay lá biếc tỏa trên cành.
Nàng thơ mộng đẹp buồn vô ý,
Thi sĩ nằm mơ tưởng hết canh.(đêm năm canh, ngày sáu khắc)
Khuấy động tâm tư còn ngái ngủ,
Khơi nguồn cảm hứng khúc quân hành.
Mai Xuân Thanh
***
Vườn Thơ Hoa Vẫn Nở
Xa em trống trải thấy buồn tanh,
Cơm nước ai lo đói ốm xanh.
Mới thấy cây xinh nhờ có nhánh,
Cho hay lá biếc tỏa trên cành.
Nàng thơ mộng đẹp buồn vô ý,
Thi sĩ nằm mơ tưởng hết canh.(đêm năm canh, ngày sáu khắc)
Khuấy động tâm tư còn ngái ngủ,
Khơi nguồn cảm hứng khúc quân hành.
Mai Xuân Thanh
***
Vườn Thơ Hoa Vẫn Nở
Đông đến bên thềm gió lạnh tanh
Nhưng "Vườn Thơ" vẫn nẩy chồi xanh
Thu qua khởi sắc bao cung điệu
Bấc đến đơm hoa khắp mọi cành
Ánh sáng luôn ngời trong cảnh tối
Vầng dương mãi hiện lúc tàn canh
Ưu phiền chi lắm nầy thi hữu
Có có không không tự vận hành
Quên Đi
***
Khơi Lại Vườn Thơ
Quả thật nhìn vào thấy vắng tanh
Cũng e vườn cỏ mất màu xanh
Đông sang dù đã gây khô nhánh
Tiết lạnh có đâu bắt chột cành
Thi sĩ xót xa chiều lá úa
Tình thơ đau đáu phút tàn canh
Thời gian luân chuyển theo mùa quý
Một thoáng nghỉ ngơi để vận hành.
Nguyễn Đắc Thắng
***
Hồn Thơ
Đời có lúc nồng, lúc lạnh tanh
Cỏ cây đâu phải mỗi màu xanh !
Xuân sang tươi thắm đâm chồi nhánh
Đông đến xác xơ rụng lá cành
Thỉnh thoảng lòng vui , vui suốt buổi
Nhiều khi dạ tủi, tủi năm canh
Hồn thơ dù vẫn tràn lai láng
Lực bất tòng tâm, khó tốc hành...
Hồn Thơ
Đời có lúc nồng, lúc lạnh tanh
Cỏ cây đâu phải mỗi màu xanh !
Xuân sang tươi thắm đâm chồi nhánh
Đông đến xác xơ rụng lá cành
Thỉnh thoảng lòng vui , vui suốt buổi
Nhiều khi dạ tủi, tủi năm canh
Hồn thơ dù vẫn tràn lai láng
Lực bất tòng tâm, khó tốc hành...
Phương Hà
***
Gặp Lại Người Xưa
Đói bụng làm sao bếp lạnh tanh,
Ra ngòai lẫu cá với rau xanh.
Trời quang thóang đãng hoa tươi nhánh,
Gió lạnh Đông về lá úa cành,
Gặp lại người xưa mừng suốt buổi,
Chia tay tri kỹ lúc tàn canh.
Có duyên không nợ đời cô quạnh,
Lỡ phận tình nhân luống độc hành...
Mai Xuân Thanh
Ngày 12 tháng 11 năm 2014
***
Họa Nương Vận
.
Giữ ảo mà thôi khỏi sợ tanh
Hồn thơ bao tuổi vẫn nguyên xanh
Mười đầu gieo chữ bền như cỏ
Một khoảnh ươm com vững gốc cành
Gia chủ dựng lều đêm tối đợi
Hảo bằng lên tiếng sáng ngày canh
Khéo cho thanh nhã đừng thô ý
Rổn rảng đôi tai kẻ khác hành.
Hảo bằng lên tiếng sáng ngày canh
Khéo cho thanh nhã đừng thô ý
Rổn rảng đôi tai kẻ khác hành.
13.11.14
Tú Xuân
***
Đêm Đồng Quê
Đêm đến đồng quê đâu lạnh tanh
Trên trời lấp lánh ánh sao xanh
Hạt sương tí tách khua trên cỏ
Làn gió lanh chanh lướt chéo cành
Phía trước quạt than lo nướng cá
Mé bên thổi lửa vội đun canh
Mùi thơm điếc mũi bay cùng xóm
Là ruột trai phi nấu cháo hành
Hat Cat Dieu Sinh
***
Thơ Rượu
Thơ phải nhập trần quyện chút tanh
Rượu mồi đạm bạc miễn tươi xanh
Bạn bè tương hợp thuyền neo bến
Huynh đệ cảm thông cánh nối cành
Men bốc tình cao xuyên sáu khắc
Ý tràn nghĩa đậm suốt năm canh
Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu
Chỉ ngại hồn quay xác nó hành
Nha Trang
13.11.2014
***
Đường Tình Lạc Lối***
Đêm tàn lắng đọng nỗi buồn tanh
Nhớ mối tình thơ thuở tuổi xanh
Nguyện ước bên nhau cùng một nhánh
Nào ngờ đôi ngã lá xa cành
Trăm thương ngàn nhớ hồn đau đáu
Bạc mái đầu xanh dạ cánh canh
Ai biết về đâu đời dâu bể
Vô thường một kiếp chẳng song hành
2014
Thiên Thu
Thứ Năm, 20 tháng 11, 2014
Xướng Họa: Tiếng Thơm Muôn Thuở
Bài Xướng:
Tiếng Thơm Muôn Thuở
Dòng sông dẫu nước trong hay đục
Thì bến bờ kia vẫn mướt xanh
Mái tóc người chèo dù đã bạc
Con thuyền tri thức mãi trôi nhanh
Học trò bao kẻ nên cơ nghiệp
Thầy giáo một đời chẳng lợi danh
Cuộc sống thanh bần, lòng rộng mở
Tiếng thơm thiên hạ dám đâu giành.
Phương Hà
Các Bài Họa:
Vinh Danh Nhà Giáo
Sông dài chảy mãi dòng trong đục
Cuộc sống in màu sắc lá xanh
Thời trẻ an nhiên vùng đất hẹp
Tuổi già thư thả bước chân nhanh
Tình yêu gieo hạt xa quan lộ
Lý tưởng trồng người gạt lợi danh
Bụi phấn ngày qua vương tóc trắng
Niềm vui thanh bạch chẳng tranh giành!
Nguyễn Đắc Thắng
***
Mừng Ngày Nhà Giáo
Tang thương bến nước, dù trong , đục
Biển động, ngàn dâu vẫn ngát xanh.
Thiên chức yêu nghề đầu đã bạc,
Mái trường, đỗ đạt, cũng qua nhanh.
Thầy yêu, đào tạo bao nhân sĩ,
Nhà giáo thanh cao, ghét lợi danh.
Phấn bảng niềm tin vào trí thức,
Một đời mô phạm đố ai giành.
Mai Xuân Thanh
Ngày 13 tháng 11 năm 2014
***Cảm Khái "Tết Thầy"
Thời binh lửa nhưng tình sâu đậm
Không "Tết Thầy" mà nghĩa vẫn xanh
Trên bục giảng lời lời chậm thoáng
Dưới bàn nghe khắc khắc trôi nhanh
Bao đời Giáo sống trong đạm bạc
Suốt nghiệp Thầy nào kể lợi danh.
Khi đến buổi màu mè nở rộ
Tiếng "Lương Sư" ảo quá ai giành
Quên Đi
***
Tiếng Thơm Muôn Thuở
Dòng sông dẫu nước trong hay đục
Thì bến bờ kia vẫn mướt xanh
Mái tóc người chèo dù đã bạc
Con thuyền tri thức mãi trôi nhanh
Học trò bao kẻ nên cơ nghiệp
Thầy giáo một đời chẳng lợi danh
Cuộc sống thanh bần, lòng rộng mở
Tiếng thơm thiên hạ dám đâu giành.
Phương Hà
Các Bài Họa:
Vinh Danh Nhà Giáo
Sông dài chảy mãi dòng trong đục
Cuộc sống in màu sắc lá xanh
Thời trẻ an nhiên vùng đất hẹp
Tuổi già thư thả bước chân nhanh
Tình yêu gieo hạt xa quan lộ
Lý tưởng trồng người gạt lợi danh
Bụi phấn ngày qua vương tóc trắng
Niềm vui thanh bạch chẳng tranh giành!
Nguyễn Đắc Thắng
***
Mừng Ngày Nhà Giáo
Tang thương bến nước, dù trong , đục
Biển động, ngàn dâu vẫn ngát xanh.
Thiên chức yêu nghề đầu đã bạc,
Mái trường, đỗ đạt, cũng qua nhanh.
Thầy yêu, đào tạo bao nhân sĩ,
Nhà giáo thanh cao, ghét lợi danh.
Phấn bảng niềm tin vào trí thức,
Một đời mô phạm đố ai giành.
Mai Xuân Thanh
Ngày 13 tháng 11 năm 2014
***Cảm Khái "Tết Thầy"
Thời binh lửa nhưng tình sâu đậm
Không "Tết Thầy" mà nghĩa vẫn xanh
Trên bục giảng lời lời chậm thoáng
Dưới bàn nghe khắc khắc trôi nhanh
Bao đời Giáo sống trong đạm bạc
Suốt nghiệp Thầy nào kể lợi danh.
Khi đến buổi màu mè nở rộ
Tiếng "Lương Sư" ảo quá ai giành
Quên Đi
***
Một kiếp hoa
Mười hai bến nước dù trong đục
Kiếp má hồng từ thuở xuân xanh
Bao mộng đẹp ươm mầm nụ biếc
Giấc nồng say khép nhẹ mi nhanh
Dòng đời phiêu dạt thân bèo bọt
Nước chảy hoa trôi chẳng phận danh
Một đóa phù dung buồn héo rũ
Mộng tàn phai úa chẳng ai giành
2014
Thiên Thu
Làm Thơ Yêu Em
Bằng tất cả con tim
Anh làm thơ tình ái
Ðể suốt đời nhắc mãi
Rằng anh rất yêu em!
Anh làm thơ yêu em
Nhớ thương tràn giấy trắng
Những ngày em xa vắng
Sầu ngập bút mực đen.
Làm thơ yêu em mãi
Chẳng cạn hồn anh say
Bàn tay đà viết mỏi
Chưa thấm chuyện tình dài.
Thơ làm mãi chẳng xong
Bởi tình anh vời vợi
Không đủ lời để nói
Có nói cũng khôn cùng
Thơ anh gởi khắp cùng
Lời lời vang sông núi
Không gian nào chứa nổi
Tình anh quá mênh mông!
Yêu em anh làm thơ
Tình mong lưu vạn thuở
Em có đọc bao giờ
Lời anh thương, anh nhớ?
Anh kể hết nông nổi
Tình thầm kín bấy lâu
Quá vô tình em hỏi
Người ấy là ai đâu?
Quang Tuấn
Tháng Mười Một Em Về
Nghiêng nghiêng chiếc bóng đổ bên thềm
Xa nhau từ độ mùa ly loạn
Băm mấy năm rồi vẫn khó quên!
Em về như một vì sao sa!
Khung cửa bên hiên chợt sáng lòa
Giá lạnh tiết đông lan nhè nhẹ
Bâng khuâng hoài niệm chuỗi ngày qua.
Em về cùng với vết thời gian
Khóe mắt chân chim nét phũ phàng
Mái tóc pha sương đời khoáng đạt
Thân tình pha chút nét bàng quan!
Tháng mười một còn chút heo may!
Chiếc lá tàn thu rụng lối ngoài
Đời sẽ mong manh như chiếc lá
Niềm vui dâng trọn những ngày này.
Đắc Thu
11/2014
Hồng Ân Tháng Mười Một
(Cảm Tác Tháng Mười Một Em Về của Đắc Thu)
Tháng mười một đó của riêng em
Bóng trăng xuyên lá đỗ qua thềm
Hẹn người năm cũ quay trở lại
Mòn mỏi canh dài cớ sao quên!
Bao mùa bão táp với mưa sa
Nhớ nhung bạc tóc mắt đã lòa
Lục trong rương cũ hương mùi áo
Dẫu tình ngắn ngủi thoáng vụt qua
Phủ phàng tình dối với lòng gian
Đau thương vò nát cánh hoa tàn
Chân không đứng vững thân gục ngã
Cuối trời ngời tỏa ánh hồng quang
Tạ ơn Chúa ban đến vận may
Ánh sáng loé lên từ hố ngoài
Nhìn ra chân lý tìm đường mới
Phó thác hồn con trọn tâm này
Kim Oanh
20/11/2014
Khổng Tử " Người Thầy Của Muôn Đời"
Tư Mã Thiên trong phần thuật
lại cuộc đời của Khổng Tử đã viết:
“Tôi đọc sách họ Khổng, tưởng tượng
như trông thấy cách làm người của Thầy. Sang
nước Lỗ xem nhà thờ Khổng Tử với nào
xe, nào áo, nào đồ thờ, nào các học trò thời thường
đến đó tập lễ, tôi bồi hồi ở lại
không về được. Nhiều vua chúa và những người
tài giỏi khi sống rất vẻ vang nhưng khi chết
rồi là hết, chẳng còn gì để lại cho đời
sau. Thầy Khổng Tử thì áo vải đạm bạc
vậy mà khi mất đi rồi lời dạy của thầy
truyền hơn 10 đời mà học giả vẫn còn tôn
trọng. Từ Thiên Tử đến vương thần ở
nơi xứ Trung Quốc này, hể nói đến Sấm
Kinh đều phải lấy thầy làm đích. Thật đáng
là bậc chí thánh vậy.”
Cuộc đời của Khổng
Tử là cuộc đời của một nhà giáo dục chân
chính, một bực thầy vĩ đại không phải là
chỉ riêng Trung Hoa mà còn cho cả thế giới loài người
nữa. Với Khổng Tử địa vị của ông
thầy đã được người đời xưa
nâng lên trên cả địa vị của ông cha trong gia đình
. “ Quân, Sư, Phụ” sau ông vua là đến ông thầy rồi
sau hết mới đến ông cha. Người cha cũng
có bổn phận dạy dỗ, giáo dục con cái của
mình, nhưng trong xã hội xưa người dạy dỗ
con mình nhiều nhất, người
theo dõi san sóc vun xới cái vườn kiến thức và đạo
đức của con mình biến nó thành một vườn
hoa tươi tốt người đó chính là ông thầy nó.
Làm cho một người trở thành một người có
kiến thức có đạo đức sống xứng đáng
với ý nghĩa cao đẹp của con người đó
là công của ông thầy, của người biết mang
trong mình cái trọng trách “hối nhân bất quyện” (dạy
người không biết mệt). Khổng Tử đã ý thức
được sứ mạng cũng như thiên chức
cao quý của một lương sư. Sứ mạng cũng
như thiên chức đó là truyền bá cho người đời
đạo làm người hay lề lối sống thế
nào để cho cá nhân, gia đình, quốc gia, xã hội loài
người được tốt đẹp, trật tự,
hòa bình. Hậu thế đã tôn sung Ngài như bậc thầy
của muôn đời, bậc “vạn thế sư biểu”,
bởi chủ trương, đường lối, mục
tiêu, phương pháp giáo dục của Ngài chứa đựng
nhiều giá trị mà người đời sau phải công
nhận và học hỏi.
Giáo dục là phải đổi
mới. Nhưng đổi mới ở đây không phải
cắt đứt hẳn với quá khứ để khoác
lên mình một bộ mặt hoàn toàn mới lạ không liên hệ
gì tới dĩ vãng. Giáo dục không phải là cách mạng để
có thể xóa bỏ hết những gì đã có dù tốt, dù
xấu. Sự đổi mới của giáo dục có tính cách
liên tục và chọn lọc. Người làm giáo dục phải
nghiên cứu học hỏi cái cũ, chọn lấy cái hay
cái đẹp của quá khứ để từ đó thêm
vào cái tốt đẹp của cái mới. Một phần
quan trọng của cuộc đời Khổng Tử đã
được dâng hiến cho việc sưu tầm, nghiên
cứu, chọn lọc, san định kinh sách để lưu
truyền di sản tinh thần tốt đẹp đó của
cố nhân cho thế hệ sau nầy. Khổng Tử đã
từng khiêm nhượng bảo là Ngài chỉ “thuật nhi
bất tác” (có nghĩa là chỉ thuật lại những gì
người xưa đã nói chớ chính mình không có sáng tác gì
mới mẻ), nhưng ngay trong việc thuật lại đó
cũng đã có phải sáng tác lớn lao của Ngài rồi.
Vì thuật lại ở đây không có nghĩa là ghi chép lại
trọn vẹn y như cũ mà là nghiên cứu, sưu tập,
chọn lựa, sắp xếp làm thành hệ thống. Đó
là một hình thức sáng tác vậy… Vả lại Khổng
Tử không phải chỉ đào sâu vào quá khứ thôi mà Ngài
còn bổ sung cho quá khứ đó nữa. Cho nên một ông thầy
giỏi, theo Khổng Tử phải là người biết
những cái mới bằng cách ôn lại những cái cũ.
Biết “Ôn cố nhi tri tân” là có thể dạy được
người khác vậy. Trong chủ trương trên người
ta thấy có tinh thần khiêm nhường để học
hỏi cái hay xưa cùng với tính cách liên tục từ trước
đến giờ và mãi mãi về sau. Nó không phải là một
thứ cách mạng cắt đứt hoàn toàn với quá khứ
để tạo ra cái gì mới mẻ lạ lùng. Nó bao hàm ý
nghĩa của sự tiến bộ, đổi mới, thực
hiện một cách chắc chắn vững chãi, tựa trên
sự tiếp nối liên tục với quá khứ.
Những suy tư về giáo dục
cũng như phương pháp học tập của Khổng
Tử tuy rãi rác ở nhiều chỗ trong Tứ Thư nhưng
phần chính yếu được cô đọng trong quyển
Đại học. Ngày nay chúng ta dùng danh từ đại học
để chỉ bậc học cao nhất trong ba bậc học
quen thuộc là tiểu học, trung học và đại học.
Bậc đại học là bậc tiếp theo và cao hơn
bậc trung học. Ngày xưa ở thời đại của
đức Khổng Tử, giáo dục chưa được
tổ chức có hệ thống và qui củ như ngày nay
thành ra chưa có sự phân định rõ ràng về ba bậc
tiểu – trung – đại học như bây giờ. Tuy nhiên
danh từ “Đại Học” mà Khổng Tử dùng làm nhan đề
cho quyển sách của Ngài cũng mang ý nghĩa của cái học
ở bậc cao. Thật sự thì cũng chẳng có tiêu
chuẩn nào ấn định rõ rệt thế nào là bậc
cao vì vậy nên nhiều học giả cho rằng đại
học ở đây chỉ cái học của bậc cao nhân
quân tử (hay đại nhân) tức là cái học của những
người có tài có đức để kẽ sĩ ra sức
gánh vác việc quốc gia, xã hội. Nhưng dù hiểu thế
nào đi nữa thì việc giáo dục của đức Khổng
Tử cũng có tính cách mở rộng cho mọi người
chớ không phải giới hạn cho một loại người
nào lúc bắt đầu. Không phải là bậc đại
nhân rồi mới được lựa chọn để
theo học. Không có vấn đề thi tuyển hay khảo
sát gì cả, và cũng không có một chính sách kỵ thị
nào trong vấn đề thu nhận người vào học.
Đối với Khổng Tử mọi người khi
sanh ra đời đều mang trong mình bản tánh tốt
tự nhiên ai cũng như ai. Nhưng khi lớn lên vì ảnh
hưởng của xã hội, của hoàn cảnh xung quanh và
môi trường sinh sống mà người ta thay đổi
khác nhau. Người ta khi sanh ra đời ai cũng có bộ
óc, có đời sống trí thức, hay cái “minh đức”
như Khổng Tử gọi, cho nên ai cũng có thể được
giáo dục để trở nên tốt đẹp hơn.
Vì ai cũng như ai, lúc bắt
đầu, ai cũng mang trong mình bản chất và giá trị
của con người, nên cần phải có cơ hội đồng
đều cho mọi người trong vấn đề học
vấn, giáo dục. Tính cách nhân bản của một nền
giáo dục bắt đầu từ chỗ đó. Dịch
vụ giáo dục phải được đem đến
cho mọi người một cách đồng đều không
có vấn đề sàng sãi, lựa chọn, thứ nhất
là bằng lý lịch của gia đình hay tổ tông, bằng
màu da, bằng nơi sanh đẻ bằng tình trạng kinh
tế xã hội (social economic status) hay bằng bất cứ
những yếu tố gì khác. Nền giáo dục được
coi là nhân bản phải bắt đầu từ chỗ mở
rộng cửa ngay từ đầu để đón nhận
mọi người như nhau. Vấn đề chuyên môn hóa
ở trên đại học ngày nay có thể đưa đến
sự giới hạn, chọn lọc sinh viên trong một số
ngành chuyên môn nào đó. Nhưng sự hạn chế số
sinh viên trong một ít ngành chuyên môn trên đại học không
phải là sự đóng kín cửa các đại học không
cho người ta được đi học vì một lý
do nào đó (như vì cha ông thuộc thành phần chánh trị
khác với nhóm người đang cầm quyền chẳng
hạn.) Nền giáo dục nhân bản phải bắt đầu
từ chỗ xem mọi người là con người như
nhau, nghĩa là cùng mang bản chất người và cùng có
giá trị của con người.
Giáo dục của đức
Khổng Tử bắt đầu từ chỗ đó. Đối
tượng của nó là con người với tất cả
giá trị của con người. Mở đầu quyển
Đại học Khổng Tử bảo: “Đại học
chi đạo tại minh minh đức, tại tân dân, tại
chỉ ư chí thiện.” Câu này có nghĩa là : “Con đường
của đại học là ở chỗ làm sáng cái đức
sáng ở nơi con người, ở chỗ làm mới người
dân, ở chỗ dừng lại ở nơi thật đẹp.”
Ý nghĩa thật sự của câu nói này cần được
khai triển thêm cho rõ. Nó nói lên mục tiêu của sự học
hỏi của bậc đại nhân. Mục tiêu đó là học
hỏi để làm cho tâm trí của mình được sáng
tỏ, và khi tâm trí mình được sáng tỏ mở mang
thì hãy đem sự hiểu biết của mình mà giúp đỡ
khai hóa người dân làm cho dân chúng được tiến
bộ mới mẻ, và tiếp tục giúp đỡ người
đời và quốc gia xã hội đưa quốc gia xã hội
đến chỗ thật tốt đẹp. Mọi người
ai cũng như ai, đều mang sẵn trong người
một cái “đức sáng” (minh đức) khi sanh ra đời.
Tuy nhiên vì hoàn cảnh xã hội, vì môi trường sinh sống
khác biệt của mỗi người mà cái đức sáng
đó không được phát huy hoặc bị lu mờ như
một tấm gương bị bám bụi. Công việc của
giáo dục là làm sao phát huy được đức sáng đó,
cũng như luôn luôn lau chùi tấm kiếng đừng cho
bám bụi để làm cho nó trở nên sáng sủa sẵn có
từ trước chớ không làm cho sự sáng sủa của
nó gia tăng. Ngược lại cái đức sáng ở nơi
con người nếu được trao dồi cẩn thận
sẽ được phát huy và trở nên sáng sủa hơn
trước rất nhiều.
Nhưng đức sáng ở
con người là cái gì?
Trong địa hạt tâm lý,
nhất là khi liên hệ tới giáo dục, người ta
thường nói đến trí tuệ (intelligence), là khả
năng thu nhận những tin tức những dữ kiện
những kiến thức cũng như khả năng giải
quyết các vấn đề một cách khéo léo nhanh chóng. Nó
là đầu não, là bộ óc là tâm trí hiểu theo nghĩa thông
thường. Cái minh đức mà Khổng Tử nói đến
trong quyển Đại học của Ngài là trí tuệ của
con người, là đầu não là bộ óc hay tâm trí của
con người vậy. Tự nó, tuy đã mang cái mầm sáng
sủa, nhưng chưa đủ sáng, nó cần phải được
rèn luyện trao dồi thêm. Học vấn, giáo dục là công
trình giúp tâm trí con người được phát triển mở
mang đầy đủ. Mục tiêu kế tiếp là làm mới
người dân. Có người nào cho rằng chữ “tân dân”
ở đây phải đọc và hiểu là “thân dân” mới
đúng. Thân dân là gần gũi với dân, thương yêu
giúp đỡ người dân. Thân dân mới hàm chứa được
lòng nhân mà Nho giáo luôn luôn nhấn mạnh. Tân dân chỉ là làm
mới người dân, mà làm mới người dân vì lợi
ích của kẻ thống trị, thì chưa chắc đã
bao hàm ý nghĩa gần gũi, thương yêu dân chúng. Thật
sự thì đối với dân, nhà Nho thường đặt
trọng tâm vào ba việc là “thứ, phú, giáo” tức là làm
cho dân đông, làm cho dân giàu và dạy dỗ giáo dục người
dân. Thương dân, lo cho đời sống của người
dân được phát triển đầy đủ. Nhà Nho
lúc nào cũng nghĩ đến dân, ý dân là lòng trời theo
quan niệm của Nho giáo. Cho nên theo thiển ý, tân dân hay thân
dân gì cũng được vì đối với Nho giáo tinh
thần nhân bản vẫn được đề cao, và
người dân là cứu cánh chớ không phải là một
phương tiện trong hệ thống triết lý này.
Mục tiêu sao hết là dừng
lại ở chỗ thật tốt đẹp (chỉ ư
chí thiện). Có lẽ đây là mục tiêu không bao giờ đạt
được bởi có bao giờ đi tới chỗ chí
thiện đâu. Thành ra có thể đây là mục tiêu để
người ta luôn luôn hướng tới vậy thôi chớ
sự chí thiện thì chắc chắn chẳng bao giờ có
được. Chúng ta có thể hiểu mục tiêu này như
là sự luôn luôn hướng đến chỗ toàn thiện
toàn mỹ. Chi tiết hơn và với một hiện biện
chứng chặt chẽ hơn Khổng Tử nói đến
những giai đoạn ứng dụng của học vấn
giáo dục như sau: Tu thân, tề gia, trị quốc bình
thiên hạ, tức là sửa mình cho tốt đẹp, sắp
đặt việc nhà cho đâu vào đấy, góp phần vào
việc xây dựng quốc gia, và đóng góp vào việc làm
cho thế giới hòa bình yên ổn. Học vấn giáo dục
phải được dùng vào việc làm cho tốt đẹp
từ cá nhân đến gia đình đến quốc gia và đến
cả thế giới loài người ở trên trần
gian.
Tu thân là sửa mình, là biến
con người từ chỗ sai lầm khiếm khuyết đến
chỗ đúng đắn, tốt đẹp. Tu thân đòi
hỏi phải có học vấn giáo dục để mở
mang trí tuệ, phát triển óc suy tư, nhận biết được
cái gì đúng, cái gì sai, giữ lấy cái đúng, cái tốt
và hành động theo những tiêu chuẩn đúng và tốt
đó. Học vấn giáo dục ứng dụng vào trường
hợp mỗi cá nhân là như thế. Khi cá nhân được
tu sửa, con người trở nên tốt và đúng, thì người
ta có thể dùng ảnh hưởng tốt của mình cộng
thêm những kiến thức mình đã học hỏi được
để dùng vào việc sắp đặt lo lắng cho
gia đình được yên ấm đâu vào đó, trên dưới
có ngăn nắp có trật tự. Lo cho gia đình yên ổn
được rồi thì có thể đem tài đức của
mình phụng sự cho quốc
gia, góp phần dựng nước và trị nước.
Trong một quốc gia, nếu từ người lãnh đạo
ở trên cao như vua, tổng thống, thủ tướng,
quốc trưởng cho đến những cấp lãnh đạo
ở dưới như tổng, bộ trưởng đến
đổng lý, tổng thư ký, tổng giám đốc và
xuống dưới nữa như chánh sự vụ, trưởng
ty, chủ sự…đều có học vấn giáo dục, đều
biết sửa mình để trở nên đúng và tốt đều
biết làm hết bổn phận và trách nhiệm của
mình đối với quốc gia dân tộc thì bộ máy
chính quyền sẽ vô cùng tốt đẹp và công việc
trị nước và dựng nước rất hữu hiệu
và kết quả sẽ thật mỹ mãn. Nhà cửa yên ổn,
quốc gia hùng mạnh tốt đẹp thì có thể mở
rộng ảnh hưởng đi đến cảnh thanh
bình an lạc cho cả thế giới loài người. Lý tưởng
hơn nữa là nếu quốc gia nào cũng có được
những người có kiến thức tốt, biết sửa
mình để hành động đúng thì cảnh thanh bình an
lạc cho mọi người trên cõi đời này chắc
chắn sẽ thực hiện được như vậy.
Nhưng phải học như
thế nào để có thể đạt được kết
quả tốt? Trong quyển Đại học thầy Khổng
Tử bảo phải “thành ý, chánh tâm, trí tri, cách vật”. Thành
ý là lòng thành thật, thành thật nhận thấy mình biết
hay không biết, hiểu hay không hiểu, và thành thật muốn
học hỏi. Muốn học hỏi cho đến nơi
đến chốn thì trước hết phải nhận
biết tình trạng của mình và có tấm lòng thành muốn
học hỏi thật sự. Đó là điều kiện
cần phải có cho việc học. Nhưng thành ý chỉ
mới là điều kiện cần thôi chưa phải là điều
kiện đủ. Chánh tâm mới là điều kiện đủ.
Chánh tâm là lòng mình phải ngay thẳng. Làm cho lòng mình ngay thẳng
ở đây có nghĩa là phải dứt bỏ mọi định
kiến, mọi hiểu biết sai lầm đã có từ
trước vì tất cả những cái đó có thể làm
cho cái nhìn của mình thiên lệch, thiếu vô tư. Sự
thiên lệch (bias), thiếu vô tư, thiếu khách quan sẽ
rất dễ đến những nhận xét hay những hiểu
biết nông nỗi, không chính chắn. Làm cho lòng mình ngay thẳng
chính chắn để đừng bị chi phối bởi
những định kiến, những hiểu biết sai lầm
từ trước, để cho mình có được cái
nhìn trung thực, chính chắn về mọi sự, mọi
vật. Đó là điều kiện đủ để
cho sự học hỏi có kết quả thực sự.
Khi đã có những điều kiện cần và đủ
rồi thì người ta có thể đi đến chỗ
“trí tri” tức là hiểu biết đến nơi đến
chốn, bằng phương pháp “cách vật” tức là mổ
xẻ phân tích sự vật. Vật ở đây không chỉ
giới hạn ở vật thể mà nên hiểu rộng là
mọi sự việc và mọi vật hay một cách tổng
quát là tất cả những gì có thể trở thành đối
tượng của sự nghiên cứu học hỏi. Một
vật như máy điện thoại, máy tính, cái dây, cái hoa,
con chim, con cá cho đến các sự việc như một
hiện tượng xã hội hay một hiện tượng
thiên nhiên…đều có thể là đối tượng của
sự nghiên cứu. Hãy phân tích, mổ xẻ đối tượng,
tìm hiểu sâu xa các chi tiết liên hệ để đi đến
sự hiểu biết đầy đủ đến nơi
đến chốn đó là “trí tri tại cách vật” vậy.
Trên đây là đường lối,
phương cách học hỏi, còn phương pháp giảng
huấn thì như thế nào?
Phương pháp giảng huấn
mà đức Khổng Tử đã áp dụng trong cuộc đời
dạy học của Ngài cho đến ngày nay vẫn còn được
khoa sư phạm (pedagogy) lưu ý học hỏi để
áp dụng, nhất là ở những nước có tự do
dân chủ và nền giáo dục mang nhiều tính chất nhân
bản. Phương pháp giảng huấn của Khổng Tử
không được ghi chép thành văn nhưng người đời
sau có thể suy ra từ những gì mà các đệ tử của
Ngài ghi lại về cuộc đời dạy học của
Ngài. Có thể tóm tắt những nét chính trong phương
pháp giảng huấn của ông thầy vĩ đại này
như sau:
1. Thương từng người học trò; hiểu
rõ từng cá nhân mỗi người; giúp mỗi cá nhân phát
triển tựa trên hoàn cảnh và điều kiện của
mỗi người. Đây là một điểm tâm lý sư phạm rất
đáng được lưu ý. Ngày nay nhiều nhà tâm lý sư
phạm vẫn đề cao đường lối “cá nhân
giáo huấn” (individualized instruction) vì người ta thấy
rằng mỗi người có một đời sống tâm
lý (nhất là tính tình, nhân cách, trí tuệ…) cũng như một
môi trường sinh sống (hoàn cảnh gia đình và xã hội)
đặc biệt của mình, không ai hoàn toàn giống ai cả.
Do đó khi áp dụng một chương trình học duy nhất,
cứng rắn cùng một cách giảng dạy như nhau
cho cùng một số đông người thì kết quả
của công trình giảng dạy, học tập (teaching /
learning process) sẽ không được tốt đẹp
lắm. Đáng lý ra người ta phải có một chương
trình học và một phương pháp giảng dạy thích
hợp cho mỗi cá nhân học sinh nhưng việc đó không
thể nào thực hiện được cho nên người
ta phải tạm dùng cách chuyên môn hóa (specializing) phân chia các ban,
phân chia học sinh ra từng lớp hay từng nhóm có trình độ
gần nhau để công việc giảng dạy / học
tập có kết quả hơn. Tạo cơ hội đồng
đều (equal opportunity) để mọi người đều
được hưởng quyền giáo dục, tức là
không kỳ thị, không loại bỏ một ai là điều
cần phải có trong một nền giáo dục nhân bản,
nhưng điều đó không có nghĩa là phải xem tất
cả các người đi học đều giống hệt
như nhau và đều bằng nhau về phương diện
khả năng thu nhận và học tập.
2. Vai trò của người thầy không phải là tạo
ra những bộ óc cho người đi học, cũng không
phải là để nhồi vào đầu óc người đi
học một mớ kiến thức nào đó một cách máy
móc và cũng không nên xem bộ óc con người như một
tờ giấy trắng mà mình muốn vẽ cái gì lên đó
cũng được.
Vai trò thực sự đúng
nghĩa của người thầy là người hướng
dẫn, giúp đỡ cho người đi học có cơ
hội và biết đường hướng để phát
triển con người toàn diện. Ở bên trời Tây, và
cũng xấp xỉ đồng thời với Khổng Tử,
nhà hiền triết Socrates cũng có quan niệm tương
tự như Khổng Tử về vai trò của giáo dục
hay của người làm giáo dục. Socrates dùng một hình
ảnh cụ thể hơn để nói rõ vai trò của kẻ
làm thầy. Người làm thầy cũng làm công việc tương
tự như người hộ sinh (đỡ đẻ).
Người đó giúp cho đứa trẻ ra khỏi bụng
mẹ để vào đời chớ người đó không
phải là người sanh ra đứa bé.
3. Phương pháp giảng huấn của đức
Khổng Tử đòi hỏi phải dựa trên thực tế
và có phần thực hành trong việc học chứ không phải
chỉ có tính cách lý thuyết suông. Phương pháp đó dùng lối
đối thoại, dùng cách hỏi và trả lời giữa
trò và thầy khiến cho sự học vấn giáo dục
trở nên linh động, gần gũi đi liền với
cuộc sống thật sự ở ngoài đời. Với
mỗi đệ tử trong mỗi hoàn cảnh, Khổng Tử
có câu trả lời khác về cùng một vấn đề,
vì phải tùy lúc, tùy người, tùy hoàn cảnh mà có cách giải
đáp cho sát với thực tế. Lý thuyết và thực hành
cần phải đi đôi với nhau thì cái học mới
hữu dụng.
Giáo dục ngày nay còn bao gồm
nhiều vấn đề quan trọng khác như vấn đề
quản trị, việc phát triển trường sở,
thiết lập chương trình học, đào tạo giáo
chức, soạn và in sách giáo khoa, tổ chức thi cử và
lượng giá, vấn đề tu nghiệp và hội thảo
v.v…ngoài những gì liên hệ tới triết lý giáo dục
như mục tiêu, đường hướng, phương
pháp.
Lẽ dĩ nhiên là ổ thời
đại của Khổng Tử có những vấn đề
chưa được đặt ra vì việc giáo dục ở
thời đại đó chưa có lớn lao, phức tạp
như bây giờ. Tuy nhiên với mục tiêu cao cả, đường
lối tốt đẹp, phương pháp hữu hiệu,
giáo dục của Khổng Tử mang nhiều tính cách nhân bản
và khoa học khiến cho người đời sau phải
tôn thờ Ngài như bậc thầy của muôn đời
“VẠN THẾ SƯ BIỂU”
Ngày đản sanh của đức
Khổng Tử có một thời đã được chọn
làm ngày biết ơn thầy (teacher’s day) ở Trung Hoa. Giáo
dục của đức Khổng Tử mới là giáo dục
thật sự có ý nghĩa và làm người thầy trong “nền
giáo dục có ý nghĩa đó mới xứng đáng với
địa vị “quân, sư,
phụ” vậy.
Huỳnh Hữu Đức trích http://namkyluctinh.org/ntliem/ntliem-khonggiao.htm
Thứ Tư, 19 tháng 11, 2014
Thương Ghét Cho Đời
Trăng còn đầy khi vầng đông chưa tới
Gió miên man ru giấc ngủ em ngoan
Em tôi ơi, duyên dáng mắt nai tròn
Hương say đắm đưa ta về cõi mộng..
Giữa trần gian men tình căn nhựa sống
Ai ngờ đâu đến dâu bể cuộc đời
Mới cười đó, rồi đêm về lại khóc
Sáng trời trong, trưa tuyết đã rơi rơi..
Cuộc tình tan khi nắng xế chơi vơi
Tim rướm máu chảy qua vùng kỷ niệm
Giọt lệ tràn ướt đẫm nỗi niềm riêng
Yêu đương lắm, rồi phong ba tiếp nối!
Hồn lãng đãng đỗ bên triền gió nổi
Tím lan dần theo ngọn lửa bi, hoan
Trót thương nhau sao nở để bẽ bàng
Em xa vắng nhưng sông còn ở lại..
Hôn nhau đó.Dần ra xa. Ngang trái
Em có nghe cơn đau lặng, tình ta?
Rượu chửa cạn ly, giọng hát đến thiết tha:
“thương cho đời,ghét cho đời, và cũng chán cho đời..”*
*lời trong bản nhạc Vàng Phai Mấy Lá của Đoàn Chuẩn
Va, ngày 31- 12-08
Bùi Thanh Tiên
Bài Thơ Tháng Mười Một
Đã nghe gió bấc vờn áo mỏng
Khẽ khàng hôn ve vuốt lạnh da mềm.
Mảnh chăn đắp bỗng thùng thình quá rộng
Nhớ một người - nên gối cứ chông chênh.
Thời gian như con thuyền-trôi sông lênh đênh
Cuống quít mùa xuân-đã tàn nắng hạ
Mùa thu bâng khuâng,cây chưa vàng hết lá
Rồi đông về ngơ ngác đóa hoàng lan.
Chiều ngoại ô tôi đi lang thang
Hoa dã quỳ vàng hơn cả nắng.
Con dốc cũ gió không chừa khoảng lặng
Đan rối bời - vạt cỏ níu màu xanh.
Bóng đìu hiu lầm lũi qua nhanh
Phố núi tím mờ-nhạt nhòa sương khói.
Chợt thấy nhớ bóng người xưa-bổi hổi
Dấu trong tim - nhen nhóm giữa đông dày!
(Phố núi 09-10-2014)
Hương Ngọc
Khúc Thu Xưa
Thu về trời sắc đổi thay
Vàng-xanh-tím-đỏ ngất ngây muôn màu
Nắng thu vàng úa bông lau
Gió thu nhè nhẹ nao nao lòng người
Bước chân khẽ chạm lá rơi
Mà nghe lòng cảm một trời sắc thu
Lòng mang hoài nhớ khúc ru
Bao nhiêu kỷ niệm chợt vừa hiện ra
Cuộc tình đã chớm lìa xa
Mà nay bỗng thấy như là còn đây
Thẫn thờ đi giữa trời mây
Nỗi niềm nhung nhớ những ngày xa xưa
Hương tình ngày mới đong đưa
Cõi lòng ru mãi khúc xưa ảo huyền
Dù rằng tình nhớ hay quên
Riêng ta còn nỗi muộn phiền thiên thu
11/2014
Thiên Thu
Quãng Đời Đánh Mất
Mười bẩy tuổi, em đi làm vũ nữ
Ánh đèn mầu vùi lấp thuở thơ ngây
Xem cuộc đời nhẹ như gió như mây
Chân gót nhỏ, hành trình đơn độc.
Sách vở học trò, bay theo cơn lốc
Để lại sân trường, gốc phượng ngẩn ngơ
Ve gọi hè sang, lưu bút hững hờ
Và người ấy đứng chờ, không biết mỏi.
Lá thư xanh, còn bao điều muốn nói
Áo trắng đi rồi, quên giã biệt nơi đây
Kỷ niệm học trò, khờ khạo thơ ngây
Bay theo gió, chút duyên thầm con gái.
Người xa rồi, có bao giờ trở lại
Gió bụi phong trần, ướt giọt sương đêm
Áo lụa đẹp màu, son phấn dày thêm
Em đánh mất cả quãng đời tuổi ngọc.
Ngàyhôm qua, còn ngồi trong lớp học
Lơ đãng nhìn trời, mộng với trăng sao
Đời đổi thay, tựa một giấc chiêm bao
Đêm buông xuống, hững hờ chân lỗi nhịp.
Hoàng T Nguyệt Khuyết
Thầy Trò
Học
trò học nghề hay là học chữ, ở với người dạy cho mình đều có nghĩa thầy
trò. Học trò phải kính trọng thầy, phải quý mến thầy, mà nhất là thầy
dạy học chữ lại phải kính trọng hơn nữa.
Học trò khi mới vào học gọi là nhập môn, phải kiếm buồng cau lạy yết kiến thầy hai lạy. Lúc học gặp khi mồng năm ngày Tết như Tết Nguyên đán, Tết Thanh minh, Tết Đoan dương, Tết Trung thu, mùa nào thức ấy hoặc cặp gà thúng gạo, hoặc đương mứt bánh trái, hoặc dăm ba quan tiền, tùy tình đa thiểu mà đem đến lễ thầy.
Khi nhà thầy có việc, hoặc việc hiếu, hoặc việc hỉ, hoặc khi có kỵ, học trò cũng kiếm lễ vật đến lễ, và giúp đáp công việc cho nhà thầy.
Cả bao nhiêu học trò hội lại gọi là hội đồng môn. Hội đồng môn của thầy lập ra, hoặc của học trò hội lại mà đặt ra. Thầy xem trong môn sinh ai là người hiển đạt hơn hoặc có tuổi hơn thì bầu làm Trưởng tràng để đứng đầu mà coi sóc việc môn sinh. Lại bầu một người làm Giám tràng để hiệp trợ vối Trưởng tràng. Ngoài nữa thì liệu xem ai là người mẫn cán đặt ra năm bảy người hoặc mươi, mười hai người Cán tràng, để giúp cho Trưởng, Giám, mà coi công việc chạy chọt vành ngoài.
Thầy đặt ra trưởng, giám, cán, phải có chữ của thầy, thì đồng môn mới phục tùng. Khi thầy có việc cần đến đồng môn phải giúp thì thầy bảo qua với Trưởng, Giám một tiếng, Trưởng, Giám tuần lời thầy đặt tờ cho cán tràng, Cán tràng lại thông báo cho các môn sinh hội lại bổ bán mà giúp đỡ cho thầy.
Khi cha mẹ thầy mất, đồng môn cũng phải hội giúp thầy ít tiền, và phải sửa lễ phúng viếng đưa đón phân minh. Đến khi thầy hoặc vợ thầy mất thì đồng môn phải xử trọng thể hơn, mà phải phục tùng quyển thế huynh là người kế tự của thầy. Phải bổ bán mỗi người dăm ba đồng bạc để giúp cho thế huynh. Lúc đưa ma, hết thảy môn sinh phải khăn trắng áo trắng đưa đến huyệt, lạy tạ bốn lạy mới trở về. Về đến nhà, hội họp với nhau giết bò giết lợn tế thầy một tuần.
Môn sinh cũng phải để tang thầy học 3 năm song không phải phục tang chế, gọi là tâm tang, nghĩa là đế tang trong bụng mà thôi.
Trong môn sinh thể thống rất nghiêm, ai đã vào học đều phải đóng đồng môn cả. Hể ai bỏ không đóng góp hoặc ai trái lễ phép với nhà thầy, Trưởng, Giám tràng có phép bắt bớ cùm trói, cho nên có câu rằng: Môn sinh tiểu triều đình.
Từ sau mỗi năm đến ngày giỗ thầy hoặc vợ thầy, đồng môn phải biện lễ đem đến lễ giỗ. Hoặc nhà thầy suy đồi đi rồi, không có người kế tự thì đồng môn họp 3 nhà Trưởng tràng mà làm lễ giỗ thầy và vợ thầy. Giữ giỗ cho đến hết đời thì thôi
Có nơi môn sinh đóng tiền làm nhà thờ thầy và tậu đất ruộng đê làm ruộng kỵ, cứ năm năm lấy hoa lợi mà sung vào việc cúng giỗ cho khỏi phải đóng tiền. Nơi ấy thì học trò thường đời đời nối dõi giữ giỗ ông thầy và vợ thầy.
Người ta ở đời nhò có cha mẹ sình ra mình, lại phải nhờ có thầy dạy cho mình thì mình mới khôn biết việc này việc nọ, mới nên con người, cho nên học trò ở với thầy cũng như con ở với cha mẹ, ấy cũng là một môi luân thường của Á Đông ta.
Song cũng vì tục trọng sư đạo ấy mà sinh ra mấy thói dỏ. Kìa như các bực đáng mặt mô phạm, có công dạy dỗ, có ân đức giáo hóa nhuần thấm đến người thì người ta không nên quên đã đành. Còn như mấy ông đồ quèn học hành chưa hiểu vỡ mạch sách, văn chương chưa thuộc đủ lề lối, mà đã đi về các vùng nhà quê tìm nơi thiết trường, gõ đầu năm ba đứa trẻ nửa mường nửa mán để hộ khẩu cho qua đời. Vậy mà cũng dám lên mặt đạo mạo, động một tí thì bổ cho đồng môn, nào khi nhà thầy có giỗ, nào khi thầy có việc mừng vui, nào khi thầy lấy vợ, nào khi thầy lên lão làng cũng lôi đồng môn ra mà bắt gánh vác, ấy lại là cái mọt của thiên hạ.
Học trò khi mới vào học gọi là nhập môn, phải kiếm buồng cau lạy yết kiến thầy hai lạy. Lúc học gặp khi mồng năm ngày Tết như Tết Nguyên đán, Tết Thanh minh, Tết Đoan dương, Tết Trung thu, mùa nào thức ấy hoặc cặp gà thúng gạo, hoặc đương mứt bánh trái, hoặc dăm ba quan tiền, tùy tình đa thiểu mà đem đến lễ thầy.
Khi nhà thầy có việc, hoặc việc hiếu, hoặc việc hỉ, hoặc khi có kỵ, học trò cũng kiếm lễ vật đến lễ, và giúp đáp công việc cho nhà thầy.
Cả bao nhiêu học trò hội lại gọi là hội đồng môn. Hội đồng môn của thầy lập ra, hoặc của học trò hội lại mà đặt ra. Thầy xem trong môn sinh ai là người hiển đạt hơn hoặc có tuổi hơn thì bầu làm Trưởng tràng để đứng đầu mà coi sóc việc môn sinh. Lại bầu một người làm Giám tràng để hiệp trợ vối Trưởng tràng. Ngoài nữa thì liệu xem ai là người mẫn cán đặt ra năm bảy người hoặc mươi, mười hai người Cán tràng, để giúp cho Trưởng, Giám, mà coi công việc chạy chọt vành ngoài.
Thầy đặt ra trưởng, giám, cán, phải có chữ của thầy, thì đồng môn mới phục tùng. Khi thầy có việc cần đến đồng môn phải giúp thì thầy bảo qua với Trưởng, Giám một tiếng, Trưởng, Giám tuần lời thầy đặt tờ cho cán tràng, Cán tràng lại thông báo cho các môn sinh hội lại bổ bán mà giúp đỡ cho thầy.
Khi cha mẹ thầy mất, đồng môn cũng phải hội giúp thầy ít tiền, và phải sửa lễ phúng viếng đưa đón phân minh. Đến khi thầy hoặc vợ thầy mất thì đồng môn phải xử trọng thể hơn, mà phải phục tùng quyển thế huynh là người kế tự của thầy. Phải bổ bán mỗi người dăm ba đồng bạc để giúp cho thế huynh. Lúc đưa ma, hết thảy môn sinh phải khăn trắng áo trắng đưa đến huyệt, lạy tạ bốn lạy mới trở về. Về đến nhà, hội họp với nhau giết bò giết lợn tế thầy một tuần.
Môn sinh cũng phải để tang thầy học 3 năm song không phải phục tang chế, gọi là tâm tang, nghĩa là đế tang trong bụng mà thôi.
Trong môn sinh thể thống rất nghiêm, ai đã vào học đều phải đóng đồng môn cả. Hể ai bỏ không đóng góp hoặc ai trái lễ phép với nhà thầy, Trưởng, Giám tràng có phép bắt bớ cùm trói, cho nên có câu rằng: Môn sinh tiểu triều đình.
Từ sau mỗi năm đến ngày giỗ thầy hoặc vợ thầy, đồng môn phải biện lễ đem đến lễ giỗ. Hoặc nhà thầy suy đồi đi rồi, không có người kế tự thì đồng môn họp 3 nhà Trưởng tràng mà làm lễ giỗ thầy và vợ thầy. Giữ giỗ cho đến hết đời thì thôi
Có nơi môn sinh đóng tiền làm nhà thờ thầy và tậu đất ruộng đê làm ruộng kỵ, cứ năm năm lấy hoa lợi mà sung vào việc cúng giỗ cho khỏi phải đóng tiền. Nơi ấy thì học trò thường đời đời nối dõi giữ giỗ ông thầy và vợ thầy.
Người ta ở đời nhò có cha mẹ sình ra mình, lại phải nhờ có thầy dạy cho mình thì mình mới khôn biết việc này việc nọ, mới nên con người, cho nên học trò ở với thầy cũng như con ở với cha mẹ, ấy cũng là một môi luân thường của Á Đông ta.
Song cũng vì tục trọng sư đạo ấy mà sinh ra mấy thói dỏ. Kìa như các bực đáng mặt mô phạm, có công dạy dỗ, có ân đức giáo hóa nhuần thấm đến người thì người ta không nên quên đã đành. Còn như mấy ông đồ quèn học hành chưa hiểu vỡ mạch sách, văn chương chưa thuộc đủ lề lối, mà đã đi về các vùng nhà quê tìm nơi thiết trường, gõ đầu năm ba đứa trẻ nửa mường nửa mán để hộ khẩu cho qua đời. Vậy mà cũng dám lên mặt đạo mạo, động một tí thì bổ cho đồng môn, nào khi nhà thầy có giỗ, nào khi thầy có việc mừng vui, nào khi thầy lấy vợ, nào khi thầy lên lão làng cũng lôi đồng môn ra mà bắt gánh vác, ấy lại là cái mọt của thiên hạ.
Huỳnh Hữu Đức
Trích Việt Nam Phong Tục của Phan Kế Bính
Thứ Ba, 18 tháng 11, 2014
Hữu Sở Cảm - Phạm Đình Hổ
Phạm đình Hổ sinh năm Mậu Tý (1768) người huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương.Từ nhỏ 9 tuổi ông đã học Hán thư , nhưng chỉ đổ đến sinh đồ ( Tú Tài) vào cuối đời Lê Chiêu Thống. Trong thời loạn lạc, vua Lê Chiêu Thống chạy sang cầu viện nhà Thanh, rồi Lê-Trịnh sụp đổ, Tây Sơn cầm quyền, PĐH sống cơ cực dạy học ở quê nhà. Năm 1821 Vua Minh Mạng ra Bắc, ông được triệu vào Huế làm Hành tẩu Viện Hàn Lâm, được ít lâu ông xin từ chức.. Năm Minh Mạng thứ 7( 1826 )vua lại triệu ông cho làm Thi giảng học sĩ. Năm 1832 ông về hưu luôn, mất năm 1839, thọ 71 tuổi.
Trong thơ ông, bên cạnh những bài viết về cái nghèo khổ, cái bất đắc chí của mình ,cái tình cảm bạn bè cùng cảm quan lịch sử còn có một số bài viết về các thiếu nữ trẻ trung ngây thơ thật độc đáo.
Chúc tất cả an vui cuối tuần.
Thân kính
Hữu Sở Cảm - Nguyên tác: Phạm Đình Hổ
有 所 感 Hữu Sở Cảm
長安小兒女,Trường An tiểu nhi nữ;
纖手丱丫鬟。Tiêm thủ quán nha hoàn.
深閨不知苦,Thâm khuê bất tri khổ
猶掃落花看。Do tảo lạc hoa khan.
長安小兒女,Trường An tiểu nhi nữ;
眉黛月雙彎。Mi đại nguyệt song loan.
為愛梅花潔,Vị ái mai hoa khiết
臨風不覺寒。Lâm phong bất giác hàn.
長安小兒女,Trường An tiểu nhi nữ;
花前獨倚欄 Hoa tiền độc ỷ lan.
只怕檀郎聽,Chỉ phạ đàn lang thính
橫琴笑不彈。Hoành cầm tiếu bất đàn
Dịch Thơ Cảm Xúc
Mai Lộc
***
Giao Cảm
Cô gái Trường An nho nhỏ
Đôi tay nâng bím tóc xinh
Khuê phòng biết chi là khổ
Nhặt hoa rụng trước hiên thềm.
Cô gái Trường An nho nhỏ
Mày cong như cánh cung trăng
Bởi yêu cánh mai trong ngần
Ra gió trời đông, chẳng rét.
Cô gái Trường An nho nhỏ
Một mình tựa cửa ngắm hoa
Ôm ngang đàn cầm, không gảy
Sợ người yêu chợt đi qua !...
Phương Hà phỏng dịch.
( 20/10/2014 )
***
Cảm Xúc
Người thiếu nữ Trường An
Thân phận kiếp a hoàn
Khuê trung chưa biết khổ
Quét từng cánh hoa tàn
Người thiếu nữ Trường An
Mày trăng nét phụng loan
Yêu hoa mai hé nụ
Bất kể giá đông hàn
Người thiếu nữ Trường An
Đứng tựa bình hoa lan
Sợ chàng nghe thấy tiếng
Cười ngạo mà không đàn
Nguyễn Đắc Thắng
***
有 所 感 Hữu Sở Cảm
長安小兒女,Trường An tiểu nhi nữ;
纖手丱丫鬟。Tiêm thủ quán nha hoàn.
深閨不知苦,Thâm khuê bất tri khổ
猶掃落花看。Do tảo lạc hoa khan.
長安小兒女,Trường An tiểu nhi nữ;
眉黛月雙彎。Mi đại nguyệt song loan.
為愛梅花潔,Vị ái mai hoa khiết
臨風不覺寒。Lâm phong bất giác hàn.
長安小兒女,Trường An tiểu nhi nữ;
花前獨倚欄 Hoa tiền độc ỷ lan.
只怕檀郎聽,Chỉ phạ đàn lang thính
橫琴笑不彈。Hoành cầm tiếu bất đàn
Dịch Thơ Cảm Xúc
(1)
Nơi Trường An một cô bé gái
Tay thon thon hai mái bện dài
Phòng khuê nào biết u hoài
Nhìn hoa rơi rụng sân ngoài quét chơi
Tay thon thon hai mái bện dài
Phòng khuê nào biết u hoài
Nhìn hoa rơi rụng sân ngoài quét chơi
Nơi Trường An một cô bé gái
Đôi mày cong nguyệt hãy còn non
Vì yêu mai đẹp trắng trong
Đôi mày cong nguyệt hãy còn non
Vì yêu mai đẹp trắng trong
Ngắm hoa quên lạnh gió đông rạc rào
Nơi Trường An một cô gái nhỏ
Tựa lan can bên đóa mai vàng
Ngại ngần động đến tai chàng
Nhoẻn cười không gẩy ôm đàn lặng yên
Ngại ngần động đến tai chàng
Nhoẻn cười không gẩy ôm đàn lặng yên
(2)
Trường An một gái nhỏ
Ngón thon tóc bện dài
Phòng khuê nào biết khổ
Lặng nhìn quét hoa bay
Trường An một cô bé
Trăng non mày cong cong
Vì yêu nụ mai hé
Quên lạnh giữa gió đông
Trường An cô gái nhỏ
Bên hoa tựa lan can
Sợ chàng tai thính rõ
Không gẩy cười ôm đàn
Ngón thon tóc bện dài
Phòng khuê nào biết khổ
Lặng nhìn quét hoa bay
Trường An một cô bé
Trăng non mày cong cong
Vì yêu nụ mai hé
Quên lạnh giữa gió đông
Trường An cô gái nhỏ
Bên hoa tựa lan can
Sợ chàng tai thính rõ
Không gẩy cười ôm đàn
Mai Lộc
***
Giao Cảm
Cô gái Trường An nho nhỏ
Đôi tay nâng bím tóc xinh
Khuê phòng biết chi là khổ
Nhặt hoa rụng trước hiên thềm.
Cô gái Trường An nho nhỏ
Mày cong như cánh cung trăng
Bởi yêu cánh mai trong ngần
Ra gió trời đông, chẳng rét.
Cô gái Trường An nho nhỏ
Một mình tựa cửa ngắm hoa
Ôm ngang đàn cầm, không gảy
Sợ người yêu chợt đi qua !...
Phương Hà phỏng dịch.
( 20/10/2014 )
***
Cảm Xúc
Người thiếu nữ Trường An
Thân phận kiếp a hoàn
Khuê trung chưa biết khổ
Quét từng cánh hoa tàn
Người thiếu nữ Trường An
Mày trăng nét phụng loan
Yêu hoa mai hé nụ
Bất kể giá đông hàn
Người thiếu nữ Trường An
Đứng tựa bình hoa lan
Sợ chàng nghe thấy tiếng
Cười ngạo mà không đàn
Nguyễn Đắc Thắng
***
Xúc Cảm
Cô nhỏ xứ Trường An
Tay vấn tóc đôi hàng
Khuê phòng sao biết khổ
Quét hoa rụng ngẩn ngơ
Cô nhỏ xứ Trường An
Đôi mày cong vành trăng
Yêu hoa mai trong trắng
Gió về không thấy lạnh
Cô nhỏ xứ Trường An
Trước hoa đứng dựa giàn
Sợ tình lang nghe thấy
Ôm đàn cười chẳng khảy.
Quên Đi
***
Cảm Xúc
Người con gái Trường An
Đôi hàng tóc búi cao
Phòng khuê khổ nào biết
Thong thả quét hoa rơi
Cô gái nơi Trường An
Mày ngài vòng nguyệt cong
Lòng yêu nụ mai trắng
Chẳng lạnh khi gió về
Cô gái quê Trường An
Tựa lan can cạnh hoa
Sợ tình lang nghe tiếng
Chẳng khảy ôm đàn cười
Kim Phượng
***
Cô nhỏ xứ Trường An
Tay vấn tóc đôi hàng
Khuê phòng sao biết khổ
Quét hoa rụng ngẩn ngơ
Cô nhỏ xứ Trường An
Đôi mày cong vành trăng
Yêu hoa mai trong trắng
Gió về không thấy lạnh
Cô nhỏ xứ Trường An
Trước hoa đứng dựa giàn
Sợ tình lang nghe thấy
Ôm đàn cười chẳng khảy.
Quên Đi
***
Cảm Xúc
Người con gái Trường An
Đôi hàng tóc búi cao
Phòng khuê khổ nào biết
Thong thả quét hoa rơi
Cô gái nơi Trường An
Mày ngài vòng nguyệt cong
Lòng yêu nụ mai trắng
Chẳng lạnh khi gió về
Cô gái quê Trường An
Tựa lan can cạnh hoa
Sợ tình lang nghe tiếng
Chẳng khảy ôm đàn cười
Kim Phượng
***
Có Niềm Cảm Xúc
Trường An cô thiếu nữ,
Tay ngọc bới tóc cao.
Phòng khuê nào biết khổ,
Quét hoa dạ chẳng nao!
Trường An cô thiếu nữ,
Mày trăng mới cong sao!
Thương mai hoa tinh khiết,
Gió bấc chẳng lạnh nào!
Trường An cô thiếu nữ,
Ngắm hoa tựa lan can.
Vì sợ chàng nghe ngóng,
Cười e ấp không đàn!
Đỗ Chiêu Đức
Bản Nhạc Xưa -Thơ: Minh Đức Hoài Trinh -Phổ Nhạc: Nguyễn Tuấn
Thơ: Minh Đức Hoài Trinh
Phổ Nhạc & Youtube: Nguyễn Tuấn
Tiếng Hát; Khắc Dũng
Dấu Tích Trăng
Mỗi mùa trăng viết bài thơ
như vết dao khắc dấu đời trên tay
Nhớ xưa đóng quân Buôn Mây
trăng treo đầu núi cỏ cây ngủ ngày
thương cô sơn nữ tóc mây
mỗi mùa trăng lại khắc cây nhắc người
lại không quên vái đất trời
cho người lính trận sống đời trăm năm
uất thay dẫu bể thăng trầm
núi dời trăng vỡ nghé đàn rã tan
người xa người núi xa trăng
hạ sơn quá hải lưu vong xứ người.
Bây giờ lại viết câu thơ
ghẹo trăng mời nguyệt ghé bờ sông say
sông say theo hơi rượu bay
còn trong đáy cốc bóng đầy dáng nghiêng
rót vào thêm ánh trăng hiền
soi đời nhân thế ưu phiền tiêu tan
xứ người trời đất man man
bên bờ hiu quạnh còn trăng mất người
trăng tròn mấy độ trăng ơi
tại sao lại khuyết rụng rơi ý tình
Còn đây chút chuyện chúng mình
gần nhau gang tấc sao hình như xa
mùi hương hay là mùi hoa
còn nguyên ở chỗ hôm qua em ngồi
chỗ em ngồi trách trăng trôi
theo mây viễn xứ chia đời thế nhân
trách xa sao chẳng trách gần
trách người hữu phận không cần người dưng
riêng anh lính cũ ở rừng
tỏ tình không đúng vô duyên cũng đành
thôi thì hẹn với trăng xanh
mỗi mùa trăng viết ý thành câu thơ
gởi em ở cõi mơ hồ
xem như mộng ảo tình vờ thế thôi.
May là tay còn vết dao
khắc thêm để nhớ lao đao riêng mình.
Túy Hà
Trường Xưa Một Buổi Trở Về
Bao năm xa trở lại trường
Trên cao bục giảng còn vương bóng thầy
Ghế bàn in dấu thơ ngây
Áo lem mực tím nhớ ngày xa xưa
Dấu chân phơi dưới nắng mưa
Nhớ khi bè bạn vui đùa cùng nhau
Niềm vui thương mến bắc cầu
Thầy cô kính quý ơn sâu nghĩa tình
Nhớ thầy, thanh nhã bóng hình
Lòng thầy mở cửa bình minh soi đường
Dạy con vững bước chân non
Đời qua dốc núi lũng buồn ngại chi
Trường xưa một buổi con về
Thiếu thầy, vắng bạn bốn bề hoang vu
Lá vàng rơi ngập mái thu
Lòng thầy còn đó che dù thời gian
Lá rơi dìu bóng thu sang
Cúi đầu nhặt kỷ niệm vàng xa xôi
Lớp xưa bạn cũ thầy ơi
Mãi còn vang vọng tiếng cười xa xăm
Trầm Vân
Thứ Hai, 17 tháng 11, 2014
Tiểu Thu, Nhà Văn Nữ Đi Vào Khu Vườn Kỷ Niệm Qua Tập Truyện ''Tiếng Hót Vành Khuyên''
Tiểu Thu là một nhà văn gốc Nam Kỳ, chuyên viết về kỷ niệm những ngày chị sống ở Cao Lãnh, Kontum và Ngả Năm Bình Hòa (Sài Gòn). Lác đác có vài truyện xảy ra trong khung cảnh thành phố Montréal (Gia-nã-đại). Nhưng từ thành phố định cư ấy, chị không quên viết những ngày hoa mộng ở trên 3 địa danh của đất nước Việt Nam mà tôi vừa kể.
Tập truyện ''Tiếng Hót Vành Khuyên'' là tác phẩm thứ hai của nhà văn nữ Tiểu Thu, sau quyển ''Sóng Nước Tình Quê'' xuất bản vào năm 2003. Trong khi giao cho tôi bản thảo của tác phẩm thứ hai vừa đóng thành tập rất đẹp, tác giả có cho biết rằng chị đang đem in nó thành sách. Đây là công trình thập thúy tầm phương (gom góp lông chim trã và tìm hoa thơm) của tác giả. Chị đã kết tập những truyện ngắn đăng trên vài tạp san ở Canada, đặc biệt là tam cá nguyệt san Cỏ Thơm ở Virginia. Đây là sự đóng góp tích cực vào mùa văn chương ở hải ngoại dù đang lúc suy thoái, nhưng dù sao cũng vẫn còn tiềm lực như mớ than hồng âm ỉ cháy dưới lớp tro mỏng.
Cũng như ở tác phẩm đầu tay, mạch văn của Tiểu Thu ở quyển sau vẫn trơn tru và thơm ngát tình quê gợi trên dòng liên tưởng người đọc các loại hương du như dầu mù u, dầu dừa chẳng hạn, khi dùng chúng thắp đèn thì ngọn lửa sáng trắng và tỏa hương thơm man mác. Văn phong của Tiểu Thu thao thao như nước khe ngòi ở đồng rưộng, từ gò nổng nhấp nhô tuôn xuống trũng thấp, xuống ao, bàu, lung, vũng, bật tiếng reo thánh thót và trong sáng. Chị viết văn rất dễ dàng, rất thoải mái, tràn đầy hứng khởi như cánh diều, dải phướn, lá cờ uyển chuyển bay trong cơn gió giữa thinh không bát ngát. Chị ít khi dùng tới lối viết miêu tả (la description) mà thường dùng lối thuyết thoại (la narration). Cũng như cụ Hồ Biểu Chánh hay cụ Vương Hồng Sển , chị kể chuyện tuồn tuột và ngon ơ, như nước trà Huế từ bình tích được rót ron rỏn vào chén sứ mỏng tráng men bạch ngọc. Lối kể chuyện của chị thật hồn nhiên, thật nhí nhảnh và duyên dáng. Nhưng trong lối kẻ chuyện ấy, biết bao hình ảnh kỷ niệm thân thương được hiện ra từng nét tượng hình tuy khái quát mà thật sắc sảo; những lời thuật sự tía lia, vo vảnh một cách nồng mặn.
Đây là đoạn văn trong truyện ngắn ''Dấu Ấn Cuộc Đời''; hai người bạn gái tâm sự dưới mái nhà ở thành phố Montréal, sau nhiều năm xa cách. Họ nhắc lại thời trung học:
Trầm ngâm một chút Lan chợt hỏi Thư:
-- Mầy còn nhớ con Lệ Quân không? Nhà nó gần kho gạo.
-- Tao lạ gì. Hồi xưa nó học lớp tao. Rất thông minh. Cặp mắt nó vừa đen vừa sáng, lóng lánh như hai viên ngọc.
-- Tội nó lắm mầy ơi. Sau 75, tụi tao đã khổ mà nó còn khổ hơn. Vì chồng nó sĩ quan, lương còn chưa đủ sống, sau đó bị đi cải tao, nó làm vất vả nuôi con, bữa đói bữa no. Thằng chồng nó được thả về bèn vượt biên, hứa sẽ bảo lãnh vợ con sang sau. Ai ngờ qua được bên Mỹ, gặp mụ nặc nô cũng bỏ chồng. Hai đứa hạp nhau về cái món ... ''gì'' thì mầy biết rồi đó, bèn bỏ luôn vợ con bên nhà, đang mong ngóng từng ngày. Sau cùng con Lệ Quân rứt ruột cho con gái theo dì vượt biên. Chẳng hiểu lên tàu làm sao, mà con nhỏ rớt xuống biển hồi nào không ai hay! Thảm một cái là tới giờ, mỗi lần em nó viết thơ về, vẫn phải nói dối là con bé bình yên, khỏe mạnh. Không ai dám nói thật, vì nó có thể chết đi được Tôi nghiẹp, nó đâu còn trẻ trung gì để làm lại cuộc đời hả mầy. Cả đám tròm trèm nửa thế kỷ hết trơn rồi!
-- Ừ, ngày xưa nhìn nó lúc nào cũng cười, khoe hai cái răng khểnh, cặp mắt có đuôi. Ai ngờ đời nó thảm thương như vậy.
-- Chưa đâu mầy ơi! Mầy còn nhớ con Lan Đài bên lớp tao không? Con nhỏ tóc dài tới thắt lưng, điệu rơi điệu rụng đó. Sau này lấy tên Thanh, anh của nhỏ Hoàng lớp mầy. Sau 75, tên Thanh chạy tuốt qua Mỹ. Gia đình nhỏ Hoàng bị kiểm kê hết. Nghèo khủng khiếp! Mẹ nó từ một bà mệnh phụ phải gánh hàng ra chợ bán. Nhưng sau chịu không thấu, hai ông bà đều bịnh nặng. Túng cùng, con Lan Đài phải hy sinh lấy cán bộ dể đem tiền nuôi bố mẹ chồng. Nghe cứ như là chuyện cổ tích mầy há?
Thư bùi ngùi:
-- Tao chỉ mong đây là những chuyện không có thật.
Sau những tiếng thở dài sườn sượt thương cho số phận không may của đám bạn còn kẹt bên quê nhà. Cả hai im lặng một lúc, chợt Lan cười hi hí:
-- Con Lan Đài mặt coi hiền mà một cây đó mầy ơi. Tao nhớ năm đệ lục, đứa nào cũng ngố ơi là ngố! Một bữa, giữa giờ ra chơi, bốn năm đứa vây quanh nó, dĩ nhiên trong đó có tao, nó bèn lấy giọng nghiêm trọng: -- Tụi bây phải nhớ cho kỹ. Đừng bao giờ để cho tụi con trai hôn lên má. Biết tại sao không? -- Cả đám ngố lắc đầu, nó giơ một ngón tay lên điểm điểm trong không khí và gằn từng tiếng cốt để cho những lời vàng ngọc của nó đi sâu vào đầu óc ngu ngơ đang chờ đợi kia: -- là vì khi được hôn lên má bên nầy, nó sẽ hôn tiếp má bên kia. Rồi nó sẽ hôn xuống miệng và lần lần xuống cổ... và sau đó (con bé dài giọng ra)... mình sẽ không biết gì nữa..! -- Cả đám ngố nhìn nó một cách vừa khâm phục vừa sợ hãi.
Thư hình dung ra cái cảnh một lũ nhóc hỉ mũi chưa sạch, mặt nghệt ra vì sợ trước cái viễn ảnh bị con trai hôn mà cười chảy nước mắt. Nhứt là sự diễn tả của nhỏ Lan Đài tếu không chịu được. Chẳng bù với tụi nhỏ thời nay. Ở phòng mạch bác sĩ Quân, nhiều đứa mới 12 tuổi đầu mẹ đã phải dẫn tối xin thuốc ngừa thai.
Lối miêu tả một vận sự dưới ngòi bút chạy thoăn thoắt như ngựa phi nước đại của Tiểu Thu chỉ gồm vài nét khái quát rồi bắt chuyền qua lối miêu tả một vận sự khác. Cũng có thể chúng ta nghĩ rằng tác giả trong lúc kể chuyện, có áp dụng một nghệ thuật tả cảnh tàng hình, nghĩa là chị không trình bày những nét tạo hình biểu kiến (có thể để cho chúng ta thấy được) của bối cảnh. Nhưng trong lúc kể chuyện, chị vẫn có đủ năng lực đưa độc giả đứng trước một khung cảnh hay một hoạt cảnh linh động, một và nhân vật sống thực v.v.... Cứ như thế, chị có thể lần lượt tập hợp thành một bức tranh dù đơn sơ nhưng vô cùng linh hoạt. Đó là cách viết văn của các cây bút gốc Nam Kỳ rất hợp với tầng lớp độc giả có khiếu thưởng ngoạn đơn giản: họ chỉ cần thưởng thức cốt truyện, chỉ muốn thả tâm tư mình trôi theo từng diễn biến cốt truyện, không cần đi sâu vào những chi tiết miêu tả chi ly, tỉ mẩn đến độ mà họ cho là rườm rà vô ích. Với lối hành văn như thế này, Tiểu Thu đã có bạn đồng hành như Hải Bằng, Nguyễn Văn Ba... (nam), Phương Hoài Nam, Phượng Khánh... (nữ).
Rồi vừa làm bếp, Thư vưa hồi tưởng lại thuở còn con gái, ở cái xứ Kontum xa tít mù khơi. Quãng đời đo sao mà êm đềm, vô tư lự! Ai chưa ghé qua Kontum, sẽ tưởng rằng nơi đó chỉ có núi rùng trùng điệp, cùng đám người thiểu số (mà dân Việt thường gọi là Mọi cà răng căng tai). Nhưng nếu ở qua, thì sau này, dù có đi tận chân trời góc biển nào, một phần trái tim cũng đã bị xứ Kontum nhỏ bé đó giữ lại! Dân nơi đây là một sự pha trộn của ba miền Nam- Trung - Bắc. Phong cảnh đẹp một các thơ mộng với con song Dakbla bao bọc chung quanh thành phố (có thể thật hiền hòa vào mùa nắng và rất hung hãn vào mùa mưa. Những cơn lũ lụt lắm khi cuốn trôi cả nhà cửa lẫn súc vật hai bên bờ) và thật hùng vĩ với những núi xa xa, mau xanh lam, thuộc dãy Trường Sơn trùng điệp. Cảnh đẹp và lòng người hiền hòa. Cao nguyên lạnh nên con gái cũng da trắng má hồng, không thua gì các tiểu thơ xứ Hoa Anh Đào. Điểm đặc biệt nữa là Kontum cát trắng, không giống Pleiku, dù chỉ cách 50 cây số, mà đất lại đỏ quạch. Mùa mưa rât dơ, mỗi bước đi, cặp chân cứ muốn dính chặt xuống mặt đuờng. Thư theo ba mẹ lên Kontum năm 12 tuổi, đúng lúc vào Đệ thất trường sơ. Những ngày đầu phải diện chiếc áo dài trắng, bước chân đi sao vướng lạ lùng.
Đối với bé Thư ngây thơ đó, các chị Đệ ngũ, Đệ tứ, chị nào cũng đẹp như tiên. Nhưng vì tinh lẻ, nên sau lớp cao nhất là Đệ tứ, phần lớn các chị... theo chồng bỏ cuộc chơi hết trơn! Chẳng là Kontum có sư đoàn 22 Bộ Binh đóng. Sĩ quan đông, nên chỉ cái e lệ gật đầu là các cô trở thành bà úy, bà tá ngay ( học nhiều làm gí cho nó mau tàn phai nhan sắc! ).
Nếu đã từng đọc qua ''Sông Nước Tình Quê'' rồi đọc ''Tiếng Hót Vành Khuyên'', chúng ta sẽ thấy Tiểu Thu yêu thích tuốt luốt những địa danh, những xứ sở mà chị đa từng định cư như Cao Lãnh (Sa-Đéc), Kontum, Ngả Năm Bình Hòa (Sài Gòn), Montréal (Canada). Bất cứ địa danh nào mà chị cư ngụ trong một thời gian dù dài dù ngắn cũng cho chị nhiều kỷ niệm thân thương, niềm lưu luyến sâu đậm huống hồ la những món trân cam giai nhục cùng thổ sản thủy sản ở những nơi đó.
Trừ Montréal ra, các địa danh kia khi đi vào văn chương của Tiểu Thu mang ít nhiều bóng dáng tuổi trăng lên hoa nở của chị. Trăng phì mỹ và sáng như gương chiếu trọn tấm lòng thanh thản, hoa phô sắc bừng hương khắp một góc nhỏ của vườn đời của một cô nữ sinh yêu nồng nàn cuộc sống.
Tập truyện '' Tiếng Hót Vành Khuyên'' gồm 10 truyện ngắn. Xin tóm lược mỗi truyện ngắn như sau:
* ''Cô Nam Kỳ Đáng Yêu'': Đây là cảnh gia đình bà quả phụ Tân thuộc hạng địa chủ. Bà có 3 người con: Cậu trai lớn lưu học ở Sài Gòn. Cô cô gái kế tên Trang sau khi học xong lóp nhứt, lại phải ở nhà lo trau giồi nữ công phụ xảo theo truyền thống của các thiếu nữ theo lễ giáo gia phong thuở cựu trào. Còn cô con gái út tên Cúc thì còn ở quê nhà học bậc tiểu học. Vào dịp nghĩ Tết, Thanh rủ anh ban thân người Bắc tên Huy xuống quê mình ăn Tết với gia đình mình. Tại đây, Huy và Trang phải lòng nhau. Dù ngôn ngữ bất đồng, dù có thành kiến lệch lạc, nhưng cả hai vẫn yêu nhau và đi đến cuộc hôn nhân hạnh phúc. Kết cuộc câu chyện đẹp như chuyện cổ tích Đông Phương lẫn Tây phương hay như chuyện thiên phương dạ đàm của xứ Ba Tư. Ở đây, tác giả làm sống lại cái Tết cổ truyền trên dải đất Nam Kỳ Lục Tỉnh:
Những ngày sau đó Thanh, Huy dọn dẹp nhà cửa đón Tết. Trước sân nhà ông nội có cây lão mai. Năm nào Thanh cũng xin một cành cắm vào cái độc bình da rạn có vẽ bát tiên màu xanh, đặt bên cạnh bàn thờ ông Tân. Chiéc lư đồng được đánh bóng ngời. Mâm ngũ quả chưng trái cây tuơi hực hỡ. Trang o bế nồi thị kho nước dừa với trứng, cá lóc thiệt ngon để ba ngày Tết ăn với bánh tét. Vui nhứt là chiều ba mươi, cả nhà thức canh nồi bánh. Bánh tét nấu trong chảo đụn. Hai người mới khiêng nổi cái chảo đặt trên ba ông đầu rau ngoài sau hè. Phải canh chừng cẩn thận vì đôi khi bánh không cánh mà bay đi mất tăm, chủ nhà chỉ có nước đứng chửi đổng cho đỡ tức! Bốn người ngồi chung quanh nồi bánh. Củi khô nổ tí tách, thỉnh thoảng văng tàn đỏ như pháo bông. Thanh và Huy thay nhau kể chuyện vui khiến Trang và nhỏ Cúc cười lăn chiêng, quên cả buồn ngủ. Tới giao thừa thì bánh vừa chín. Bà Tân cúng giao thừa đón năm mới, rồi mọi người đi ngủ.
Sáng hôm sau khỏi cần kêu réo, ai cũng tự động dậy thiệt sớm để sửa soạn. Hai tên đực rựa chỉ diện quần tây, áo sơ-mi là xong. Thanh pha hai ly cà phê rồi ngồi nhâm nhi với Huy trong khi chờ đợi phái nữ làm đẹp. Bà Tân coi cũng khá mặn mà trong chiếc áo dài gấm màu huyết dụ, nổi bông mai lan cúc trúc vàng ánh. Cổ đeo chuỗi hột vàng, bông tai vàng. Chiếc cà rá hột xoàn chiếu lấp lánh nơi ngón áp út Mái tóc muối tiêu bới như thường ngày, chỉ có giắt thêm cây trâm vàng tám cẩn hột trai óng ánh. Nhỏ Cúc từ trong phòng chạy ào ra như cơn lốc:
-- Anh hai, anh Huy coi em đẹp không nè?
Thanh chọc em:
-- Nhỏ nầy miệng còn hôi sữa... bò mà đã điệu quá trời!
Cúc chu mỏ:
-- Xí em mà còn hôi sữa hả? Cho anh hay trong lớp em...
Huy lật đật chen vô:
-- Anh Thanh trêu bé thoi. Bảo đảm bé Cúc của anh xinh nhát. Chiếc áo đầm thêu hoa cúc tuyệt quá. Trông bé xinh như cô Công Chúa Bạch Tuyết.
Cúc ngơ ngác:
-- Công Chúa Bạch Tuyết là ai vậy anh Huy?
-- Là cô Công Chúa trong chuyện cổ tích. Thôi, để lần sau anh sẽ mang về tặng Cúc quyển ''Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn''.
Đang nói chợt Huy ngưng ngang, mắt nhìn sững về phía buồng của hai cô gái. Trang từ trong đó bước ra. Huy nhắm mắt lại rồi mở to ra tự nhủ có thể nào là cô Trang của những ngày trước đây??? Cô nàng thấy Huy nhìn mình đăm đăm thì mắc cở hai má đỏ hồng. Thanh quay qua thấy mặt Huy thộn ra coi thiệt tức cười, bèn đưa bàn tay quơ qua quơ lại trước mặt bạn, miệng hô lên:
-- Bớ ba hồn chín vía thằng Huy. Có lạc ở đâu thì về cho mau.
Trang mắc cở:
-- Anh hai. Bộ hổng chọc người khác anh ăn mất ngon hả?
Huy đập vai ban:
-- Thôi mày. Bữa nay mồng một, cấm chọc giận người khác.
Thanh làm bộ ngó trời ngó đất:
-- Thiệt la quá, đâu có mưa gió gì mà sao có người bị sét đánh trúng vậy kìa? Phải không Huy?
Huy cười đáp lững lờ:
-- Ừ, thì cũng có chút chút!...
Từ trước tới giờ, Thanh vẫn coi hai cô em còn nhỏ dại lắm. Bữa nay thấy thằng bạn thân bị em mình hớp hồn, Thanh mới để ý dòm kỹ và bỗng cảm thấy lần đầu chàng mới thật sự nhìn thấy em. Cái áo nhung màu hồng đào tôn làn da trắng mịn của Trang đẹp lên bội phân. Cặp lông mày nhổ khéo khiến đôi mắt đen huyền như to hơn. Nàng đánh phớt một lớp phấn hồng lên má và đôi môi cũng được tô lớp son hồng lợt. Cổ chỉ đeo cây kiềng vàng trơn. Tai đeo đôi bông hột xoàn nhỏ nhưng chiếu lấp lánh. Ngón tay giữa đeo chiéc cà rá nhận hột trai thật đơn sơ. Tóc chải kiểu tango phồng trước trán và mái tóc bữa nay được kẹp bằng chiếc nơ cùng màu áo. Ử, con nhỏ coi cũng đẹp quá, hèn chi...
* ''Tiếng Hót Vành Khuyên'': Đây là hồi ức của cô Mai, sau khi nghe bài hát ''Trường Làng Tôi'' trong buổi tối văn nghệ trường Chu Văn An.
Khi còn thơ ấu, cô bé Mai học ở các trường tại làng Tân An thuộc quận Cao Lãnh. Trường gồm hai lớp chót do thầy Tánh đảm nhiệm. Muốn đi đến truờng phải trẩy đò ngang do người cha nuôi của Mai đưa đò. Sau đó là ngôi trường chỉ có lớp năm do chú họ của Mai tên Thuận dạy. Chú vừa dạy học vừa hành nghề xem mạch hốt thuốc. Năm sau, Mai không rõ vì nguyên nhân gì mà chú Thuận dẹp trường. Nguời chú họ khác tên Sáu Lân mở trường gồm ba lớp. Trường có cô giáo Bích và cô giáo Liêu. Cô Bích và ông hiệu trưởng Sáu Lân phải lòng nhau. Nhưng cha mẹ chú bắt chú cưới cô gái nhà giàu tên Thu làm vợ. Chú đành chiều theo cha mẹ, nhưng vẫn còn thậm thụt dan díu với cô Bích. Bà vợ nổi ghen đánh ghen một trận, cô Bích phải xin đổi đi tỉnh khác.
Khi Mai lên lớp nhì, phải theo mẹ qua Phong Mỹ để tiếp tục việc học. Trường có bốn lớp năm, ba, tư, nhì. Thầy Hiệu trưởng Lương người Bắc tốt nghiệp trường Sư Phạm, khi đổi về Phong Mỹ có mẹ theo. Bà cụ nhứt định cưới cô Bạch thùy mị đoan trang cho con trai mình. Nhưng thầy đang tự tình với chị Kim Sa cùng ngồi lớp nhì với Mai. Đám cưới vừa tổ chức thì gia đình Kim Sa thưa với Hội Đồng Xã là thầy Lương dụ dỗ chị Kim Sa tơi nỗi chị mang bầu. Thầy bằng lòng bãi hôn với chị Bạch và chịu cưới Kim Sa, chịu trách nhiệm là tác giả cái bầu... giữa tiếng khóc bù lu bù loa của bà mẹ. Thì ra thầy âm mưu với Kim Sa tạo ra cái bầu chỉ ở cái miệng gia đình của Kim Sa mà không hề có cái thai nằm trong cái bầu. Và chẳng hiểu cả hai có làm cái vụ tiền dâm hậu thú hay không? Thế là bà cụ đành cưới chị Kim Sa cho con trai mình.
Truyện ngắn này được diễn tả bằng lời thuật véo von, nêm thêm mắm muối, rắc thêm tiêu tỏi hành ớt, đủ cả... Tác giả không quên kể luôn thằng bạn trong lớp ve vãn Mai, ngoài cách vẽ hình hoa lá rất đẹp mà còn ngó lén cô bé nũa. Văy Mai là ai? Hỏi tức là trả lời rồi. Vì có ai ngoài cô bé tiền thân của nữ sĩ Tiểu Thu chớ ai trồng khoai đất nầy?
* ''Thằng Luợm'': Đây là đứa con nuôi của vợ chông Sáu Hiến. Vợ thì thương yêu nó bằng tám lòng ngưòi mẹ, còn chồng thì chẳng đối xử khắc bạc gì với nó, phiền một nỗi mỗi khi say rượu ưa về nhà đánh chưởi vợ con. Chú Sáu không có việc làm nên ngày ngày đặt trúm, nôm cá để kiếm ăn. Còn thím Sáu giúp việc cho ông bà Hội Đồng Vị. Bạn thơ ấu của Lượm là con Hiếu. Cha của Hiếu nuôi rẻ con trâu của Hương Quản Cư. Trâu chết, cha của Hiếu không có tiền bồi thường, phải ngồi tù. Mẹ Hiêu bắt con chị lớn của Hiếu ở đợ dể lấy tiền độ nhật Đã vậy mụ sanh tâm ngoại tình với chú Tư Lầu. Biết Hiếu nghèo khổ, bữa đói bữa no, Lượm tìm cách giúp đỡ con Hiếu bằng cách san sẻ miếng ăn cho Hiếu.
Tình cờ trong lúc gây gổ với thằng bạn cùng lớp, Lượm bị nó chửi là con hoang Về nhà Lượm hỏi mẹ. Thím Sáu xác nhận vì không con nên bà xin đúa con trai người bạn của anh mình trên Nam Vang để nuôi lấy hên, để mai sau mình sẽ được chửa ghén sanh nở. Thằng con nuôi đó chính là Lượm vậy.
Nhà ông bà Hội Đồng Vị có cô con gái tên Tố Oanh cùng chồng con từ Sài gòn về chơi, lại còn rủ thêm bà bạn tên Ái Loan. Lượm được đề cử lau chùi bàn ghế để đón khách và nhứt là bậu bạn với con gái bà Ái Loan tên Cúc Phương lên mười cùng hai con cô Tố Oanh là con bé Tố Ái lên tám và thằng bé Linh lên mười. Lượm bày đủ trò chơi cho 3 đùa trẻ nên được chúng nó mén. Riêng bà Ái Loan cũng cảm thấy mình quyến luyến thương yêu thằng Lươm mà không hiể tại sao? Một hôm nọ vì muôn hái bông sen cho Tố Ái, Lượm ngã xuống ao sen, mình mẩy ướt mem. Bà Ái Loan cổi áo nó, lau mình mẫy cho nó, khám phá cái bớt son trên ngực nó. Bà sực nhớ thuở xưa mình là người đẹp tỉnh Bình Dương đã từng yêu một thanh niên tên Sơn; cả hai dan díu nhau, cô thiếu nữ Ái Loan kia có bầu. Cha mẹ nàng bảo bà vú đưa nàng lên Đà Lat sanh nở rồi đem con trai tư sinh kia cho một cặp vợ chồng ở tận Nam Vang và bắt buộc nàng phải lấy Thuần, bạn của Hưng (anh của nàng) vì cha mẹ Thuần và cha mẹ Ái Loan đã đính hôn cho hai trẻ.
Vụ cưỡng hôn chỉ tạo tấm thảm kịch đồng sàng dị mộng cho Ái Loan. Ròi sau đó Ái Loan mang bầu, Thuần khám phá ra vợ mình đã có con với người khác trước khi kết hôn với mình. Đứa con trong bụng nàng không phải là con đầu lòng của nàng, mà là thứ con rạ. Ái Loan sanh cho Thuần đứa con gái đặt tên Cúc Phương. Cả hai cứ gay cấn lục đục với nhau đi đến chỗ ly dị khi Sơn cùng dạy chung trường trung học với Hưng và tìm cách thăm Ái Loan với tư cách người bạn. Thuần ghen tưông dằn thúc nàng nên nàng xin ly dị, sống quãng đời cô đơn với con gái.
Thấy được bớt son trên ngực Lượm, bà Ái Loan liền về Sài Gòn hỏi bà vú của mình về việc cha mẹ mình đem con mình cho người khác ở nơi thật xa. Bà vú khai thiệt mọi sự. Ái Loan tìm gặp lại Lượm. Tác giả Tiểu Thu đã thay thế Ngọc Hoàng Thượng Đề giũ sổ một cuộc hôn nhân cưỡng ép và làm cho mẫu tử được trùng phùng. Chưa hết đâu, trong lúc Lượm đi ra đám bắp, chị thay Ngọc Hoàng bày cho nó gặp một cảnh đánh đô vật ạch đụi giữa chú Tư Lầu và má con Lượm trong ruộng bắp. Eo ơi, chị có bao giờ để cặp mắt nghịch ngợm của chị thoát khỏi chuyên lạ lùng đối với trẻ nít nhưng rất... hấp dẫn đối với người lớn đâu?
... Ăn cơm trưa xong, thằng Luợm theo lời dan của má nó, đi ra ruộng bắp của chú Tư Lầu mua một chục. Nó băng qua lộ mới thì tới ruộng bắp xanh rờn. Những trái bắp no tròn nằm xiên xiên trên những cái lá dài, uốn éo, phất pho theo chiều gió. Lượm tới cái chòi lá nhưng không thấy chú Tư Lầu đâu cả. Nó nghĩ chắc chú đang hái bắp đâu đây, nên cứ vạch lá đi theo luống dất giữa hai hàng cây thẳng tắp. Đang đi bỗng nghe có tiếng gì là lạ nên nó dừng lại ngó dáo dác. Hình như có tiếng rên rỉ đâu đây. Lượm vảnh lỗ tai lên nghe, rồi lần lần theo tiếng rên đi tới. Bỗng nó sựng lại vì cách chừng đó hai ba luống bắp, thấp thoáng sau những cây bắp sai oằn trái, rõ ràng là chú Tư Làu và má con Hiếu đang... dánh nhau! Hình như tiếng rên đau đớn là của má con Hiếu. Thằng Lượm hoảng hốt thối lui ra khỏi ruộng bắp, chạy một mạch về kiếm con Hiếu. Con nhỏ đang ngồi truớc hàng ba nhìn vơ vẩn ra đường, mặt lộ vẻ buồn thiu. Thằng Lượm vừa kéo tay con nhỏ vừa lắp bắp:
-- Theo tao lẹ lên. Má mầy với chú Tư Làu đang vạt lộn ngoài đám bắp.
* '' Mình Ơi!''. Đây là hai câu chuyện hôn nhân của một người đẹp tên Thanh Mây ở Đốc Vàng. Cô là con của bà Hương Hào Bá, chủ nhân tiệm bán hàng vải khá giàu. Qua cô bạn Ngọc Châu, cô được quen với cậu Út Nhơn, con ông bà Hội Đồng Đáng ở Long Xuyên nổi tiếng giàu có danh giá. Cậu tìm cách ve vãn Thanh Mây và kỳ kèo với mẹ để cưới Thanh Mây cho bằng đưọc. Bà Hội Đồng Đáng cũng chiều con nên đi dạm hỏi Thanh Mây cho con. Nhưng bà Hội Đồng Đáng tỏ lời chê bai với má của Ngọc Châu rằng bên bà Hương Hào Thi không môn đăng hộ đối với gia đình mình. Lời chê đó lọt vào tai cô Kim Anh, cô nầy từ lâu vốn thèm thuồng được làm vợ cậu Út Nhơn. Kim Anh tìm cách thuật lại lời miệt thị của bà Hội Đồng cho Thanh Mây nghe. Vì tự ái và cũng vì chưa yêu Út Nhơn sâu đậm nên Thanh Mây buộc mẹ hồi hôn. Sau đó ít lâu, qua trò mai mối của người bác dâu, Thanh Mây được bà Cả Trọng dắt con trai là cậu Tư Tân đến nhà bà Hương Hào Bá để coi mắt Thanh Mây cho cậu Tư. Cậu Tư nầy quá đẹp trai gặp một cô nàng Thanh Mây yêu kiều diễm lệ thì dĩ nhiên hai bên gây cú sét nổ rầm rĩ cho nhau. Thế là cuộc hôn nhân thành tựu tốt đẹp.
Nhưng khi về nhà bà Cả Trọng làm dâu, Thanh Mây mải mê lo việc quán xuyến tề gia nội trợ mà thiếu mặn nồng với chồng. Cậu Tư Tân ngoại tình với cô Kim Phụng. Cô này là con người tá điền của ông Cả Trọng. Mợ Tư Tân được cô em chồng thóc mách nên tìm cách bắt quả tang chồng mình tổ chức làm đám... cưới lén lút với Kim Phụng mà lễ cưới chỉ có chú rể và cô dâu. Mợ toan làm dữ thì ông chồng lẹ tay xớt vợ lên xe đạp đưa vợ về nhà để năn nỉ xin vợ tha tội.
Thấy vợ chịu mở miệng, cậu Tư mừng húm, đi bằng hai đầu gối, sấn tới:
-- Thôi, thôi mình tha thứ cho anh nghen mình. Anh thề mà. Cô Phụng thì cũng là chơi qua đường. Anh chỉ thương một mình thôi. Anh nói láo Bà bắn.
Mợ Tư trề moi, xí một tiếng dài thòn đượm mùi khinh bỉ:
-- Thiệt tình, Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê hồi xưa chắc cũng còn thua anh xa. Bữa nay rán mà suy nghĩ lại đi. Hồi nào tới giờ anh hứa, anh thề có bao nhiêu lần, mà có lần nào anh giữ lời được hay không?
Mợ càng nói càng tức tưởi. Cậu Tư vẫn còn quỳ, thấy vợ nói vậy thì lật đật ôm giò của mợ đang thòng dưối đất:
-- Không không, lần nầy anh nói thiệt. Anh thề độc cho mình tin.
-- Thôi đi. Độc tới cỡ nào tui cũng đã nghe đầy hai lỗ tai rồi. Nếu lần nầy anh thành tâm thì rán quỳ đó cho tới sáng.Tui mệt lắm rồi. Bây giờ để yên cho tui ngủ.
Mợ nói xong thì nhẹ hất cặp giò để rút khỏi vòng tay ông chồng đang ôm cứng ngắt. Không ngờ cậu cũng quyết bám trụ tới cùng, không chịu buông ra. Hai bên giằn co níu kéo một hồi, cái quần lãnh Mỹ A lưng thun láng mướt chống cự không nổi... Cậu thừa thắng xông lên , vì biết đây là cơ hội cuối cùng có thể làm xiêu lòng bà vợ đang giận cậu tái tê! Con bé Thanh My ra đời chín tháng mười ngày sau đó.
Vẫn là một đề tài cũ của các cây bút viết truyện đồng quê, vẫn là cách diễn tả nghịch ngợm với giọng điệu líu lo trong bút pháp của tác giả, nhưng cái hấp dẫn của câu truyện như lúc nào cũng mới đối với kẻ tha hương ôm nặng tình cố hương thuở còn bán khai với tập tục cổ truyền và với thứ tình cảm đơn giản mà lại đượm đà niềm thiêt tha của dân tộc.
* ''Thoáng Hương Xưa'': Cùng với ''Dấu Ấn Cuộc Đời'', truyện ngắn này là đề tài sâu sắc nhất trong tập truyện. Truyện đầu như sau: cô Kim, thư ký của Bác sĩ Thanh. Trong cuộc du ngoạn ngắn, cô đi ngang qua ngôi nhà đóng cửa kín mít của cặp vợ chồng bổn xứ là Jacques và Marie Trudeau. Họ đã lần lượt qua đời cách đây ba tháng. Cả hai cứ cãi vả hà rầm suốt trên 60 năm chung sống. Thế mà sau khi chôn cất chồng xong , bà Marie nhứt định không ăn uống để từ từ theo chồng về bên kia thế giới.
Trở về phòng mạch, Kim gặp người da đen tên Valentin làm việc ở Caisse Populaire đến xin khám bịnh nhức đầu vì theo lời hắn, dù làm việc siêng năng, nhưng tại sao hắn vẫn bị mấy cô bạn đồng nghiệp da trắng chê hắn ta lười biếng. Hắn nhứt đầu vì lời chê bất công ấy đã đành mà cũng có thể hắn nhức đầu vì tại sao người da trắng khinh thường người da đen.
Người đến thứ hai là ông già Phan. Ông cho Kim biết vợ chồng ông về viếng tỉnh Châu Đốc, nổi tiếng có nhiều mắm ngon nhất Việt Nam. Bà vợ mê ăn đủ thứ mắm nên bị đứt mạch máu chết đi để ông ở lại cô đơn.
Rồi tên Jacques Gagné vốn là dân Canadien 100 % và cũng vốn là thứ ký sinh trùng ăn bám xã hội. Thân thể, tóc tai hắn bẩn thỉu; mùi hôi nồng nặc tỏa ra tùm lum tà la. Hắn đến xin thuốc ngủ vì từ ngày chí tối, hắn chỉ coi Tivi và uống bia lu bù.
Đang lúi húi xếp hồ sơ thì Kim nghe cô bạn Mai báo tin gia đình vợ chồng cô Nga tan nát vì bà mẹ chồng ó đâm dèm pha để gây xào xáo cho vợ chồng con trai mình. Cho nên từ chỗ cãi vả đi đến chỗ thằng con điên tiết đánh đập vợ thừa chết thiếu sống. Nga phải nhờ cảnh sát can thiệp và được cùng đứa con tạm trú nơi cơ quan bảo vệ phụ nữ. Còn ông chồng bị đưa vào bịnh viện tâm thần. Ác nghiệt cho hoàn cảnh hơn nữa là Nga đang mang bầu được 3 tháng.
Về những tấm thảm kịch gia đình kiều bào, Kim nhớ lại một ông già nọ được con bảo lãnh qua Canada. Ông vui sống với công việc làm vườn. Dè đâu một ngày nọ ông bị cảnh sát hỏi tội vì ông đái bậy trên sở vườn của mình nên bị người hàng xóm thưa với các đấng ''bạn dân'' rằng ông cốt ý ''khoe của''. Ông già tức giận đòi về Việt Nam để được tự do ''tưới cây'', chẳng sợ ai làm mỏng làm dầy, làm khó làm dễ...
Người khách sau cùng là cô nữ quái bụi đời vốn dân bản xứ đến xin thuốc ngủ lẫn thuốc an thần vì thằng bồ của ả đánh cướp nhà băng bị tù nên thần kinh ả căng thẳng.
Cuối truyện là Kim bắt gặp mùi nước hoa ở đâu thoảng đến. Kim nhớ đến cô bạn chí thân ngày xưa tên Lệ Hồng. Cô ta chỉ thích nước hoa hiệu Tabu, không chịu thay dổi thứ nào khác. Kim nhớ luôn bao kỷ niệm giữa Kim và cô ta trên đất nước quê hương trong tuổi thanh xuân lãng man mộng mơ.
*''Dấu Ấn Cuộc Đời:' Trong truyện ngắn này, tác giả Tiểu Thu dựng hai cảnh chị em thỏ thẻ trong đêm dưới mái nhà của cô Thư tại thành phố Motréal (Gia-nã-đại). Lần đầu, Thư và Lan đôi bạn cũ học trường sơ ổ Kontum sau nhiều năm xa cách được dịp hàn huyên trong chuyến Lan đến Montréal viếng Thư. Lan kể hoàn cảnh bi đát của hai cô ban chung là Lệ Quân và Lan Đài. Xin xem lại đoạn kể được bút giả trích ra ở phần đầu bài viết này. Trong đêm tâm sự đó Thư có nhắc tới Kim Ánh, cô bạn chung thứ ba vốn là đầm lai xinh đẹp. Trước đó, Kim Ánh có phone từ Mỹ cho Thư có hẹn qua Motréal thăm Thư. Ít lâu sau đó, cũng lại có màn chị em thỏ thẻ đêm thanh vắng. Kim Ánh kể lại cuộc đời ba chìm bảy nổi chín cái lênh đênh của mình cho bạn nghe. Truyện kể như sau: Kim Anh nghe lời đường mật và tin tưởng cái xảo kế điêu mưu của Minh để gặp cảnh chồng chúa vợ tôi, gặp bà mẹ chồng lựu đạn nên cực nhục trăm bề. (....), Minh đi học tập. Bà mẹ chồng sợ con dâu lai Âu của mình sẽ gây cho bọn CS làm khó dễ mỉnh nên đuổi 8 mẹ con Kim Ánh ra khỏi nhà. Sau thời gian điêu đứng, Kim Ánh gặp quới nhơn giúp đỡ buôn bán thuốc Tây nên sống khá vững. Cô gặp được anh chàng quân tử tên Phương giúp cho hai đứa con trai đầu của cô vượt biên bằng đuờng bộ. Còn hai đứa con kế trong chuyến 6 mẹ con vượt biên bằng đường biển thất bại, bị mất tích. Sau đó, Kim Ánh được Hội Hồng Thập Tự cho biết hai đứa con mất tích kia đã được một gia đình bên Mỹ bảo lãnh. Lần vượt biên thứ ba, Kim Ánh lại bị thất bại, bị tù, nhưng nhờ chàng quân tử tên Phương kia tim cách giúp cô được phóng thích để cùng nhau trở thành vợ chồng và cùng vượt cbiên trót lọt qua Mỹ. Sau thời gian lận đận trong cuộc mưu sinh tại xứ người, nhờ nghề bán fastfood với các món ăn Việt Nam mà Kim Ánh trở nên giàu có dể nuôi 10 đứa con (8 đứa con em, 1 đứa con anh và 1 đứa con của chúng ta).
Bao giờ cũng vậy, Tiểu Thu không bao giờ ly khai lối viêt tếu đậm tếu lợt. Xen giữa từng đoạn kể lể từng tấm thảm kịch kinh hoàng trong cuộc đời, hễ được dịp tốt là chị xỉa vài câu trào lộng, vài cụm tu hoặc vài ngữ pháp nghịch ngợm, ranh mãnh ranh mương. Cho nên những kẻ nào ''lỡ'' đọc văn chương của chị, bút giả bảo đảm chẳng có ai có thể ngủ gục trên trang sách cả. Đó là cái triết lý vui sống luôn luôn tươi rói của chị: Dù đời có ra sao thì hãy cứ vui lên, vui được lúc nào hay lúc ấy, dù vui một ngày, dù vui một giờ, ''dẫu một phần ba phút, góc tư giẫy'' (nói theo Nguyễn Bính) đi nữa.
* ''Dưới Cội Sung Già'': Truyện gồm hai thế hệ: đời bố mẹ và đời con. Số là Hậu và Lãng là đôi bạn thân; cả hai cùng đeo đuổi Cẩm Vân. Rốt cuộc, Hậu chiếm được trái tim người đẹp và cưới Cẩm Vân làm vợ. Lãng đau khổ, cưới Mai làm vợ nhưng không yêu vợ. Cẩm Vân sanh cho Hậu một trai, đặt cho nó cái tên Tú . Còn Mai sanh cho Lãng một trai tên Đức và một gái tên Liễu Nhu. Nhưng khi sanh đứa thứ ba xong, Mai chết trong lúc Lãng ở sòng bạc. Chàng quyết tâm báo thù Hậu, dụ dỗ Hậu bài bạc. Cẩm Vân tìm Lãng năn nỉ Lãng đừng đưa chồng mình ngã vào bức tường thứ ba trong tứ đổ tường (tửu, sắc, tài phiến). Nhưng vốn đa lập tâm báo thù thì Lãng vẫn tiếp trục đẩy bạn vào con đường cùng của thú đỏ đen. Rốt cuộc, vì tiêu tan sự nghiệp và thiếu nợ như chúa Chổm, Hậu tự tử. Cẩm Vân kìa khỏi tỉnh nhà, sau khi thống trách Lãng dữ dội. Ngôi nhà của Hậu bỏ hoang, người trong xóm đồn rằng đêm đêm có vong linh Hậu hiện về.Vài năm sau, Cẩm Vân tái giá với một phú thương Hoa Kiều ở Nam Vang, nuôi con trai là Tú ăn học thành tài.
Tú trở về sửa sang căn nhà của thân phụ, nhưng giấu người lối xóm tên thật của mình. Chàng xưng là Hoàng, tìm cách quen biết Liễu Nhu, con gái của Lãng và Mai. hiện giờ cô thiếu nữ ôn nhu xinh đẹp kia đang ở chung với bà nội và người vú. Vtrong khi quyết chiếm đoạt trái tim của nàng. Tú nhận thấy Liễu Nhu là một cô thiếu nữ hiền hậu, giàu lòng nhân từ, thường giúp đỡ dân nghèo trong xóm. Lúc đó chàng mới thú thật mình là Tú rắp tâm về Sa Đéc để quyến rũ nàng ô danh xú tiết bằng cách đưa nàng vào cảnh mang hoang thai để báo thù kẻ làm hại cho chàng tự tử, cua nhà chàng tan nát. Chàng còn cho Liễu Nhu biết rằng sau khi suy đi nghĩ lại, việc báo thù rửa hận chỉ gây thêm cái ác nghiệp oan oan tương báo mà thôi; huống hồ chàng chân thành yêu nàng bằng cả con tim nguyên vẹn. Vả lại, Tú cũng đuọc biết ông Lãng cũng đã từng tỏ lời hối hận với bà Cẩm Vân trước khi bà bồng con đi xa. Tú xin cưới Liễu Nhu làm vợ và được nàng nhận lời.
Cốt truyện hơi giống các cuốn phim tình cảm xã hội Ý-đại-lợi đã từng đưa tên tuổi các diễn viên Ý và diễn viên Âu Châu, Mễ-tây-cơ lên đài vinh quang như Marta Toren, Maria Félix, Yvonne Sanson, Yvonne Furneaux, Nadia Gray, Anna Maria Ferrrero, Gianna Maria Canale, Lucia Bose, Eleonora Drossi Drago, Eva Bartok, Rossana Podesta, Silvanna Pampanini, Antonella Lualdi... (nữ), Amédéo Nazzari, Ettore Manni, Jacques Sernas, Franco Interlenghi, Tomas Milan, Pierre Crossoy, Vittorio Gasmann, Pedro Armendariz (nam)... Nhưng ở đây, tác giả tiết kiệm súng đạn, gươm giáo, máu me và ác mộng hơn. Nhờ cái kết cuộc chói chan màu hồng hạnh phúc nên các độc giả bà già trầu têm cho mình một miếng trầu ngon, các độc giả ông già ống vối nhồi thêm thuốc lá Gò Vấp vào tẩu thuốc, các người trẻ tuổi trổi giọng du dương ; họ vừa hút thuốc hoặc ăn trầu, ca hát vừa hả hê thưởng thức cái hậu tốt lành của truyện kể dưới ngòi bút của nhà văn nữ đất Cao Lãnh này.
* ''Đời Còn Có Nhau'': Đây là tình sử của cậu Út Hào, con ông Hội Đồng
Phú, tốt nghiệp trường Đại Học Dược Khoa về quê vinh quy bái tổ. Cha mẹ cậu đã chọn cô Thu Thảo dung nhan sắc sảo, con gái bác sĩ Đương cho con mình cưới làm vợ. Nhưng khi về quê nhà, cậu nhận thấy Lụa, con gái mụ tớ Hai Nhiên trổ mã mỹ miều , đâm ra thèm khát cô ta nên tìm cách quyến rũ cô ta, chiếm đoạt tấm băng trinh cô ta. Sau đó, cậu cưới Thu Thảo. Hai vợ chồng chẳng những môn đăng hộ đối, lại còn đẹp đôi nên cả hai mê man tàng tịch với nhau. Lụa sau lần ân ái với cậu Út Hào lỡ mang thai. Ông bà Hội Đồng cho mẹ con thím Hai Nhiên một số tiền bảo họ bỏ đi cho thật xa.
Ai dè trong chuyến đi ra Vũng Tàu hứng mát, cậu Út Hào bị tai nạn xe hơi, rồi bị chứng bất lực sinh lý. Từ đó vợ chồng cậu sống trong cảnh đồng sàng dị mộng. Thu Thảo thường vắng nhà để lui tới với người ban trai cũ. Bà Hội Đồng Phú buồn rầu lo sợ con mình bị tuyệt tự và hối hận đã đuổi Lụa ra đi nên gia đình bà bị Trời trả báo. Về phần Lụa, nàng đã yêu Hào khi vừa mới lớn. Tuy bị Hào đánh trống bỏ dùi nhưng nàng tự hứa sẽ ở độc thân suốt đời để nuôi con nên người. Không được làm vợ Hào, nhưng có một đứa con với Hào là nàng đủ mãn nguyện rồi. Lụa sanh một đứa con trai đặt tên là Hiệp. Ai ngờ má con của thím Hai Nhiên ăn nên làm ra, có cơ ngơi vững chắc, tuy không giàu có gì. Tình cờ, Hào gặp Lụa, hiện làm chủ sạp vải ở ngoài chợ Bến Thành. Cuộc tái ngộ dần dà đi đến chỗ thông cảm nhau, mọi sần sưọng gút mắc tan rã. Nhưng Hào nghĩ mình bất túc sinh lý nên không dám đòi hỏi gì ở Lụa, chỉ mong được nhìn nhận Hiệp là con chính thức của mình. Nhưng Lụa gieo cho chàng một hy vọng rằng nàng sẽ đưa chàng tới ông danh y giỏi khoa cham cứu để giúp chàng lấy lại một thể chất bình thường. Câu chuyện chấm dứt ở đây.
Ở truyện ngắn này, Tiểu Thu đề cao tấm làm cao đẹp của mẹ con thím Hai Nhiên. Chị không đả kích hay buộc tội Thu Thảo. Hào dưới ngòi bút chị là kẻ không luyện đạt nhân tình thế thái. Khi du học ra ngoại quốc, chàng đã làm tình với Mylène, em gái của bạn chàng, sống cuộc đời tình dục phóng khoáng, không yêu nhau nữa là anh đi đường anh, tôi đuờng tôi. Với Lụa, chàng chơi hoa cho biết mùi hoa, rồi bỏ mặc nàng gánh vác hệ lụy mà chàng quên rằng ở xứ ta, người đàn bà sa ngã khó làm lại cuộc đời. Vậy mà Lụa can đảm gánh vác cái tình yêu đơn phương của mình, không oán trách Hào. Còn thím Hai Nhiên bị tên hào phú cưỡng bức mới sinh ra Lụa, cũng không oán trời trách đất. Gặp được chú Hai Nhiên cưới làm vợ rồi ít lâu lại gặp cảnh góa bụa, thím nhận nuôi thằng Cầm, đứa con riêng của chồng, coi nó như con ruột. Và dù bị bà Hội Đồng cho một ít tiền rồi đuổi đi, thím cũng không oán trách bà vì thím chỉ nghĩ lúc thím chửa hoang đẻ lạnh, bà đã ra tay cứu giúp thím.
Đàn bà Việt Nam dưới ngòi bút của Tiểu Thu trội hơn đàn ông Việt Nam nhiều.
* ''Hạnh Phúc Nơi Nào?'': Đây là cuộc đời của Hoa, một thiếu nữ bạc phuớc, đa truân đa khổ lụy. Sớm mô côi mẹ phải ở với cậu ruột, bị mợ dâu ngược đãi. Sau đó, đuợc bà Năm, một nghiệp chủ giúp đỡ cưu mang nên khi lớn lên, từ con Xíu ốm o lu lít trở thành một cô Hoa xinh đẹp. Rồi cô yêu một tên
Chệt lai đẹp trai tên Hiếu, bị bà mẹ y ta chửi mắng bêu xấu nên cả hai phải chia tay. Cô yêu hắn chân thành sâu đậm, còn hắn yêu cô hòi hợt. Sau đó cô yêu tên Hưng, cũng bảnh trai, cũng hời hợt. Khi cô mang thai, hắn toan bỏ mặc cô với cái bào thai, nhưng nhờ bà Năm can thiệp, hắn phải cuới cô, rồi lén lút đi đêm với một cô chiêu đãi viên ở quán Chiều Tím. Sự tan vỡ không sao tránh khỏi. Bà Năm giúp Hoa mở cái sạp bán cơm ngoài góc chợ. Rồi cô lại yêu một tên trung sĩ từ Nha Trang đổi vào. Hắn có vợ nhưng bảo rằng vợ chết. Cả hai ăn ở nhau rất hạnh phúc. Rồi mụ vợ hay đuợc đến phá tan nát ổ uyên ương. Văy là mối tình thứ ba kết liễu một cách tức tưởi. Trong số thực khách ăn cơm ở sạp có chàng đạp xích-lô tên Minh thì rrái lại yêu Hoa chân thành. Cảm tình của hai nhen nhúm dần dà mới tượng hình thành tình yêu. Cả hai toan đi tới hôn nhân. Nhưng Minh gặp tai nạn xe cộ : một chiếc quân xa đụng chiếc xích lô của Minh. Đầu Minh bị đập vào chân cột đèn. Tác giả buông lửng ở ây, không cho biết Minh sống chết ra sao.
Đây là một truyện ngắn duy nhất có cái kết cục bi thảm trong tập truyện ''Tiếng Hót Vành Khuyên''. Hoa, cô gái luôn đi tìm kiếm hạnh phúc không nhàm mỏi. Nhưng hạnh phúc như bức thư trao lầm hết địa chỉ nầy sang địa chỉ nọ. Nhưng tới khi thư trao trúng địa chỉ thì người nhận thư chưa kịp đọc hoặc chỉ đọc sơ qua thì bị định mệnh tàn ác giáng xuống đương sự một cú ngã quỵ. Trong pham vi truyện ngắn, tác giả có nhiều tài liệu, nhiều chất liệu nên khó phô diễn văn tài. Cho nên chị đành dùng văn pháp thuyết thoại. Nếu ''Hạnh Phúc Nơi Nao?'' được trình bày tỉ mẩn hơn và diễn tả chi ly hơn sẽ hành một truyện dài.
* ''Đời Vẫn Đẹp'' : Chàng thanh niên tân học tên Phát và cô Xẩm lai (cha Tàu mẹ Việt) yêu nhau. Phát muốn cưới Mỹ Linh, nhưng ông bố Chệt Xương đã hứa gả con gái mình cho anh chàng Chệt Quân. Vả lại, người Tàu vốn chủ trương thà cưới vợ dị chủng cho con trai mình , còn con gái mình thì phải kết hôn với người đồng chủng. Dù được bà vợ năn nỉ cho tới gảy lưỡi, dù Mỹ Linh có kháng cự cách nào đi nữa, nhưng lão Chệt Xương vẫn giữ lòng dạ cứng hơn gang và dẻo hơn thép. Túng thế, Tâm người anh con nhà bác của Phát bày kế cho Mỹ Linh khai dối với cha rằng nàng đã có mang với Phát. Văy là nhờ cách liều lĩnh của Mỹ Linh mà ông cha đành hồi hôn với Chệt Quân.
Đề tài của truyện ngắn này cũng chỉ tầm thường thôi, nhưng tác giả xen lác đác trong lối kể chuyện của mình vài đoạn tả cảnh, tả người. Vả lại, lối diễn tả mọi tình tiết của tác giả rất duyên dáng nên câu chuyện có một hấp lực mặn mà. Như vậy, chị Tiểu Thu cho chúng ta biết rằng: trong lối hành văn, chọn đề tài không quan trọng bằng diễn tả đề tài. Đề tài dù có hay ho cho cách mấy thì cũng như một miếng thịt tươi ngon mà cách diễn tả vụng về thì món ăn sẽ dở tệ. Còn đề tài xoàng xĩnh mà được diễn tả khéo léo thì đó cũng như miếng thịt kém phẩm chất nhưng nhờ gặp tay đàu bếp cừ khôi, nó sẽ biến thành một món ăn ngon như đuợc làm bằng giai nhục trân cam.
* * *
Cái đặc điểm trong văn chương của Tiểu Thu là cảnh vợ chồng âu yếm nhau. Thường là bà vợ nũng nịu còn ông chồng thì mơn trớn vuốt ve, vỗ về. Cảnh lứa đôi mùi mẫn với nhau một cách mặn nồng như diễn ra trước mắt người đọc làm họ có thể liên tưởng đến Điêu Thuyền õng ẹo với Lữ Bố trong tuồng ''Phụng Nghi Đình'', đến màn Tây Thi giỡn nhột vua Ngô Phù Sai trong vở ''Tây Thi Gái Nước Việt''. Tác giả dùng lối đối thoại đậm đà kịch tính để thêm mặn muối cay gừng và xông ướp thơm tho mùi trầm hương ngọc quế vào câu chuyện.
Đây là một pha vợ Nam chồng Nam đùa cợt nhau trong truyện ngắn ''Cô Nam Kỳ Đáng Yêu''. Tác giả không vẽ ra một hoạt cảnh với những cử chỉ những động tác gơi hình, mà chỉ dùng lời nói bông đùa, pha lửng một cách nghịch ngợm. Đó là những lời đối thoại trong các vở hài kịch nhẹ nhàng, nhưng ý tình nào kém nồng mặn:
Cúc như chọt nhớ ra điều gì, cặp mắt chợt sáng như hai đèn pha:
-- Anh ơi, em nhớ ra rồi. Năm nay vừa đúng 40 năm đám cưới chị Trang.
Tụi mình sẽ dành cho ảnh chỉ một ''sự ngạc nhiên'' thích thú. Em sẽ tổ chức một bữa tiệc kỷ niệm tưng bừng. Mời đám bạn bè của tụi mình tới hát karaoké cho vui. Anh thấy vợ anh có sáng kiến hay chưa?
Hưng giở giọng Út Trà Ôn:
-- Hỡi ơi, có ai hiểu vợ anh hơn anh nữa??? Ừa, anh thấy cái hổn danh mà hồi anh Thanh với chị Trang đặt cho em ''nhỏ Cúc xí xọn'' sao mà đúng ''một chăm phần chăm''...
Cúc véo vô bắp vế Hưng một cái đau điếng:
-- Cho chừa cái tật nói xấu vợ! Thôi, ra coi hockey đi cho em dọn dẹp.
Chuyện chị Trang hạ hồi phân giải.
Hưng đứng lên một cái rột:
-- Xin tuân lịnh... bà lớn!
Cúc trợn mắt:
-- Nè, bộ muốn có... bà nhỏ hay sao mà bữa nay phong tui lên chức bà lớn vậy cà? Nói thiệt đi cho tui liệu... mua xăng!
-- Chi vậy cưng?
-- Chèn đéc ơi! Bộ anh quên chuyện cô Hườn rồi hả?
Nghe tới đây Hưng vội vàng đưa tay lên trời:
-- Xin Thượng Đế làm chứng cho con. Đời con chỉ yêu có một nàng. Đó chính là ''cô Cúc xí xọn''!
Cúc cười xòa:
--Thôi được rồi. Tha cho anh.
Hai đứa nhỏ đưa mắt nhìn nhau: Thiệt hết ý hai cái ông bà già nầy!!!
Còn đây là cảnh vợ Nam chồng Bắc đang âu yếm cũng bằng ngôn ngữ ỡm ờ, vui nhộn trong truyện ngắn ''Tiếng Hót Vành Khuyên''. Ông chồng có lẽ là Bắc di cư sống lâu ngày trên đất nước Nam Kỳ Lục Tỉnh, cố tập nói tiếng Nam Kỳ cho đẹp lòng người vơ gốc Nam Kỳ. Nhưng đương sự nói không hoàn toàn bằng ngôn ngữ Nam Kỳ, thỉnh thoảng chen một vài tiếng Bắc. Điều đó cũng như trong mớ giá sống có lẩn lộn vàisơi rau muống chẻ:
Sáng hôm sau dậy trễ, Mai ra bếp đã thấy Tiến đang ngổi nhâm nhi ly cà phê phin bốc khói thơm lừng, vừa đọc báo. Thấy vợ ra Tiến buông tờ báo xuống hỏi:
-- Làm gì mà đêm qua cứ lăn lộn hoài vậy cưng?
Mai bưng ly cà phê của chồng uống một hớp:
-- Nghe bài ''Trường Làng Tôi'', em nhớ tới những mái trường xưa dưới quê lúc còn nhỏ. Nhớ muốn chết luôn!
Tiến giả bộ hốt hoảng:
-- Ấy ấy, nhớ thì cứ nhớ nhưng đừng chết. Bỏ tui cu ky một mình tội lắm à nha!
Mai xì một tiếng:
-- Người ta nói vậy thôi, chớ bộ ngu sao chết ! Còn anh nữa, sao không bao giờ em thấy anh nói nhớ về miền Bắc ?
Tiến lấy giọng bi thảm :
--Ối giời, bà xã yêu quí, bộ bà tưởng ông chồng bà có trái tim bằng sắt hay sao chứ? Nhiều khi tui nhớ da nhớ diết cái xứ Hưng Yên. Nhất là vào mùa hè, mỗi khi bà mua nhãn về ăn, là lòng tui đứt ra từng đoạn (?!) vì nhớ tới mấy cây nhãn ngon không thể tả trong vườn bà ngoại ngày xưa...
-- Thơ mộng dữ hôn! Nhớ gì mà không nhớ, chỉ nhớ mấy cây nhãn!
Tiến cười hà hà:
-- Cưng ơi, cổ nhân có phán rằng: có thực mới vực được đạo. Chà, nói đến đây anh lại cảm thấy đói bụng. Thôi, đi hâm nồi bún riêu đi cưng.
Mai vừa mở tủ lạnh vừa nói:
-- Thưa ông tướng có ngay. Trong khi chờ đợi, gọi dùm mấy nhóc tì ăn luôn.
Tiến đứng dậy cái rụp:
-- Xin tuân lệnh bà nội... tướng!
Ngôn ngữ và nghệ thuật đối thoại trong các tác phẩm truyện ngắn của Tiểu Thu là thứ ngôn ngữ phổ thông trong giới trung lưu cấp thấp trở xuống, nhưng vì chúng duyên dáng quá đỗi nên giới thượng lưu dùng để đùa nghịch cùng với những bạn bè chí thân hay trong khuê phòng với người yêu của mình. Chỉ có Lê Xuyên hồi trước 1975 và Nguyên Đức Lập ở hải ngoại mới đạt được thứ ngôn ngữ và nghệ thuật đối thoại thắm thiết hồn thiêng đất nước Nam Kỳ như thế.Bên phái nữ chỉ có Tiểu Thu mà thôi. Xin đọc tiếp đoạn chót của truyện ngắn ''Mình Ơi!'':
Tối đó, dọn dẹp xong xuôi, mợ Tư vô buồng ngồi trước bàn phấn, xõa mớ tóc đen mun ra chải. Cậu Tư vô sau, rón rén tới đứng sau lưng vợ, đưa tay vén mớ tóc, cúi xuống hôn lên cái gáy trắng ngần như ngó sen. Mợ Tư dựa đầu vô ngực chồng, cặp mắt lim dim, cảm thấy niềm hạnh phúc dâng lên rào rạt. Có tiếng cậu thì thầm bên tai:
-- Anh có cái này tặng cho mình. Anh đưa trước để tới Tết mình đeo.
Nghe nói vậy mợ Tư bừng mắt, ngồi thẳng lên. Trên tay cậu Tư có cái hộp bằng nhung đỏ. Cậu mở nắp hộp, đưa tới trước mặt vợ. Đôi bông tai nhận hột xoàn chiếu lóng lánh. Mợ Tư cầm cái hộp từ tay chồng mà cảm động đến nghẹn lời. Cặp hột xoàn nhỏ hơn đôi bông hồi xưa bà Hội Đông Đáng đi cho mợ rất nhiều. Nhưng đây là quà tặng của người chồng mà mợ thương yêu nhứt đời. Nhớ lại hồi đám hỏi rồi đám cưới với cậu Tư, bà Cả cho mợ đồ trang sức bằng vàng y. Bạn bè, chị em trong gia đình ai cũng chê là nhà quê, nhưng mợ đâu có thèm để ý. Miễn mợ lấy được cậu Tân là hạnh phúc rồi. Những thứ khác chỉ là chuyện nhỏ! Bây giờ mợ đã có hột xoàn để chưng diện với chị em. Có thua gì ai đâu? Hột xoàn lớn nhỏ thì quan trọng gì, miễn cậu yêu thương nhau nồng nàn là đủ.
Mợ Tư đưa cặp mắt ướt rượt nhìn chồng thỏ thẻ:
-- Mình ơi, Tết nầy em là bà vợ sung sương nhứt. Em sẽ đeo đôi bông nầy cho mấy con em xí xọn của em hết chê bai nhún trề. Tụi nó chê em đeo vàng quê quá là quê! Cám on mình.
-- Cám ơn suông thôi sao? Phải có cái gì cụ thể hơn mới được.
Cậu Tư vừa nói vừa mơn trớn bờ vai tròn trịa của vợ. Mợ Tư đặt cái hộp nhung lên bàn phấn, quay lại đưa hai cánh tay nuột nà ôm lấy cổ chồng nũng nịu:
-- Mình biết lúc nào em cũng chìu mình mà... Mình thích là em vui rồi.
-- Vậy anh tắt đèn à nghe.
Cău vừa dứt lời thì ngọn đèn ống khói để trên bàn tắt phụt. Trong phòng vẫn còn sáng lờ mờ của ánh trăng mươi sáu chiếu qua rèm cửa sổ. Còn mười lăm ngày nữa là Tết, mợ nghĩ thầm. Chưa bao giờ mợ mong cái Tết đến sớm như bữa nay. Cău Tư nửa dìu nửa ẳm vợ lại giường.
Có tiếng mợ Tư cươi khúc khích, rồi kêu lên: Mình ơi!!!
Vẫn là một đề tài cũ của các cây bút viết truyện đồng quê, vẫn là cách diễn tả nghịch ngợm với giọng điệu líu lo cua tác giả, nhưng cái hấp dẫn của câu truyện như lúc nào cũng mới đối với kẻ ta hương ôm nặng tình cái cố hương thuở còn bán khai với tập tục cổ truyền và với cái tình cảm đơn giản mà lại đượm đà tình ý thiêt tha của dân tộc.
* * *
Những truyện ngắn của Tiểu Thu giống như truyện dài của Hồ Biểu Chánh, của Duyên Anh, của Nguyễn Đình Thiều đều có ngôn ngữ điện ảnh (langage cinématographique) từ diễn biến câu chuyện đến lời đối thoại. Nếu nhà viết kịch bản (le scénariste) nào đó có thể kéo dài một ít chi tiết trong truyện thì có thể đưa cho điện ảnh gia thực hiện thành một cuốn phim với đủ hỉ, nộ, ái ố. Điều này thì đâu phải là vấn đề khó khăn. Những truyện dài án mạng của nữ sĩ Agatha Christie có thể thực hiện thành phim dễ dàng đã đành, mà truyện ngắn ''Le Miroir''của bà chẳng hạn khi thực hiện thành phim qua sự diễn xuất của nữ minh tinh Jane Seymour cũng hay luôn!
Những nhà văn nữ thường có vài tật chung: nếu sắc diện họ không ngoạn mục, để bù đắp sự hụt hẩng về phương diện tâm lý, họ chăm sóc và trang điểm câu văn nếu không làm dáng trí thức cũng o bế cho ngôn từ hoa lệ, chuốt ngót văn phong cho uốn éo cầu kỳ. Và có nhiều bà rất tiện tặn về cách ăn xài, nhưng không bao giờ tiết kiệm về chuyện phô trương kiến thức lẫn phong độ trí thức của mình.
Tiểu Thu không như thế. Khi viết văn chị không thích lối văn uyển chuyển đến độ ưỡn ẹo, chị không tô điểm màu sắc đến độ lòe loẹt rườm rà cho văn phong của mình. Đúng là lối viết Nam Kỳ, hơi cẩu thả một chút, nhưng cực kỳ phóng khoáng. Chị nghĩ sao viết vậy, văn viết gần giống văn nói 80 %. Chúng ta có thể liên tưởng đó là những loại man thảo bò chằng chịt trên mặt đất hoặc leo trên lùm bụi cây khô còn trơ những nhánh chà. Nhưng mà, man thảo có loại dẻo dai hơn thép như dây choại, dây mây trong rừng tràm Cà Mau âm u. Man thảo có những loại trổ hoa đẹp như dây bìm, dây sắn với bông hoa hình chuông màu xanh thúy ngọc hay mau tím nhạt, như dây phấn trang trổ hoa màu hồng đào kết từng chùm. Man thảo cũng có loại trổ hoa thơm ngát không kém lá loài phương thảo; đó là dây thiên lý với chuông hoa màu xanh nõn, như dây dạ lý hương trổ từng chùm hoa ngọc thạch lún phún như pháo bông...
Trong cuộc bút trình trơn như mỡ, lưu loát như tuôn mưa rào rào trên mái ngói mái tranh, Tiểu Thu dựa vào kỷ niệm thời con gái để làm sống lại hình ảnh cố hương. Trên đất nước định cư ở hải ngoại, rất có thể vì cuộc sống hối hả, chúng ta quên biết bao hình ảnh giang sơn gấm vóc trên cố hương. Nhưng chúng như những mảnh thủy tinh của lọ, của chén dĩa bị vứt đâu đó trong bụi rậm hoang sơ, mà bình thường chẳng ai để ý đến. Nhưng rồi một phút hoài niệm hiển linh nào đó đến mạch cảm hoài chúng ta. Nó như ánh nắng tơ vàng, như ánh trăng trắng êm dịu chiếu sáng lên những mảnh vụn thủy tinh ấy. Chúng nổi bật lên, sáng lóng lánh như được giát vàng giát bạc. Những cái vụn vặt hèn mọn kia trong lúc được ánh nắng hay ánh trăng chiếu cố tới, kêu gọi chúng ta nghĩ về sự hiện hữu và sự trường tồn của chúng. Cũng thế, văn chương của Tiểu Thu đúng là ánh nắng, ánh trăng soi từng mảnh vụn của cuộc đời chị, biến chúng thành mẫu số chung cho biết bao hồi ức và tình hoài hương của kiều bào trên đất khách.
(Hồ Trường An. Quê Nam Một Cõi - Chương 9: Tiểu Thu, Nhà văn nữ đi vào khu vườn kỷ niệm qua tập truyện ''Tiếng Hót Vành Khuyên'')
Hồ Trường An
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)