Đôi hàng giới thiệu về 2 bài thơ KHÚC GIANG của Đỗ Phủ như sau:
Khúc Giang còn gọi là Khúc Giang Trì, nằm ở phía đông cầu Chu Tước phía nam của thành Trường An, là khu danh thắng nổi tiếng của thành Trường An đời Đường, được xây dựng từ thời Hán Vũ Đế và được trùng tu lại vào năm Khai nguyên của vua Đường Huyền Tông, Nước hồ trong vắt, hoan cỏ uốn quanh, phía nam có Tử Vân Lây, Phù Dung uyển, phía tây có Hạnh Viên và Từ Ân Tự, là nơi dungoan. nổi tiếng đương thời.Thắng cảnh Khúc giang cùng thạnh suy với giang san nhà Đường. Hai bài thơ Khúc Giang của Đỗ Phủ được làm vào cuối xuân năm Càn Nguyên nguyên niên ( 758 ) . Ông đã đem toàn bộ tâm tư của mình ký thác vào cảnh vật nầy để viết lên những ưu tư về đổi thay của thời cuộc.
Theo tài liệu thống kê, thì vào đời Đường, tuổi thọ trung bình của con người ta lúc bấy giờ chỉ vào khoảng 40- 45, cho nên Đỗ Phủ mới hạ câu " Nhân sanh thất thập cổ lai hy " bất hủ, để đời cho đến hiện nay, hễ nhắc đến tuổi " Cổ lai hy ", " Cổ lai ", hay " Cổ hy " là người ta biết ngay là thọ được 70 tuổi rồi !
曲 江 KHÚC GIANG
【其一】 Bài 1.
一片花飛減卻春, Nhất phiến phi hoa giảm khước xuân,
風飄萬點正愁人。 Phong phiêu vạn điểm chánh sầu nhân.
且看欲盡花經眼, Thả khan dục tận hoa kinh nhãn,
莫厭傷多酒入唇。 Mạc yếm thương đa tửu nhập thần .
江上小堂巢翡翠, Giang thượng tiểu đường xào phỉ thúy,
苑邊高塚臥麒麟。 Uyển biên cao trủng ngọa kỳ lân.
細推物理須行樂, Tế suy vật lý tu hành lạc,
何用浮名絆此身。? Hà dụng phù danh bạn thử thân ?.
【其二】 Bài 2.
朝回日日典春衣, Triều hồi nhật nhật điển xuân y,
每日江頭盡醉歸。 Mỗi nhật giang đầu tận túy quy.
酒債尋常行處有, Tửu trái tầm thường hành xứ hữu,
人生七十古來稀。 Nhân Sanh Thất Thập Cổ Lai Hy
穿花蛺蝶深深見, Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm kiến,
點水蜻蜓款款飛。 Điểm thủy thanh đình khoản khoản phi.
傳語風光共流轉, Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển,
暫時相賞莫相違。?Tạm thời tương thưởng mạc tương vi?
杜甫 Đỗ Phủ.
GHI CHÚ:
(1) 减却春:Giảm khước xuân :Xuân sắc bị giảm đi.
(2) 万点:Vạn điểm : Chỉ muôn ngàn hoa rụng, rụng rất nhiều.
(3) 且: Thả: là Liên từ, có nghĩa là Hãy.经眼:Kinh nhãn : ngang qua trước mắt.
(4) 伤:Thương: là thương cảm, xúc động. 巢翡翠:Xào Phỉ Thúy : Là Chim Phỉ Thúy làm ổ. Chữ XÀO là Cái Ổ, ở đây là Động từ : Nghĩa là Làm Tổ.
(5) 苑:Uyển: Là Vườn hoa( Vườn trồng toàn hoa Phù Dung cạnh bên Khúc giang ) 冢 : Chủng: Gò đất cao, ở đây chỉ các phần mộ xưa.
(6) 细推 Tế suy: Là Suy luận cho cặn kẽ, tới nơi tới chốn.
(7) 物理:Vật lý: Cái Lý lẻ của sự vật, sự việc.
(8) 浮名: Phù danh: Là Hư danh.
(9) 朝回: Triều hồi: Là Đi chầu Vua về.典:Điển : Cầm cố.
(10) 债: Trái: là Nợ. Tửu trái : là Nợ Rượu chè ( Chớ không phải Nợ Cơm áo ).行处:Hành xứ : là Khắp nơi.
(11) 蛱蝶: Giáp Điệp: Các loài bướm nhỏ thường bay lượn, tìm hút nhụy trong các khóm hoa .
(12) 蜻蜓: Thanh Đình: Con Chuồn Chuồn.
(13) 风光: Phong Quang: Quang cảnh của mùa xuân.共流转 Cộng Lưu Chuyển : Cùng qua lại, chuyển động, Có nghĩa là cùng
thưởng ngoạn cảnh trí đẹp đẽ.
(14) 相赏: Tương Thưởng: Cùng Thưởng ngoạn. 莫 Mạc : là Đừng. 相违: Tương Vi : Cùng để lở mất.( Cái gì đó... ).
DỊCH NGHĨA:
Bài 1.
Chỉ vỏn vẹn một cánh hoa bay mà thôi, mùa xuân cũng đã bị giảm mất đi rồi, huống hồ, gió thổi làm cho muôn ngàn cánh hoa cùng bay phất phơ một lúc, làm cho lòng người tiếc xuân buồn muốn thúi ruột, khi mắt trông xuân sắp tàn, ngàn hoa rơi rụng trước mắt. Thôi cũng đừng sầu thương quá mà hãy cùng mềm môi với chén rượu nầy. Hãy nhìn cảnh trí trước mắt, họa đường lộng lẫy ngày xưa, thì nay chim phỉ thúy đã làm tổ trên rường, và những gò nổng phần mộ ngày nào uy nghi, nghiêm cẩn thì nay tượng kỳ lân đã ngã đỗ nằm cạnh bên. Nên suy cho cùng về lý lẽ thịnh suy tiêu trưởng của sự vật, sự việc trên đời, thì ta nên hành lạc, vui chơi thoải mái, chớ... sao lại vì những cái hư danh không đâu mà trói buộc tấm thân nầy ?!
Bài 2.
Từ giả buổi chầu vua đi ra là đi cầm ngay chiếc áo mùa xuân ( để mua rượu uống ). Mỗi ngày đều say khước từ đầu sông Khúc giang đi về. Nợ rượu chè thì nơi nào cũng có được. Nhưng , người đời sống đến 70 mươi tuổi thì xưa nay rất hiếm. Hãy nhì xem kìa, đàn bướm nhỏ đang bay lượn trong khóm hoa, và lủ chuồn chuồn đang lượn bay đùa giởn trên mặt nước. Cảnh trí đẹp là thế, sao không bảo nhau mà cùng thưởng ngoạn, đừng bỏ lở mất những giờ khắc quý giá, mà phí cả cuộc đời !
DIỄN NÔM:
Bài 1.
Một cánh hoa rơi xuân hết sang,
Muôn ngàn hoa tạ báo xuân tàn.
Mắt trông hoa rụng lòng tê tái,
Môi nhắp rượu nồng dạ xốn xang.
Phỉ Thúy chọn rường xây tổ ấm,
Kỳ lân gò nổng ngã nghiêng tàn.
Suy cho cặn kẽ nên hành lạc,
Sao để hư danh trói buộc ràng?.
Lục bát:
Hoa rơi một cánh xuân tàn,
Đau lòng hoa rụng muôn ngàn xót xa.
Hoa bay trước mắt la đà,
Rượu mềm môi đắng lòng già tiếc thương.
Tổ êm phỉ thúy chọn rường,
Gò cao nghiêng ngã bên vườn kỳ lân.
Ăn chơi, suy kỹ, cân phân,
Hư danh trói buộc tấm thân ích gì?.
Bài 2.
Tan chầu cầm quách áo xuân hồng,
Say khướt trở về với bến sông.
Nợ rượu khắp nơi đều có được,
Người đời bảy chục hiếm xưa không.
Kìa đàn bướm nhỏ vờn hoa dại,
Nọ lũ chuồn chuồn bởn nước trong.
Cảnh đẹp khuyên ai cùng tận hưởng,
Hoa tàn cảnh tạ khỏi hoài công!
Lục bát:
Tan chầu cầm quách áo xuân,
Mỗi ngày túy lúy đầu sông đi về.
Khắp nơi nợ rượu bề bề ,
Người đời bảy chục hiếm hề xưa nay.
Hãy xem đàn bướm lượn bay,
Chuồn chuồn giởn nước khoan thai bay về.
Thiên nhiên cảnh trí bốn bề,
Sao không thưởng ngoạn còn chê chỗ nào ?!
Đỗ Chiêu Đức
***
(Bài 2 trong Khúc Giang của Đỗ Phủ, - qua bản dịch
của anh Đỗ Chiêu Đức)
Thất Thập Cổ Lai Hy
"Tan ca" cầm cố áo xuân nhanh,
Uống rượu say sưa tới bến thành.
Bảy chục xưa nay đời thấy hiếm,
Bao nhiêu nợ cũ họ đòi anh!
Chuồn chuồn lượn thấp ao bèo nước,
Bươm bướm vờn hoa dại cỏ xanh.
Thưởng thức danh lam và thắng cảnh,
Xuân tàn hoa rụng hết sao đành!
Mai Xuân Thanh
Ngày 01 tháng 03 năm 2016
***
Dịch Thơ : Khúc Giang 1
Một đoá hoa bay giảm sắc xuân
Buồn vương theo gió cánh rơi dần
Lặng nhìn hoa cuối tàn trong mắt
Chán nản men say ngấm cả thần
Nhà nhỏ bên sông chim Thuý ở
Vườn bên gò đất chỗ Kỳ Lân
Suy theo thế sự nên vui thú
Danh lợi xá gì phải thử thân
Dịch Thơ : Khúc Giang 2
Tan chầu áo đẹp vội cầm ngay
Thường nhật bên sông uống đến say
Nợ rượu lạ gì đâu chẳng có
Bảy mươi tuổi hiếm tự xưa nay
Bướm vờn hoa đẹp trông nhàn nhã
Mặt nước chuồn đùa nhấp nhứ bay
Hãy nhớ cảnh đời hay biến đổi
Thôi cùng nhau hưởng kẻo qua ngày
Quên Đi