tiêu đề Nhãn
- BIÊN KHẢO
- CÂU ĐỐI
- CỔ THI
- GIA CHÁNH
- GIẢI TRÍ
- HÌNH ẢNH HỘI NGỘ
- HÌNH ẢNH NAY
- HÌNH ẢNH XƯA
- HỘI HỌA
- KHOA HỌC
- LỊCH SỬ
- LỜI HAY Ý ĐẸP
- LƯU NIỆM
- NHẠC
- SỨC KHOẺ
- SƯU TẦM
- THƠ
- THƠ CẢM TÁC
- THƠ DỊCH
- THƠ DIỄN NGÂM
- THƠ NHẠC
- THƠ PHỔ NHẠC
- THƠ SƯU TẦM
- THƠ TRANH
- THƠ TRANH NGHỆ SĨ
- TIN BUỒN
- TIN VUI
- VĂN
- VŨ HỐI THƯ HỌA
- VƯỜN THƠ VIÊN NGOẠI
- XƯỚNG HỌA
- YOUTUBE
Thứ Bảy, 1 tháng 5, 2021
Chuyến Đò Vĩ Tuyến - Sáng Tác Lam Phương - Kim Trúc Trình Bày
Tháng Tư Và Những...
Tháng Tư và những cơn mưa cũ
Thắm giọt buồn rơi một cuối trời
Bốn mươi năm lẻ chừng như đã
Theo nhánh sông đời lặng lẽ trôi
Tháng Tư và những bàn tay mỏi
Tiễn biệt người đi ngón vẫy mòn
Sắc nhạt bờ môi sầu gương hỏi
Đâu hởi mùa em hương phấn soi?
Tháng Tư và những ngày hiu hắt
Đứng dựa bờ tây nhớ cội nguồn
Ngóng theo bóng nhạn về bên ấy
Chắc đẫm mùa trăng tiếng gọi sương?
Tháng Tư và những buồn vui lẫn
Mấy ai còn nhắc chuyện hoang đường
Một thời cây trút từng thân phận
Như lá trên rừng phủ vết thương…
Durham, North Carolina
Nguyễn Hoài Nam
Xích Lại Đi Em
Cát bụi đời nằm yên nghỉ bờ vai
Con chim nhỏ vẫn hát bài tình nhỏ
Lời bâng quơ như thuở đó ngậm ngùi...
Xích lại đi em cho ngày kề tháng
Những vui buồn về đậu lại môi ngon
Đêm mắt nhắm trao nhau từng hơi thở
Một đời sau mùi da thịt vẫn còn!
Xích lại đi em cho mây về núi
Mưa tắm trần từng con suối quanh đây
Anh vẫn đứng bên chân bờ dĩ vãng
Con nước đầy soi kỷ niệm còn ai..?
Xích lại đi em bóng đời sắp cạn
Ngày thôi mong và tháng sẽ thôi chờ
Tim thôi đập và môi không còn đợi
Một đời trôi sao quá đổi tình cờ...
Durham, North Carolina
Người Chợ Vãng
Thuyền Trăng
Bến nước mười hai biết đục trong
Thuyền hồn lơ lửng ngược xuôi dòng
Nghe tim xao xuyến xây vườn mộng
Nỗi nhớ dịu dàng thêm lãng mạn
Gương trăng vằng vặc đến mê hồn
Tơ duyên năm cũ xa xôi quá
Đáy nước lồng trăng dậy bão lòng
Hawthorne 12 - 4 - 2021
The Woman On The Night Of 29th April 1975 - Người Đàn Bà Trong Đêm 29 Tháng Tư Năm 1975
Thứ Sáu, 30 tháng 4, 2021
Thương Cảm
Đong đưa cành mở ngõ bâng khuâng
Chân trời xa lững lờ mây trắng
Ửng sắc màu hoa nắng rưng rưng
Lời mộng đầu tràn dâng bút mực
Ghi thành dòng nhật ký ngu ngơ
Đôi dăm câu tỏ thư chờ đợi
Lòng Phượng ơi! Hoa rộn hạ về
Mờ lệ nhớ ai xui bối rối
Tim học trò thôi hết vô tư
Đời cuồng nộ chẳng tròn như ý
Cay nghiệt lần tan biến ước mơ
Nắng tháng Tư vuông thơ phượng đỏ
Từ Ba Mươi đó sắc phân ly
Cánh thiên di lạc đàn tìm lối
Phượng máu người hoa rụng tả tơi
Thời mực tím vun lòng kỷ niệm
Khúc nồng nàn đứt đoạn trường ca
Phượng mơ phượng nhớ lời thương hận
Ray rức buồn mỗi nắng tháng Tư
Kim Phượng
Nhớ Tháng Tư
Tháng tư mưa đổ trên thành phố
Lính cũ không nhà vai áo xưa
Lòng như sông nhỏ thèm ra biển
Mơ thấy trường giang sóng chuyển mùa
Bao năm trận mạc theo triều xuống
Khói nhạt bay. Sờ bạc tóc xanh
Bạn bè hiu hắt tàn chung rượu
Quân về gác trọ buồn thâu canh
Gặp được cô em cùng xa xứ
Cà phê đáy cốc tháng tư đen
Kể chuyện nhà quê anh lính trận
Yêu người chưa dám gọi tình nhân
Quán không tên nép sau hè phố
Chiều đang um khói nhớ vô cùng
Lính cũ ngồi bên người viển xứ
Mưa thành phố đỏ ngập mênh mông
Cười chi người khách như mây núi
Áo bạc như mùa sắp trắng hoa
Được thua những ván cờ kim cổ
Như trăng tròn khuyết tháng năm qua
Tháng tư thức dậy mau thành phố
Đem lòng đi gởi cuối chân mây
Rừng thâm heo hút từng binh lửa
Bao hồn lính cũ ẩn đâu đây…!
Nhớ Về Phú Giáo
Giờ đây hun hút một phương trời
Sông xưa chắc vẫn êm đềm nhỉ ?
Đồn cũ từ lâu sập nát rồi
Ta nén lòng đau ngày uất hận
Em nhòa mắt biếc buổi chia phôi
Lênh đênh ở cuối trời phiêu lãng
Một mảnh tình ta đã rách rời ....
Nguyễn Kinh Bắc
Bức Tượng Trong Viện Bảo Tàng Witte
Tôi chụp bức hình này
Nơi hành lang một viện bảo tàng
"Witte Museum" San Antonio Texas
Bức tượng cũ mèm cô độc
Mà sao tôi đứng lại ngẩn ngơ
Bức tượng lấm lem nhiều chỗ.
Những vết tàn phai thương quá đi thôi
Người mẹ tội nghiệp đang ngồi.
Ôm lấy đầu muôn vàn đau khổ
Đứa con trần truồng vòng tay ôm mẹ
Bàn tay khẳng khiu bấu víu tội tình
Bức tượng là câu chuyện hy sinh
Hay tình tiết thương đau tị nạn
Hoặc mẹ chịu trăm ngàn cay đắng
Đời đứa con bi đát thê lương.
Là một bức tượng trong công viên.
Viện bảo tàng Witte uy nghi tầm cỡ
Tôi muốn lật ra trang chuyện cổ
Để cúi đầu truy niệm người xưa.
Trời San Antonio vào một buổi trưa
Nắng hừng hực, chói chang rất dữ
Tôi đứng im, nghĩ ra nhiều thứ
Lòng dạt dào cảm xúc yêu thương
Chào hai mẹ con đứng ở bên đường
Một biểu tượng tình yêu mẫu tử
Vẫn mãnh liệt, bao la, tha thứ
Trong trái tim người phụ nữ muôn đời.
Nguyễn Thị Thêm
Cố Quận Hà Phương 故 郡 何 方 - Trần Văn Lương
Dạo:
Bên đường xương đã trổ hoa,
Lênh đênh bước lẻ, quê nhà chốn nao.
Cóc cuối tuần:
故 郡 何 方
踽 踽 亡 魂 覓 舊 家.
暴 海 褊 舟 皤 浪 哭,
深 林 孤 影 毒 蟲 歌.
巍 峨 廟 殿 神 仙 少,
炫 耀 市 城 鬼 怪 多.
四 十 六 年 嗟 故 里!
路 旁 朽 骨 已 開 花.
陳 文 良
Âm Hán Việt:
Cố Quận Hà Phương
Nhật trầm, mạch mộc ấp hàn sa,
Củ củ vong hồn mịch cựu gia.
Bạo hải, biển chu, bà lãng khốc,
Thâm lâm, cô ảnh, độc trùng ca.
Nguy nga miếu điện, thần tiên thiểu,
Huyễn diệu thị thành, quỷ quái đa.
Tứ thập lục niên, ta cố lý!
Lộ bàng hủ cốt dĩ khai hoa.
Trần Văn Lương
***
Dịch nghĩa:
Quê Cũ Chốn Nào
Mặt trời chìm, mưa phùn thấm ướt bãi cát lạnh,
Hồn người chết lủi thủi đi tìm nhà cũ.
Biển dữ dằn, thuyền nhỏ, sóng bạc đầu khóc to,
Rừng sâu, một bóng lẻ loi, (các) con vật độc ca hát.
Đền miếu nguy nga, (nhưng) thần tiên ít,
Phố xá huênh hoang, ma quỷ yêu quái (lại) nhiều.
Bốn mươi sáu năm (rồi), than ôi quê cũ!
Ven đường (đống) xương mục nát đã nở hoa.
Phỏng dịch thơ:
Quê Cũ Chốn Nào
Cát lạnh, mưa đêm tỏa nhạt nhòa,
Vong hồn lủi thủi vọng quê cha.
Thuyền con, biển dữ, ba đào thét,
Bóng lẻ, rừng sâu, rắn rết ca.
Đền miếu nguy nga, thần trốn biệt,
Thị thành náo nhiệt, quỷ lê la.
Bao năm chốn cũ nhà tơi tả,
Xương rã ven đường đã trổ hoa.
Trần Văn Lương
Cali, ngày Quốc Hận 2021
Lời than của Phi Dã Thiền Sư:
Bốn mươi sáu năm rồi, quê nhà đâu tá?
Xương trắng dọc đường di tản năm xưa
giờ hoa dại đã mọc đầy che phủ.
Than ôi, khách qua đường ngày nay chỉ thấy toàn
hoa nở, rừng xương trắng ngày xưa mấy ai còn nhớ!
Mịt mù chốn cũ, mảnh hồn lữ thứ sẽ phải lang thang
đến bao giờ?
Hỡi ơi!
Cô hồn một bóng kiếm làng cha ....
Thuyền nan sóng cả phong ba dữ!
Bóng chiếc non sâu độc vật ca
Chùa miếu huy hoàng thần thánh vắng
Điện đền đông đúc mị ma la!!
Bốn mươi năm lẻ làm sao tả ?
Quang cảnh hoang tàn lại nở hoa?
April Flower
31/3/1980 nhằm ngày rằm tháng hai âm lịch năm Canh Thân, ngày giỗ mãn
tang của bà nội các cháu. Chúng tôi làm cỗ cúng xả tang. Sáng hôm
sau, bác Phú, một khách hàng rất quen thuộc sang nhà tôi để lấy hàng đặt
thêu may,khi nhìn lên bàn thờ của cụ, bác đã kêu lên:
- Hoá bát nhang! Điềm lành lắm đây!
Bác hạ giọng:
-Cô có tính gì không? Nếu định việc gì thì tính đi. Cụ hoá bát nhang là điềm tốt lắm.
Tôi nhìn lên bàn thờ thấy các chân nhang trong bát nhang xoè tròn ra như một bông cúc lớn, thật lạ!
Hôm đi dò đường tôi đi với em gái TH, nhà tôi đi học tập về mới được dậy học lại nên không dám xin nghỉ. Hai chị em tôi mặc quần áo bà ba đen cũ, đầu đội nón lá, tay xách chiếc giỏ cói đem theo một chiếc khăn tay nhỏ và vài món đồ ăn vặt. Theo lời dặn dò của người tổ chức chúng tôi đến bến xa cảng miền tây, trạm xe đi Vĩnh Long. Đảo mắt tìm người dẫn đường, sau khi đã nhận diện nhau, hai chị em lẳng lặng lên xe. Ngồi trên xe đò lòng tôi nặng trĩu lo âu. Ba cô em tôi đã vượt biên năm trước, đứa nào khi đi cũng được mẹ đưa xuống Rạch Giá, đưa đến tận bến, xuống tầu chắc chắn rồi mẹ mới về. Mấy cô em tôi đi theo đường bán chính thức nên bảo đảm an ninh hơn còn lần này chúng tôi đi chui hoàn toàn, không biết có gặp những tai ương, sóng gió nguy hiểm gì không. Tôi chỉ biết niệm Phật và cầu xin tổ tiên, ông bà hai bên nội ngoại phù hộ. Nghĩ đến mẹ chồng tôi,cụ mới quy tiên và bát nhang nở tròn như hoa cúc!Mấy đêm cuối cùng trước khi cụ mất tôi và con bé Quyên đã sang nhà bà, kê cái giường vải nằm cạnh giường bà. Ban đêm khi dìu cụ đi nhà vệ sinh cụ đã cầm tay tôi mà nói “Mẹ sẽ phù hộ cho các con, mẹ sẽ phù hộ cho các cháu!” Mẹ ơi... Xin Mẹ linh thiêng phù hộ cho chúng con tai qua nạn khỏi, mẹ ơi! Tôi khấn thầm trong đầu và bỗng dưng muốn khóc.
Tôi hỏi ý kiến nhà tôi, hỏi các em, các cháu.
- Sống chết có số, đi vượt biên là chấp nhận!
- Đến nước này thì liều đi!Cứ đi!Tới đâu thì tới!
Mình tôi còn thức nhìn lên trời cao, hồi tưởng lại mấy ngày qua... Con tầu nhỏ bé mỏng manh như vậy đã thật may mắn không gặp phong ba bão táp, không gặp hải tặc hung ác, bạo tàn. Đúng lúc cạn kiệt nước uống, mọi người như tuyệt vọng thì trời đổ cơn mưa rào và dun dủi làm sao lại đến được hòn đảo nhỏ này. Nếu không ai nhận ra hòn đảo từ xa mà đi quá thêm vài ngày nữa vào chốn mênh mông không bờ không bến, không nước uống, hết đồ ăn, chúng tôi sẽ ra sao. Đúng như có một sự huyền bí, một sự nhiệm mầu, một sự che chở từ các đấng linh thiêng mà không sao giải thích nổi!
Sáng hôm sau hầu hết mọi người ra cầu tầu tiễn chúng tôi xuống chiếc ferry của Cao Ủy đưa chúng tôi sang Singapore đợi máy bay đi Mỹ. Cuộc chia ly nào cũng buồn. Kẻ đi người ở cũng rưng rưng. Có những người bạn một đời nhưng cũng có những người bạn chỉ một thời vì duyên gặp nhau một giai đoạn rồi lại chia tay. Quân và Tuấn ở lại đảo. Quân chờ người nhà ở Mỹ bảo lãnh, Tuấn đợi giấy tờ của bác Phú bên Canada.
Đỗ Dung
Thứ Năm, 29 tháng 4, 2021
Có Người Nhớ Nước Thả Vần Thơ Quên -Thơ Tuệ Nga. Nhạc Vĩnh Điện - Ca sĩ Ngọc Quy
Mỗi Tháng Tư Về
Nắng tháng Tư nhuốm màu tang tóc
Mọi nẻo đường bỗng chốc mù sương
Kiếp lưu vong nếm đủ đoạn trường
Trời đất khách bầy chim bỏ xứ
Nắng tháng Tư chập chờn mộng dữ
Len vào hồn theo giấc chiêm bao
Lòng đại dương ai nhuộm máu đào
Tràn giọt lệ không lời đưa tiễn
Nắng tháng Tư biển đời cuồng nộ
Vui thân người thú tính sài lang
Mang nỗi đau thấm nhục vượt ngàn
Hồn phiêu bạt nặng thề non nước
Kim Phượng
Tháng Tư 2021
Dòng Thơ Lạc Lõng
"Hạnh phúc cho nhau lúc đợi chờ" *
Còn chờ có đợi tự ban sơ
Ai người tơ tưởng bao nhung nhớ
Ai lấy âu sầu dệt khúc thơ
Ngồi đây hẳn nhớ xa ngàn dặm
Xao xuyến tâm tư rối mối tơ
Tình hỡi còn đâu nào tiếng vọng
Dòng thơ lạc lõng chẳng hồi âm
Nguyễn Cao Khải
(*) Thơ Kim Phượng
Hạ Chờ - Nỗi Nhớ Vào Hè
Xướng:
Hạ Chờ
Có phải người đi mang hạ theo
Tiếng ve rưng rức rớt qua chiều
Ngả nghiêng cánh phượng đong đưa nhớ
Đỏ mắt thời gian tiếng gió xiêu
Có phải người đi kéo nắng đi
Đổ xuống cơn mưa hạ lỡ thì
Rơi qua lối cũ mòn mong đợi
Người về ngan ngát bóng tà huy
Có phải người đi đêm khuyết trăng
Lả tả sương rơi chiếm chỗ nằm
Ánh đèn le lói trên đầu phố
Buồn bã hàng cây đứng lặng câm
Có phải người xa lạc bước chân
Kỷ niệm đong đưa nhớ rất gần
Với bàn tay chạm mùi hương cũ
Làn tóc người bay, tiếng gió thân
Thôi thì cứ đợi mòn năm tháng
Mùa hạ xa xưa lại trở về
Tà áo người bay xao xuyến gió
Cho tình se nỗi nhớ vân vê
Trầm Vân
***
Họa:
Nỗi Nhớ Vào Hè
***
Họa:
Nỗi Nhớ Vào Hè
Hạ đến người ơi kéo nhớ theo
Ve sầu não nuột xót xa chiều
Phượng hồng khoé mắt rưng rưng lệ
Gió đuổi mây ngàn lượn xiểng xiêu
Nắng lịm buồn ai đã bỏ đi
Khóc thành mưa bởi lỡ xuân thì
Núi đồi nhung nhớ hoa thôi thắm
Nhật nguyệt sầu vương lụn bóng huy
Người đã xa rồi tủi ánh trăng
Phòng loan trằn trọc gối khôn nằm
Tương tư sầu nhớ xàu hương sắc
Mắt lệ nhoà môi cũng nín câm
Nắng hạ im lìm rọi dấu chân
Lòng luôn xao xuyến nhớ khi gần
Ai trao mật ngọt rồi biền biệt
Để mảnh hồn hoang mãi dấn thân
Hạ khóc nhớ người năm suốt tháng
Thu đông mơ bóng cũ quay về
Áo xuân màu bạc chườm cung oán
Đẫm lệ tình loang loáng tái tê
Phương Hoa
June 30th 2020
June 30th 2020
Cơm Chưa Chín
Thứ Tư, 28 tháng 4, 2021
Hạ
Kèm lá thư xanh ép phượng hồng
Có phải hạ về ngàn dặm nhớ
Nhớ gì xa xứ nhớ mênh mông
Bâng khuâng giọng đấy não nề ve
Ra rả cành cao tiếng gọi hè
Thổn thức giấu mình đang núp lá
Hoa đời cánh phượng lắng lòng nghe
Kim Phượng
Bỗng Dưng Lại Nhớ Sông Hàn
Hôm qua sương phủ hồn thơ
Đất trời trải mộng trăng mơ nhạt vàng
Màn đêm mắc võng địa đàng
Ầu ơ như có tiếng Chàng gọi ta
Đêm Thu bóng ngả dương tà
Cỏ cây chết lặng mình ta giữa trời
Hồn thơ một góc chơi vơi
Bóng đêm phủ xuống buông lơi gót hài
Bỗng dưng lại nhớ Sông Hàn
Những chiều tắt nắng thu tàn lướt qua
Sang sông đón chuyến phà xa
Hỡi người sao nỡ bỏ ta một mình ?!
Ầu ơ ... con nước tràn biên
Khuyên kêu Sáo gọi triền miên u sầu
Lỡ thương như chỉ kim khâu
Như cau bổ miếng với trầu hương cay !
Tuyết Phan
Đồng Cảm
Chao ơi! lại nhớ sông Hàn
Những chiều tắt nắng thu tàn lướt qua.
Bên trời nước Bỉ thật xa
Có người con gái tên là Tuyết Phan
Làm thơ như rút ruột gan
Để tôi ngơ ngẩn lệ tràn ướt mi
Yêu mà chi, khổ như ri
Nhìn trăng soi bóng xuân thì đã qua.
Gượng cười ta lại mình ta
Nhịp tim thổn thức tình xa mất rồi.
Ta ngồi nhìn ánh trăng rơi.
Trầu cau đôi lứa một trời nhớ thương.
Sông Hàn bạn nhớ bạn thương.
Ô Lâu tôi khóc nửa đường phân đôi
Bạn ơi! gượng đứng lên thôi
Bàn tay hãy nắm bạn + tôi mỉm cười
Quanh ta bạn hữu đón mời.
Thi văn, xướng họa bên trời lưu vong.
Tháng tư tim rướm máu hồng.
Thì thôi quên hết nửa vòng truân chuyên
Bạn cười cuộc sống bình yên
Hẹn ngày gặp mặt nối liền bờ vui.
Nguyễn Thị Thêm
Chung Tình
Để cho nó hót một mình tôi nghe
Để cho Sáo khỏi sang sông
Tôi là của Sáo -Sáo là của tôi
Bên bờ sông ấy có gì vui đâu
Sáo ơi!Sáo ở lại đây
Có tôi có Sáo -quen nhau lâu rồi-
Đoạn tình dứt nghĩa-Sáo sang sông rồi-
Sáo đi Không nói nửa lời
Bạn bè trách móc -Còn tôi-Thì buồn-
Sáo ơi!Sáo bỏ đi luôn
Bây giờ “băng rúp”-Sáo buồn hay Không?-
Bây giờ Sáo hiểu tình người
Có ai thương sáo cho bằng tôi đâu
Sáo ơi!Sáo muốn về Không?
Tôi thì Không trách-Vẫn mong Sáo về
Hoàng Long
Nhặt Lá Thời Gian - Hoài Thu Xa - Lá Thời Gian
Nhặt Lá Thời Gian
Lá mùa xào xạc ngỡ ai qua
Chờ đợi bao thu mộng ước già
Tình yêu nụ trẻ đâm chồi biếc
Thu lại trở về người vẫn xa
Thời gian nhặt lá đếm ngày mau
Chầm chậm thu đi sắc đổi màu
Tình yêu ngày cũ không nhàu úa
Lá vẫn xạc xào dạ tất đau
Kim Oanh
Hoài Thu Xa
Rưng rức nhớ ai bên cội già
Lạc mất tình nhau từ dạo ấy
Thu đi thu đến ... hoài thu xa!
Xin thời gian chớ vội qua mau
Đừng nhuộm lá duyên phai nhạt màu
Chớ rót mưa thu nhoà mắt ngọc
Thời gian dù có lướt trôi qua
Ta vẫn như Thu ...sẽ chẳng già
Để đợi để chờ người trở lại
Dù cho Thu biếc có đi xa...
Làm cho Thu úa có phai màu
Tình ta vẫn vẹn như ngày trước
Lá rụng chắc làm xoá nỗi đau
Thủy Triều Và Con Người
1. Tổng quan
Mặt Trăng nằm giữa Trái Đất và Mặt Trời. Nếu Trái Đất quay xung quanh Mặt Trời hoàn tất chu kỳ trong 365 ngày thì Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất và hoàn tất một vòng trong 30 ngày .Chính vì Mặt Trăng quay quanh Trái Đất nên vị trí tương đối của Mặt Trời, Trái Đất và Mặt Trăng thay đổi luôn luôn nên ta có trăng non, trăng già:
Em đi qua chuyến đò (ôi a) con trăng còn trẻ
Con sông đâu có ngờ ngày kia trăng sẽ già
Chúng ta đều biết rằng, mặt trăng là một tinh cầu không tự thân phát sáng hay cũng không phát nhiệt. Trong màn đêm của vũ trụ, chúng ta quan sát được mặt trăng là do sự phản xạ ánh sáng chiếu từ mặt trời.
Mặt trăng luôn được mặt trời chiếu sáng toàn bộ 100% ở phía hướng về mặt trời.
Khi vị trí là Trời-Trăng-Đất thẳng hàng thì toàn bề mặt chiếu sáng hướng khỏi trái đất, kết quả là chỉ có mặt tối hướng về trái đất: đây là đêm ba mươi âm lịch.
Khi vị trí là Trời-Đất-Trăng thì bề mặt chiếu sáng của trăng hướng toàn bộ về trái đất: đây là trăng rằm.
Còn những vị trí trung gian thì chỉ có một phần của bề mặt chiếu sáng hướng về trái đất: đây là trăng thượng tuần, hạ tuần.
Hiện tượng Trái đất che khuất Mặt Trăng là Nguyệt thực (lunar eclipse); chỉ xảy ra ngày rằm. Hiện tượng Mặt Trăng che khuất Mặt Trời là Nhật thực (solar eclipse), chỉ xảy ra ngày không trăng.
Trăng còn trẻ nghĩa là trăng non, vào những ngày đầu tháng âm lịch. Lúc đó, Mặt Trăng nằm chính giữa Mặt Trời và Trái Đất: Mặt Trời-Mặt Trăng-Trái Đất . Lúc đó ta không thấy trăng về đêm
Trăng tròn. Nếu vị trí là Mặt Trời-Trái Đất-Mặt Trăng, nghĩa là khi Mặt Trời và Mặt Trăng ở hai phía đối diện của Trái Đất (xem hình 1) thì 100% bề mặt chiếu sáng của trăng thấy được, đó là Trăng Rằm, với trăng tròn. Đã có phi hành gia đặt chân lên Mặt Trăng thì thấy toàn những ngọn núi đá nhưng nhìn từ Trái Đất lên, nhiều chỗ giống cây đa to nên có bài hát:
Bóng trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già
Ôm một mối mơ
Dân ca Việt ngợi ca tình yêu trong đêm trăng rằm:
Trèo lên quan dốc ngồi gốc ối a cây đa
Rằng tôi lý ối a cây đa
Ải a, ôi à tính tang tình rằng
Cho đôi mình gặp
Xem hội cái đêm trăng rằm
Rằng tôi lý ối a tháng giêng
Trăng già. Khi Mặt Trời-Mặt Trăng-Trái Đất thẳng hàng, và vì Mặt Trăng nằm giữa Mặt Trời và Trái Đất nên 0% bề mặt chiếu sáng của trăng không thấy được ở trái đất: ban đêm trời tối om như đêm ba mươi âm lịch.
Đêm ba mươi cũng đã gợi cho nhà thơ Nguyễn Đình Toàn viết bài thơ được phổ nhạc:
Em đến thăm anh đêm ba mươi
Còn đêm nào vui bằng đêm ba mươi
Anh nói với người phu quét đường
Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em
Trăng lưỡi liềm, trăng bán nguyệt
Nếu 3 thiên thể ở vị trí cùng thẳng góc thì 50% bề mặt chiếu sáng của trăng thấy được, ta thấy trăng hình bán nguyệt: đó là trăng thượng tuần hoặc trăng hạ tuần
Nhờ có lực hấp dẫn từ Mặt Trăng trên Trái Đất nên nước bao quanh Trái Đất cũng bị Mặt Trăng hút và do đó ta có thuỷ triều .
Thuỷ triều đã tạo nên hiện tượng nước lên và nước xuống, có chỗ thì một lần triều lên, một lần triều xuống trong ngày, nhưng cũng có chỗ triều lên và triều xuống 2 lần trong ngày.
Những biến đổi thủy triều trải qua các giai đoạn sau:
Mỗi tháng hai lần, vào ngày trăng non (đầu tháng âm lịch) và ngày trăng tròn ( trăng rằm), ta có triều cường (Spring tide) vì lúc đó, Trái Đất, Mặt Trăng và Mặt Trời cùng trên một đường thẳng (Hình 2) nên tác động kéo nước trên Trái Đất mạnh hơn vì hỗ tương lên nhau.
Triều cường là lúc có sai biệt lớn giữa triều cao nhất và triều thấp nhất. Triều cường còn gọi là nước lớn như trong ca dao:
Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê
Triều cường lúc cả ba thiên thể Mặt Trời, Mặt Trăng và Trái Đất cùng nằm trên đường thẳng.
Hình 3. Triều yếu khi cả ba thiên thể làm thành góc vuông
Tại miền châu thổ Cửu Long, mùa cạn hay mùa lũ, mực nước các sông hằng ngày đều có dao động theo sự chi phối của thủy triều. Những biến đổi thủy triều trải qua các giai đoạn sau:
– Mực nước biển dâng lên trong vài giờ, ngập vùng gian triều (intertidal zone), gọi là ngập triều (flood tide).
– nước dâng lên đến điểm cao nhất của nó, gọi là triều cao (high tide), còn gọi là nước lớn.
– mực nước biển hạ thấp trong vài giờ làm lộ ra vùng gian triều, gọi là triều rút (ebb tide).
– nước hạ thấp đến điểm thấp nhất của nó, gọi là triều thấp (low tide), còn gọi là nước ròng:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu (Kiều)
Tình ngỡ đã quên đi như lòng cố lạnh lùng
Người ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều
Như từng con nước ròng xoá một ngày đìu hiu (Tình nhớ Trịnh Công Sơn )
Nước ròng, ngọn nước mới sa là nói khi thủy triều xuống, nhưng thuỷ triều cũng dâng lên như trong đoạn thơ sau:
Bốn bề bát ngát mênh mông
Triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau
Vùng nước dao động do thuỷ triều lên xuống giữa mức nước lớn (flood current) và nước ròng (ebb current). Những bãi biển xoải cát, cửa sông hoặc những mỏm đá thấp thường được gom vào khu vực này.
Nhìn nước lớn, nước ròng, nhìn cuộc đời sớm còn, tối mất, người ta ca rằng:
Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê
Thời điểm mà dòng triều dừng chuyển động được gọi là nước đứng (slack water) Thủy triều sau đó đổi hướng thì ta có sự biến đổi ngược lại. Nước đứng thường xuất hiện gần lúc mực nước triều cao hoặc triều thấp:.
Nước không chưn sao kêu bằng nước đứng
Cá không giò sao gọi con cá leo?
Một chu kỳ biến động của mực nước, từ lúc nước biển rút xuống mức thấp nhất, đến lúc nước biển lên cao đến mức cao nhất, kéo dài 15 ngày , có tên là một con nước ; như vậy mỗi tháng có 2 con nước . Nước lên-nước xuống chi phối đời sống dân ven biển.
-Trông về con nước vơi đầy
Nỗi sầu xa cách biết ngày nào vơi
-Lênh đênh duyên phận bọt bèo
Đành cho con nước thuỷ triều đầy vơi
-Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà (Huy Cận)
–Trông vời con nước mênh mông
Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang ( Truyện Kiều)
-Trăng lên con nước rong đầy
Anh đừng đến nữa, má rầy khổ em
Mực nước thủy triều có ảnh hưởng lớn đến đồng bằng, từ chuyên chở trên sông rạch đến nông nghiệp.
Đám cưới nơi nông thôn này thì tôi biết rồi. Tội nghiệp, các cô con gái hầu hết đều cưới về đêm. Cưới theo con nước bởi vì đi toàn bằng ghe, xuồng, lúc 2 hay 3 giờ sáng hoặc 4 hay 5 giờ sáng đều tùy theo con nước. Đưa cô dâu tới nhà chồng xong, họ hàng nhà gái mau mau ra về kẻo sợ nước rút..
( Đoàn Dự trong truyện ngắn Câu chuyện quê nhà)
Thuỷ triều có thể rất mạnh:
Triều đâu nổi sóng đùng đùng
Hỏi ra mới biết là sông Tiền Đường (Kiều)
Sông Tiền Đường là con sông lớn nhất của tỉnh Chiết Giang bên Trung Quốc, bắt nguồn từ tỉnh An Huy, và đổ vào vịnh Hàng Châu.Thủy triều lớn khác thường trên sông Tiền Đường do hình thể địa lý và điều kiện thủy văn đặc biệt ở cửa sông gây nên. Lực ly tâm xuất hiện khi trái đất quay, cộng với hình dạng nút thắt cổ chai của vịnh Hàng Châu khiến thủy triều dễ lên nhưng lại rất khó rút. Độ lớn của các con sóng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như vị trí của Mặt trăng, nhiệt độ, mực nước và gió.
2. Hai chế độ triều tại Đồng Bằng Sông Cửu Long
Miền Châu thổ sông Cửu Long có hai chế độ triều khác nhau vì:
2.1. Vùng duyên hải Biển Đông, từ Vũng Tàu đến mũi Cà Mau, dài 400 km chịu ảnh hưởng rõ rệt theo chế độ bán nhật triều không đều (semi diurnal): mỗi ngày có 2 lần triều lên (1 thấp, 1 cao) và 2 lần triều xuống, còn gọi là chân triều (cũng 1 thấp, 1 cao) nhưng biên độ triều trong 2 lần khác nhau. Thời gian triều lên kéo dài khoảng 6 giờ và thời gian triều xuống khoảng 6 giờ 45 phút đến 7 giờ (Đó là lý do tại sao thủy triều ngày hôm sau lên trể khoảng 50 phút).
Trong tháng có 2 lần nước lớn ( ngày rằm và mồng một âm lịch) và 2 lần nước kém (triều kém, xảy ra vào thời gian giữa 2 kỳ nước cường (ngày mồng 7 – 8 âm lịch hoặc 20 – 21 âm lịch).
Sông Tiền và sông Hậu chảy ra Biển Đông nên chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều của Biển Đông.
Biên độ triều (tidal range) trung bình tại cửa biển khoảng 3.0 – 3.5 m trong kỳ thủy triều lớn. Vùng đồng bằng ở tả ngạn sông Hậu và các cù lao trên sông Hậu thì hoàn toàn chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều của Biển Đông.
Thủy triều cao (triều cường) ở cửa biển Vũng Tàu là 4,00 m (lớn nhất ở Việt Nam). Càng vào nội địa, thủy triều thấp dần. Phạm vi truyền triều của Sông Cửu Long rất lớn: Tại Nam Vang (cách cửa sông 390 km) ảnh hưởng của thủy triều còn rất rõ, biên độ triều vào mùa hạn có lúc đạt đến 0.50 m.
Chẳng thế mà có ca dao sau đây trong đó chàng trai dặn người yêu:
Nước ròng chảy đến Nam Vang,
Làm thơ để lại, em khoan lấy chồng
Người thiếu nữ không chịu và trả lời:
Tay bưng chậu cúc trăm bông,
Chờ anh chẳng đặng, em trồng xuống đây
Tại Tân Châu (cách cửa sông 220 km) biên độ triều thường từ 5 cm (mùa lũ) đến 100 cm (mùa cạn) . Tại Mỹ Tho (cách biển 49 km), biên độ lớn nhất vào kỳ triều cao là 3.50 m và vào kỳ triều kém là 1.50 m. Biên độ mực nước triều lớn nhất trung bình tại Mỹ Thuận khoảng 1.80 – 1.90 m; tại Cần Thơ khoảng 2.20 –2.30 m; tại Tân Châu 0.95 – 1.05 m và tại Châu Đốc 1.1 – 1.2 m.
Tất cả kinh, rạch trong các tỉnh duyên hải đều chịu ảnh hưởng thủy triều, tuy nhiên càng truyền sâu vào nội đồng, biên độ triều càng giảm. Vào mùa lũ, ảnh hưởng của thủy triều tại khu vực xa Sông Tiền không còn nữa nhất là khi có lũ lớn.
Trong thời gian mùa cạn, dòng chảy ở thượng nguồn Cửu Long về không nhiều, nên chế độ dòng chảy của sông Tiền và sông Hậu hoàn toàn bị chi phối bởi chế độ thuỷ triều ở biển Đông.
Vào mùa kiệt Sông Vàm Cỏ hoàn toàn bị thủy triều bán nhật của biển Đông chi phối; nước biển dễ dàng xâm nhập sâu vào nội địa. Vào cùng thời điểm và đồng khoảng cách tới biển, độ mặn trên Sông Vàm Cỏ lớn gấp nhiều lần trên Sông Tiền.
Giống như Sông Tiền, mực nước đỉnh triều trên Sông Vàm Cỏ thường xuống thấp vào tháng 6 và 7 và lên cao nhất vào tháng 10 và 11 hàng năm. Mực nước cao nhất đo được tại Tân An là + 1,78 m ngày 17/10/1978 và mực nước thấp nhất là – 1,84 m ngày 07/8/1964.
Thời gian truyền triều từ cửa biển đến Tân Châu, Châu Đốc khoảng 7- 8 giờ. Tốc độ truyền triều trung bình trên sông Tiền đến Tân Châu, khoảng 25 – 30 km/giờ; trên sông Hậu đến Châu Đốc, chậm hơn, khoảng 22 – 24 km/giờ. Tuy nhiên, kể từ vùng Cần Thơ xuống hạ lưu, trong dịp rằm và mồng một âm lịch, nhất là vào dịp xuân phân (22/3 dương lịch), nước thủy triều dâng cao hơn mặt ruộng, nông dân thường tích trử nước trong ao và mương riêng để tưới chảy vào ruộng vườn.
Trên sông Tiền, thời gian truyền triều từ Vàm Kinh (cách biển 2 km) đến Mỹ Tho (cách biển 49 km) từ 90 đến 120 phút, và tốc độ truyền từ 24 km/h đến 36 km/h. Vận tốc dòng chảy cũng bị ảnh hưởng thủy triều: Vào mùa lũ vận tốc chậm khi triều lên, nhanh khi triều xuống (lần lượt 1.2 m/s và 1.8 m/s); vào mùa kiệt, vận tốc khi triều xuống trong khoảng 0.70 m/s đến 1 m/s.
Mực nước đỉnh triều lớn nhất trung bình tại Tân Châu khoảng 1.70 m; tại Châu Đốc (cách biển 190 km) khoảng 1.50 m và tại Cần Thơ (cách cửa biển 123 km) là 1.24 m.
Mực nước chân triều thấp nhất trung bình tại Tân Châu là – 0.35 m; tại Châu Đốc là – 0.55 m; tại Mỹ Thuận là –1.37 m; tại Cần Thơ là – 1.60 m và tại Mỹ Tho là –0.95 m.
Nói chung, ảnh hưởng triều trên sông Hậu mạnh hơn so với sông Tiền.
Trong mùa cạn, triều lên làm xuất hiện dòng chảy ngược từ biển vào sông trong những thời gian nhất định:
Trong số các nhánh của Sông Tiền, phân phối lưu lượng qua nhánh Cửa Tiểu là thấp nhất cả vào mùa cạn lẫn mùa lũ. Theo tài liệu đo từ năm 1924 đến nay, lưu lượng tại Phnom Penh ít khi thấp hơn 2,385 m3/s, ngoại trừ tháng 4 trong khoảng 2,000 m3/s đến 2,300 m3/s. Như vậy trong tháng 4, Sông Cửa Tiểu gần như hoàn toàn bị thủy triều Biển Đông chi phối, nước biển dễ dàng xâm nhập sâu vào nội địa khiến độ mặn cao hơn hẵn so với các tháng khác trong năm.
Lưu lượng Sông Tiền cũng chịu ảnh hưởng thủy triều, khi triều lên sẽ tạo dòng chảy ngược về phía thượng lưu và ngược lại.
Tại Cần Thơ, tốc độ dòng chảy ngược trung bình từ 0.60 –0.80 m/s, lớn nhất có thể đạt 1.25 m/s (ngày 18/4/1988);
Tại Mỹ Thuận, tốc độ chảy ngược lớn nhất có thể đạt 1.12m/s (ngày 24/4/1978).
Tại Tân Châu, tốc độ chảy ngược trung bình từ 0.2 – 0.3 m/s, tốc độ chảy ngược lớn nhất là 0.395 m/s với lưu lượng 3,290 m3/s (ngày 12/4 /1987).
Tại Châu Đốc, tốc độ chảy ngược trung bình khoảng 0.30 –0.50 m/s, lớn nhất là 0.526 m/s (ngày 5/3/1979). Như vậy, tốc độ chảy ngược lớn nhất tại Châu Đốc luôn luôn lớn hơn tại Tân Châu trong cùng thời điểm. Điều này một lần nữa chứng tỏ ảnh hưởng của thuỷ triều đến Châu Đốc trên sông Hậu mạnh hơn so với Tân Châu trên sông Tiền.
Trong một con triều, tốc độ chảy ngược lớn nhất thường xuất hiện sau khi xuất hiện mực nước đỉnh triều khoảng 2 giờ.
Do ảnh hưởng của thuỷ triều, trong thời gian mùa cạn, vào thời kỳ kiệt nhất (tháng 3 và 4), lưu lượng chảy ngược tại Tân Châu có thể đạt 3,290 m3/s (ngày 12/4 – 1987) và 1,700m3/s tại Châu Đốc (ngày 6- 4 – 1978).
Trên quan điểm sử dụng nước trong nông nghiệp, việc đánh giá dòng chảy mùa cạn được căn cứ chủ yếu vào giá trị của lưu lượng nước chảy xuôi.
Mực nước và lưu lượng (chảy xuôi) trung bình tháng giảm dần từ đầu mùa cạn và giá trị thấp nhất thường trong tháng 4, sau đó tăng dần. Vì vậy, tháng 4 được xem là tháng cạn nhất trong năm. Mực nước trung bình tháng nhỏ nhất trung bình nhiều năm tại Tân Châu là 0.42 m, tại Châu Đốc là 0.38 m (thấp hơn tại Tân Châu 4 cm).
2.2. từ mũi Cà Mau đến Hà Tiên dài 250 km. Bán nhật triều từ Biển Đông khi vào biển cạn và hẹp của Vịnh Thái Lan và Biển Tây mất dần năng lượng biến thành triều toàn nhật (diurnal), trong một ngày đêm chỉ có một lần nước dâng cao và một lần nước thấp và càng đi sâu vào tới Vịnh Rạch Giá và Hà Tiên thì thời gian triều lên càng trể đi. Triều phía Tây tiến vào đất liền qua các sông thiên nhiên như sông Bảy Háp, sông Ông Đốc, sông Cái Lớn, sông Cái Bé, … và một số kênh đào.
Biên độ trung bình triều phía Tây nhỏ hơn 1 m, tối đa không quá 1,1 – 1,2 m., trung bình khoảng 0,7 – 0,8 m, đồng thời cũng ít chênh lệch giữa các vùng về biên độ, song tính chất thủy triều lại có một số điểm khác nhau về cơ bản ở một số vùng:
Ví dụ:
như khu vực Rạch Giá là dạng triều hỗn hợp thiên về bán nhật triều với số ngày trong tháng có 2 lần triều lên và 2 lần triều xuống là chủ yếu (tức chịu ảnh hưởng chế độ nhật triều không đều, thiên về bán nhật triều),
từ Rạch Giá đi về phía Hà Tiên thì triều hỗn hợp lại thiên về nhật triều.
Vùng ảnh hưởng thủy triều toàn nhật của Biển Tây không lớn lắm, chỉ vài chục cây số từ bờ biển.
Ngược lại phía hữu ngạn sông Hậu, gồm khu tứ giác Long Xuyên, U Minh và vùng Cà Mau thì chịu ảnh hưởng tổng hợp của triều Biển Đông và Biển Tây, rất phức tạp.
Ngọc Hiển (Năm Căn, Cà Mau) chịu ảnh hưởng phức tạp của 2 chế độ thủy triều.
2.3. Nơi tiếp giáp của hai chế độ thủy triều là vùng nước ứ động, nước sông hay kinh rạch không lưu thông – nước đứng– làm lắng tụ nhiều phù sa.
3. Tác động của thuỷ triều
Triều cường làm các vùng thấp duyên hải bị ngập, làm hư hại các đê bao ngăn mặn, gây ngập úng các đầm nuôi tôm, các vườn cây ăn trái, các nhà cửa ven kinh rạch, gây ùn tắc giao thông đô thị.
Triều cường và sóng lớn làm phá vỡ bờ cây xanh chắn sóng dọc theo bờ biển, lấn sâu vào đất liền. Khi triều cường vào cửa sông thì độ mặn lan truyền, khuyếch tán vào trong sâu nội địa, nhất là lúc cao điểm đỉnh triều cường vào con nước rằm và ba mươi tháng Giêng âm lịch, thì sẽ gây thiệt hại cho nhiều diện tích lúa đông xuân đang trong giai đoạn làm đòng, trổ bông.
TP. Cần Thơ bị ngập lụt do triều cường.
Khi nưóc mặn xâm nhập vào cửa sông thì đất bị nhiễm mặn và năng suất lúa bị giảm và không trồng lúa được vào mùa khô.
Mực nước thủy triều có ảnh hưởng lớn đến đồng bằng, từ chuyên chở trên sông rạch đến nông nghiệp. Nước triều cao sẽ dễ dàng lấn sâu vào nội địa và làm nhiễm mặn nước sông và đất đai còn nước mặn ảnh hưởng nhiều vùng duyên hải như Bến Tre, Long An, Trà Vinh, Soc Trăng, Cà Mau…
Tốc độ truyền sóng triều trong sông.
Sóng triều truyền vào sông với tốc độ trung bình trên dưới 30 km/giờ đối với các sông lớn. Còn đối với những sông nhỏ, hoặc màng lưới kênh rạch, sự truyền triều diễn ra phức tạp hơn. Lại còn có hiện tượng giao thoa sóng triều tại những con sông có sự truyền triều từ hai phía.
Sự truyền triều vào trong sông tuy có gây một số khó khăn như đưa nước mặn vào nội địa, khiến cho vùng cửa sông thiếu nước ngọt nghiêm trọng vào mùa khô. Những ngày lũ lớn, nếu gặp kỳ triều cường, nước dâng to sẽ gây ngập lụt v.v… Song với vùng xa cửa sông, mặn không tới được thì dao động thủy triều trong ngày có tác dụng không nhỏ cho công việc tưới tiêu, thau chua, rửa mặn. Khi triều dâng, mực nước ngọt trong sông được đẩy lên cao, người ta có thể lợi dụng để lấy nước vào ruộng. Ngược lại, khi triều rút, mực nước xuống thấp, có thể xả nước, thau chua từ ruộng ra sông. Nông dân Việt thường dùng những thân cây dừa làm ‘bọng’, trong đó có gắn cái ‘hom’ như một hình thức van (valve), với mục đích khi nước sông dâng cao vói thuỷ triều lên thì nước ngoài sông tự động vào ruộng qua cửa bọng và khi thuỷ triều hạ xuống thì nước trong ruộng tự động rút ra qua cửa bọng và cái hom tự động khép kín . Cũng xin mở dấu ngoặc ở đây: khi người Pháp qua đây đầu tiên ở miền New Brunswich, cách nay chừng 400 năm, ở gần các vùng biển, chính các sắc dân da đỏ vùng này đã hướng dẫn cho đám dân lưu lạc cách làm cửa bọng để cho nước thuỷ triều vào ra trên đất gần biển để trồng trọt!
4. Kết luận
Thủy triều còn đóng góp môt phần lớn là làm nên các chiến thắng trên sông Bạch Đằng vào năm 938 của Ngô Quyền trước quân Nam Hán và năm 1288 của nhà Trần trước quân Nguyên-Mông. Cho đến ngày nay thì con người đã biết sử dụng thủy triều để phục vụ cho công nghiệp (như sản xuất điện), ngư nghiệp, như trong đánh bắt hải sản.
Thái Công Tụng