Thứ Bảy, 18 tháng 10, 2025

Ban Chấp Hành Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại VĐBHK Phân Ưu Cùng Gia Đình Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ

 


Thư Họa: Tưởng Nhớ Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ

 

Thơ: Doãn Quốc Vinh (Con Trai Của Doãn Quốc Sỹ)
Thư Họa: Quang Hà

Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại Thành Kính Phân Ưu Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ

Thay Mặt BCH: Cung Thị Lan

Trích Từ Sách " Gìn Vàng Giữ Ngọc" Của Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ


Lời: Doãn Quốc Sỹ
Sưu Tầm: Hoàng Yến


Hoài Niệm Cố Giáo Sư Doãn Quốc Sỹ

 
 

(Tưởng nhớ một người thầy)

Doãn Quốc Sỹ mới ra đi về miền vĩnh cửu
Là một Nhà Giáo và một Nhà Văn
Hưởng thượng thọ một-trăm-lẻ-hai tuổi
Tin buồn phổ biến trên mạng toàn cầu
Nền văn học mất đi một nhà văn lỗi lạc
Độc giả từng say mê những tiểu thuyết tuyệt vời
Ngành giáo dục mất đi một nhà mô phạm
Học trò đã được nghe lời giáo huấn quý báu của Người
Chúng con_ những cựu học sinh Chu Văn An,Sư Phạm
Nhớ dáng Thầy mảnh khảnh trán cao đứng trên bục giảng
Kính phục Thầy về những tác phẩm để đời
Và đạo đức sáng ngời làm gương cho tuổi trẻ
Giờ đây GS Doãn Quốc Sỹ đã giã từ trần thế
Thành tâm kính chúc Người an nghỉ giấc ngàn Thu.

ChinhNguyên/H.N.T., 
Atlanta,GA,USA ,Oct.17.2025 (706)
-------
Doãn Quốc Sỹ (17 tháng 2 năm 1923 – 14 tháng 10 năm 2025), 
còn được biết đến với tên Doãn Quốc Sỹ, là một nhà văn Việt Nam…...

Vĩnh Biệt Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025)


Thầy đi, lá rụng ven đồi
Trăm năm chữ nghĩa hóa lời thiên thu
Bao trang sách, tựa lời ru
Ươm hồn dân tộc giữa mùa điêu linh

Một đời bền chí quang minh
Gieo nhân ái giữa chông chênh phận người
Phấn son bục giảng xa xôi
Mà hương đạo hạnh vẫn soi tâm hiền

Từng câu văn, giọt chữ tiên
Thấm trong huyết mạch bao miền Việt Nam
Nửa đời bút mực tang thương
Vẫn tin vào ánh bình dương rạng ngời

Nay thầy rũ cánh nhẹ trôi
Hồn thơ bay giữa đất trời vô biên
Xin dâng nén tạ triền miên
Cầu cho thầy sớm an nhiên Niết Bàn

phamphanlang
15/10/2025
* Tưởng niệm Nhà văn/Nhà giáo Doãn Quốc Sỹ đã tạ thế ngày 14 tháng 10 năm 2025, tại Orange County, California, hưởng thọ 103 tuổi.
Xin thành kính chia buồn cùng tang quyến của nhà văn Doãn Quốc Sỹ.
Cầu nguyện hương linh nhà văn Doãn Quốc Sỹ sớm được siêu sinh tịnh độ về Cõi Niết Bàn.
Pham Phan Lang.

Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ Qua Đời 14/10/25


Chúng tôi vừa nghe tin:

Nhà văn Doãn Quốc Sỹ vừa qua đời lúc khoảng 10 giờ sáng ngày 14 Tháng Mười 2025, tại bệnh viện West Anaheim Medical Center, thành phố Anaheim, California, thọ 103 tuổi.

Doãn Quốc Sỹ lấy tên thật làm bút hiệu. Ông sinh ngày 17 Tháng Hai, 1923 (nhằm ngày Mùng Hai Tết Quí Hợi) tại xã Hạ Yên Quyết, Hà Đông, Hà Nội. Ông từng tham gia Việt Minh kháng chiến chống Pháp.
Vào năm 1946, ông lập gia đình với bà Hồ Thị Thảo, ái nữ của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu.
Năm 1954, hiệp ước Geneva chia đôi đất nước, ông di cư và mang gia đình vào miền Nam.

Doãn Quốc Sỹ có hai sự nghiệp song song; một sự nghiệp nhà văn, một sự nghiệp nhà giáo. Ông thường nói: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.”

Ông từng giảng dạy tại các trường Trung Học Công Lập Nguyễn Khuyến (Nam Định 1951-1952), Chu Văn An (Hà Nội), Hồ Ngọc Cẩn (Sài Gòn, 1961-1962), Trường Quốc Gia Sư Phạm Sài Gòn, Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn. Ông từng là hiệu trưởng trường Trung Học Công Lập Hà Tiên (1960-1961) và từng đi tu nghiệp về sư phạm tại Hoa Kỳ (1966-1968).
Năm 1956, ông đồng sáng lập nhà xuất bản Sáng Tạo, và tạp chí văn nghệ cùng tên với Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh và Ngọc Dũng.

Ông có tác phẩm đăng trên các tạp chí Sáng Tạo, Văn Nghệ, Bách Khoa, Văn Học, Nghệ Thuật…

Sau 30 Tháng Tư, 1975, Doãn Quốc Sỹ cùng các văn nghệ sĩ như Trần Dạ Từ, Thanh Thương Hoàng, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Nguyễn Sỹ Tế, Chóe… bị chế độ Cộng Sản bắt giam. Đến năm 1980, ông được thả tự do nhờ sự can thiệp của nhiều tổ chức quốc tế.

Trong thời gian chờ đợi được con gái bảo lãnh đi nước ngoài, ông tiếp tục viết thêm nhiều tác phẩm nữa, trong đó có quyển “Đi,” ký bút hiệu Hồ Khanh. Ông gửi tác phẩm này sang Pháp để xuất bản tại hải ngoại. Cũng vì lý do này, ông bị bắt lần thứ hai vào tháng Năm, 1984. Cùng bị giam với ông trong đợt này có ca sĩ Duy Trác, nhà báo Dương Hùng Cường, hai nhà văn Hoàng Hải Thủy và Lý Thụy Ý. Ông bị kết án mười năm tù và mãn hạn tù lần thứ hai vào Tháng Mười Một, 1991.

Năm 1995, ông được con trai là Doãn Quốc Thái bảo lãnh sang Houston, Hoa Kỳ.

Nhận định về ảnh hưởng của tác phẩm Doãn Quốc Sỹ, nhà thơ Trần Mộng Tú từng viết trên VOA: “Những người yêu chữ nghĩa văn chương ở Việt Nam thời 1954-1975 ở miền Nam Việt Nam không ai là không đọc những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ. Những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ cho người đọc thấy yêu quê hương, yêu gia đình, bạn hữu hơn mặc dù trong những dòng chữ đó không hề nhắc đến một bổn phận nào.”

Nhà thơ, nhà báo Đỗ Quý Toàn, nhận định với Người Việt: “Doãn Quốc Sỹ xuất hiện trong nhóm Sáng Tạo nhưng ông tạo một phong cách văn chương riêng biệt. Ông theo lối cổ truyền: Dùng văn chương chuyên chở đạo lý.”

Nhà thơ, hoạ sĩ thuộc thế hệ hậu bối, Đinh Trường Chinh, nhận định với Người Việt: “Doãn Quốc Sỹ là một trong những con chim đầu đàn của nhóm Sáng Tạo, nhóm đã làm thay đổi diện mạo văn học miền Nam sau 1954 và góp phần thay đổi cảm quan người đọc thời ấy ra khỏi mỹ cảm Tự Lực Văn Đoàn và văn thơ tiền chiến vốn đã hiện diện và ăn sâu vào người đọc thời ấy.”

Là người gần gũi và có nhiều kỷ niệm với Doãn Quốc Sỹ và gia đình, nhà báo Đinh Quang Anh Thái kể: “Đọc tác phẩm của bác, mê văn bác từ nhỏ, nhưng mãi tới sau ngày 30 Tháng Tư 75, lúc bấy giờ tôi ngoài 30 tuổi, tôi mới có cơ duyên được hầu chuyện bác, tôi cảm ngay được nhân cách hiền hòa, kín đáo của bác. Bác chừng mực nhưng không xa cách. Bác đôn hậu nhưng không vồn vã. Đúng cung cách “Quân Tử Chi Giao Đạm Nhược Thủy”, tình cảm thâm trầm, lắng đọng vào bên trong, không sôi nổi, bộc lộ ra ngoài.”

Doãn Quốc Sỹ là nhà văn có sức sáng tác phong phú và đa dạng. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhấtb của ông là tiểu thuyết Khu Rừng Lau, gồm 4 tập: Ba Sinh Hương Lửa (1962), Người Đàn Bà Bên Kia Vỹ Tuyến (1964), Tình Yêu Thánh Hóa (1965) và Những Ngã Sông (1966).

Nhiều truyện ngắn của ông được độc giả ghi nhớ lâu dài. Trong đó có thể kể đến: Gìn Vàng Giữ Ngọc, Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều, Mình Lại Soi Mình, Đàm Thoại Độc Thoại, Dấu Chân Cát Xóa, Dốc Sương Mù…

Tổng số tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ là 25 cuốn.
https://www.facebook.com/share/p/1AMhpfJeRT/?mibextid=wwXIfr

Hai anh em chúng tôi (Đàm Trung Pháp và Phán) đã may mắn được GS Doãn Quốc Sĩ dạy môn Việt Văn tại Trường Trần Lục, Saigon năm chúng tôi học Đệ Ngũ (1956, 1957).

Đàm Ttrung Phán đã được nghe Thầy Sỹ đọc mấy bài thơ theo thể thơ Tự Do và nhờ vậy mà chúng tôi đã có thể viết ra một số bài thơ thể tự do trong lúc đi thực tập ngành công chánh trong đại lục Úc Châu vào thập niên 1960. Một kỷ niệm khó quên!

Xin chia buồn cùng đại gia đình Thầy Doãn Quốc Sỹ. Nguyện cầu hương linh Thầy sớm tiêu diêu miền cực lạc.

Đàm Trung Phán
Giáo Sư Công Chánh hồi hưu
Canada

Doãn Quốc Sỹ, Chất Chiến Đấu Từ Những Lời Đôn Hậu


Trường thiên tiểu thuyết Khu Rừng Lau dày hơn 2000 trang là tác phẩm dài hơi nhất của Doãn Quốc Sỹ. Ký giả Lê Văn của Đài BBC đã ca ngợi tác phẩm này như tác phẩm Chiến Tranh và Hòa Bình của Việt Nam, kín đáo ca ngợi Doãn Quốc Sỹ của Việt Nam như Lev Nikolayevich Tolstoy của Nga là những Văn Hào của Thế giới.Một ngòi bút sắc xảo tinh tế nhưng rất lãng mạn đôn hậuđã truyền đạt một thông điệp sống động về Nhân Bản chống lại Vô Thần. Và đó chính là chất chiến đấu kiên trì đối kháng với bạo ngược, gian trá.

Truyện ngắn đầu tiên tôi được đọc của Doãn Quốc Sỹ là Cánh Tay Nối Dài. Lúc đó năm 1967, tôi mới 17 tuổi, đang học lớp Đệ Nhị trường Nguyễn Bá Tòng , Saigon.
Trong lớp có một người bạn chơi chung là Vũ. Vũ ở đường Vườn Chuối, khi tới nhà Vũ để rủ Vũ đi chơi, cả nhóm bạn đứa nào cũng sợ phải gặp mặt ông cụ thân phụ của Vũ. Không phải tại cụ khó mà bởi vì cụ hay gọi cả nhóm vào trò chuyện, trong đó khuyên nhủ, dạy dỗ...Cả bọn đẩy đưa, cuối cùng, tôi là đứa bị đẩy ra làm đại diện vào nhà xin phép cho Vũ, trong lúc cả bọn đứng chờ ngoài đầu hẻm. Tôi bị đẩy ra làm công việc này, vì trong nhóm bạn, tôi lọt vào mắt xanh của cụ, Cụ rất quý tôi và thường dễ dãi chấp thuận lời xin của tôi để Vũ đi chơi.

Lần đó, khi tới, Vũ không có nhà, tôi vừa định chào ra về, thì cụ gọi lại bảo vào chơi uống nước. Cụ lấy một cuốn sách đưa tôi và nói, Đất nước sau này có tiến bộ hay không là nhờ vào lớp trẻ sau này lớn lên có tiếp nối được khao khát của cha ông hay không. Cuốn này hay mà bác mới đọc được và rất tâm đắc với tác phẩm, cùng với kính trọng tác giả, Bác cho cháu mượn xem, tuần sau đến đây trả lời với bác cháu đọc được gì nhé.

Tôi nhận cuốn sách Cánh Tay Nối Dài của Doãn Quốc Sỹ mà lòng run vì sợ. Đề đã ra và tuần sau phải trả bài. Thật không ngờ, đó lại là một cơ hội tuyệt vời cho tôi bắt đầu một niềm vui mới là tìm thấy trong dòng chữ viết đã mở ra biết bao chân trời, biết bao ước mơ và biết bao giải đáp cho cuộc đời sau này.
Khi đó, tôi không biết tác giả đang là một Giáo Sư dạy Đại Học, không biết tác giả là một Nhà Văn nổi tiếng từ lúc tôi chưa sinh ra, lại càng không biết gì về Tạp Chí Sáng Tạo đã từng một thời lẫy lừng nay đã đình bản.

Cánh Tay Nối Dài là chuyện kể về một thanh niên tên Tiến, nhà ở một vùng quê, khi còn là học sinh trung học nỗi khao khát thèm muốn được trở thành một Sinh Viên, được sống trong một Đại Học Xá. Ước mơ tưởng rất gần những bỗng ngàn dặm vì hoàn cảnh gia đình phải về quê lập gia đình từ rất sớm. Khi chia đôi đất nước, Tiến vào Nam đã có một gia đình ấm êm, đi dạy học nhiều nơi dù chưa đạt được bằng tú tài và chưa đạt được giấc mộng trở thành sinh viên và sống trong môi trường Đại Học Xá, niềm khao khát đóchưa bao giờ nguôi ngoai. Cho đến khi đứa con trai đầu lòng tốt nghiệp trung học, xin được một căn phòng trong khu đại học xá Minh Mạng, Tiến dẫn bạn nay đã là hai ông già, đến thăm con, lặng lẽ đứng bên ngoài nhìn vào phòng người con trai đang chăm chú học bài dưới ngọn đèn neon trong căn phòng cư xá :“ Tiến ngồi bên tôi im lặng không nói gì, tôi đưa mắt ngắm nhìn khuôn mặt anh thỏa mái trong ánh sáng mờ mờ, con anh quả đã là cánh tay nối dài của anh để hái một trái mộng. Mộng Sinh Viên”

Ý nghĩa câu chuyện đó ám ảnh tôi cho tới bây giờ, và tôi nghĩ chắc rằng ám ảnh nhiều người nữa khi đã đọc truyện đó, bằng chứng là chữ Cánh Tay Nối Dài ngày nay đã trở thành một thành ngữ quen thuộc cho rất nhiều mô tả một mong ước của cha anh hướng về thế hệ nối tiếp của mình.

Năm 1968 mở đầu bằng trận chiến tết Mậu Thân. Lằn ranh Quốc Cộng đã chạm vào thành phố, hay nói đúng hơn là chạm vào lứa tuổi mới lớn của chúng tôi. Ngơ ngác với cuộc đời, lúng túng và lạc lõng khi gặp gỡ trò chuyện với những người thiên tả nói về chính trị, không biết gì về một chủ nghĩa lạ lẫm và một đời sống bên kia bức màn sắt. Những kích thích đó đưa tôi vào sách vở và tìm đọc nhiều hơn những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ.

Với những truyện ngắn như “Chiếc chiếu hoa cạp điều”, hay “Gìn Vàng Giữ Ngọc”, chân dung những con người nhân hậu chí tình đã khiến cho độc giả cảm thấy cuộc đời không phải chỉ toàn người xấu. Trái lại người tốt rất nhiều và trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù khốn cùng đến đâu, cái chất nhân bản vẫn rõ nét. Quả thật, văn chương của ông bình dị không lên mặt dậy đời mà lại có sức thuyết phục.
Khi bước vào quân ngũ, tôi đã đã có dịp may được đọc trường thiên tiểu thuyết Khu Rừng Lau.

Nguyễn Mạnh Trinh đã có những tóm lược như sau: “Trường thiên “ Khu Rừng Lau” vẽ lại cả một thời kỳ nhiễu nhương của lịch sử Việt Nam. Đời sống của một lớp thanh niên tiểu tư sản được dựng lại trong cái phong cảnh hoành tráng của một đất nước không may trở thành nơi chốn đọ sức của những ý thức hệ quốc tế. Những nhân vật như Miên, Kha, Tân, Hiển, Hãng, Lăng, Khiết… từ lúc trưởng thành, tham gia kháng chiến chống Pháp ,rồi trải qua những ngày cải cách ruộng đất, trở về thành rồi di cư vào Nam , tất cả những quặn mình của cả một thế hệ được nhà văn tạo thành tiêu biểu. Tuổi tác họ chênh lệch nhau nhưng cùng có chung một mẫu số yêu đất nước như yêu tự do và cùng mong ước cho một ngày đất nước hùng cường .Hình như, họ có chung nỗi hoang mang của những người trí thức luôn đi kiếm tìm cho mình một con đường nhưng lại thấy bơ vơ khi chọn lựa. Ở với kháng chiến , thấy lòng yêu nước bị lợi dụng bởi những con người Bolcheviks tàn bạo vô nhân, về thành thì thấy giặc Pháp nghênh ngang, chính phủ quốc gia chỉ là cái bóng. Di cư vào Nam, thì chế độ độc tài và gây ra nhiều kỳ thị bất công.

Dòng đời trôi, qua bao năm tháng, chiến tranh lại tiếp chiến tranh, hết độc tài Cộng sản đến độc tài gia đình trị, thế nước nghiêng ngửa như những cuộc đời ngả nghiêng theo. Bộ trường thiên này có lẽ là một phác họa lịch sử hoành tráng và tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam…”

Không lập lại những nhận định đã có của Nguyễn mạnh Trinh vì quá chính xác, cái mà tôi nhận được từ trường thiên này là một cái tâm đắc khác, đó là cách dựng truyện và hành văn của Doãn Quân.

1/ Cách dựng truyện.

Các nhân vật của Khu Rừng lau là lứa tuổi sinh vào thập niên 1913-1926 của thế kỷ trước. Là lứa tuổi cùng thời với tác giả. Tình hình đất nước đã giao cho thế hệ này sự chọn lựa đúng sai, chính tà thật khắc nghiệt. Khi biến động rộng lớn từ 1945 giữa Pháp, Nhật, các đảng phái quốc gia, Việt Minh (lúc đó chưa ra mặt Cộng Sản, mà dương danh là tập họp các đảng phái chính trị, các tổ chức quần chúng chung tay chống Pháp) lớp thanh niên mới lớn rung động từ lòng yêu nước dễ bị cuốn hút vào kháng chiến. Kháng chiến như ánh mặt trời mà trăm hoa hướng về. Nhân vật lớn tuổi nhất là Khiết và Khóa sinh năm 1913 thì ngoài 30 tuổi, nhỏ nhất là Miên sinh năm 1926 thì mới vừa 19 tuổi.

Những con người có học thức, sống ở thành thị, yêu nước với tất cả nhiệt huyết của trái tim thanh niên đã thoát ly gia đình lên đường chiến đấu chống ngoại xâmvới khao khát độc lập, và tự do như những lời cổ vũ.

Doãn Quốc Sỹ đã tâm sự:

“Khu Rừng Lau tôi cũng viết bằng cả cái kinh nghiệm bản thân của tôi, có nhân vật từ thuở gia nhập chống Pháp. Thời đó chống Pháp là tất cả các thanh niên và chính bản thân tôi ở trong Đoàn Thanh Niên Cứu Quốc để mà chống Pháp. Rồi thì chính tôi, bản thân tôi đã từng họp dân chúng biểu tình để đi phá kho thóc của Nhật để phân phát gạo cho người dân vào cái thời đó.

Với cái việc của bản thân như vậy thì tôi dựng lại thành cái bộ truyện trường thiên tiểu thuyết Khu Rừng Lau đó. Và cái bối cảnh cùng những tình tiết thì đều là lẽ cố nhiên là viết dưới hình thức tiểu thuyết, nhưng mà kinh nghiệm là do kinh nghiệm bản thân của tôi với những điều mắt thấy tai nghe, và rồi thì là để vào viết thành cuốn tiểu thuyết như vậy” (RFA, 23/6/2008).

Trải qua rất nhiều tình huống khi sống trong chiến khu, lăn lộn qua nhiều chiến trường,những người thanh niên yêu nước, có học và cao vọng đó đã dần dần hiểu được mặt trái của lời tuyên truyền, Họ đấu tranh với chính bản thân bằng những lý lẽ nhân bản để rồi quyết định rời bỏ kháng chiến về thành, không phải vì khó khăn hay sợ hãi mà vì thất vọng với những điều mắt thấy tai nghe. Để tiếp tục đi tìm tiếp một nguồn sống khác, chân lý khác cho cuộc sống. Những lập luận đó đã thuyết phục tôi suốt một thời thanh niên mới lớn, khi tôi bằng tuổi với các nhân vật trong truyện ở thời điểm đó.

2/ Hành Văn.

Trong một bài viết, Nguyễn Mộng Giác đã ghi nhận:
Doãn Quốc Sỹ vẫn viết với giọng điềm tĩnh đôn hậu cố hữu. Ông không "nổ" như Nguyễn Mạnh Côn, không "độc" như Võ Phiến. Người Cộng sản ông từng biết thời thanh niên của ông, qua lời ông viết, là những nạn nhân của một chủ thuyết ngoại lai, không phải là tác nhân. Và đó là chủ đề những truyện ngắn chống Cộng Doãn Quốc Sỹ viết thời kỳ sau hiệp định Genève.

Chính xác là trường thiên Khu Rừng Lau, ở bất tranh luận hay bất cứ sự kiện nào của truyện, chúng ta được thuyết phục bằng những văn phong qua chính những tính cách của các nhân vật. Chất chiến đấu chính là sự kiên trì với chính bản thân đi tìm chân lý bằng những lời đôn hậu. Rất gần gũi và rất thuyết phục.

Mỗi người là một hoàn cảnh khác nhau để người đọc nhìn rất nhiều sự kiện xẩy ra. Đầu tiên là Miên, người trẻ nhất trong các nhân vật, rồi các nhân vật khác đều gặp những sự thật khác đầy gian trá, bất nhân, luia72 phỉnh và khống chế, rồi sau tự vấnvới lương tâm đã lần lượt rời bỏ kháng chiến, .

Mai Kim Ngọc đã tóm lược: Họ gặp nhau lại tại Hà Nội, trong ánh sáng quốc gia, dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ của cựu hoàng.
Qua đôi mắt quan sát của Doãn Quốc Sỹ, qua màng lọc tâm hồn ông, Con Người được viết hoa. Ông dành chỗ rộng trong tiểu thuyết cho những người trung thực đôn hậu. Ông yêu âm nhạc, ghét những tiếng ồn, và những nhân vật ông thân yêu nếu không mê ca dao thì cũng mê thích một loại nhạc khí cổ điển nào đó, hoặc vỹ cầm, hoặc dương cầm.

Văn phong truyền cảm xúc của Doãn Quốc Sỹ thực sự thuyết phục người đọc hiểu được tại sao, và làm như thế nào của những chàng trai thời loạn đó đã chọn con đường dấn thân vào kháng chiến rồi đưa đến dứt khoát rời bỏ để về thành. Giống như trường hợp Phạm Duy viết “Bên Cầu Biên Giới” trước khi rời kháng chiến về thành.

Nguyễn Mộng Giác nhận định: Trong các nhà văn lớp trước, tôi cho rằng Doãn Quốc Sỹ và Võ Hồng là hai cây bút có văn phong lãng mạn và một tâm hồn đôn hậu rất Việt Nam, cái chất Việt Nam nhân ái hiếu hòa, cần cù lương thiện, hớn hở vui mừng khi gặp người đồng điệu, mà cũng dứt khoát phẫn nộ nói ra thành lời khi gặp chuyện bất bằng, cái chất Việt Nam chưa bị những lý thuyết ngoại nhập làm cho thui chột để trở thành tàn nhẫn, độc địa, lai căng, lưu manh, lố bịch.

Toàn bộ trường thiên Khu Rừng Lau và kể cả các tác phẩm khác của Doãn Quốc Sỹ đều được xây dựng trên các nhân vật có phẩm chất lương thiện, cao quý và tư cách được điễn tả trong các lời văn đôn hậu trong sáng mà luôn toát ra được chất kiên định chiến đấu cho Lẽ Phải.

Bài viết này thực hiện nhân dịp mừng Trăm Tuổi của một đại thụ văn học, Người viết thuộc hàng con cháu của Cụ, Và nhất là bài này viêt sau hàng loạt những nhận định giá trị khác đã từng phổ biến, cho nên xử dụng các tư liệu chuẩn mực mà người khác đã viết chính là sự bày tỏ lòng đồng tình với các nhận định đó.

Cuộc đời của Doãn Quốc Sỹ gắn liền với hai thiên chức là viết văn và dạy học, Cụ có một đời sống đạo đức và mẫu mực. Văn của Doãn Quốc Sỹ là văn phong điềm đạm, thong dong và giáo dục đời sau. Bằng những lời đôn hậu đã chuyên chở cả một tính chiến đấu kiên cường bền bỉ cho một chân lý ngàn đời, hướng tới sự thật, sự thiện lành và tốt đẹp. Văn của Doãn Quốc Sỹ đương nhiên là kẻ thù của sự dối trá, ác độc và xấu sa. Và sau chót, cuộc đời trăm năm đã qua của Cụ đã là tấm gương của người thực hiện chức năng Nhà Giáo và Nhà Văn với tất cả ý nghĩa tốt đẹp nhất của hai từ này.Cụ đã phải trải qua nhiều lần tù tổng cộng tới 14 năm với tội danh “Viết văn chống phá cách mạng”, chính Thái độ sống, và Ngôn Ngữ đôn hậu đó là đối nghịch lớn nhất không thể nói ra của chính quyền trong nước.

Xin kết bài này bằng một câu nhận định của Võ Phiến về Văn Doãn Quốc Sỹ “ Đọc sách của ông thơm tho cả tâm hồn.”

12/2022.
Nguyễn Minh Nữu

Tưởng Niệm Nhà Văn, Giáo Sư Doãn Quốc Sỹ


Vài hôm trước, tin về Thầy Doãn Quốc Sỹ,
Tin thật buồn cho VBVNHN khắp nơi!
Một ngôi sao đã rời khỏi trần đời!
Vào Tháng 10, năm 2025, ngày 14.

Thầy Doãn Quốc Sỹ, một Thiên Tài Văn Bút
Trước 75, là Giáo Sư nổi tiếng tại Việt Nam
Một Văn Hào Thi SỸ trên Quê hương
Đã từng dạy Trung Học Nguyễn Khuyến...
Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn.

Thầy từng dạy Sư Phạm Sài Gòn, Đại Học
Văn Khoa, Đại Học Vạn Hạnh.
Một Giáo Sư uyên bác, tận tâm,
Cuộc đời Thầy, trải qua bao biến cố thăng trầm
Đời lênh đênh nổi trôi theo vận nước.

Ông thường nói:
"Dạy Học là nghề, Viết Văn là nghiệp bút"
Truyền tải cho đời, bao tuyệt tác Văn Chương
Những Tác phẩm hay là:
Khu rừng lau, Dòng sông định mệnh, Vào Thiền.
Mình lại soi mình, U hoài, Dấu chân cát xóa....

Còn nhiều nữa...nhiều sách chưa kể hết..
Văn thơ, ca ngợi hòa bình, tình nhân loại yêu thương
Sau 75, ông bị cầm giam, oan ức vô thường.
Bị tù 10 năm cùng nhiều Văn Nhân Thi SỸ

Năm 1995, ông định cư tại nước Mỹ.
Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, Tự Do, Dân Chủ,
Văn Minh,
Doãn Quốc Sỹ, một Chí SỸLịch sử, tâm huyết
hướng hòa bình
Đã để lại hậu thễ, nhiều sự nghiệp Văn Bút

Doãn Quốc Sỹ, Thầy ra đi, biết bao người
thương tiếc !
Tuổi Thọ 102, Thầy về Trời êm ái, bình an,
Thầy đã làm xong nhiệm vụ trần gian
Con cầu nguyện Trời Phật, độ cho Thầy
Sanh Về Quốc Độ Vĩnh Hằng An Vui, Hạnh Phúc.

A DI ĐÀ PHẬT
 
Hoàng Thục Uyên
Học trò của thầy 1971


Kính Tiễn Biệt: Giáo Sư Văn Sĩ

 

Thầy theo hạc tiễn nương bờ giác
Lìa chốn ghềnh sâu, thác, biển, sông
Cháu con thương nhớ vời trông
Giọt buồn lấp lánh hương lòng kính dâng

Mọi người vẫn bâng khuâng thương tiếc
Hoài niệm thời mài miệt văn chương
Chắt chiu ngôn ngữ quê hương
Bảng đen bụi phấn lớp trường học sinh

Lòng nhủ lòng đinh ninh nghề giáo
Tiếng Việt còn, xương máu cha ông
Dạy đường hiếu nghĩa tổ tông
Giảng rao bổn phận giữ sông núi nhà

Lời châu ngọc gấm hoa dệt sách
Giũa ngôn từ viết lách từng trang
Giải niềm trăn trở tâm can
Thương dân xót nước miên man tháng ngày

In sách ĐI, tai bay vạ gió
Phận tù đày lấp ngõ phong vân
Mười năm ngục thất đọa thân
Không giam được ý thiện nhân rạng ngời

Mười lăm năm bời bời tấc dạ
Chốn lao lung Xuân Hạ Thu Đông
Lòng trao tổ quốc tận trung
Giữ thân thanh bạch ung dung hành thiền

Trăm lẻ hai, nương thuyền bát nhã
Một sát na, người đã về nơi
Mười phương cõi Phật sáng ngời
Liên hoa nở thắm đón mời lạc bang

Người là đóa sen vàng trần thế
Rũ bụi hồng cuối bể đầu sông
Niết Bàn kính nguyện thong dong
Nghiệp duyên viên mãn sẽ không luân hồi.

Kính bái
ThanhSong ntkp
CA. 15/10/2025

Tưởng Nhớ Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ


Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vừa từ trần vào lúc 10 giờ sáng ngày 14/10/2025 tại bệnh viện ở Nam California hưởng thọ 102 tuổi . Ông sanh năm Quí Hợi 1923 nên tính theo tuổi ta, ông thượng thọ 103 tuổi.

Nhân đây, tưởng nhớ ông nên đắng lại bài viết Tác Phẩm Khu Rừng Lau Của Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vào ngày 5/11/2025

*

Nhà giáo Doãn Quốc Sỹ là vị thầy khả kính với các thế hệ học sinh, sinh viên trước năm 1975. Nhà văn chân chính với các tác phẩm đóng góp cho nền văn chương miền Nam Việt Nam cho đến nay ở hải ngoại.

Nhân dịp Lễ Thượng Thọ 100 tuổi nhà giáo, nhà văn Doãn Quốc Sỹ vào đầu năm 2023 (Quý Mão). Lễ vinh danh và mừng thọ “bách niên chi lão” nhà văn, nhà giáo Doãn Quốc Sỹ được diễn ra thật trang trọng, xứng đáng “nhà văn của thế kỷ 20”. Với sự có mặt của gia quyến ông, cùng giới nhà giáo, nhân văn thi sĩ, thân hữu, cựu học sinh và giới truyền thông v.v…  Tôi viết 4 tác phẩm trong Khu Rừng Lau từ thập niên 1960’ vì thời còn đi học đã đọc và rất ngưỡng ngưỡng mộ… Đây là tác phẩm văn học giá trị về giai đoạn và bối cảnh đất nước của dân tộc chịu nhiều đau thương!


Năm 2006 tôi viết bài Tác Phẩm “ĐI” của Hồ Khanh & Bản Án của Cộng Sản với nhà văn Doãn Quốc Sỹ cho tuyển tập của Văn Đàn Đồng Tâm (VĐĐT thành lập năm 2005, Cố Vấn: nhà văn Doãn Quốc Sỹ, Chủ Nhiệm: nhà văn Tạ Xuân Thạc (Texas), Chủ Bút: nhà văn Việt Hải (Los Angeles). (Lúc đó tôi ra tờ Cali Weekly, mời Việt Hải làm Tổng Thư Ký)... (VĐDT Kỷ Niệm Về Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ, 2007, trang 254-258). Bài còn lưu trữ trên trang web Sáng Tạo và trong Mượn Dấu Thời Gian về nhà văn Doãn Quốc Sỹ.


Trích:

Sau tháng 4 năm 1975, nhà giáo Doãn Quốc Sỹ không “đi” được, ở lại Sài Gòn, được “lưu dung” dạy tại Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, thế rồi ngày 4 tháng 4 năm 1976, ông bị kết tội trong thành phần “văn nghệ sỹ phản động”, đưa vào trại giam Phan Đăng Lưu rồi chuyển lên trại tù Gia Trung ở núi rừng Tây nguyên, cho đến tháng Giêng năm 1980. Ra tù, bản thân ông không bao giờ nghĩ đến chuyện “đi” nếu không có những người thân yêu mong đợi. Không “đi” được, ông viết “ĐI “ để gởi sang Pháp nhưng bị họ lén lút kiểm duyệt, cũng như nhà văn A. Solzhenitsyn, ông bị kết án 10 năm tù! Ông thọ án cũng gần 8 năm như nhà văn A. Solzhenitsyn ở Liên Xô!

Nhà văn Doãn Quốc Sỹ cho biết: “Năm 1980, sau bốn năm “chém tre đẵn gỗ trên ngàn” tôi được trở về sống với gia đình, bắt được liên lạc với nhà xuất bản Lá Bối, viết những bài báo phúng thích ngắn ký dưới bút hiệu tếu tếu: Củ Hành Khô!


Sau đó là cảnh đau lòng tử biệt sinh ly của chính mình khi chứng kiến cảnh đám con cháu cùng thân bằng cố hữu lần lượt mạo hiểm tổ chức vượt biên. “ĐI” được sáng tác đúng vào dịp nầy. “ĐI” chính là một hồi ký tự sự viết dưới hình thức tiểu thuyết. “ĐI” được bằng hữu thân tình tìm cách chuyền sang Pháp tới nhà Lá Bối. Tên tác giả được ghi là Hồ Khanh. Sự chọn lựa nầy liên tưởng tới những bài phúng thích trước đây được ghi với bút hiệu Củ Hành Khô. Củ Hành Khô khi nói lái lại thành một bút hiệu nghiêm chỉnh: Hồ Khanh”.

Trong dịp tiếp xúc với nhà văn Doãn Quốc Sỹ, ông cho biết, khi viết xong từng chương, ông gởi qua bưu điện sang Pháp, ông cảm thấy được trót lọt nên tiếp tục viết và gởi. Năm 1984, Công An đến nhà ra lệnh bắt, ông hỏi tội gì thì Công An đưa ra những bản đã photocopy bài viết mà ông gởi qua đường bưu điện.


Ông biết mình đã bị theo dõi và kiểm soát rất gắt gao nên đành chấp nhận. Bị nhốt 4 năm cho đến năm 1988 mới ra tòa và bản án: 10 năm. Năm 1991, ông ra khỏi tù, năm 1995, được con trai (Doãn Quốc Thái) bảo lãnh sang định cư tại Texas, Hoa Kỳ.

Tác phẩm “Đi”, gồm 19 chương, trên khổ 5.5 X 8.5 inches, dày 224 trang, là những mẩu chuyện có thật xảy ra trong gia đình, con cháu, người thân… với lối hành văn rất nhẹ nhàng, chân thật bắt gặp trong đời sống người thân và gia đình ông của thời điểm sau năm 1975.

Mở đầu tác phẩm “ĐI”, chương I ông viết: “Bà nội bảy mươi bảy tuổi chẳng bao giờ ngờ chuyến đi từ Hà Nội vô Sài Gòn này lại chỉ chứng kiến đám con cháu nội ngoại trong Nam ra đi gần trọn ổ. Thật buồn! Nhưng qua kinh nghiệm và cảm nghĩ bản thân, cụ cũng thấy rằng điều đó chẳng thể tránh được.


Đây là lần thứ hai cụ vô Nam đấy. Lần đầu cụ vô Sài Gòn vào tháng 3 năm 1977. Ngày đó thằng con trưởng của cụ (di cư vô Nam từ 1964) đã bị bắt giữ rồi… Tháng Giêng năm 1980 cụ nhận được điện báo tin thằng trưởng của cụ được tha. Thế là cụ tức tốc lo liệu giấy tờ lấy… Mẹ con sau hai mươi sáu năm trời xa cách (trên một phần tư thế kỷ) được gặp nhau trước Tết; lũ cháu nội ngoại được quây quần bên bà ríu rít chuẩn bị đón Xuân… Hạnh phúc mẹ gặp con, bà gặp cháu của một đại gia đình thương yêu hòa thuận không bút nào tả xiết. Vậy mà cụ có ngờ đâu chỉ sau đó ít lâu cụ chứng kiến cảnh chúng nó ra đi dần, có đứa bị bắt giữ rồi được thả rồi lại ra đi nữa…
Từ lúc đột nhiên khám phá ra lũ con cháu trong Nam đang tuần tự ra đi dần cụ chỉ biết niệm Phật, hầu như thường xuyên niệm Phật, kể cả đêm khuya lúc cụ thiếp ngủ tâm tưởng của cụ vẫn hướng về lời niệm…”


Chương II đề cập đến bản thân ông qua hình ảnh ông giáo: “Ông giáo thương lũ con vô cùng. Ngày xưa làm được đồng nào ông nuôi chúng ăn học đầy đủ, ngày nay ông càng thương chúng vì thiếu thốn đủ thứ. Đã đành ông thương chúng như cha thương con, ông còn thương chúng như đạo hữu thương đạo hữu trong pháp nạn, như đám chúng sanh đói khát khổ nạn thương đám chúng sanh đói khát khổ bạn, thương chúng bằng thứ tình nhân bản tinh lọc nhất. Ngay thuở còn trong trại lao động cưỡng bách, ông đã viết thư nói với tám con là ông cám ơn Trời Phật đã ban cho ông tám vị bồ tát…”.

Trong những chương kế tiếp, ông nói về hình ảnh người thân, học hành, ra trường, xin việc, mất việc rồi “đi” đường bộ, đường thủy, bị bắt rồi lại “đi”… tin buồn, tin vui lẫn lộn trong lòng thân mẫu ông giáo, vợ chồng ông giáo.


Cuối chương XVI, sau tháng ngày chứng kiến hình ảnh con cháu “Bà cụ nhìn đám cháu còn lại. Cụ biết rồi đây khi cụ đã ra Bắc rồi, nếu có tổ chức gì (ý cụ nghĩ về H.C.R) mà bảo lãnh cho chúng đi tất nhiên chúng sẽ ra đi hết. Có bao giờ cụ quên niệm Phật cầu nguyện cho chúng đâu”.

Rồi những dòng thư của những đứa con xa cha mẹ với bao nỗi nhớ thương, những dòng chữ viết trong nước mắt gởi từ phương trời xa về cho người thân.

Đoạn kết của “ĐI” khi người thân ra đi ở đảo với nỗi niềm: “Biết bao giờ gặp mặt! Biết bao giờ gặp mặt! Có thể rồi mai đây được bốc đi định cư ở một xứ sở xa xôi nào, rồi ở đâu đó, tiểu gia đình Hoa sẽ mọc rễ đâu đó như bố mẹ trước đây đã di cư vào miền Nam rồi sẽ mọc rễ ở miền Nam. Ông nội mất, bố có được gặp mặt đâu! Biết bao giờ gặp mặt! Biết bao giờ gặp mặt! Hoa ngẩng nhìn trời thăm thẳm và trong suốt như để tìm những vì sao - (lúc đó làm gì có sao) - nhưng là nhìn vào một tiền kiếp xa xưa nào, hồi bố mẹ còn là những vì sao trên trời”.


Với tâm hồn nhà giáo khả kính, nhà văn mang nặng tính nhân bản ghi lại những hình ảnh trong “ĐI” nó bàng bạc trong muôn nghìn gia đình và con cháu trong gia đình ông vào thời điểm đó. Ông không phóng đại, cường điệu, dùng chữ “bao to búa lớn” để chửi bới, lên án mà là tâm tình của ông giáo nặng tình yêu thương với người thân trong hoàn cảnh đen tối đành “đứt ruột” chia tay!..”.

Hình ảnh người bố qua những dòng của chị Kim Khánh: “Ngày mãn hạn tù về, bố bình an như một thiền sư, để lại sau lưng hết cả những thăng trầm của quá khứ. Rồi bố mẹ sang Mỹ ở Houston sống cùng cậu trưởng nam… Như thế được mười năm thì mẹ ngã bệnh. Hôm nay, ở giai đoạn cuối của căn bệnh Alzheimer, mẹ nằm bất động một chỗ và không nói được nữa”. (Bà Doãn Quốc Sỹ, bà Hồ Thị Thảo, con gái nhà thơ Tú Mỡ, pháp danh Diệu Thảo. Thất lộc ngày 08 tháng 9 năm 2011 tại Houston, Texas, Hoa Kỳ).



Trong lãnh vực giáo dục, nhà giáo Doãn Quốc Sỹ đã dạy tại các trường: Trung Học Công Lập Nguyễn Khuyến (Nam Định 1951-1952), Chu Văn An (Hà Nội). Khi di cư vào Nam, Hiệu Trưởng Trung Học Công Lập Hà Tiên (1960-1961), Trường Hồ Ngọc Cẩn (Sài Gòn 1961-1962). Tu nghiệp về ngành giáo dục tại Hoa Kỳ (1966-1968)… Giáo Sư Đại Học Phạm Sài Gòn, Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn.


Tác giả sách giáo khoa: Khảo Luận Về Cao Bá Quát (Nam Sơn, 1959). Khảo Luận Về Nguyễn Công Trứ (Nam Sơn, 1959). Khảo Luận Về Đoạn Trường Tân Thanh (Nam Sơn, 1959). Khảo Luận Về Tản Đà (Nam Sơn, 1960). Khảo Luận Về Nguyễn Khuyến (Hồng Hà, 1960). Khảo Luận Về Trần Tế Xương (Hồng Hà, 1960)… Văn Học & Tiểu Thuyết, 2 quyển (ghi chú: Dành cho sinh viên Vạn Hạnh).


Trong lãnh vực văn chương: Tác phẩm đầu tay Sợ Lửa (tập truyện, Người Việt, 1956) cho đến nay khoảng 30 tác phẩm.

Năm 1955, ông ra tờ tuần báo Người Việt nhưng được vài số rồi đình bản. Năm 1956, ông đồng sáng lập nhà xuất bản Sáng Tạo và tạp chí văn nghệ Sáng Tạo với Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh và Ngọc Dũng. Truyện dài đầu tay Dòng Sông Định Mệnh đăng trên Sáng Tạo trước khi in thành sách (1959).

Thuở còn là thanh niên, ông từng tham gia Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Sau đó, khi phong trào này để lộ bộ mặt cộng sản, ông đã rời bỏ kháng chiến “dinh tê” về thành. Chính thời gian nầy, ông là chứng nhân trước thực tế phũ phàng giữa chủ thuyết và thực tại… và cũng là chất liệu trong các tác phẩm của ông.


Tác phẩm Khu Rừng Lau, trường thiên tiểu thuyết gồm 4 quyển: Ba Sinh Hương Lửa (1962), Người Đàn Bà Bên Kia Vĩ Tuyến (1964), Tình Yêu Thánh Hóa (1965), Đàm Thoại Độc Thoại - Những Ngả Sông (1966).

Theo Lê Văn, Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ  (VOA), trong cuộc phỏng vấn ông, có dẫn chuyện rằng “Ba Sinh Hương Lửa người ta thường ví như những tác phẩm lớn của Nga như Chiến Tranh & Hòa Bình” trong đó nội dung mô tả lại những cảm xúc đớn đau của một thế hệ thanh niên mới lớn tham gia vào công cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng sau đó phát giác ra mình đã bị lợi dụng như công cụ đấu tranh giai cấp của những người cộng sản và “có lẽ chính vì thế mà anh đã bị cộng sản bỏ tù khi họ khi chiếm được miền Nam”.


Văn hào Nga Leo Tolstoy (1828-1910) với tác phẩm nổi danh War and Peace (Chiến Tranh & Hòa Bình) trong giai đoạn vào cuối thế kỷ XIX trong cuộc chiến giữa Nga trước và sau sự lâm lăng của Pháp. Tác phầm gồm 15 phần, trong mỗi phần có nhiều chương, tổng cộng khoảng 1.600 trang. Qua bản dịch tiếng Anh của Aylmer Maude và Louise Maude, bản dịch Chiến Tranh & Hòa Bình của dịch giả Nguyễn Hiến Lê, nhà xuất bản Lá Bối, Sài Gòn 1969. Tập 1: 758 trang, tập 2: 729 trang, tập 3: 733 trang, tập 4: 716 trang. Đây là tác phẩm liên quan đến lịch sử và sự dấn thân của giới quý tộc (Bá Tước, Công Tước)… với những chàng trai tham gia trong cuộc chiến và những mối tình vừa bi thương lẫn lãng mạn. Tác phẩm với khoảng một trăm nhân vật chính trong số năm trăm nhân vật.

Văn hào Leo Tolstoy sinh trước nhà văn Doãn Quốc Sỹ một thế kỷ, tác phẩm Chiến Tranh & Hòa Bình được khởi thảo vào năm 1863 và hoàn thành năm 1869. Tác phẩm Khu Rừng Lau của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, ấn hành từ năm 1962 và năm 1966… Như một sự ngẫu nhiên với sự trùng hợp của hai văn tài.


Tác phẩm Khu Rừng Lau là trương thiên tiểu thuyết cũng khoảng hai nghìn trang, vẽ lại bối cảnh của lịch sử Việt Nam trong thời kỳ nhiễu nhương vào giữa thế kỷ XX. Những nhân vật từ lúc trưởng thành trong thành phần tiểu tư sản nhưng chiến tranh do Pháp gây ra, tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng đụng chạm với thực tế phũ phàng với lý thuyết và thực tế nên ngán ngẫm, trở về thành rồi di cư vào Nam, rồi dấn thân trong bối cảnh đất nước phân ly, thế hệ trẻ lại chống chọi trong thời chinh chiến. Theo lời tác giả: “ Khu Rừng Lau tôi cũng viết bằng cả cái kinh nghiệm bản thân của tôi, có nhân vật từ   thuở gia nhập chống Pháp. Thời đó chống Pháp là tất cả các thanh niên và chính bản thân tôi ở trong Đoàn Thanh Niên Cứu Quốc để mà chống Pháp. Rồi thì chính tôi, bản thân tôi đã từng họp dân chúng biểu tình để đi phá kho thóc của Nhật để phân phát gạo cho người dân vào cái thời đó.

Với cái việc của bản thân như vậy thì tôi dựng lại thành cái bộ truyện trường thiên tiểu thuyết Khu Rừng Lau đó. Và cái bối cảnh cùng những tình tiết thì đều là lẽ cố nhiên là viết dưới hình thức tiểu thuyết, nhưng mà kinh nghiệm là do kinh nghiệm bản thân của tôi với những điều mắt thấy tai nghe, và rồi thì là để vào viết thành cuốn tiểu thuyết như vậy” (RFA, 23/6/2008).


Đề cập đến tác phẩm Khu Rừng Lau, với tôi, không thấy ghi trong phần tiểu sử của ông (ngay cả trong các tác phẩm) là sự thiếu sót vì không nói lên giá trị đích thực của tác phẩm với bối cảnh và giai đoạn xảy ra mà người viết như chứng nhân của thời cuộc.

Trong tác phẩm Gìn Vàng Giữ Ngọc, Sáng Tạo ấn hành năm 1959, có hồi ký Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều (trang 111-116), tác giả viết về bản thân ông, sinh viên Luật ở Hà Hội, tản cư và gia nhập Việt Minh:

 “Quê tôi cách Hà Nội chừng 5 cây số. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ thì gia đình tôi tản cư lên Nhã Nam thuộc huyện Yên Thế, Bắc Giang. (Ghi chú: khoảng năm 1946).

Đến năm 1948, khi cậu tôi từ Vĩnh Yên lên thăm chúng tôi lần đầu thì toàn thể gia đình tôi ai nấy đã có màu da nửa vàng nửa xám xịt vì sốt rét rừng.

- Anh chị phải cho các cháu tản cư về mạn dưới như chúng tôi - lời cậu tôi nói với thầy mẹ tôi - chứ cứ như thế này thì không chết cũng chẳng còn ra hồn người nữa.

Sau ngót hai năm tản cư gia đình tôi khánh tận rồi. Có lẽ vì nghĩ vậy nên thầy mẹ tôi tìm cách nói khác:


- Ngày xưa vùng Yên Thế Thượng này độc thật, nhưng nay vì có nhiều người lên khai phá nên khí hậu cũng không đáng ngại lắm…

… Rồi cậu tôi về Vĩnh Yên. Hai tháng sau người lại lên, nhất quyết đón gia đình tôi xuôi, nói là nơi ăn chốn ở đã thu xếp đâu vào đó cả.

Thế là gia đình tôi xuôi Vĩnh Yên. Còn một mình tôi ở lại Sở Thông Tin Liên Khu I. Công tác của tôi là đi tuyên truyền mười điều kháng chiến trong toàn huyện Yên Thế. Vì lưu động như vậy nên tôi cũng quên đi nỗi buồn gia đình phân cách đôi nơi. Nỗi buồn đó chỉ đến thắc mắc lòng tôi mỗi khi trở về trụ sở kiểm điểm công tác.

Trụ sở Thông Tin ở một làng bên tả ngạn sông Thương, gần một bến đò đẹp vào bậc nhất Bắc Giang: bến đò Lục Liễu. Để tăng phần thơ mộng cho cái tên đó tôi vẫn thường dịch nôm là “Bến đò liễu xanh”…


… Tôi gặp lại người yêu cũ từ Phủ Lý (Khu III) chạy lên. Chúng tôi thành vợ chồng, tuy có ký giấy tờ tại Ủy ban Kháng chiến Hành chính Huyện - cậu mợ tôi là những người làm chứng - nhưng đám cưới hoàn toàn êm ả y như một đám cưới vụng trộm…

… Dạo đó trường Luật mở ở gần chợ Me (Vĩnh Yên), tôi có ghi tên theo học hết năm thứ ba, hy vọng thành tài sẽ ra thẩm phán, đồng lương họa có cao để giúp gia đình. Vì hoàn cảnh kháng chiến, các giáo sư thường từ nơi xa lại trường sở dạy liền trong mấy ngày, sau đó sinh viên tìm tài liệu tự nghiên cứu thêm. Có khi thời gian nghiên cứu lấy dài hơn một tháng mới có giáo sư mới. Tôi triệt để lợi dụng khoảng cách này để bon về giúp đỡ gia đình những công việc nặng…


Mùa Đông năm đó rét lạ lùng. Gió hun hút giật từng cơn, quết như dao cắt từng mảnh thịt hở, thế mà hôm nào mẹ và em gái tôi cũng phải dậy từ bốn giờ rưỡi sáng để sửa soạn gồng gánh ra đi. Quần áo và chăn chiếu của gia đình tôi thiếu rất nhiều. Thằng em thứ ba của tôi có được cái chiếu rách mướp vừa nằm vừa đắp, chân thò ra ngoài thì nó lấy rơm phủ lên”.

Mẹ ông đi chợ gặp lúc phi cơ Pháp bay từng đoàn bắn phá và giội bom liên tiếp xuống các chợ lân cận: chợ Me, chợ Vàng, chợ An Lạc… mọi người bỏ chạy. Chiều sẫm, ông ra chợ đón mẹ.

 “… Tôi hỏi: “Sao mẹ về muộn quá thế, cả nhà lo tưởng phát điên lên”. Mẹ tôi cho biết hàng hôm nay bán ở chợ không hết, người phải đi sâu vào một vài làng lân cận để bán nốt. Rồi khi xuống khỏi đê, qua cái lạch lớn, thấy có chiếc chiếu trôi, vội tìm cách vớt lên và giặt luôn bên lạch. Đó là một chiếc chiếu còn khá tốt tuy chiều rộng bị xén đi mất một phần ba…

Tối hôm đó khi đi ngủ, thằng chú Tư được mẹ tôi đắp cho chiếc chiếu vớt ở lạch. Chân nó thò ra một tí khiến tôi nhận thấy chiếc bít tất cũ vàng xỉn của tôi, chỗ đầu rách được buộc túm lại để các ngón chân xinh của nó khỏi “thoát ly” ra ngoài”.


Như vậy, gia đình ông tản cư và ông theo kháng chiến trong khoảng 5 năm (1946-1951) mới thoát ly về Hà Nội dạy học.

Thời gian kháng chiến (cũng như nhiều văn nghệ sĩ khác) ông là “cán bộ thông tin” nên sau đó am tường chính sách mị dân, lừa bịp của họ… trước thực tế phũ phàng nên từ bỏ chiến khu, trở về Hà Nội. Đó cũng là chất liệu để ông viết tác phẩm Khu Rừng Lau (4 quyển).

Tập I, tác phẩm Ba Sinh Hương Lửa (1962), những dòng đầu (Khai Từ) với các nhân vật chính: Khiết và Khóa (sinh năm 1913), Lãng (1918), Hãng (1921), Hiển (1922), Tân (1923), Kha (1924), Miên (19260… cũng là thế hệ của tác giả vào đầu thế kỷ XX. Và, vào thời đó tuổi thơ đã chứng kiến giai đoạn bi thảm của lịch sử: Ngày 17/6/1930, Đảng trưởng Nguyễn Thái Học (28 tuổi) cùng 13 chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng bị Pháp đưa lên Yên Bái để thi hành án tử hình. Ký giả Pháp Louis Roubaud được chứng kiến cuộc hành quyết các nhà cách mạng Việt Nam đã viết: “Tôi phải dở nón nghiêng mình kính phục tinh thần ái quốc, lòng dũng cảm vô bờ bến của những người Việt Nam yêu nước…”  (Vietnam, Tragédie Indochinoise).


 “Căn cứ vào thứ bậc tuổi tác trên chúng ta thấy Khiết, Khóa và Lãng ở vào cùng thế hệ, tạm mệnh danh là thế hệ Nguyễn Thái Học vì họ có trực tiếp tham gia hoặc gián tiếp chịu ảnh hưởng phong trào phục quốc của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Còn năm người kia: Hãng, Hiển, Tân, Kha, Miên thuộc thế hệ sau, trưởng thành trong cuộc khói lửa toàn dân kháng pháp 1946- 1954…”

Tác giả lấy tựa đề trong điển tích “ba sinh hương lửa” trong thi phẩm Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du:

 “Dạy rằng hương lửa ba sinh. Dây loan xin nối cầm lành cho ai”..

Ba Sinh Hương Lửa gồm 3 phần 16 chương.

Phần I: Câu Chuyện Khởi Đầu với 5 chương: Thời Thơ ấu, Cách Nhau Ngàn Vạn Dặm, Anh Trưởng Vỏ, Phẩm Tiên Rơi Đến Tay Hèn, Bên Giường Mẹ.

Phần II: Màu Tím Hoa Lau với 5 chương: Nàng Tiên Dưới Ánh Trăng, Độc Hành, Viên Cố Vấn Thủ Thuật, Mầm Sen Trong Hỏa Ngục.

Phần III: Giã Từ với 7 chương: Người Anh Trở Về, Ý Thức Về Nốt Nhạc, Phong Trào Tam Phản Khóa Bảy, Đôi Bạn Nhỏ, Một Tấn Bi Hài, Dòng Suối Tìm Đường, Hai Lần Sang Sông.


Khi tác phẩm nầy vừa ấn hành, Tràng Thiên (nhà văn Võ Phiến) trong mục Điểm Sách trên tạp chí Bách Khoa số 159 (15/10/1962) ghi nhận (trang 71-73):

 “… Nhà văn Doãn Quốc Sỹ dường như có ý định xây dựng cả một hệ thống tiểu thuyết xung quanh Khu Rừng Lau của ông. Ba Sinh Hương Lửa là quyển truyện thứ nhất. Tác giả kể ra ở Khai Từ tên tám nhân vật chính, nhưng tổng số các nhân vật trong truyện có lẽ cũng đến ngót 80. Chừng ấy người cùng trải qua ba thời kỳ đau khổ: thời Pháp thuộc, thời Nhật thuộc, thời Việt Minh thuộc. Chịu hết những sóng gió bể dâu của cà ba giai đoạn lịch sử, đó là trải qua “ba sinh”! Cuối truyện ta thấy ba người thanh niên (hai trai: Kha, Hiến, và một gái: Miên) cũng đua nhau về thành. Nhưng trên đầu họ đạn còn réo, xung quanh họ chiến cuộc còn tiếp diễn, việc đời còn ngổn ngang, bao nhiêu kẻ còn chìm nổi trong loạn ly.

Ba Sinh Hương Lửa là cuốn truyện diễn lại một thời đau khổ của dân tộc, nhưng người đọc không cảm thấy bi đát. Trái lại, truyện để lại một cảm tưởng êm đẹp, gây tin tưởng ở cuộc đời. Sự thực chắc chắn không mấy khi độc giả gặp trong tác phẩm văn nghệ được nhiều tâm hồn đẹp đẽ như trong Ba Sinh Hương Lửa…


… Nhân vật của Doãn Quốc Sỹ đều thừa hưởng một của kho tình thương vô tận: tình thương. Tình thương tràn ngập khắp cùng: giữa cha và con, vợ chồng, anh em, chú cháu, bạn bè, giữa láng giềng chòm xóm, giữa người quen kẻ thuộc, và giữa cả những người không hề quen nhau… Tình thương mênh mông ấy làm cho tất cả các nhân vật đứng về một phía. Phía bên kia là chế độ của hiềm thù. Và tất cả các nhân vật của Ba Sinh Hương Lửa chống lại chế độ của một điềm xung khắc giữa thương và thù đó…

… Cả cái xã hội gồm đa phần là thanh niên nam nữ có học thức, có tài, có gan dạ, đẹp và rất thơ mộng của ông Doãn, họ sẵn sàng chịu mọi điều cay đắng cam go trong chiến đấu, nhưng khi họ nhận ra rằng trong thế giới của họ tình thương đang bị hủy diệt; thế là họ cùng lắc đầu, từ chối, kéo nhau đi…


… Phần đông trong số thuộc thế hệ Doãn Quốc Sỹ, những người đã trải qua “ba sinh” của đất nước, có kẻ cay đắng chua chát, có kẻ hằn học thù hận, có kẻ hoàn toàn chán chường, có kẻ hoang mang rắc rối, không chút tin tưởng…”.

Với tập I Ba Sinh Hương Lửa (trong 3 tập sau mới ghi thêm Khu Rừng Lau) mà lúc đó, nhà văn Võ Phiến khi đọc viết “Doãn Quốc Sỹ dường như có ý định xây dựng cả một hệ thống tiểu thuyết xung quanh Khu Rừng Lau” vì khi tham gia trong vùng kháng chiến đã là chứng nhân sự thật phũ phàng nên trong chương cuối Hai Lần Sang Sông, Hiển, Kha và Miên đoạn tuyệt với vùng Cộng Sản về vùng Quốc Gia với dòng kết: “Dù cánh đồng này - Miên nghĩ thầm - có biến thành cả khu rừng lau khô xác đi nữa thì giờ đây, trên đường đời, có những ba bóng người!

Bớt cô quạnh!”


Khi tham gia kháng chiến của Việt Minh, Miên là nữ y tá giỏi, nhưng bị hạ công tác để cho đảng viên thay thế. Miên bị giao cho việc rình mò theo dõi bạn đồng nghiệp để báo cáo, nên cô cảm thấy hụt hẫng, e chề, chán chường. Với Tài, con trai cha mẹ nuôi của Miên, coi như anh ruột, nhưng khi Tài thành đảng viên, không còn tình cha mẹ, anh em mà người máy của đảng. Với những sự kiện xảy ra trước mắt, Miên đã thức tỉnh. Rồi đến Hiển, Kha, Hãng… ngán ngẫm khi chứng kiến những điều bất nhân, không còn tình người… Vì vậy họ không thể chấp nhận thực tế phũ phàng, chua xót đó để ở lại. (Trong quyển Người Đàn Bà Bên Kia Vĩ Tuyến, Kha và Hiền gặp Tân mới biết Tân đã về thành từ mùa hạ năm 1951 trước họ 6 tháng).


Đó chỉ là giai đoạn đầu trong thời kỳ kháng chiến nên theo dòng lịch sử, người đọc cũng nghĩ rằng nhà văn Doãn Quốc Sỹ không dừng lại ở đó mà tiếp nối cuộc hành trình tiếp theo.

Tập II, tác phẩm Người Đàn Bà Bên Kia Vĩ Tuyến (1964) gồm 18 chương: Tiếng Hát Tự Lòng Đất Khu Rừng Già, Chiếc Nhẫn Saphir, Về Làng, Ông Chủ Báo, Cô Gái Bên Sông Tần Hoài, Những Cụm Hoa Vàng, Tiếng Hát Tự Lòng Đất, Trên Bờ Vực Lịch Sử, Ngọn Đèn Lương Tri, Thần Tượng, Một Sự Chuyển Hướng, Vật Đổi Sao Dời, Cướp Đoạt, Xiếc Hữu Mai Hề, Tiếng Vọng Mùa Xuân, Người ở Lại, Bến Đò Rừng, Chiếc Bè Nữ Chúa.

Cũng nên nhắc ở đây, Quốc Gia Việt Nam (État du Việt Nam) lúc mới thành lập ngày 7/12/1947, nhưng chính thức thừa nhận giữa Quốc Trưởng (cựu hoàng Bảo Đại) và Tổng Thống Pháp Vincent Auriol ký Hiệp Định Élysée 8 tháng 3 năm 1949 trong khối Liên Hiệp Pháp. Chọn cờ vàng ba sọc đỏ làm Quốc Kỳ. Hà Nội được Pháp chuyển giao cho chính quyền Quốc Gia Việt Nam, dược sĩ Thẩm Hoàng Tín làm thị trưởng thành phố.

Mở đầu tác phẩm “Hình ảnh lá cờ vàng ba gạch đỏ phe phẩy thanh bình vẫy gió còn mãi mãi về sau này in hằn trong tâm tưởng Miên một ấn tượng của thịnh vượng và của tình người…”

 “Bốn giờ chiều, Luận đến sớm ngỏ ý đón Hiển, Kha, Miên để đưa đi một vòng qua các phố tỉnh lỵ gọi là ‘xem tình hình quốc gia’.


… Luận đưa ba người ra bến xe, chính chàng mua ba vé hạng trên. Luận căn dặn thêm một lần nữa khi ba người về đến Gia Lâm nhớ phải vào Ty Công An trình diện mà xin cấp giấy thông hành tạm thời”... Dĩ nhiên khi trở về thành, không dễ dàng chấp nhận, Công An phải điều tra để tìm hiểu nguyên do cặn kẽ. Nhưng mọi việc được an bày trong cách đối xử đầy cảm thông và tình người.

Rồi tháng năm ở Hà Nội, Hãng đi du học ở Pháp, chia tay các bạn bè bao năm ở bên nhau. Cuộc sống mới của Khiết, Khóa, Lãng, Hiển, Tân, Miên… được tác giả đề cập khá chi tiết… Nhất là Kha, chàng trai với tâm hồn lãng mạn lẫn bi thương…

Khi Hiệp Định Genève ký kết, đất nước phân chia rồi đến khi di tản vào Nam. Mối tình cuối giữa Kha và Vân (tuy đã có con) “Kha đã gặp Vân, Kha sắp được Vân, Kha đang say mê Vân, điên cuồng”... nhưng đến giờ phút cuối đành chia tay.

 “Kha vào Nam cũng bằng đường thủy. Chàng đến khu lều Thăng Long của Đoàn Sinh Viên Di Cư Hà Nội - khu lều này được dựng trên nền khám lớn cũ và sau đây là nơi xây cất Đại Học Văn Khoa”. Đó cũng là hình ảnh của tác giả cùng bạn bè khi vào Nam.

Đoạn kết tác phẩm với những lá thư của Vân, người ở lại:

“Hiệp định Genève ký, đoàn thể giữ khéo con em lại và cử em về Hà Nội để thuyết phục những người thân…”

Lá thư cuối tác phẩm, Vân viết: “Người Đàn Bà Bên Kia Vĩ Tuyến của anh đã chấm dứt hàng chữ cuối cùng của lá thư cuối cùng này ở đây.

Hôn anh một cái hôn làm nổ vỡ tinh cầu nhưng tình chúng ta thì chói rạng mãi mãi.

Vĩnh biệt anh,

Em”.

Trước khi chuẩn bị vào Nam. Kha viết thư cho Miên:

 

“Cô Miên,

Chẳng còn bao nhiêu ngày nữa đến lượt Hà Nội bị tiếp thu. Chuyến này tôi về thăm làng lần cuối rồi xuống Hải Phòng đợi cô cùng vào Nam. Nhìn cảnh Hà Nội hoang vắng tôi lại nghĩ đến cô từng ao ước được thăm khu rừng lau trên núi sáng, Bỉnh Di…

Tôi vẫn nghĩ rằng mọi người chúng ta ai cũng mang trong lòng một khu rừng lau. Có kẻ chẳng bao giờ đạt tới, có kẻ đạt tới rồi hủy hoại chính khu rừng đó như chuyện con chó ngu xuẩn thả mồi bắt bóng…”.

Rồi khi Miên gặp được Kha “ghì chặt lấy chàng, giọng nàng thanh như tiếng chim nhưng thảng thốt nghẹn ngào như một linh hồn biết khóc:

- Khu rừng lau của em! Khu rừng lau của em!”

Với bộ ba Hiển, Miên (em gái của Hiển) và Kha đã một thời gắn bó với nhau. Miên có tình cảm với Kha nên bán món nữ trang độc nhất là chiếc nhẫn saphir (chương 3) để lấy tiền giúp Kha trong khi bị giam giữ và khi Kha được thả ra, ba người ở chung với nhau, tiền kiếm tiêu chung. Khi Miên biết Kha yêu Vân nên Miên với tâm hồn cao thượng để nhường tình yêu nầy nhưng định mệnh giữa Kha và Vân thật oan nghiệt!


Đến tác phẩm thứ hai, độc giả mới hiểu tựa đề trường thiên tiểu thuyết Khu Rừng Lau.

Tập III, tác phẩm Tình Yêu Thánh Hóa - Vỡ Bờ (1965), gồm 4 phần. Phần I Bối Cảnh với các chương: Thành Đôi, Một Chuyến Buôn Văn Hóa, Một Cuộc Gặp Gỡ, Người  Em Ra Bắc, Câu Chuyện Điện Biên Phủ. Phần II Vỡ Bờ với các chương: Lê, Con Đê, Mụ Cát Thành, Một Ký ức Thô Bỉ. Phần III Quỳnh Hương với các chương: Bên Lề Hội Nghị, Bà Cụ Hồng Kông, Tài Mệnh Tương Đố, Ông Cai, Mối Tình Linh Lan, Cô Em Cũ, Chuyện Dĩ Vãng, Nỗi Lòng Tô Thị. Phần IV Chặt Thuyền Dĩ Vãng với các chương: Tiếng Hát Đối Diện Với Sao Bắc Đẩu, Hoàng Tử Của Hằng Nga, Những Triều Nước Mặn, Tình Thương Trong Mưa, Tiếng Hát Lạ Trên Kinh Thành Vienne, Tiếng Hát Hồi Hương.


Khởi đầu với cuộc di cư vào Nam. Vân ở lại Hà Nội. Kha và Miên được gặp nhau và làm lễ thành hôn trong khu định cư làng Thăng Long. Tác giả ghi lại hình ảnh với lịch sử Quảng Nam (quê hương tôi nên tôi rất tâm đắc). Với Miên “Giờ đây nàng sống trong tay người yêu, ngợp trong hạnh phúc, nàng cũng thấy là nàng đương du hồn vào khu rừng lau. Nàng nhắm mắt lại như để chạy trốn ánh sao bên ngoài khi nãy. Khu rừng lau trong tâm tưởng nàng lúc đó là bà tiên khoác tấm khăn choàng tím ngát” (trang 35).


Trong Câu Chuyện Điện Biên Phủ đề cập đến tháng ngày năm xưa khi Kha, Miên… đã về thành. Hiển còn ở lại “đi theo Vìệt Minh đánh Pháp, giờ đây Vìệt Minh thắng, mình lén trốn khỏi vùng họ, sang được vùng quốc gia thấy những người lính Pháp đầu đội mũ sắt có hai chữ P.M. (Prévoté Militaire) thì mừng. Không bao giờ ưa thực dân nhưng thấy rằng cộng sản còn ghê tởm và nguy hiểm hơn nhiều, đã đến lúc phải thay đổi chiến tuyến! Đến Hải Phòng anh bạn khai thẳng với Công An quốc gia mình là sĩ quan Việt Minh trốn sang, xin cho điều tra ngay và cấp thẻ căn cước để sống bình thường như dân. Một tháng sau anh xuống tàu cùng gia đình di cư” (trang 85).


Tân, chỉ xuất hiện thoáng qua trong Ba Sinh Hương Lửa, ở tác phẩm nầy đề cập nhiều về Tân và người yêu là Lê. Tân cũng đa tình và đào hoa như Kha, đã từng ân ái với Thoa (em gái của Lãng)… Với Kha, tuy đã có Miên nhưng vẫn đa tình. Từ khi gặp ca sĩ Quỳnh Hương ở phòng trà Ly Ly, Quỳnh Hương là em gái nuôi của Hãng và bạn thân của Vân và của Thi thời học sinh ở Hà Nội nhưng những giây phút gặp gỡ nhau giữa Kha và Quỳnh  Hương như “đôi tình nhân”.


Cũng như trong Người Đàn Bà Bên Kia Vĩ Tuyến, Quỳnh Hương đi sang Tây Đức đóng phim và lập gia  đình với đạo diễn Karl, đạo diễn. Với những là thư từ Vienne, Tây Bá Linh gởi về cho Kha “Đặc biệt trên hai chữ “Chào anh” của bức thư này Quỳnh Hương có viết hai chữ gì mà nàng rập xóa đi mất. Tò mò Kha đem lá thư ra cửa sổ soi lên ánh sáng. Chàng bỗng thở dài cúi đầu. Đó là hai chữ “Hôn anh”” (trang 378).

 “Đi vào dĩ vãng, trong khoảnh khắc nhớ lại buổi gặp Kha lần đầu cùng Hãng ở phòng trà Ly Ly, nhớ lúc Kha ôm mình nhảy bản slow khuya và cúi xuống hôn nhẹ lên môi… Trời ơi, Quỳnh Hương bỗng thèm Kha điên cuồng. Ngày nào cùng Kha đi Thủ Dầu Một về cùng ăn cơm trong căn phòng ấm cúng của nhà hàng Cheong-Nam, rồi khi từ biệt trên vỉa hè Tự Do nàng đã có ý tưởng ngộ nghĩnh sẽ hôn Kha trước vì chỉ hôn trước một người như Kha mới không sợ bị rẻ rúng” (trang 381).

Là nhà mô phạm nhưng trong tác nầy nhà văn viết về cuộc sống ở Sài Gòn với phòng trà ca nhạc, vũ trường, nhảy đầm rất sành điệu và còn chửi thề (Đ.M) trong vài mẩu đối thoại vì vậy rất thoáng, sinh động, lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối. Ông thích làm thơ, chơi dương cầm nên trong tác phẩm của ông được dẫn chứng những dòng thơ, vài ca khúc… khi đọc cảm thấy thú vị.


Tập 4: Những Ngả Sông (Đàm Thoại - Độc Thoại) 1966, gồm 7 chương: Mối Tình Thiên Thu, Người Lính Nhảy Dù, Người Phá Cầu, Tập Sơ Khảo Của Kha, Mây Trắng Nước Xanh Người Tù, Mây Trắng Nước Xanh Thần Tượng Trong Đêm, Dư Dục Vô Ngôn.

Trong tác phẩm nầy với những nhân vật chính từ Ba Sinh Hương Lửa trong sinh hoạt chính trị ở miền Nam Việt Nam. Khóa, Kha, Miên, Tân, Hiển, Luận… trong gia đình Văn Hóa. Khóa bị giam ở lao tù Đà Lạt trong 11 tháng. Tân, Hiển, Phiệt phục vụ trong quân đội VNCH. Tác giả mô tả đến các trận chiến giữa thập niên 50 & 60 như phóng viên chiến trường với từng chi tiết. Với những trang nhật ký của Tân (Trung Úy Y Sĩ) trong binh chủng Nhảy Dù, sau nầy đọc hồi ký Y Sĩ Tiền Tuyến của Trang Châu, cảm phục tài tình của tác giả Những Ngã Sông. Với quần đảo Hồng Sa, nghe rất xa lạ, tác giả đã dành vài chục trang để nói về lịch sử và người dân nơi nầy.


Với hai cuộc binh biến năm 1960 & 1963, tác giả ghi nhận tất cả sự kiện xảy ra… Kha và Khiết cũng không may bị vào chốn lao tù. Trong khi đó “Tân, Hiển ngoài tiền tuyến chẳng thể được tâm hồn tương đối thanh thản như Khiết, Kha những ngày sống khuất mặt trong khám lớn” (trang 154). Rồi “Phiệt bị đạn ở chân tại chiến dịch cao nguyên được đưa về bệnh viện Cộng Hòa… Tân hỏi Phiệt có muốn giải ngũ để chàng xin cho và Phiệt sẽ về bên Vĩnh Hội ở với tiểu gia đình của Tân. “Người lính nhảy dù” đó đã say mê gia nhập đời sống quân ngũ làm sao dứt bỏ các bạn đồng ngũ sao đành, Phiệt xin ở lại phục vụ bên ngành quân nhu, ban chung sự” (trang 155).


Với Hiển “trong những lúc xông pha nơi tiền tuyến… chàng hoàn toàn như người đi trong sa mạc. “Miên ơi - chàng muốn kêu lên như thế - trong giai đoạn nầy đừng nghĩ đến rừng mía, ngay như được gặp khu rừng lau để có chút bóng mát cũng là quý rồi. Anh cô đơn đi giữa sa mạc, cô có biết không?”.

Tác phẩm Ngã Ba Sông ngắn hơn 3 tác phẩm trước, đề cập đến cuộc chiến và nên chính trị ở miền Nam Việt Nam rối rắm trong thời chinh chiến. Với tác phẩm Ngã Ba Sông, cũng có người khen, người chê vì “thiên kiến chính trị” nhưng với nhà văn, sự khách quan và thực trạng xã hội không thể sai lạc. Với những dòng đề cao tinh thần, trách nhiệm về người lính với nhà văn không khác áo chinh y cũng nói lên tấm lòng của tác giả.

Nhà văn Võ Phiến trong Văn Học Miền Nam Tổng Quan đã có đoạn viết về nhà văn Doãn Quốc Sỹ như sau:


 “Còn Doãn Quốc Sỹ, ông làm chúng ta nghĩ đến một nhân vật của ông: Khiết. Khiết kiên trì theo đuổi con đường văn hóa nhưng đã trót đi vào con đường chính trị, biết những ngõ ngách của nó âu cũng thành nghiệp chướng của mình nên khó bỏ lắm. Khu Rừng Lau phơi bày ra cái hiểm ác của chế độ này, lột trần nền độc tài nọ. Thái độ chính trị của tác giả luôn luôn biểu lộ trong tác phẩm. Tuy nhiên ông Doãn cũng như Khiết trước sau “kiên trì theo con đường văn hóa”. Ông chê cái này chống cái nọ vì nó ác nó xấu. Mà ông thì nhất tâm phục vụ cái thiện cái mỹ... Thiện tâm thiện ý của tác giả tỏa ra khắp tác phẩm: trong các truyện của ông Doãn nhân vật nào cũng tốt việc gì cũng có khía cạnh hay. Ông bất lực không tạo nổi người xấu, kể nổi việc xấu. Đọc sách ông thơm tho cả tâm hồn. Truyện ông Doãn vừa có luận đề chính trị vừa có chủ tâm giáo dục…”. Trong quyển sách nầy, theo nhà văn Võ Phiến, khuynh hướng luận đề có Doãn Quốc Sỹ (trang 266).


Trên tạp chí Bách Khoa số 192 (1/1/1965) trong mục Sống & Viết (trang 39-44) trong cuộc trò chuyện giữa nhà văn Nguyễn Ngu Í với nhà văn Doãn Quốc Sỹ (14/12/1964) sau khi tác phẩm Người Đàn Bà Bên Kia Vĩ Tuyến ấn hành. Sau nầy in trong quyển Sống & Viết (trang 124-147) có tấm hình ông bà và 7 người con (Ngọc Thanh 1952, Kim Khánh 54, Cẩm Liên 56, Quốc Thái 58, Quốc Vinh 61, Quốc Hưng 62, Quốc Hiền, chưa có Thanh Hương trong số 4 trai & 4 gái).


Nhà văn Doãn Quốc Sỹ cho biết: “Năm 1951. Từ chỗ kháng chiến ác liệt nhất, Liên Khu Việt Bắc. Kháng chiến, tôi kháng chiến hết mình, tôi từng là một “anh hùng lao động” của cơ quan tôi. Nhưng đến khi giã từ “Thiên đường Đỏ” thì cũng giã từ quyết liệt, dứt khoát…

… Bất cứ ai đã qua cơn ác mộng với Cộng Sản, đã hiểu rõ bộ mặt thật của chúng, đều có thái độ dứt khoát, vừa đơn giản vừa cương quyết như vậy…”.

Nhà văn Doãn Quốc Sỹ là một trong những nhà văn được nhiều người viết trong sáu thập niên từ trong nước và hải ngoại, ngoài giá trị văn chương qua những tác phẩm của ông, với tâm hồn nhân bản, đôn hậu, nhân cách sống của ông trong lao tù và ngoài xã hội, được kính nể. Ngay cả những người con của ông khi viết về người bố cũng là hình ảnh tiêu biểu của bậc cha mẹ (thế hệ chúng tôi) để noi gương.


Nhà văn Nhật Tiến viết: “Sau năm 1975, chúng tôi đến thăm anh ở căn nhà trong khu ngõ đường Thành Thái. Lần cuối cùng chúng tôi thăm anh vào thời gian trước khi anh bị bắt một tuần lễ. Và thời điểm đó, tin tức lọt ra về danh sách những nhà văn sắp sửa bị bắt đã lan truyền rộng rãi trong giới văn nghệ. Trong danh sách này có tên anh Doãn Quốc Sỹ. Vì thế, chúng tôi đến thăm anh với tất cả mọi sự bồn chồn lo lắng và ngao ngán, cái ngao ngán chung của những người cùng một giới đang bị bao phủ bởi một bầu không khí nghiêm trọng nặng nề.

Tuy nhiên, lúc gặp anh, chúng tôi vẫn thấy anh điềm nhiên, vui vẻ. Vẫn dáng dấp điềm đạm, đôi mắt sáng, hiền từ, nụ cười thản nhiên, đôn hậu. Anh chuyện trò với chúng tôi một lát thì tiến lại cái dương cầm màu nâu nhỏ kê ở ngay ngoài phòng khách. Anh dạo cho chúng tôi nghe một bản nhạc cổ điển Tây phương. Qua những âm thanh thánh thót, tôi thấy cả tâm trạng bình thản của anh lúc đó. Lúc chia tay, chúng tôi không nói được gì nhiều với nhau. Chẳng ai muốn nói gì nhiều với nhau lúc đó. Chúng tôi chỉ nắm chặt lấy bàn tay nhau và truyền cho nhau những ý nghĩ an ủi, cảm thông.


Một tuần sau, chúng tôi được tin anh bị bắt… Một người như anh, một người cha gương mẫu trong gia đình, một nhà giáo đầy tài năng và tận tụy, một nhà văn chừng mực chỉ viết ra những điều làm đẹp con người, làm đẹp xã hội, và một con người đầy nhân cách, giàu lòng vị tha, tôi tự hỏi một con người như thế lại bị gạt ra ngoài xã hội và phải chịu nằm tù ròng rã trong bao nhiêu năm trời, thì chế độ Cộng Sản là cái thứ gì?”

Doãn Quốc Hưng viết về bố:

 “Những bài học đạo đức, nhân bản, thiền học... mà chúng tôi nhận được từ bố một cách “có hệ thống” chỉ bắt đầu từ sau khi bố tôi đi cải tạo lần một về vào năm 1980. Đó là các buổi nói chuyện của bố tôi với bọn tôi và một nhóm bạn bè, bọn tôi gọi đó là “đại học bỏ túi”. Đó cũng là cột mốc của một “gia đình” thứ ba của bố tôi. Trong gia đình đó, chúng tôi mới thực sự được nghe bố tôi nói nhiều hơn về điều ông đã viết trong tác phẩm, đã làm trong cuộc sống…

… Nhắc tới chống đối, có một thứ mà rất nhiều người khuyên rằng chúng tôi “phải noi gương bố”, đó là “tinh thần bất khuất trước quyền lực”, hoặc “một trong những biểu tượng của tinh thần chống cộng của Miền Nam Tự Do”. Các nhà “phê bình văn học” của Việt Cộng đã tấn phong cho bố tôi là đầu xỏ của “những tên biệt kích cầm bút”, mô tả ông như một “kẻ căm thù cộng sản đến tận xương tuỷ”. Tôi cũng đã được nghe kể lại nhiều lần từ bạn bè trong tù của bố về giai thoại về một ông DQS “hiên ngang đối khác với cán bộ CS trong trại giam”, những câu tuyên bố mang tính “hào hùng, nghĩa khí” của ông trước “kẻ thù”. Thực hư ra sao cũng chẳng rõ, chỉ có điều chắc chắn là chưa bao giờ tôi được nghe chính bố tôi kể lại những giai thoại ấy…


... Trở lại với cái ngày xét xử bố tôi vào năm 1988 cùng với các cô chú văn nghệ sỹ khác: Hoàng Hải Thuỷ, Duy Trác, Lý Thuỵ Ý,... phiên toà “DQS và đồng bọn, với tội danh tuyên truyền phản cách mạng, chống phá nhà nước XHCN”. Đó là lần đầu tiên tôi được chứng kiến một phiên tòa chuyên chính vô sản của nhà nước Việt Nam…

… Bố tôi căm thù cái phi nhân của một chủ nghĩa, sự ngu dốt và độc đoán của một tầng lớp lãnh đạo. Bố tôi không nhắm vào những cá nhân thừa hành bên dưới, vì họ cũng chỉ là nạn nhân của sự bưng bít, thiếu kiến thức, thiếu thông tin, thiếu sự lựa chọn. Điều đó thể hiện trong nếp sống thường ngày…

… Bố tôi là một ông giáo hiền lành, một con người nhân hậu vì bản chất của ông là như vậy. Nhưng sức mạnh của ông bắt nguồn từ chữ Tâm. Khi cái Tâm đã toả sáng vì nó đã biết mình từ đâu đến và sẽ đi về đâu, nó bắt đầu thoát ra khỏi sự sợ hãi. Đó là điều kiện kiên quyết để có một cái Tâm tự do. Sức mạnh tâm linh của một cá nhân sẽ nhờ sự tự do mà tự toả sáng, không cần ngôn từ, không cần chứng tỏ. Bố tôi đã dạy cho tất cả chúng tôi ngồi thiền để tốt cho sức khoẻ, để luyện tâm thanh tịnh…

... Chú Nguyễn Đình Toàn đã từng nói với bọn tôi rằng: “Trong giới văn nghệ sĩ, không ai phục ai về tài viết văn cả. Nhưng nhiều văn nghệ sĩ trong Nam quí mến bố cháu ở cái đời sống đạo đức của ông”. Đối với con cái cũng vậy. Chúng tôi được dạy dỗ bằng chính cách sống của bố, chứ không bằng những “phương pháp giáo dục”…


… Hồi bố tôi chuẩn bị xét xử lần thứ hai vào năm 1988, bạn bè khắp nơi trên thế giới đã vận động mạnh mẽ đến nỗi chính quyền Việt Nam phải hoãn xét xử vào giờ cuối để tìm cách giảm nhẹ tình hình. Để tránh mất mặt khi phải đổi giọng, đảng và nhà nước đã phải cử ông chú tôi làm trung gian vào tù thương lượng, đề nghị bố tôi nhượng bộ bằng cách tỏ vẻ “ăn năn” để được “khoan hồng”. Tất nhiên là cuộc thương lượng đó bất thành, họ đánh giá bố tôi quá thấp! Điều đáng kể ở đây là thái độ của bố tôi trước biến cố này. Lọt vào tay “chủ nghĩa anh hùng cách mạng”, đây ắt hẳn sẽ trở thành một câu chuyện li kì về “tấm gương đấu tranh bất khuất, một cuộc chiến không khoan nhượng giữa hai anh em hai chiến tuyến...”. Lần duy nhất bố tôi nói về nó là do sau này tôi hỏi và bắt bố tôi kể lại. “Có gì đâu, chú đề nghị bố xin lỗi. Giống như sau khi mình tát ai một cái thì mình cũng phải tỏ vẻ ân hận một chút. Nhưng đời nào bố lại làm vậy...”…

Hình ảnh Doãn Quốc Sỹ được bắt gặp qua hai câu nói Pascal  cũng đã khẳng định: “Con người là một cây sậy nhưng là cây sậy có tư tưởng'” (Triết gia Blaise Pascal) và “Sức mạnh của con người không nằm ở thể chất mà đến từ ý chí bất khuất'” Thánh Gandhi).

Với nhiều bài viết, chỉ trích phần Tạp Ghi Văn Nghệ của Nguyễn Mạnh Trinh liên quan đến tác phẩm Khu Rừng Lau: “Ở Doãn Quốc Sỹ, ông viết Khu Rừng Lau như một cách lý giải sự thất bại của những người quốc gia trong thời cuộc hiện đại. Họ là những người đã bị những tay sai quốc tế Cộng Sản đệ tam lường gạt trong công cuộc giành độc lập cho đất nước…


Nhà văn Doãn Quốc Sỹ đã muốn cho đời sau một chứng liệu về một biến cố không những riêng của đất nước Việt Nam mà còn cả chung của thế giới nữa…

Những tác phẩm của nhà văn Doãn Quốc Sỹ dường như có chung một mẫu số mà văn chương dùng để tải đạo và làm cuộc sống con người tươi đẹp hơn. Có rất nhiều nhận xét về ông, như là một nhà văn có chân tài, một nhà giáo tận tụy, một kẻ sĩ khí tiết…”.

Kim Khánh viết về người bố, khi nhắc đến tác phẩm Khu Rừng Lau: “Nhân vật chính là Miên và các nhân vật khác đã có cuộc sống đi qua suốt chiều dài lịch sử từ thế hệ mà tác giả mệnh danh là thế hệ Nguyễn Thái Học cho đến thế hệ trưởng thành trong cuộc chiến toàn quốc kháng chiến. Có những người như Khóa, Lãng, Khiết trực tiếp hoặc gián tiếp chịu ảnh hưởng của những đảng phái quốc gia như Việt Nam Quốc Dân Đảng hoặc Đại Việt. Còn các nhân vật thế hệ sau như Hãng, Hiển, Tân, Kha, Miên,... thì mới đầu tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng sau đó nhìn thấy bộ mặt thực của đảng Cộng Sản Việt Nam nên trở về thành và sau đó di cư vào Nam…


Hình như, họ có chung nỗi hoang mang của những người trí thức luôn đi kiếm tìm cho mình một con đường nhưng lại thấy bơ vơ khi chọn lựa. Ở với kháng chiến, thấy lòng yêu nước bị lợi dụng bởi những con người Bolcheviks tàn bạo vô nhân, về thành thì thấy giặc Pháp nghênh ngang, chính phủ quốc gia chỉ là cái bóng. Di cư vào Nam, thì chế độ độc tài và gây ra nhiều kỳ thị bất công”.

Nhà văn Nguyễn Mộng Giác trong bài viết Doãn Quốc Sỹ, Người Anh Khả Kính: “Nhiều người trong giới cầm bút khen và cũng chê tính đôn hậu trong tiểu thuyết Doãn Quốc Sỹ. Họ lý luận rằng ông đôn hậu quá nên nhân vật tiểu thuyết của ông đẹp nhưng có vẻ không thực, ông không lột hết được bản chất phức tạp của cuộc đời, bản chất hàm hồ của con người, bản chất tàn nhẫn phi lý của lịch sử. Khi xây dựng nhân vật, Doãn Quốc Sỹ thường không lưu tâm moi móc những ngóc ngách xấu xa của họ. Trái lại, ông lưu tâm tô điểm những nét đẹp của họ. Những Kha, những Miên, những Hãn, những Khiết của Khu Rừng Lau…”.


Với tác phẩm Khu Rừng Lau, năm 2020 nhà văn Doãn Quốc Sỹ chia sẻ: “Có nhiều khi đọc lại Khu Rừng Lau, tôi cũng không hiểu tại sao mình có thể hoàn tất được bộ tiểu thuyết ngàn trang này. Tôi nhớ là vào thời đó, có khi tôi ngồi viết như người lên đồng, viết giống như có ông bà tổ tiên nhập vào vậy.

Tôi nghĩ rằng tôi chỉ được trời cho năng khiếu sử dụng ngòi bút của mình. Còn lại, tôi viết như theo lời nhắn nhủ siêu hình của tổ tiên, viết theo hồn thiên dân tộc để phục vụ tổ quốc”. (Việt Báo)

Trước năm 1975, vài ý kiến cho rằng nhà văn Doãn Quốc Sỹ nên chọn những tác phẩm tiêu biểu, trong đó có trường thiên tiểu thuyết Khu Rừng Lau dịch ra Anh, Pháp ngữ để tham dự giải Nobel Văn Chương. Trong bài viết Tổng Quan Về Sách Dịch Văn Chương Tây Phương Ở Miền Nam Việt Nam của tôi đã đề cập đến các tác giả Tây Phương đã được Nobel Văn Chương được các nhà văn, dịch giả đã dịch sang tiếng Việt rất nhiều. Có tác giả với vài tác phẩm tiêu biểu, có tác giả với toàn bộ tác phẩm như Alexander Solzhenitsyn (Nobel Văn Chương 1970)… Hầu hết toàn bộ tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ đều bối cảnh trong nước, ngoại trừ tác phẩm Sâu Mây khi ông du học ở Mỹ. Đây là tập du ký, và theo Thanh Tâm Tuyền; “Đây không phải là tác phẩm chủ yếu, nhưng là cái viết tự do và bay bổng nhất của Doãn Quốc Sỹ. Cũng là cuốn sách nhỏ nhưng óng chuốt và đáng yêu hơn cả của ông giáo…’.

Với tác phẩm Khu Rừng Lau với bối cảnh và thời gian trong giai đoạn thăng trầm lịch sử của đất nước được ghi lại từ bản thân của tác giả, là chứng nhân của thời cuộc.

Đọc tác phẩm Khu Rừng Lau liên tưởng đến hai câu thơ của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều vào thế kỷ XVIII:


 “Lò cừ nung nấu sự đời

Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”


Theo nhà văn Võ Phiến: “Doãn Quốc Sỹ soạn sách về ngữ pháp, về văn học Việt Nam hiện đại (bằng Anh văn” (sđd tráng 66) nhưng rất tiếc tác phẩm Khu Rừng Lau không dịch ra tiếng Anh (chỉ có truyện ngắn Con Cá Mắc Cạn - The Stranded Fish - mới dịch).

*

Nếu cho rằng sách là người thầy trầm lặng và người bạn tốt - với tôi - ngay từ lúc trẻ đã ảnh hưởng đến bản thân. Những quyển sách Học Làm Người của nhà văn, dịch giả Nguyễn Hiến Lê và nhà giáo, nhà văn Doãn Quốc Sỹ qua vài tác phẩm.

Nhân đây, một chút riêng tư, với tác phẩm Người Đàn Bà Bên Kia Vĩ Tuyến.  Năm 1963, trong sinh hoạt gia đình Phật Tử, tôi “quen thân” người bạn gái (học dưới hai lớp) nơi cố hương. Hè năm 1963, để tránh bắt bớ, nàng “thoát ly vào bưng”… Trước đó khoảng một tháng, thầy tôi (đảm nhiệm khuôn hội Phật Giáo Phước Ấm) qua đời vì đầu óc quá căng thẳng, uống quá liều lượng thuốc Tây, gây biến chứng, không chữa trị kịp… Trong số 6 người “thoát ly vào bưng”, có 5 người học cùng lớp. Nếu lúc đó, nhận được thư nàng, tôi không biết có quyết định liều lĩnh của tuổi trẻ bồng bột, nông cạn ra sao? Các bạn tôi giấu kỹ vì anh tôi trong ngành Cảnh Sát.

Cuối năm 1966 tôi theo học Khóa Nguyễn Trãi I tại Trường Đại Học CTCT Đà Lạt. Giai đoạn đầu quân trường gửi học 4 tháng quân sự tại trường Bộ Binh Thủ Đức. Đầu năm 1967, khi ở quân trường Thủ Đức, đi phép về Sài Gòn khi thấy quyển NĐBKVT tôi rất thích, mua ngay nhưng không đọc vì để nhớ hình ảnh người bạn gái “bên kia chiến tuyến”. Tiếp tục quân trường ở Đà Lạt gần 2 năm, trong chiến dịch Diên Hồng về quận Quế Sơn, Quảng Nam, tôi vẫn mang theo sách và hình dung người bạn gái vào bưng chốn nầy… Rất tiếc, sách bị chôm! Sau nầy lập gia đình với người Hà Nội, bạn bè hỏi thăm nơi chốn, tôi nói đùa “người đàn bà bên kia vĩ tuyến”…


Sau tháng 4/1975, nàng có gia đình, về Đà Nẵng, theo lời mẹ và anh, nàng ghé lại tìm tôi nhưng gia đình không hay biết vì tôi ở Đà Lạt, mất tích hay đi tù nên không rõ. Nàng cho biết trước khi đi, có viết lá thư gởi cô em gái nhờ chuyển cho tôi nhưng cô em sợ bị liên lụy nên đốt lá thư!... Nàng ra mộ thầy tôi thắp nhang cầu nguyện.

Năm 1987, sau khi ra tù, tôi về thăm quê, có gặp nàng… Trong số 6 người đã chết hai cậu cháu người bạn tập kết là Văn Đức Hội và Kim Chi. Tôi gặp Huỳnh Tú Mỹ kể lại chuyện xưa về hình bóng cũ, nỗi buồn vây quanh. Chị tôi biết chuyện, khuyên không nên liên lạc nhau vì mỗi người “số phận” đã an bày. Và, từ đó hình ảnh người xưa mãi mãi là “bên kia chiến tuyến”!. Tôi cũng may mắn được hưởng chút “đào hoa chiếu mệnh” nhưng “cái thuở ban đầu” trong trắng vẫn lững lờ như áng mây giữa trời xanh bao la.

Hầu hết các tác phẩm của nhà văn Doãn Quốc Sỹ tôi đã đọc qua vì văn phong và cách diễn đạt của ông cũng là vị thầy trong cuộc đời cầm bút. Nhà văn Nguyễn Mộng Giác viết: “Suốt hai mươi năm trên nửa phần đất tự do của quê hương, ông đã say mê hai công việc đó. Học trò ông, độc giả của ông đã yêu mến kính phục ông qua hình ảnh một ông thầy yêu nghề, một nhà văn mực thước và nhân ái”.


Với những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Doãn Quốc Sỹ: Sợ Lửa (1956), U Hoài , Gánh Xiếc, Gìn Vàng Giữ Ngọc, Dòng Sông Định Mệnh, Hồ Thuỳ Dương, Trái Cây Đau Khổ, Người Việt Đáng Yêu, Cánh Tay Nối Dài,  Đồi Biên Giới,  Sầu Mây, Vào Thiền, trường thiên tiểu thuyết Khu Rừng Lau, Trên Dòng Đời, Người Vái Tứ Phương, Dấu Chân Cát Xóa, Mình Lại Soi Mình, Cúi Đầu, Trái Đắng Trường Sinh, Cò Đùm, Đi (Hồ Khanh)… đã đóng góp cho kho tàng văn chương Việt Nam.


Little Saigon, November 2022

Vương Trùng Dương