Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2024

Cám Cảnh

 

Cám cảnh ưu tư lá chuyển màu
Ấy màu man dại của thương đau


Thơ & Ảnh: Kim Phượng

Tháng Sáu Lại Về

 

Tháng Sáu về, lòng nở hoa thơm mướt
Cơn mưa hè lướt thướt kéo qua đây
Sân nhà em hoa khoe sắc thắm đầy
Chuông đánh thức bằng tiếng chim vui hát

Buổi sáng dậy muộn, gió hiu hiu mát
Chim líu lo mừng tháng Sáu của em
Tháng Sáu của em, ừ, tháng Sáu của em
Tháng Sáu kỷ niệm, những ngày hè rực nắng

Tháng Sáu về, nhớ anh lòng trĩu nặng
Tháng Sáu trao nhẫn, thề yêu nhau trọn kiếp
Tháng Sáu nào anh yêu em thắm thiết
Tháng Sáu nào em nói… hết yêu anh!

Tháng Sáu mây trắng, tháng Sáu trời xanh
Tháng Sáu ưu tư, tháng Sáu vui buồn
Vẫn nhớ anh luôn dẫu tình gẫy cánh
Vẫn thường cầu mong anh được an lành

Lễ Hôn Phối, sinh nhật hai con,
ngày chúng ta chia tay, giỗ mẹ em….
đều rơi vào tháng Sáu
Làm sao quên? Tháng kỷ niệm đong đầy!

Tháng Sáu ư, tháng Sáu vui buồn
Tháng hoài niệm đầy vơi nỗi buồn, hạnh phúc
Tháng Sáu hè nồng nàn trời nóng bức
Tháng Sáu trời hồng, tháng Sáu trời mưa

Tháng Sáu bình an, em mong anh vui sống
Tháng Sáu rực rỡ, tháng Sáu ươm đầy mộng
Tháng Sáu hạ vàng, xanh ngắt rừng thông
Ôi tháng Sáu mơ màng… mưa tháng Sáu!

Như Nguyệt


Quê Hương Nhớ Cảnh

 

Dù cho đi Mỹ đi tây
Đi mô cũng nhớ cảnh này đồng quê
Nhớ hương đồng nội chiều về
Bờ ao ruộng lúa lũy tre đầu làng
Nhớ tàn cây chuối hai hàng
Rợp che bóng mát đình làng rêu xanh
Nhớ thương mái lá nhà tranh
Bên bờ mương nước xanh xanh lượn lờ
Nhớ trưa bắt cá đắp bờ
Tắm sông lội nước tuổi thơ thả diều...
Bao nhiêu kỷ niệm thân yêu
Một thời tuổi ngọc gợi nhiều nhớ nhung
Thời gian trôi mãi nào ngừng
Thuyền xa bến đỗ chập chùng sóng đưa...
Biết bao nỗi nhớ cho vừa
Thương quê nhớ cảnh dòng thơ tự tình...


Ngư Sĩ


Chữ Tình - Hương Đưa Trăng Sáng

 

Chữ Tình

Tạc chữ tình ươm thắm dáng hoa
Dìu dịu hương đưa gót ngọc ngà
Gió loạn mơn man làn tóc rối
Lòng riêng ai biết chỉ riêng ta

Hư ảo hay chăng thắp nến hồng
Gợi lòng dao động gợi hoài mong
Tìm nơi quen lối sao xa lạ
Thơ thẩn theo dòng chật phố đông

Kim Phượng
***
Thơ Cảm Tác:

Hương Đưa Trăng Sáng


Hoa bưởi hoa chanh cùng họ hoa
Rất thường trông thấy ở quanh nhà
Cho em đằm thắm da hồng mịn
Khiến bé mun đen tóc mượt mà

Nhiều kẻ
 tình si mong ghé lại
Lắm anh lãng tử muốn thăm qua
Chỉ cần đứng ngó và mơ tưởng,
Mình nàng thơ thẩn dưới trăng ngà.

Thái Huy 
5/15/24


Tách Cà Phê Pha Muối


Suốt 50 năm bên nhau, phút biệt ly ông để lại bức thư khiến bà khóc nức nở vì ‘bị lừa dối’

Tình yêu không chỉ là cảm xúc của con người, nó còn là cội nguồn của sức mạnh, của tinh thần lạc quan, của lòng dũng cảm và sự kiên cường. Tình yêu giúp chúng ta giải quyết rất nhiều vấn đề trong cuộc sống, giúp ta dễ dàng tha thứ cho những sai lầm và dẫn dắt ta tới những bến bờ hạnh phúc.
Đó là buổi tối tháng 6 lộng gió, chàng trai gặp cô gái tại một bữa tiệc ở một nhà hàng gần biển. Cô là người xinh đẹp, dịu dàng và phần lớn khách trong buổi tiệc đều chú ý đến cô. Trong khi đó, chàng trai lại là một người rất bình thường, không có gì đặc biệt, cũng chẳng ai để ý tới anh. Anh cũng dõi theo cô ngay từ khi cô bước vào.

Cuối cùng, khi buổi tiệc kết thúc, chàng trai ngượng nghịu tới mời cô gái uống café cùng mình. Cô gái vô cùng ngạc nhiên. Trước mặt cô là chàng trai có vẻ rụt rè, ngượng ngùng nhưng phong thái vô cùng lịch sự và lời mời của anh thể hiện sự quan tâm dành cho cô.
Cô gái đáp lại sự chân thành của chàng trai và họ ngồi ở một chiếc bàn nhỏ trong góc phòng tiệc. Nhưng chàng trai vì quá hồi hộp và lo lắng nên mãi không nói được điều gì, chỉ ngồi mân mê tách café, cô gái cũng cảm thấy bất tiện.
Bỗng nhiên, chàng trai gọi người phục vụ: “Xin cho tôi một chút muối để cho vào café.”
Mọi người trong phòng đều hết sức ngạc nhiên và họ đổ dồn ánh mắt về phía chàng trai. Chàng trai đỏ mặt và mặc dù lúng túng, anh vẫn xúc một thìa muối cho vào cốc café và uống.

Nhìn chàng trai điềm tĩnh uống từng ngụm café, cô gái hết sức kinh ngạc và tò mò: “Sở thích của anh thật kỳ lạ.”
Chàng trai giải thích: “Khi còn nhỏ, tôi sống gần biển. Mỗi khi chơi cùng bạn bè bên bờ biển, tôi có thể cảm nhận được vị mặn chát và nồng nồng của nước, giống như café cho muối vào vậy. Vì thế, mỗi khi uống café với muối, tôi lại nhớ về tuổi thơ và quê hương của mình. Tôi nhớ tất cả những người bạn thời ấu thơ và cả sự lam lũ, vất vả của những người dân quê tôi.” Nói rồi anh quay ra nhìn biển đêm, lắng nghe tiếng sóng dạt dào vào bờ như đang hồi tưởng và trở về miền quê yêu dấu của mình.

Nhìn chàng trai và lắng nghe những chia sẻ chân thành của anh, cô gái thực sự xúc động. Một người đàn ông yêu nơi mình sinh ra, không quên tuổi thơ vất vả, nghèo khó hẳn sẽ là một người yêu gia đình, sống có trách nhiệm và nghĩa tình. Cô gái dần cảm mến chàng trai và trở nên cởi mở hơn. Cô tâm sự với anh về gia đình, quê hương và những sở thích của cá nhân cô. Họ trò chuyện cùng nhau quên thời gian, sự xa lạ ban đầu đã trở thành sự thân quen, đồng cảm. Trước khi ra về, họ hẹn lần gặp mặt tiếp theo.

Qua những lần gặp gỡ, cô gái nhận thấy chàng trai là một người lý tưởng và phù hợp với cô. Anh tốt bụng, chân thành, ân cần, biết suy nghĩ cho người khác và anh thực sự yêu thương cô. Cô gái biết rằng mình đã tìm được người bạn đời của mình, chính nhờ vào cốc café muối.
Một năm sau lần gặp gỡ đầu tiên, họ kết hôn. Kể từ đó, mỗi sáng cô gái đều pha cho chàng trai – nay đã là chồng cô – một cốc café cùng một thìa muối. Cô biết rằng chồng cô rất thích như vậy. Suốt 50 năm bên nhau, người chồng luôn luôn uống cốc café muối và cảm ơn vợ đã thức dậy từ sớm để chuẩn bị cho mình cốc café ngon đến thế.

Sau 50 năm, người chồng mắc bệnh và qua đời. Ngày chồng mất, người vợ tìm thấy một bức thư viết cho cô được đặt dưới chiếc gối:

“Gửi vợ thân yêu!
Mong em hãy tha thứ cho lời nói dối suốt cả cuộc đời của anh. Đó cũng là lời duy nhất anh dối em trong suốt 50 năm của chúng ta, là lời nói dối về cốc café muối. Em còn nhớ lần đầu tiên anh mời em uống café không? Lúc đó anh đã quá lo lắng, anh định hỏi xin một chút đường, nhưng lại nói nhầm thành muối. Anh cũng quá lúng túng và ngượng nghịu nên đã không lên tiếng đính chính lại. Vì thế, anh đành lấy muối cho vào cốc café, cố gắng uống với vẻ mặt hài lòng và nghĩ ra câu chuyện về tuổi thơ sống gần biển để nói với em. Trong những năm tháng chúng ta bên nhau, anh đã muốn thú nhận sự thật với em rất nhiều lần, nhưng rồi anh sợ em sẽ không tha thứ cho anh. Bởi vậy, anh đã tự hứa với bản thân sẽ không bao giờ nói dối em, phản bội em hay làm tổn thương em một lần nào nữa. Anh cố gắng để trở thành người chồng em có thể tin tưởng và tự hào, như một lời xin lỗi chân thành cho lời nói dối ban đầu của anh.

Bây giờ anh đã đi xa rồi, anh cũng đã có đủ can đảm để nói với em sự thật. Anh không thích café muối, anh cũng cảm thấy đây là món kỳ quặc nhất trên đời. Nhưng mỗi sáng được uống một cốc café muối của em, anh chưa bao giờ cảm thấy hối tiếc hay đau khổ. Nếu được làm lại, anh sẽ vẫn hành động như vậy, để chúng ta có duyên phận ở bên nhau. Anh sẽ uống café muối suốt cả cuộc đời.”

Người vợ cầm lá thư trên tay và đôi mắt cô đẫm lệ. Cô cảm thấy hạnh phúc khi biết mình đã bị lừa dối hơn 50 năm. Có lẽ, nếu không có lời nói dối ấy, cô đã chẳng yêu và kết hôn với chồng của mình. Và nếu không có cốc café muối mặn chát và đắng ngắt mà chồng cô điềm tĩnh uống, cô đã không tìm được duyên phận của đời cô.

Khi yêu thương chân thành và rộng lượng, đúng sai thực sự không còn là vấn đề. Chàng trai trong câu chuyện trên đã dùng cả tấm lòng mình để yêu cô gái, để tự tập thói quen vốn không hề dễ chịu: uống café muối và mang lại hạnh phúc cho cô. Vậy mới hiểu, tình cảm trong sáng đơn thuần sẽ vượt qua những rào cản, những ngăn cách trong tâm hồn để đem con người lại gần nhau hơn.

Mỗi chúng ta có cơ hội gặp gỡ nhau trong cuộc sống này, dù với danh nghĩa bạn bè, vợ chồng hay hàng xóm đều do những mối cơ duyên được sắp đặt sẵn. Vậy mà, có những khi vì bận rộn với công việc và các nhu cầu cuộc sống, ta lãng quên những người xung quanh mình, và lãng quên mối duyên phận thiêng liêng của chúng ta với họ. Tuy nhiên, chúng ta luôn cần quan tâm, chia sẻ với nhau, dành tình yêu thương chân thành dành cho nhau, nếu không, cuộc sống sẽ trở nên ảm đạm, buồn phiền, giống như trái đất thiếu đi ánh mặt trời.

Têresa Ngọc Nga st
(Nguyễn Tích Lai sưu tầm)

Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2024

Tình Em Gái Hậu Phương - Sáng Tác: Trần Đai Bản - Tiếng Hát: Kana Ngọc Thúy


Sáng Tác: Trần Đai Bản
Tiếng Hát: Kana Ngọc Thúy

Nhớ Cố Hương

 

Nơi đất khách, chiều nay trên gác trọ
Bâng khuâng buồn đứng bên song cửa sổ
Ngắm vạt nắng chiều tắt cuối chân mây
Chợt nghe lòng mình tràn ngập buồn thương.
Buồn phận mình đang sống kiếp tha phương
Rời bỏ quê nhà, lang thang lữ thứ
Mấy mươi Năm nổi trôi nơi viễn xứ
Tháng, Năm dài thương nhớ cố hương.
Tôi di ngôn lại con cháu thân thương
Ngày nào đó, tôi giã từ trần thế
Các con tôi hãy đưa tôi ra biển.
Rải tro cốt tôi xuống Thái Bình Dương
Cho thủy triều đưa sang bờ Nước Việt
Để tôi được về thăm lại cố hương”.

Hoa Đô(Lockwood House)
Trần Công/Lão Mã Sơn

Dấu Thời Gian

 

Ta về tìm dấu thời gian
Trong lời chim hót, đôi hàng phượng nghiêng
Tiếng ve thương nhớ nổi chìm
Hạ về lớp học lặng im u hoài

Ta về tìm dấu áo dài
Bay ngang trước cổng chia hai lối chờ
Ðợi ai chân bước ngu ngơ
Áo bay trắng xóa đôi bờ chiêm bao

Ta về tìm dấu ngọt ngào
Tiếng em âu yếm lời trao dịu dàng
Bàn tay nõn vẫy thu sang
Ngẩn ngơ từng chiếc lá vàng lướt vai

Ta về tìm dấu thiên thai
Công viên ghế đá miệt mài dấu yêu
Cõi xưa đã biến rong rêu
Yêu qua thương quá bao chiều đắm mê

Trôi qua bến hẹn câu thề
Chèo khuya sóng nhớ ta về bến xưa
Tóc em mưa nắng ngủ nhờ
Có còn cột mấy vần thơ ta buồn? 

Trầm Vân


Đồng Khô

 

Ta đứng đây giữa cánh đồng
Đứng đây như một cây thông trơ cành
Kiệt tàn nhựa sống ngày xanh
Chim muông bỏ trốn xung quanh im lìm
Gấu già nhắm mắt lim dim
Bầy nai hốt hoảng chạy tìm suối xưa
Cỏ khô sụp lạy trời mưa
Rồng còn mê mải chơi chưa muốn về
Cánh đồng khô khát tứ bề
Nhớ con suối mát chảy về lũng xa
đất trời như bãi tha ma …. !
như hồn oan khuất kêu ca não nùng
đồng xưa xanh mịn như nhung
đồng nay khô cháy nổ tung linh hồn

Mường So Đèo Văn Trấn

Vĩnh Long Ngày Cũ... - Trên Bến Đò Xưa

 

(Vĩnh Long - Ảnh Trương Văn Phú)

Bài Xướng:
Vĩnh Long Ngày Cũ

Còn đâu bến nước đò xưa
Còn đâu bóng dáng người đưa đón người
Lần về kỷ niệm ngậm ngùi
Vĩnh Long ngày cũ sao nguôi nhớ về

Kim Oanh
***
Bài Họa:
Trên Bến Đò Xưa

Bến đò cô lái ngày xưa
Giờ không còn thấy đón đưa chờ người
Đâu rồi...? Lòng chợt bùi ngùi!
Bóng hinh ngày cũ khó nguôi nẻo về

Song Quang

Giọt Nước Mắt Tháng 5

 

Tháng Năm, trời Melbourne đang là mùa thu, khí hậu se se lạnh, lá vàng lung linh trong nắng nên thơ. Một ngày thứ Bảy tôi cảm thấy nôn nao, lòng háo hức chờ đợi. Chờ đợi một điều gì?

Vâng chờ đợi đến giờ đi xem phim. Một bộ phim tài liệu “ Thuyền Nhân: Hành Trình 50 Năm”, của một nữ Đạo diễn người Canada gốc Việt Trần Hoàng Thanh Tâm đã tạo nhiều sự thu hút cũng như quan tâm của cộng đồng người Việt tự do ở Úc.được chiếu tại Cinema 1, ACMI, Federation Square. Lúc 3.30 pm. 

Trước khi đặt vé đi xem, lòng tôi tự nhủ, mình phải đi xem để ủng hộ tinh thần giới trẻ, ủng hộ lòng nhiệt huyết của của thế hệ đi sau, các em muốn đem tiếng nói của mình đến với toàn thế giới, vì sao người Việt đã bỏ nước ra đi và ra đi như thế nào. Cả rạp hát không còn chỗ trống.
Với giá vé 20 đô cho một xuất phim kéo dài 90 phút. Trước khi trình chiếu, Đạo Diễn Trần Hoàng Thanh Tâm xuất hiện có đôi lời chào ra mắt khán giả.

Phim bắt đầu chiếu sơ đằng sau khi làm phim, tôi đã xúc động rồi. Nhưng đến khi phim bắt đầu thì tôi đã nhòa nước mắt. Tôi thấy hình ảnh tôi, con người tôi lồng vào bộ phim này. Tôi đã sống lại, hay nói khác hơn là cái chết trở về trong tôi. Những thước phim tài liệu, có tôi, những cuộc phỏng vấn những nhân chứng sống có tôi, những đoạn phim bị cướp biển cũng có tôi. Tháng 5 ơi! Ngoài trời còn nắng mà sao trong rạp chiếu phim mưa rơi tầm tã.

Những chi tiết tìm được, những sự bất hạnh đến với những người con gái bị hải tặc hiếp, bị giết chết tập thể, khi ấy họ cũng bằng tuổi tôi. Có một nhân chứng kể chị ấy thoát nạn bị hải tặc nhờ bồng một đứa bé con của người phụ nữ bên cạnh, khi bọn hải tặc quét chiếc đèn pin săn mồi. Tôi chỉ biết ôm mặt mình nấc nghẹn. Tôi khóc cho sự bất hạnh của những người con gái phải trả một cái giá quá đắt. Tôi cũng khóc cho chính tôi, vì tôi cũng đã ôm được 1 trong 2 đứa bé con của chị Chủ tàu. Thế là tôi cũng thoát nạn như nhân chứng trên. Tôi cảm nhận ai đang xiết chặt trái tim tôi, vô cùng đau đớn.

Một nhân chứng khác, tôi và ông cùng chi tiết gian nan trên chiếc thuyền 11m, 42 người, đến Terengganu ngày 11 tháng 5, chỉ khác nhau tôi đến trước ông. Bao nhiêu sự việc xảy ra, tôi thấy mình quá may mắn. Được nhiều ân phước của Đức Mẹ Maria. Cách nay hơn 100 năm. Mẹ đã hiện ra ngày 13 tháng 5. Mẹ đã nghe lời kêu cầu và cứu thoát những ai đặt trọn niềm tin nơi Mẹ!.

Tháng 5 ơi! Sau mấy chục năm bươn chải với cuộc sống mới. Tưởng trái tim đã ngủ yên, cứ ngỡ nước mắt khổ đau, nước mắt vui mừng, đã cạn dòng sau 49 năm ly xứ,

Không hôm nay hình ảnh ấy, ngày tháng ấy, những kinh hoàng ấy quặn thắt cả lòng,
Tại sao chúng ta phải trả giá bằng mạng sống đề đi tìm tự do?
“ Thuyền Nhân Hành Trình 50 Năm"  của Trần Hoàng Thanh Tâm sẽ trả lời cho chúng ta và thế giới biết rõ phần nào sự thật!

Sau khi ra về, lòng cứ mãi day dứt. Tối đêm đó tôi không tài nào ngủ được, tôi thức đến 4 giờ sáng. Dù tôi là người dễ ngủ. Qua 1 đêm trằn trọc, tôi tự nói với lòng, tôi phải sống, sống khỏe, sống mạnh mẽ, sống lạc quan. Vì nước mắt tháng 5 tưới cho tôi thêm tỉnh táo, sáng suốt để đón nhận một hình hài mới được Đức Mẹ, phúc đức Ông Bà, công sức Ba Má đã gìn giữ, che chở dẫn đưa tôi đến bến bờ bình an, đầy yêu thương và tự do,..  Xin cầu nguyện cho những Linh Hồn được yên nghỉ đã hy sinh vì 2 chữ Tự Do.


Cám ơn Đạo diễn Thanh Tâm, đã dành hơn 30 phút sau khi chấm dứt phim để lắng nghe, trả lời thắc mắc, khán giả được nói lên tiếng nói lòng mình và góp ý. Có những giọt nước mắt nghẹn lời khi tìm được người xa xưa trong phim tài liệu, đã mấy chục năm trời thất lạc. 

Gửi đến Đạo Diễn Thanh Tâm lời khen ngợi, một người đạo diễn tài sắc vẹn toàn, một vết son của tuổi trẻ...Xin hãy tiếp tục bước đi trong vẻ vang và thành công. 

Giọt Nước Mắt Tháng 5 ơi! Cảm ơn nhé, đã cho tôi nhìn lại với chính mình và vững chãi bước đi trong niềm hạnh phúc …. Tạ Ơn!

Kim Oanh
Cuối Thu 31.5.2024


Lá Gió Cành Chim


Lúc Kiều ở thanh lâu, phải theo lệnh Tú bà tiếp khách, cụ Nguyễn Du đã viết:

Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc vui suốt tháng, trận cười thâu đêm,
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.


(Tống Ngọc người nước Sở cùng Tràng Khanh, tức Tư Mã Tương Như, là hai người đẹp trai, giỏi thơ văn, từ phú, nhưng cũng nổi tiếng ăn chơi, bay bướm)

Lá gió cành chim lấy ở điển Tiết Đào.

Đời Đường Đại Tông, có một vị quan nhỏ tên là Tiết Trịnh, (có sách nói là Tiết Vân). Họ Tiết hiếm hoi, không có con trai, chỉ có một gái, tên là Tiết Đào. Nàng thông minh xuất chúng, mới 8 tuổi đã biết làm thơ. Một hôm, trời vào thu u ám, mây vần vũ ngang đầu, hai cha con đứng trước sân ngắm cảnh, thấy cây ngô đồng cao vút, ngọn khuất trong mây, Tiết Trịnh ứng khẩu:

庭除一古桐 Đình trừ nhất cổ đồng,
聳幹入雲中 Tủng cán nhập vân trung,

Tiết Đào tiếp ngay:

枝迎南北鳥, Chi nghênh nam bắc điểu,
葉送往來風。 Diệp tống vãng lai phong...

Chú thích:

Sự thật thì 4 câu trên được sáng tác bởi Tiết Đào với tựa đề là 井梧 吟 Tỉnh ngô ngâm, nhưng đời sau bịa ra giai thoại như đã kể trên cho hấp dẫn.

Tiết Trịnh nghe qua thì than: nghiệp chướng đã vận vào mình rồi, e rằng con ta sẽ suốt đời đau khổ.

Quả như lời tiên đoán, vài năm sau, Tiết Trịnh bị cách chức, đầy đi Thành Đô, rồi lại bị đưa đi Nam Chiếu. Đây là nơi rừng thiêng, nước độc, Tiết để vợ con ở lại, đi một mình, rồi bỏ mạng. Lúc đó Tiết Đào 14 tuổi. Khi được 16 tuổi, vì gia cảnh quá túng quẫn, lại phải nuôi mẹ, nàng cam tâm xin vào phường ca kỹ.

Với nhan sắc chim sa, cá lặn, với tài nhả ngọc phun châu mà đêm đêm phải mua vui cho khách, Tiết Đào lúc nào cũng u sầu, phiền muộn. Nàng thường làm thơ, phổ nhạc để hát, bài nào cũng thê lương, ảo não, buồn đứt ruột, nhưng hay vô tả. Dân chúng cảm phục, gọi nàng la Tiết Tú Tài. Văn nhân, tài tử nghe danh, dập dìu tìm đến nàng xướng hoạ, hy vọng được nàng để ý, nhưng chưa ai lọt vào mắt xanh.

Lúc đó, đời Đường Đức Tông, Vi Cao được bổ nhiệm làm Tiết Độ Sứ Kiếm Nam, cai quản vùng Tây nam Trung Quốc. Vi là vị quan nho nhã, thích thơ văn, vì biết tài của Tiết nên hay mời nàng tới phủ để giúp vui và xướng hoạ cùng các thi nhân bản xứ. Ông quý Tiết đến nỗi dâng sớ tâu vua, xin phong cho nàng chức Hiệu thư lang. Tuy chưa có chiếu của nhà vua, nhưng dân chúng đã gọi nàng là Tiết Hiệu thư. Sau khi được thăng chức, đổi đi nơi khác, có 10 người tới thay, lần lượt làm Tiết Độ Sứ Kiếm Nam, mà ai cũng quí mến và kính trọng nàng.

Tiết Đào, Lưu Thái Xuân, Ngư Huyền Cơ và Lý Quý Lan được xưng tụng là Đường triều tứ đại nữ thi nhân. Nàng còn chế ra một loại giấy hồng có vẽ hoa cỏ rất đẹp để chép thơ, gọi là Hoa Tiên Tiết Đào.

Những văn nhân đã từng xướng hoạ với Tiết, có Bạch Cư Dị, Lưu Vũ Tích, Vương Kiến, Nguyên Chẩn, nhưng chỉ có Nguyên Chẩn được lọt vào mắt xanh của nàng. Nguyên làm chức Tả Thập Di, trong một chuyến thanh tra ở Thành Đô, chàng gặp Tiết. Trai tài, gái sắc gặp nhau, quyến luyến không rời, thề non hẹn biển, sống chung cả năm trời, tâm đầu, ý hợp. Truyền thuyết kể rằng, khi gặp nhau, Nguyên mới 31 tuổi, Tiết thì đã 42, nhưng vì khéo trang điểm nên trông còn trẻ, rất phong vận. Cuộc tình này có hai đoạn kết khác nhau:

- Nguyên, vì công vụ, phải trở về kinh, rồi vì vụ nổi loạn của Tiết Độ Xứ Tây Xuyên là Lưu Tích mà hai người mất liên lạc. Nguyên Chẩn đã nhiều phen liều mạng đi tìm người yêu, nhưng không gặp, đành thúc thủ ôm mối tình tuyệt vọng. Tiết Đào, vì binh lửa, phải theo dòng đời lưu lạc.. Nàng mỏi mắt trông chờ Nguyên Chẩn, nhưng bóng chim tăm cá... Thời gian qua, dung nhan tàn tạ, lại thương mình duyên phận không may, nàng bèn xuống tóc đi tu, vui cùng câu kinh, tiếng kệ. Nàng xây một căn nhà nhỏ gần bờ sông, bên cầu Vạn Lý, sống ẩn dật, tu tại gia. Có lần, quan Tư Mã Thiểm Tây là Vương Kiến đến thăm nàng và đề thơ tặng:

寄蜀中薛濤校書 Ký Thục trung Tiết Đào hiệu thư
萬里橋邊女校書, Vạn Lý kiều biên nữ Hiệu Thư,
枇杷花裏閉門居。 Tỳ bà hoa hạ bế môn cư,
掃眉才子於今少 Tảo mi tài tử ư kim thiểu,
管領春風總不如 Quản lĩnh đông phong tổng bất như.

Bát Sách dịch thoát:

Bên cầu Vạn Lý nữ Hiệu Thư,
Dưới rặng tỳ bà đã ẩn cư,
Tài tử vẽ mi nhiều hay ít,
Chẳng ai tài nghệ được tương như.


- Nguyên Chẩn, khi về kinh thì phụ bạc, ở với nàng Lưu Thái Xuân, trẻ đẹp, mỹ miều hơn. Nguyên có làm bài thơ "Tặng Lưu Thái Xuân" hết sức ca tụng vẻ đẹp của nàng. Vậy thì đoạn kết thứ hai không phải là phi lý.

Dù sao thì Tiết cũng đã mỏi mòn chờ đợi, và tôi không ưa đoạn kết này.
Bài thơ của Bạch Cư Dị tặng Tiết Đào, tuy chỉ có 4 câu mà rất nhẹ nhàng, dễ thương:

贈薛濤                  Tặng Tiết Đào

蛾眉山勢接雲霓 Nga Mi sơn thế tiếp vân nghê,
欲逐劉郎北路迷 Dục trục Lưu lang Băc lộ mê,
若似剡中容易到 Nhược tự Diễm trung dung dị đáo,
春風猶隔武陵溪 Xuân phong do cách Vũ Lăng khê.

(Thế núi Nga Mi giáp với cầu vồng mây, muốn đuổi theo Lưu lang đang mê lạc trên đường phía Bắc, Nếu như đất Diễm Trung dễ đến, thì gió xuân còn cách xa khe Vũ Lăng.)

Bát Sách dịch:

Nga Mi thế núi tiếp cùng mây,
Muốn kiếm Lưu lang lộ bắc này.
Nếu đất Diễm trung mà dễ đến,
Gió xuân còn cách Vũ Lăng đây.


Sau khi về kinh, Nguyên Chẩn mới gửi bài thơ:

寄贈薛濤             Ký Tặng Tiết Đào

錦江滑膩峨嵋秀 Cẩm giang hoạt nhị Nga My tú
生出文君及薛濤 Sinh xuất Văn Quân dữ Tiết Đào.
言語巧偷鸚鵡舌 Ngôn ngữ xảo thâu anh vũ thiệt,
文章分得鳳凰毛 Văn chương phân đắc phụng hoàng mao,
紛紛詞客多停筆 Phân phân từ khách đa đình bút,
個個公侯欲夢刀。 Cá cá công hầu dục mộng đao,
別後相思隔煙水, Biệt hậu tương tư cách yên thuỷ,
菖蒲花發五雲高。 Xương bồ hoa phát ngũ vân cao.

(Đất Tứ Xuyên, nghĩa là Cẩm Giang và Nga My, sinh được hai người đẹp là Trác Văn Quân cùng Tiết Đào. Nói năng như anh vũ, văn chương như phượng hoàng, Tài của nàng làm văn nhân dừng bút, sắc đẹp của nàng làm công hầu mơ mộng.. Sau khi ly biệt, cách mây nước tương tư, hoa xương bồ đã nở như mây năm mầu.)

Bát Sách lười, dịch cả bài vất vả quá, chỉ dịch hai câu cuối, đáng giá nhất của bài thơ:

Tương tư khói nước xa nhau,
Hoa xương bồ nở năm mầu như mây.


Như đã nói ở trên, Tiết Đào làm nhiều thơ, rồi đem một số thơ phổ nhạc. Xin chọn hai bài:

送友人                    Tống Hữu Nhân.

水國蒹葭夜有霜,Thuỷ quốc kiêm hàng dạ hữu sương,
月寒山色共蒼蒼。Nguyệt hàn sơn sắc cộng thương thương,
誰言千里自今夕,Thuỳ ngôn thiên lý tự kim tịch,
離夢杳如關塞長。Ly mộng yểu như quan lộ trường,

Bản dịch của Chi Điền:

Tiễn Bạn.

Cỏ lau mặt nước đêm sương,
Núi xanh, trăng lạnh thương thương một mầu,
Ai rằng ngàn dặm xa nhau,
Đường dài ly mộng, rầu rầu ải quan.


Và bài thứ hai:

春望詞其一 Vọng xuân từ kỳ nhất.
花開不同賞, Hoa khai bất đồng thưởng,
花落不同悲. Hoa lạc bất đồng bi,
欲問相思處, Dục vấn tương tư xứ,
花開花落時 Hoa khai hoa lạc thì.

Bản dịch của Trần Trọng San:

Lời Ngắm Xuân, Kỳ 1


Cùng xem hoa nở đã không ai,
Cùng xót hoa rơi lại vắng người
Muốn hỏi đâu là nơi tưởng nhớ,
Rằng khi hoa nở lúc hoa rơi.

Hai bài này của Tiết cũng buồn vời vợi. Không hiểu người bạn trong thơ có phải là Nguyên Chẩn? Và người được nàng tưởng nhớ cũng chính là chàng?

Tiết Đào sinh năm 768, tự Hồng Đô, mất năm 831. Một người tài hoa, có nhan sắc mà cả đời luân lạc, mối tình đẹp cũng lỡ làng. Vì thương cảm, Bát Sách tặng nàng mấy câu thơ:

Buồn vì hoa nở hoa rơi,
Thương mình luân lạc, thương đời bể dâu,
Môi hồng mắt biếc còn đâu,
Nương thân cửa Phật, vơi sầu tương tư.


Xin nói thêm là Nguyên Chẩn sinh năm 779 đúng là kém Tiết Đào 11 tuổi, và hai người cùng mất năm 831.
***
Nguyên tác  Dịch âm

井梧吟       Tỉnh Ngô Ngâm


庭除一古桐 Đình trừ nhất cổ đồng,
聳幹入雲中 Tủng cán nhập vân trung,
枝迎南北鳥 Chi nghênh nam bắc điểu,
葉送往來風 Diệp tống vãng lai phong./.

Dịch thơ

Lá Gió Cành Chim


Ngô đồng cổ thụ trước sân,
Thân cây cao vút, khuất dần trong mây,
Cành chim nam bắc đậu đầy,
Lá đùa cợt gió, tối ngày đong đưa./.


Bát Sách 
Montréal, 05/2019.
***
Những Bài Dịch Khác:

Chú giải

井 tỉnh: cái giếng
梧 ngô: cây ngô đồng
吟 ngâm: đọc ngân dài ra, ngâm (thơ)
庭 đình: sân trước
除 trừ: một nghĩa là bên cạnh
聳 tủng: cao vót
幹 cán: thân cây

Dịch nghĩa:

Ngâm bài thơ Cây Ngô Đồng Bên Giếng

Bên thềm có một cây ngô đồng già,
Thân cao đụng tới mây.
Cành tiếp đón chim muông từ nam bắc,
Lá tiễn đưa mọi cơn gió qua lại

Dịch thơ:

Ngâm Thơ Ngô Đồng Bên Giếng


Cây ngô đồng bên giếng,
Thân cao tận mây xanh.
Cành tiếp chim nam bắc,
Lá đón gió vờn quanh./.


Con Cò
***
Gởi Tặng Tiết Đào.

Nga Mi Sông Cẩm mượt mà thay,
Sản xuất Đào, Quân tại chốn này.
Tiếng nói hay như anh vũ hót,
Văn chương đẹp tựa phượng hoàng bay.
Thi nhân gác bút khen thi phú,
Khanh tướng buông đao mộng sắc tài.
Cách biệt nhớ nhau qua khói sóng,
Xương bồ năm sắc nở như mây.

Mỹ Ngọc 
Apr. 11/2024.
***

Lá Gió Cành Chim

Cây ngô đứng trước sân đình
Thân cao như thể ngút nghìn chạm mây
Muôn chim nam bắc dừng bay
Gió đưa chiếc lá lung lay gọi mời


Thanh Vân

***
1/Khúc Ngân Ngô Đồng Bên Giếng( Tỉnh Ngộ Ngâm)

Sân ngô cỗi một cây
Thân thẳng vút tầng mây
Cành đón chim nam bắc
Lá đưa gió vãng lai

Ngô đồng một cỗi thềm sân trước
Thân vươn cao ngọn vút trong mây.
Bắc Nam chim đón cành lay
Lá đưa gió lạ vãng lai sớm chiều!


2/Tiễn Bạn (Tống Hữu Nhân)

Mặt nước cỏ bèo tối ngậm sương
Lạnh trăng, sắc núi biếc màu vương
Ai rằng ngàn dặm nay xa cách
Ly mộng mịt mờ chốn ải cương.


3/Ngóng Xuân Từ Kỳ 1 (Vọng Xuân Từ, Kỳ 1)

Hoa nở không cùng ngắm
Chẳng cùng sầu hoa rơi
Muốn hỏi nơi thương nhớ?
Hoa rơi-nở đúng thời!

Lộc Bắc

Mai24
***
1/ Ngóng Xuân

Chẳng cùng ngắm hoa nở
Hoa rụng chẳng cùng than
Tận cùng trong nỗi nhớ
Lúc hoa nở… hoa tàn

2/ Tiễn Chàng

Kiêm Gia bến nước đêm sương mờ
Nguyệt lạnh non cao thăm thẳm mơ
Ngàn dặm cách ngăn … ai thấu hiểu
Quan san diệu vợi mãi mong chờ


Kiều Mộng Hà
Austin.4.11.24
***
Tiết Đào 薛濤 - Tỉnh Ngô Ngâm 井梧吟

Theo nhiều nguồn tài liệu, Tiết Đào vốn là một danh kỹ xinh đẹp đời Đường. Nàng còn rất giỏi thi từ ca phú, từng là bạn xướng họa với nhiều thi nhân nổi tiếng đương thời như: Trương Tịch, Đỗ Mục, Lưu Vũ Tích, Bạch Cư Dị, và đặc biệt là Nguyên Chẩn. Giữa hai người có một đoạn tình duyên không trọn vẹn. Nguyên Chẩn từng ca ngợi nàng:

Cẩm giang hoạt nhị Nga mi tú 錦江滑膩峩嵋秀
Sinh xuất Văn Quân dữ Tiết Đào 生出文君及薛濤

tạm dịch:

Cẩm Giang danh tiếng mỹ nhân
Thi ca từ phú: Văn Quân, Tiết Đào

Tiết Đào lên 8 tuổi đã biết làm thơ. Một hôm thân phụ nàng là Tiết Vân 薛鄖 chỉ cây ngô đồng, đọc 2 câu thơ:

Đình trừ nhất cổ đồng 庭除一古桐
Tủng cán nhập vân trung 聳幹入雲中

tạm dịch:

Trước thềm có một cây đồng cổ
Thân cây cao ngất vào trong mây


Tiết Đào liền đọc tiếp:

Chi nghinh nam bắc điểu 枝迎南北鳥
Diệp tống lai vãng phong 葉送往來風

tạm dịch:

Cành đón chim từ nam bắc tới
Lá tiễn đưa làn gió lại qua.



Cha nàng nghe hai câu thơ này rất buồn vì thấy nàng, tuy thi phú vẹn toàn, nhưng có phong khí lả lơi ong bướm. Anh hoa của Tiết Đào sớm phát tiết cũng báo hiệu một đời hồng nhan đa truân. Quả nhiên sau này nàng phải dấn thân vào chốn thanh lâu. Tiết Đào có tài thi văn nhưng sanh vào một xã hội phong kiến bất công với 2 chuẩn mực khác nhau: cùng một phong thái nhưng với người nam thì cho là hào hoa phong nhã, nhưng với phụ nữ lại cho là lả lơi ong bướm. Nên cuối cùng nàng chỉ có một con đường là làm một ca kỹ. Thật đáng thương cho người phụ nữ thời phong kiến!

Thật ra câu chuyện bên trên có lẽ chỉ là huyền thoại vì đối đáp của Tiết Đào đâu có chi là lẳng lơ. Bốn câu thơ được gắn cho là đối đáp giữa cha con Tiết Đào là một bài ngũ ngôn tứ tuyệt được chép trong Tiết Đào Lý Dã Thi Tập - Đường - Tiết Đào 薛濤李冶詩集-唐-薛濤

Nguyên tác: Phiên âm: Dịch thơ:

井梧吟 Tỉnh Ngô Ngâm Ngô Đồng Bên Giếng

庭除一古桐 Đình trừ nhất cổ đồng       Sân trước ngô đồng già,
聳幹入雲中 Tủng cán nhập vân trung  Tận mây dang cành ra.
枝迎南北鳥 Chi nghênh nam bắc điểu  Bắc Nam chim đến đậu.
葉送往來風 Diệp tống vãng lai phong  Gió thổi lá la đà.

Dịch nghĩa:

Cây Ngô Đồng Bên Giếng


Thềm trước sân đình có một cây ngô đồng già.
Thân cao vót xuyên mây.
Cành đón nhận chim từ miền Nam miền Bắc,
Lá tiễn đưa gió thăm viếng đến đi.

An Old Paulownia Tree By the Well by Xie Tao,

In front of the pavillion there is a Paulownia tree, real old,
Its tall trunk penetrates the clouds.
Its branches host birds from North and South,
Its leaves bid good bye to winds that come and go.

Thời Đường không có mấy phụ nữ là thi nhân. Một phụ nữ tài sắc như Tiết Đào tất nhiên được nhiều người có học thức ái mộ. Ngoài các bài thơ tặng nàng đã được nêu ra như:

Ký Thục Trung Tiết Đào Hiệu Thư 寄蜀中薛濤校書 của Vương Kiến
Tặng Tiết Đào 贈薛濤 của Bạch Cư Dị
Ký Tặng Tiết Đào 寄贈薛濤 của Nguyên Chẩn

Còn các bài tặng khác như:

Hòa Tây Xuyên Lý Thượng Thư Thương Khổng Tước Cập Tiết Đào Chi Thập 和西川李尚書傷孔雀及薛濤之什 của Lư Vũ Tích
Tặng Tiết Đào 贈薛濤 của Hồ Tằng

Đặc biệt là Nguyên Chẩn chỉ gởi bài thơ Ký Tặng Tiết Đào sau khi về Trường An vào khoảng năm 821. Vì sao? Phải chăng Nguyên Chẩn là người yêu của Tiết Đào nên không cần phải “nịnh” nàng như các thi nhân khác. Hay như theo Ngự Định Toàn Đường Thi Quyển 422, Nguyên Chẩn đã từng tặng thơ cho Tiết Đào trong bài Ký Cựu Thi Dữ Tiết Đào Nhân Thành Trường Cú 寄舊詩與薛濤因成長句.

Có nguồn cho bài thơ này là của Tiết Đào tặng Nguyên Chẩn (không phải Nguyên Chẩn tặng Tiết Đào) và có được ghi chép trong sách của Tiết Đào 薛濤李冶詩集-唐-薛濤 (trang 13b) dưới tựa đề Ký Cựu Thi Dữ Vi Chi 寄舊詩與微之.

Cả hai bài thơ, từ hai sách khác nhau, có tựa khác nhau nhưng văn bản giống nhau như bên dưới:

詩篇調態人皆有 Thi thiên điều thái nhân giai hữu
細膩風光我獨知 Tế nị phong quang ngã độc tri
月夜詠花憐暗澹 Nguyệt dạ vịnh hoa liên ám đạm
雨朝題柳為欹垂 Vũ triêu đề liễu vi khi thùy
長教碧玉藏深處 Trường giáo bích ngọc tàng thâm xử
總向紅箋寫自隨 Tổng hướng hồng tiên tả tự tùy
老大不能收拾得 Lão đại bất năng thu thập đắc
與君開似教男兒 Dữ quân khai tự hảo nam nhi
Sau khi đọc bài thơ, bạn cho ai là tác giả?

Phí Minh Tâm
***
Góp ý của mirordor:


庭除一古桐 Đình trừ nhất cổ đồng

古桐 cổ đồng là cây gì? Câu trả lời "chính xác" là không ai biết! 古=cổ chỉ có nghĩa là già, như trong cụm từ 'cổ thụ'; 桐=đồng là từ dùng để chỉ hàng chục loại cây trong các họ nhà hồng, cúc, cẩm nhung, mộc lan [桐 - zn.Wikipedia và xin lưu ý rằng trong danh sách này không có các cây ngô đồng và phao đồng]. Theo Thuyết Văn, 桐=đồng là 荣=vinh [桐, 榮也. 从木, 同聲。đồng, vinh giả, tòng mộc, đồng thanh] nhưng không thấy có trang internet nào cho biết vinh là cây gì và ta chỉ có thể để ý rằng chuyển ngữ pinyin của 桐 và 荣 khá giống nhau: tóng/róng, nên đồng có thể chỉ là một lối viết khác của vinh, phản ảnh sự chuyển phụ âm r thành t. Từ 梧=ngô trong tựa đề bài thơ thì đúng là tên của ngô đồng, theo Thuyết Văn [字頭「梧」], nhưng ngô đồng là cây gì thì lại là chuyện khác.

Cúc và cẩm nhung là những loài hoa thân thảo nên không thể là cổ đồng trong bài thơ. Trang chữ Hán 梧桐 zn.Wikipedia cho cây ngô đồng (Firmiana simplex) cho ta biết nó không phải là một cây cao ngất trời [梧桐是落叶乔木, 高可达12米=ngô đồng thị lạc diệp kiều mộc, cao khả đạt 12 mễ] nên không thể có chuyện 聳幹入雲中=tùng cán nhập vân trung! Theo người ni biết, ngô đồng trong thi văn/huyền thoại nói đến hoặc loài cây hoa vàng rụng lá báo hiệu mùa thu, hay cây ngô đồng chim phượng hoàng về đậu báo hiệu thánh nhân, hay vĩ nhân ra đời. Cây độc nhất đủ cao trong danh sách nói trên cho các cây có tên đồng ờ Tàu là 油桐=du đồng, cao đến 20 m.

Đã có nhiều người dịch 梧桐 thành paulownia nhưng đó là dịch sai vì paulownia là 泡桐=phao đồng một loài cây không bà con gì với ngô đồng. Paulownia tomentosa , cao tới 25 m, thường thấy hơn trên Hoa Lục, là cây biểu tượng của thủ tướng Nhật, hiện diện trên ấn của Nhật, và gỗ của nó được dùng để làm cổ cầm. Cho dù dịch 梧桐 sai, theo tôi phao đồng mới là cây 'ngô đồng' trong bài thơ. Nếu ta tò mò tìm thử 井梧=tỉnh ngô là gì thì sẽ phải dịch thành 'cây "ngô" (bên) giếng' vì không có cụm từ tỉnh ngô trong tiếng Tàu.

Theo một số nhà nghiên cứu [井梧吟_百度百科], chưa hẳn rằng bài thơ này do chính Tiết Đào sáng tác, và một số người loại nó ra khỏi danh sách các bài thơ của Tiết Đào, vì nó chỉ xuất hiện lần đầu trong Khảo Giản Chuế Bút (槁簡贅筆, 'chuế bút' là bút mực rởm, thừa thãi) của Chương Uyên (章淵) đời Tống; tác phẩm này nói về thuyết thi sấm (詩讖, tiên tri trong thơ) và có thể dùng một hư cấu để làm ví dụ cho thuyết.


Bút tích của nàng còn ghi một điểm thích thú với tựa bài thơ là Tục Phụ Tỉnh Đồng Ngâm 續父井桐吟 làm mình nghĩ đến huyền thoại đối đáp của hai cha con là thật. 

Phí Minh Tâm 
***
Góp ý:

Khi đọc tiểu sử của Tiết Đào ta có thể thấy những trang internet dùng từ ca kỷ (歌伎) ngoài từ thi nhân (詩人) để nói về đời sống/nghề nghiệp của cô. Điều phiền toái là thế này: thể chế ca kỷ thời Đường-Tống đã biến mất trong thời Thanh khi mà ca kỷ được xem là từ đồng nghĩa với gái điếm. Trước thời Thanh, nghiệp ca kỷ có liên hệ với chế độ đa thê của Hoa Lục. Đàn ông lấy thêm vợ bé để tăng cơ hội có con trai nối tự, và những người có tiền của thường chọn vợ bé có nhan sắc và tài đờn ca. Đàn bà Hoa Lục thời cổ đáp ứng nhu cầu xã hội đó với nghiệp ca kỷ.

Dưới cái nhìn đó thì làm ca kỷ có gì xấu, trừ khi ta còn vướng với quan niệm "xướng ca vô loài"? Một trang chữ Hán nói về Tiết Đào gọi cô là thi nhân, ca kỷ, và 清客=thanh khách. Trừ khi ta biết cách tra cứu thì muốn hiểu thanh khách là gì thì hơi khó vì không có mục từ đó trong Wiktionnary và Google không biết dịch ra sao! Thanh khách là những người có văn tài (cả hai phái) được các nhà quyền quý cấp dưỡng, và tiểu sử của Tiết Đào nói đến việc Tiết Đào được nhiều "quan lớn" nâng đỡ. Truyền thuyết bảo rằng Tiết Đào có nhan sắc nhưng tại sao ta không nghĩ rằng rất có thể nàng có cơ hội làm bạn với nhiều tao nhân mặc khách là vì văn tài của nàng thay vì cái nghiệp ca kỷ?

Huỳnh Kim Giám
***
Phí minh Tâm viết:

Điểm khác, nhiều nơi cho là bài thơ không phải của Tiết Đào, có thể vào thời điểm đó người ta chưa tìm được sách của Tiết Đào.


Thứ Năm, 30 tháng 5, 2024

Cáo Phó Nhà Văn Trần Hoài Thư Qua Đời

 

CÁO PHÓ

Gia đình chúng tôi vô cùng thương tiếc báo tin

Ông Trần Quí Sách

Bút hiệu Trần Hoài Thư

Sinh ngày 16 tháng 12 năm 1942 tại Đà Lạt, Việt Nam
Đã từ trần lúc 6:35 sáng, ngày 27 tháng 5 năm 2024 tại Plainfield, New Jersey
Hưởng thọ 82 tuổi

CHƯƠNG TRÌNH TANG LỄ

Từ 10 giờ sáng đến 12 giờ trưa
Thứ bảy ngày 8 tháng 6 năm 2024
Tại Memorial Funeral Home
155 South Avenue, Fanwood, NJ 07023
(908) 322-4350

Di quan và hỏa táng tại Somerset Hills Memorial Park
95 Mt Airy Rd, Basking Ridge, NJ 07920
(908) 766-0522

TANG GIA ĐỒNG KHẤP BÁO

Trưởng nam: Trần Quí Thoại, vợ và các con
Xin miễn phúng điếu

Trang Long Hồ Vĩnh Long Thành Kính Phân Ưu Gia Đình Nhà Văn Trần Hoài Thư Và Tang Quyến

 

 

Sáng Tinh Mơ In Sách



(Gởi theo TRẦN HOÀI THƯ, mất ngày 27 tháng 5 năm 2024)

Lưng còng, mắt mõi, tay run,
anh ngồi in sách, lệ chùng xưa sau.
Một con chữ, mấy niềm đau.
Một dấ́u chấm, mấy lần khâu miệng tình.
Những khuya, khuya tới làm thinh!
Những mai sớm, sớm đến tận tình cô đơn!
Anh ngồi in sách vào hồ̀n 
mà nghe tàn rữa phấn son đời mình.

Cao Vị Khanh

 

Kim Phượng Kính Tiễn

 

Thủ bút hôm nào vẫn còn đây
Lời thơ Xa Xứ động trời mây
Niềm đau da diết thân Chim Việt
Trải khắp Cành Nam ước nguyện đầy


Thành kính chia buồn cùng tang quyến, 
Nguyện cầu Hương Linh anh Trần Hoài Thư thảnh thơi về cõi An Lạc.

Thành Kính Phân Ưu

Kim Phượng

Điếu Thi



(Kính dâng hương linh anh Trần Hoài Thư)

Khói hương nghi ngút nhớ vô vàn
Sao nỡ rời xa chốn thế gian
Nhớ thuở chiến y bao kỷ niệm
Đến thời tù ngục lắm gian nan
Con thơ, đàn cháu hồn quê phủ
Chiến hữu, văn đàn nước mắt chan
Nếu có linh thiêng xin chứng giám
Nguyện cầu siêu thoát cõi bình an.

Lâm Hoài Vũ
May 30, 2024
 

Cho Dù Lịch Sử Đau Bầm Dập - Cao Vị Khanh


Nhà văn, nhà thơ Trần Hoài Thư. Ký họa Đinh Trường Chinh.

Nói với người trung đội trưởng cũ

Vậy là hai mươi sáu năm sau ngày anh buông súng, gần ba mươi năm sau lần anh chào nghiêm trước hàng quân nhận chức trung đội trưởng, tôi có dịp nói chuyện với anh, người bạn mới biết mà chừng như thân lắm. 

Kể ra chúng ta còn quá may mắn, sau một cuộc chiến tàn khốc như vậy mà anh còn sống sót để viết lách, tôi còn sống sót để đọc thơ văn của anh mà tức tưởi. Bạn bè của anh, bạn bè của tôi thiếu gì người đã bỏ cuộc nửa chừng sau khi đã trân mình chơi xả láng với súng đạn ngoài trận địa, hay sau này với đói khát trong trại giam…

Chắc tôi phải nói rõ với anh điều này. Mười năm sau ngày bỏ xứ, khi cơn đau thất tán đã có cơ lắng xuống, tôi bắt đầu làm thơ trở lại. Những câu thơ nói về cuộc khổ nạn lớn quá tầm mức nhân gian. Thú thiệt, trong khi mần mò lục tìm lại quá khứ, tôi cứ bị lấn cấn hoài về một số hình ảnh đã làm tôi thắc mắc mà tôi tưởng đã rơi rớt mất tiêu trên con đường thương khó. Lần đó, khoảng năm 70-71, sau khi mãn khóa Thủ Ðức, trước khi được biệt phái về ngành chuyên môn, tôi quá giang một chuyến xe tiếp vận từ hậu cứ lên thăm người anh đang đóng quân ở vùng Lộc Ninh Bố Ðức. Hôm đó chiều đã muộn. Con đường chạy từ Chơn Thành lên căn cứ B vặn vẹo giữa những cánh rừng cao su nổi tiếng là hay tráo trở. Xe vừa qua một khúc quành thì tôi thấy một cánh quân độ vài chục người đang lội bộ dọc theo đường bỗng rẽ ngang rồi mất hút vào khu rừng sụp tối. Mấy người lính nhỏ con gầy gò tới độ cái ba-lô trên lưng trở nên lớn khác thường như muốn đè sụm cả họ. Xe qua, tôi còn kịp thấy người đi chót, trẻ và non như mụt măng. Họ đi đâu, đêm sắp mịt mùng. Và trong đó, rừng thù nghịch. Tôi nao nao như thấy có gì bất nhẫn. Lòng xe mờ, ngoài tôi và người tài xế, còn một viên thiếu úy rất trẻ. Qua câu chuyện trao đổi, tôi biết anh ta trễ phép sau mấy tháng dưỡng thương đúng lúc trung đội bị hốt gọn trong chuyến đổ quân Hạ Lào. Nếu trình diện sớm hơn thì giờ này chắc đâu có mặt ở đây nữa. Mặt người thiếu úy hơi chau lại, anh hỏi thêm đôi điều về mấy người quen biết, rồi thôi. Mấy câu đối đáp ngắn ngủn, bời rời như đang nói đến một chuyện chẳng ăn nhằm gì đến họ. Người tài xế thì vừa lái xe vừa ngân nga mấy câu vọng cổ. Ông sĩ quan thì mắt không rời tờ tạp chí văn học rất được ưa chuộng thời đó. Cả hai làm như không thấy đêm đang buông nhanh xuống đoạn đường tử địa. Và chiến tranh thì dường như ở đâu đó, xa lắm, mặc dù vẫn nghe tiếng đại bác dội lại cầm chừng. Cả đến khi người tài xế nhắc đến cái báo cáo đào ngũ đang chờ ở đơn vị, người bạn đường cũng không thấy gì là xao xuyến. Có một thời người ta cam phận đến vậy sao, như biết mọi vùng vẫy phản kháng đều vô ích. Như sinh ra đã là như vậy. Như sống vốn là như vậy. Như chết sẽ là như vậy. Như hai người lính chiều nay nói đến giặc giã bằng cái kiểu hàn huyên mưa nắng. Thái độ thản nhiên của họ cũng như của đám lính kéo vào rừng đã làm động lòng tôi không ít. Dĩ nhiên tôi chưa bao giờ biết được tường tận cái nguy hiểm rình rập bám riết họ đến mức nào trong suốt cuộc thập tử nhứt sanh. Và như vậy làm sao tôi biết họ lừng lững thiệt tình đến chừng nào. Nhưng đến bây giờ thì tôi biết. Biết sau khi đọc anh, từ vài năm nay, những bài thơ hừng hực hơi sống và mùi chết, những tập truyện lạnh ngắt sắt thép mà lại nóng hổi tình người. Cho dù lịch sử đau bầm dập…

Dường như bắt đầu từ cuối một trận đánh… Suốt cả một buổi trưa hai thằng chúng tôi mắc nạn không thể bò xuống đồi. Tư bị đạn trúng bả vai và chân. Còn tôi thì bị lựu đạn làm bể cả bắp đùi. Lúc này mạnh ai nấy thoát. Bởi ai cũng biết rằng nếu ở lại thì chết bởi những họng súng đang săn mồi từ cao điểm. Rõ ràng đây là một cuộc thí quân… Sau đó là một lời nhắn, không, một lời trối. Mày là nhà văn. Tao là độc giả của mày. Mày phải sống. Mày nghe rõ chưa. Mày phải sống để mà viết lại… Mày hãy nói cho mọi người biết về những cái chết chó má như thế này. Chết mà không bắn được một viên đạn như thế này… Từ đó anh lãnh một sứ mệnh, không phải, sao tôi ghét hai chữ “sứ mệnh” này đến vậy. Từ lúc nào những hoa ngôn trở thành giây thòng lòng siết cổ siết hầu đám người tuổi trẻ? Anh không lãnh một sứ mệnh nào hết. Cuộc chiến đó đã chơi anh và bạn bè anh cạn láng bằng canh bài lật lọng. Mươi năm sau, người chết thì đã chết, người còn sống thì hoặc tàn phế thể xác hoặc thương tật linh hồn. Phế tích đậm đến không chịu phai, đến còn thấm lan ra thơ văn suốt từng lần hồi tưởng. Vậy đó, không thông điệp, cũng chẳng tuyên ngôn. Anh nhắc lại một trận đánh, một vết thương, một cái chết, một cơn sợ hãi, một nỗi vui mừng, một niềm tuyệt vọng, một sự thật như nó là nó, không ngụy tráo cũng chẳng tuyên truyền. Có người muốn quên. Nhưng anh thì nhớ. Anh viết về cuộc chiến đã xảy ra mà anh đã tham dự, nhiều người đã biết cũng như còn rất nhiều người khác không biết mặc dù đã sống cận kề. Anh nói giùm bạn anh, những người trước đây không được phép nói và đến giờ không còn dịp nói nữa. Ðược không?

Cho dù lịch sử đau bầm dập…

Anh lội suối lội non, chết lên chết xuống, hồn xác rách bươm cho đã rồi thôi. Chấm hết một cách lãng nhách. Mấy ông quan lớn kéo nhau bỏ đi sau khi gân cổ hò hét, xúi bẩy, rầy rà, mắng nhiếc. Anh và bạn bầy anh ở lại bị hốt thảy vào các trại tù tiếp tục sống dở chết dở sau khi đã xé thịt hứng đạn, sau khi đã bầm gan vuốt mắt cho hết người bạn này đến người bạn khác, sau khi đã nát dạ nghe hết lời đay nghiến, rủa xả của đám góa phụ xuân xanh làm như chính anh đã giết chồng họ, làm như anh có quyền lực mà không chặn lại giùm viên đạn vô tình… Mà thật ra thời buổi đó anh có quyền lực gì đâu, anh cũng chỉ là một nạn nhân như chồng con họ vậy thôi. Nhắc lại mà thêm buồn phải không anh. Cái quyền đó, cái ảo tưởng đã hơn một lần bị dập tắt ngay trong cơn dầu sôi lửa bỏng. Tôi biết có lần anh đã nín thở chờ qua cơn mưa pháo, rồi cắn răng cắn lưỡi mà viết, dưới giao thông hào, trong lùm trong bụi để nhắc chừng mọi người một sự thật đằng sau những ngôn từ hoa mỹ. Nhưng mà có được đâu. Vì cuộc chiến anh muốn viết. Nhưng rồi cũng vì cuộc chiến đôi khi anh phải nín lặng. Có phải đó chính là cái mâu thuẫn lớn nhất trong thời đại khổ nạn của chúng ta. Những xác chữ chết yểu vì vậy còn bỏ nằm la liệt trong đầu anh. Những cái thấy cái nghe vẫn còn lúc thúc buồn bã trong lòng anh. Bởi vậy, nhiều năm sau khi đã vẫy vùng mõn hơi, đã chống chọi túi bụi để còn được sống, vừa mới sống được là anh chụp lấy cái quyền của anh, nói và viết theo ý mình về cuộc chiến. Không phải cuộc chiến của mấy ông tướng khiển lệnh qua tầng tầng vô tuyến, không phải cuộc chiến của mấy ông chính trị gia mồm loa mép giải… mà là của người lính ở tuyến đầu, của người đã biết súng đạn dữ dằn thế nào, đã vã mồ hôi vì sợ hãi, đã tức dội lồng ngực vì tiếng nổ, và máu mặn ra sao, và nước mắt mặn ra sao … Thêm chút nữa, đó là cuộc chiến của người trung đội trưởng, cái chức vị vừa tầm đúng cỡ nhất để thấy hết cái lớn lao nhất cũng như cái nhỏ nhoi nhất của đời lính, để hứng nhận đúng nơi đúng chỗ nhất cơn sấm sét của chiến tranh. … phải là người làm gương, người ra lệnh trực tiếp không phải qua máy truyền tin, mà qua hò hét, qua nòng súng dí vào lưng thuộc cấp… phải làm sao kêu họ nằm ngoài đồng, trên gò mả, đứng dưới kênh ngập nước, dưới những cơn mưa như thác… Mà cũng còn là người phải nạt, phải gào, phải dọa, để đám dân, gồm đàn bà con nít, từ dưới hầm chui lên, để họ còn được sống… phải chiến đấu trong sự dằng co của lương tâm và thù hận… Vâng, chính cái cuộc chiến đó mà anh muốn nói, thứ cuộc chiến vẫn thường được thống kê trong những bản tin chiến sự hàng ngày theo kiểu “bên ta vô sự, địch để lại xác chết” đã có lúc không còn làm bận tâm ai nữa. Thứ cuộc chiến mà mỗi người lính không phải là một danh số, mỗi đơn vị không phải là một chấm đỏ trên bản đồ mà là một khối người bằng xương bằng thịt biết sướng biết đau có những cơn mơ và những hồi nhớ. Không phải những trận đánh đã được ghi chép vào quân sử. Chuyện đó để dành cho mấy ông học giả đeo kính gọng vàng, mấy ông chức quyền hối lỗi ăn năn. Anh chỉ viết về ngưòi trung đội trưởng và những ngưòi lính của anh thôi bằng chính ngón tay đã có lần  siết cò súng đến muốn gãy, bằng cái đầu đã có lần muốn nổ tung vì những suy nghĩ rối nùi không tìm ra nút gỡ. Bởi vì khác với những người lính thuộc quyền, có khi chỉ là một người ít học chơn chất, một đứa trẻ mới lớn tuổi còn non hơn lá mạ, anh biết nhiều hơn họ cho nên anh khổ tâm hơn họ. Và cũng khác với thượng cấp đã dày dạn đến chai lòng, anh thấy gần hơn họ nên anh càng khổ tâm hơn họ. Bởi vậy mà tôi yêu thích làm sao cái hình ảnh trung thực mà anh đã thấy tận mắt, nghe tận tai, gánh mòn vai rồi đem lòng nói lại. Còn ai hơn anh để nói về nỗi vui mừng lặng lẽ sau một đêm chong mắt chờ giặc mà nghe tiếng gà gáy để biết mình còn được thấy mặt trời mọc lên lần nữa. Ðể hít hơi thuốc sớm và thấy mình còn sống, rồi yêu thương thêm ngọn cỏ cọng cây, người bạn đồng cảnh và cả cô hàng cà-phê vớ vẩn bên đường. Gọi cốc cà-phê un khói gió. Mấy thằng râu tóc chụm thanh xuân. Ðọc anh, tôi thấm cái lạnh của người lính nằm tiền đồn đêm mưa xối xả, uống ngụm cà-phê đầu ngày như uống cả cuộc sống tìm lại, tôi lây cái sợ của con vật người bị biến thành bia bắn, và nhất là tôi thấy lại tôi, tuổi trẻ cháy phỏng vì bị đem nhúm lửa đoạn trường.

Vậy thì người trung đội trưởng đã nói gì và nói thế nào về cuộc chiến của anh ta? 

Ở đây tôi không làm công việc phê bình văn chương. Nó lớn chuyện quá, chắc tôi không kham nổi. Tôi chỉ khoái nói với anh nỗi hả hê của mình trong khi chờ có dịp gặp nhau để cụng vài ly cho ấm bụng. Cỡ này cõi văn đã lạnh lắm rồi anh.

Từ năm 95 đến nay, gần 6 năm thôi anh đã cho ra mắt liên tiếp 7 tập truyện và 4 tập thơ thì quả là vô địch. Viết lách, in ấn nhanh và gọn không thua gì đánh diều hâu thuở trước. Lính tráng có khác. Số lượng như thế mà chữ nghĩa thì ra sao? Cái cảm giác đầu tiên của tôi là anh viết văn làm thơ dễ dàng thoải mái lắm. Khác với cái lối nặn câu nặn chữ làm bộ làm tịch của mấy ông nhà văn-trí thức chữ tây chữ u lu bu thì quả nhiên anh sướng hơn họ nhiều lắm. Mà viết không sướng thì viết làm chi. Viết mà cứ băng hăng bó hó lờ quờ lạng quạng như đi qua cầu khỉ thì viết làm gì cho mệt. Anh viết dễ dàng mà không dễ dãi. Ðọc anh tôi cũng thấy sướng lây. Chữ nghĩa phóng ra ào ào như súng máy xổ thành tràng liên tu bất tận. Vậy mà rất trúng đích. Chữ chở nghĩa tận tình khiến người đọc cứ thấy mình trong cuộc. Có biết trận địa pháo là thế nào không? Lúc này đêm như một hội hoa đăng của tử thần. Hình như mỗi loạt nổ là bốn, năm quả, khi thì rớt ngoài hàng rào phòng thủ, khi thì lọt trong chu vi. Cả lòng đêm gào rú cuồng nộ với những tràng sấm sét ầm ầm chụp xuống trại, rồi những khối lửa lại tiếp tục bùng lên. Những miểng thép lại bay ào ào như thể một trận bão kim loại với muôn tia lửa xanh đỏ đan nhau giữa lòng mực xạ… Sức công phá của đạn quả thật khủng khiếp. Cả thân thể như bật tung dậy. Lồng ngực như bị ai thoi một quả đấm ngàn cân. Máu mũi lại vọt chảy ròng ròng. Có khi cả máu miệng trào ra… Thấy không, chữ chạy hớt ha hớt hãi, cuống quýt, chen lấn xô đẩy nhau giành chỗ sống như miểng pháo nổ văng mãn thiên hoa vũ cấy gài cái chết thành thiên la địa võng. Có thấy cảnh người chạy băng ngang cánh đồng tử sinh chưa? Chạy bất kể trời đất, bất kể thương tích, con người còn nhỏ hơn con sâu, đạn thì bay tua tủa, mạng người mọn hơn cái kiến, anh kể rành rọt, chẳng mặc cảm, không kêu rêu. Tại vì lúc đó là như vậy. Có nói khác được đâu. Mà cần gì nói khác. Ðã ai anh hùng và ai hèn nhát. Vô đó rồi mới biết…Và tôi nhắm mắt, cố cầm cơn đau, trườn về phía sau. Ðạn lại sủi bọt. Tôi chỉ còn cách vực sâu khoảng chừng hai thước. Một viên đạn xước qua bả vai tôi. Máu dầm cả cánh tay áo. Tôi nhào đại xuống vực thẳm. Tôi té nhào giữa những bụi gai nhọn. Nhưng tôi quên hết cơn đau nhức.Chỉ có chăng là bắp đùi bị tê buốt vô cùng tận. Máu càng thấm cả một ống quần. Hai tay tôi lại cố vạch bụi. Và tôi lại vồ cả những bãi phân người ghê tởm… Tôi nghe được cả tiếng đập thình thịch của con tim cuống cuồng, tiếng hổn hển của hơi thở ứ máu bởi vì chữ ở đây không phải là mớ nguyên âm với phụ âm được ghép lại vô tình theo công thức ngữ học nữa. Chữ ở đây là máu là xương là thịt thà là hồn kinh phách đởm, là hình ảnh nối hình ảnh, là động tác liền động tác, liên miên, dồn dập kéo người ta từ cửa tử thoát qua cửa sinh. Anh viết mà như anh sống. Nên tôi sống thêm với anh một lần nữa cái chuyện lẽ ra phải quên đi. Ban nãy tôi có nói với anh là tôi hả hê. Xin lỗi anh. Nhưng văn chương nó phải như vậy. Nếu không chẳng thà theo vợ ngồi coi Paris by night còn được tiếng vẹn nghĩa tào khang. Những đoạn như đoạn này, nếu ngày nào đất nước có cơ may, trích ra mà giảng cho học trò thì sướng lắm. Cứ như là một bài đại cáo vậy, đọc lên mà nghe gió dậy trong lòng. Lên đường, gạo lương khô và những bi-đông nước lỉnh kỉnh bên mình. Lên đường, như sinh ra để mà đi, mà lội mà trèo. Lên đường trong khi ngủ, trong khi tiếng đại bác mở đường, dọn sạch mục tiêu. Lên đường trong mưa, trong nắng, trong gió lào khô thốc, trong sương muối che khuất mặt trời, trong khi ma quân vẫn trùng trùng điệp, mà quê nhà thì càng lúc càng vời vợi, mà lư nhang thì đầy ấp tàn tro lo âu cầu nguyện của người thân… Lên đường. Mang theo bên mình khối gia tài năm mươi ký lô nặng hơn cả thân người lính… Lên đường. Giày da sờn bạc. Giày bố đế mòn cao su. Và những ngón chân trắng hếu… Lên đường giữa trùng trùng tai ương… Lên đường. Núi rừng vây bọc. Sương phủ cả đỉnh, lấp cả thung lũng, nhưng không lấp đi những tai họa chờ chực dưới những cánh rừng dừa Bình Ðịnh, Tam Quan, Bồng Sơn. Người lính đã gục xuống… Cuộc đời của người lính chỉ biết cúi đầu. Và trên thân phận của người lính là những cơn mưa oan nghiệt. Mưa rừng, mưa núi, mưa pháo, mưa máu…

Văn của anh trào ra như con lũ phá đập. Nước tràn lan, lênh láng bất kể bãi bờ. Nó là tình cảnh dầu sôi lửa bỏng, nó là lúc dao đâm đạn nổ, là khi la hét thất thanh, là hồi rên siết khản cổ cho nên nó phải mau như hơi thở dồn, như nhịp tim gấp, cho kịp lúc cho đừng trễ làm như trễ có một chút là mất mạng như chơi. Ðọc anh có lúc muốn đứt hơi. Mà có đứt hơi cũng đã. Anh Ba Cận thị đã chịu chơi như vậy. Chẳng lẽ tôi thua anh sao?

Cái hơi văn đó đi liền một mạch, từ truyện này nối ngang qua truyện khác, liền lạc như đoạn kết của truyện trước là mở đầu cho truyện sau. Nếu được phép, không chừng tôi có thể nối hết lại để thành một truyện dài rất nhất thống, kể lại tuần tự cuộc đời của một ông trung đội trưởng điển hình trong cuộc chiến vừa qua. Mặc kệ tên Minh, tên Thanh hay tên Tấn gì gì đó. Sao tôi chỉ thấy có một người thôi. Người đã thay tôi đi trận, thay tôi thức đêm thức hôm, thay tôi lội suối lội rừng, thay tôi hứng đạn đội pháo, thay tôi rách thịt xước da, thay tôi ngẩng mặt cũng như thay tôi bò lết. Người đứng ngay đầu sóng để chắn con lũ, đứng ngay đầu gió để chặn phong ba. Người trung đội trưởng với chưa tới ba mươi người lính khổ mà gánh chuyện tày trời. Người trung đội trưởng đó đã đi suốt con đường thập giá của mình từ “Ngày đầu của một trung đội trưởng” và chấm dứt ở “Ban Mê Thuộc ngày đầu ngày cuối”. Khoảng giữa là cuộc quần thảo túi bụi với kẻ thù quỷ quyệt và cùng lúc chống đỡ đến phờ người với xã hội bất công. Là đêm kích ngoài bờ bụi. Là ngày di hành tất tả. Là xóm lục soát vô vọng. Là rừng đổ quân thất lạc. Là lệnh lạc bất kể. Là kẻ bỏ bầy. Là bầy “diều hâu” gãy cánh. Là những tháng ngày gầm thét bởi lửa đạn, mồ hôi và lệ nóng. Thời gian không dài lắm, đâu chỉ vài ba năm, mà tính ra cũng bằng cả thiên thu. Tôi đọc anh mà như trèo suốt một rừng gai. Mỗi truyện là một chảng ba nhọn lểu. Nó cào tôi đổ máu không ngờ. Anh cho phép tôi huê dạng chút đỉnh. Tôi đã rướm nước mắt chỗ này một ít chỗ kia một ít. Những giọt nước mắt chảy ra từ những sự thật đã bị giấu biệt đến nỗi muốn quên luôn. Cái sự thật méo mó như trái tim thương tổn của người lính rã hàng từ khi chưa thua trận. Làm như tôi còn nhận thêm được giữa những dòng chữ đó, cái tiếng kêu giải oan bay ra từ lằn đạn chót của người lính tử thủ ở địa đầu một thành phố sắp bị cưỡng chiếm. Còn nghe được lời biện bạch trong tiếng mở kíp trái lựu đạn cuối cùng của người lao công đào binh mới được phục hồi ở một cứ điểm sắp bị tràn ngập. Còn thấy được nỗi trần tình trong cặp mắt buồn bã nhưng quyết liệt của người tiểu đoàn trưởng trở lại chắn giữ bên này sông Hội An khi cả một thị trấn đã bỏ đi… Chữ nối chữ ròng ròng như máu phún ra từ vết thương hở miệng, cái vết thương hở miệng từ khi còn trận mạc cho mãi đến khi tiếng súng đã im, cái vết thương mưng mủ vì những xoi mói xúc phạm. Bởi vì nếu kẻ thù mà tung hê sát phạt thì cũng là điều dễ hiểu. Ðằng này nguyên một đám suốt cuộc đứng-né-bên-lề cũng nhảy vô khen chê trách móc. Dĩ nhiên không phải cái tập thể cả triệu-người-dưới-cờ đó hết thảy là toàn bích. Nhưng mà dù khó tính tới đâu người ta cũng phải nhận rằng cái phần hư hỏng đó chỉ là thiểu số. Còn đại đa số thầm lặng thì đã chiến đấu tận tình trong từng cảnh ngộ khó khăn và tuyệt vọng nhất. Anh còn nói được, chớ tôi còn biết rất nhiều người không nói được lời nào hết. Họ sống, chiến đấu và hoặc chết hoặc tù đày hoặc đang sống lây lất trong niềm kiêu hãnh lặng lẽ và cay đắng. Họ như những con sói của A. De Vigny, cho tới giờ này không thèm bật lên một tiếng kêu dù là một tiếng cười gằn trong cái thế giới khinh bạc này. Cám ơn anh đã kể lại chí tình cuộc chiến của họ bằng mực là máu đổ của anh và của họ, bằng bút là xương bể của anh và của họ, bằng ý là căn phần nghiệt ngã của cả một thế hệ thanh niên lớn lên từ năm 54 ở miền Nam, đã nhập cuộc dứt khoát và sáng suốt, đã tả xung hữu đột giữa trùng trùng kẻ địch, cộng sản, tham nhũng, bất công… chỉ để cho đất, trời và người của miền Nam còn được yêu thương và đùm bọc trong nhân nghĩa. Họ đã thất bại. Lý do tại đâu thì tôi chưa biết hết nhưng chắc chắn không phải là vì sự đớn hèn, tinh thần trách nhiệm và lòng hy sinh không tính xuể của họ.

Ðã có lần tôi đọc ở đâu đó có người bảo rằng chúng ta đang sống trong một thời đại của những kẻ nói láo. Dường như họ rất có lý khi nói như vậy. Ðừng nói đâu xa. Trên đất nước mà chúng ta đã phải bỏ đi dù ai cũng thương đứt ruột, chắc tai ai cũng đã đầy những lời gian dối. Nếu trong thời buổi chiến tranh, người ta đã thi nhau léo lắt để gạt gẫm, lừa đảo bao nhiêu thế hệ anh em vào chỗ hận thù, thì mãi đến khi tiếng súng đã im, người ta vẫn không thôi láo khoét. Cái dã tâm ngụy tráo của một nhà văn phái nữ được gọi là “đổi mới” đã có lúc được người “trí thức tiến bộ” ở bên này sùng bái đến độ thiếu điều bợ lên thay chỗ cho tượng Nữ thần Tự do ở bến cảng Nữu Ước là một thí dụ điển hình. Tôi vẫn còn ngạc nhiên trước thái độ ngụy tín đến trân tráo của họ. Làm như họ cho rằng cái số phận cay đắng của đám anh em khốn khổ của tôi như vậy là chưa đủ, những chết chóc, tù đày như vậy vẫn chưa vừa, cho nên chỉ chờ khi có kẻ dựng đứng sự thật bôi xấu người bại binh oan ức là nhào vô vỗ tay ăn có. Ðúng ra cái chuyện dựa thế mạnh vẫn là thói của kẻ tiểu nhân nhưng mà nghĩ ra đức của người quân tử thời này sao hiếm quá anh hả. Bởi vậy mà tôi càng hả dạ khi thấy anh đem cái chuyện của anh và bạn bè anh ra nói. Mà nói rất thật. Chẳng thèm thêm bớt. Anh chỉ trả sự thật lại cho sự thật. Có sao nói vậy. Chữ nghĩa ở tại lòng. Nếu trước đây trong chiến tranh anh đã chiến đấu từ một phía thì bây giờ giữa văn chương anh đang chiến đấu về phía của sự thật. Cho nên tôi tin anh và thấy mình quá bội bạc. Ðất nước tôi cần hết thảy mọi người mà sao có quá nhiều người thờ ơ đến vậy. Chuyện đâu phải chuyện riêng mà sao cứ đổ hết lên đầu một nhóm nhỏ. Họ đã chiến đấu thật lòng, chỉ tại có những quyền lực lớn hơn họ bội phản. Bây giờ còn đổ lỗi cho ai. Bởi vậy làm sao tôi không sống thật cùng anh cho đành?

Ðó là tôi chưa nhắc đến mấy đoạn anh lầm thầm một mình, hoặc tán gẫu với tên tà-lọt đã chết, hoặc thủ thỉ với một người tình giấu mặt nào đó, chẳng ăn nhằm gì tới cái chuyện đang bắn đang giết. Chỗ này không chừng mấy ông phê bình khoa bảng sẽ nhăn mày nhíu mặt vì bị hụt đỏi. Tôi thì khoái. Tôi thấy nó mới nhân ái làm sao. Tôi thấy bi tráng lắm cái lần anh kê súng thúc lưng người khinh binh đi tới, khi tình thế ngặt nghèo, và rồi cũng chính anh kêu Nồi ơi, Tròn ơi thảm thiết khi mấy tên ô-đô, truyền tin đó bị pháo dập banh ruột. Ðọc thử mấy câu này coi có phải là vòng nguyệt quế đuợc ném theo vào cõi mênh mông cho những người lính vô danh sống không ai biết chết chẳng ai hay. Trí ơi, mày học trường nào mà ca dao tục ngữ đầy bụng. Mày vừa hút thuốc, vừa nghe hay báo cáo trong máy truyền tin… Bởi mày là linh hồn của đơn vị. Mất mày có nghĩa là mất hết… Tao suy tôn mày. Bởi mày theo nhiều ông chỉ huy khác, tài giỏi hơn tao, can đảm hơn tao… Mày rút kinh nghiệm từ mấy ổng, để truyền lại tao khi tao cần đến, nhắc tuồng tao khi tao quên. Mày tỉnh bơ khi tao bụng đánh lô tô. Mày cười lộ răng vàng lấy lòng tao nhờ tao viết thư tình tán gái… Nghe sao mà vừa bụng quá đỗi. Những lần độc thoại thêm nhưn thêm nhị cho chuyện bắn giết giảm bớt cái phần gai góc sù sì, máu me bê bết. Nó làm cho truyện của anh cận nhân tình lên gấp bội. Cứ nghe cách anh nói với những người đồng đội mà thấy anh yêu thương cái tập thể đó biết bao nhiêu dù chỉ là một kết hợp vô tình. Từ ông trung sĩ già đến anh khinh binh tiền sát, tất cả gom lại giả bộ cho anh chút hơi ấm gia đình mà anh phải để lại sau lưng. Vậy mà rồi liền còn hơn khúc ruột nữa. Bởi vì đó là thằng em đã bẻ lá giang nấu cho anh tô canh trong chiều dừng quân mệt lả, là đứa canh đêm cho anh giấc ngủ chập chờn, là tên ô-đô trung thành đã cõng anh thương tích qua truông qua phá, mà cũng là kẻ anh phải dấn đẩy vào chỗ chết. Làm sao mà diễn tả được hết khúc nhôi của thứ tình cảm kỳ cục đó. Tôi chỉ thấy đó là những đoạn văn đẹp nhất bởi vì đã được viết ân cần nhất. Làm như chỉ có những khi anh được dịp tâm sự với đám lính ba gai (dù chỉ là độc thoại, chớ anh đâu thể lộ vẻ yếu mềm trước kẻ dưới tay) cũng như khi rù rì rủ rỉ với mấy cô nàng rắn lục, anh mới là anh, thực sự là anh, người thanh niên lãng mạn, yêu người và yêu đời tha thiết mà vẫn phải làm ra vẻ lãnh đạm, phản kháng mà vẫn chấp nhận, tuyệt vọng mà vẫn chiến đấu. Tội nghiệp cho anh với mớ dằn vặt không thôi như mấy đường chỉ tay chạy ngoằn ngoèo đến chết cũng không ra khỏi cái lòng bàn tay chai sạn. Ðây có phải là lời của một kẻ tình si muôn thuở không? .. Ðêm nay cũng vậy. Khi trời tối hẳn, trung đội bắt đầu băng đồng tiến về gò mả. Lạnh. Trời lạnh rồi. Em yêu dấu. Em của đành đoạn, của vô tâm, muốn quên mà vẫn nhớ… Ðọc tới đây tôi thấy thương anh quá cỡ. Súng ống đeo đầy mình, muốn bắn muốn giết thì lúc nào cũng được mà cứ hễ nhớ thương thì cứ chỉ vò võ một mình. Người yêu ở đó, dưới mấy tầng sao đó, giữa phố đèn xanh đỏ đó, cách đâu mấy đoạn sông thôi, mà người thanh niên đang ở tuổi yêu đương cứ phải nín thương nín nhớ để “đáp lời sông núi”. Sông núi chi mà bất nhân thất đức cứ đày đọa đám con mọn. Thanh xuân đâu có kiên nhẫn như cái đám lính kích đêm mà biểu chờ biểu đợi. Thanh xuân là người tình vốn có tiếng chẳng chịu thủy chung. Ðã có bao nhiêu cuộc tình hụt hơi bỏ lại dọc đường. Rốt cuộc chỉ có đám người đi trận là thiệt thòi nhất. Cho dù những người qua cầu năm xưa chắc gì nhớ đến đám gác cầu. Những điều anh nói đã thành tiên tri. Vâng, người ta chịu quên lắm anh. Có người con gái nhung lụa nào chịu vá giùm tấm áo trận rách… Tôi thích cái tánh nói thật của anh dù nghe ra sao thấy bẽ bàng.

Cho dù lịch sử đau bầm dập.

Thơ của anh đó. Câu thơ như một cái tát đột ngột, nó làm tôi choáng váng. Tôi đã nói là tôi có làm thơ. Mà làm thơ lịch sử nữa mới chiến. Có lúc tôi mê hoảng như lên đồng bóng, làm không biết mệt một mạch gần ngàn câu để tìm cách nói lại cái chuyện oan ức của một dân tộc. Làm xong, phải nói thiệt là đọc đi đọc lại tôi thấy “đã” lắm. Tôi tưởng như mình vừa làm được chuyện để đời, thiếu điều “viết vào giấy dán ngay lên cột”. Vậy rồi trời xui đất khiến cho tôi lọt ngay vào cõi thiên la địa võng của thơ anh. Cho dù lịch sử đau bầm dập. Trời ơi đọc có một câu thôi mà tôi cảm như bị mấy trăm cơn gió lạ trúng vào người cùng một lúc. Cho dù lịch sử đau bầm dập. Tôi đọc có một câu thôi mà thấy cả mấy trăm năm lịch sử ùa về. Mà thiên cổ thức dậy cùng muôn họ. Mà giáo gươm loang loáng giữa cờ xí rợp trời. Mà trống thúc chiêng kêu inh ỏi. Ðọc có một câu thôi mà tôi thấy máu xương vô định. Mà tai tôi bỗng ù ù gió thổi. Mà mặt mày tôi trăng dõi dõi soi. Ðọc có một câu thôi mà tôi thấy rõ ràng cái ngày hai anh em ông Trịnh Kiểm Nguyễn Hoàng bày đặt chơi trò chia dân chia đất. Và từ đó lịch sử đau bầm dập. Và từ đó cha mẹ khóc con, vợ khóc chồng, anh em khóc nhau. Ðọc có một câu thôi mà tôi thấy con sông Bến Hải. Và từ đó lịch sử đau bầm dập. Và từ đó súng nổ dao đâm. Và từ đó trại tù mọc nhanh như nấm dại. Và biển Ðông. Và thân ta và hồn phách ta tiêu vong. Vâng, tôi đã sững sờ như vậy, tôi đã ú ớ như vậy khi tình cờ đọc được câu thơ của anh. Cho dù lịch sữ đau bầm dập. Và thành quách kia, rêu phủ đoạn trường. Tôi không biết anh ra chơi Huế ngày nào, và giữa mấy vòng thành rêu xanh dầy mịt, anh đã thấy gì mà làm thơ dữ dội đến vậy. Thơ nặng chịch mà thống thiết như khối đá lì mặt. Nặng như cả cái khối máu xương nó chứa trong đó. Và thống thiết như cả cái khối u hồn lởn vởn quanh đó. Ðọc thử lên nghe cái âm vang kỳ lạ lắm. Cho dù lịch sử đau bầm dập. Có nghe tiếng âm âm trầm trọng của nó không? Ðau bầm dập. Phải chi nó bầm thôi thì chỉ xuýt xoa cũng đủ. Hoặc là dập nát luôn cho rồi thì cũng là chỉ một lần. Không, lịch sử quái ác lắm. Lịch sử cứ hay chơi trò lập đi lập lại, tái diễn hoài không biết mệt. Cứ như thú dữ giỡn mồi, vờn qua đảo lại phóng tới chụp lui cho đã đời, tung lên hứng xuống cho bầm dập rồi mới há miệng cắn phụp. Chớ không phải sao. Dòm lại anh em ta, bà con ta coi có phải. Mấy cái truyện của anh về người lính trận nếu không bầm dập thì là gì nữa. Ông Tư chèo đò, cô gái tìm chồng, hai mẹ con ở đầu phi trường Phụng dực… nếu không bầm dập thì là gì nữa. Một câu thơ thôi anh, anh làm tôi bật ngửa. Rồi nín luôn, cái dòng thơ của tôi. Bởi vì đâu cần nữa. Ðủ rồi. Tôi có khiên cưỡng cũng chỉ là dông dài. Mà thơ thì dông dài làm chi cho mệt. Thơ là gom, là đọng, là gói hết trăm năm vào một chữ. Thơ là ngưng, là tịnh mà nhốt cả gió bão vào một câu. Ðủ quá rồi anh.

Cho dù lịch sử đau bầm dập.

Cám ơn anh, thơ văn anh giống y như anh vậy. Cạn lòng. Ráo dạ. Tôi hãnh diện khi thấy đời tan hoang như vậy, mà anh vẫn giữ được cái hùng tâm của lính trận một thời, để lại “lên đường” lần nữa. Anh đâu còn trẻ, nhưng đầu bút anh cứ vẫn cương cường. Thơ anh viết ra, văn anh viết ra là lòng anh trải ra muôn dặm. Cho người cho đời.Trước đó anh đã cầm súng, bỏ súng rồi thì anh cầm bút. Ðã có lúc anh tìm cách bứt ngang nhưng rồi có được đâu. Người ta không kéo anh lại thì chính anh cũng quày trở lại. Ở ngoài cuộc anh thấy không yên lòng cho nên anh đâm đầu trở vô. Sao tôi thấy không phải tại cái mớ quyền lực bên ngoài thúc ép mà là do chính cái quyền lực bên trong xô đẩy. Anh đào ngũ rồi anh tái ngũ. Chỉ tại anh không chịu bỏ anh em chết chóc một mình. Bây giờ ai xúi biểu gì anh mà anh thức đêm thức hôm để viết. Mà anh chịu đau chịu khổ để viết. Chắc cũng chỉ vì anh muốn bạn bè anh bớt cô đơn. Ma-đưa-lối-quỷ-đưa-đường. Cứ-tìm-những-chốn-đoạn-trường-mà-đi. Anh đâu chịu bỏ cuộc chơi. Dầu là những cuộc chơi rất đỗi đoạn trường.

Nghĩ cho cùng thì viết lách cũng là trò chơi đoạn trường đó. Mà nhất là cái kiểu không thèm chơi chịu.

Chơi hết mình. Chơi xả dàn. Chơi cạn vốn. Lính tráng, anh chơi kiểu lính rừng-tàn-núi-lở. Ðánh trận. Xung kích. Thương tích. Ðào ngũ. Nhậu nhẹt. Gái ghiếc. Văn chương, anh chơi kiểu văn chương bạt mạng. Viết văn. Làm thơ. In ấn. Trét keo. Dán bìa. Bưng gởi bốn phương. In thơ miễn phí cho người này. In sách giới thiệu cho người khác. Viết như mai không còn viết nữa. Làm thơ như thể sắp bị cướp mất giấy mực. Thấy mà mến mà phục mà cũng muốn hăng theo anh.

Tôi sẽ nói thế nào về anh, người trung đội trưởng cũ. Không chừng bắt chước câu nói của một danh tướng thời nay, có được chăng?

“những người lính già có chết đâu, họ chỉ lịm dần đi… như mấy đốm sao”    

Cao Vị Khanh

 * Tựa và các chữ in nghiêng trích từ thơ văn của Trần Hoài Thư

Tạp Chí Dân Văn Phân Ưu Nhà Văn Trần Hoài Thư


Tạp Chí Dân Văn nhận được tin buồn:

Nhà văn Trần Hoài Thư,
tức Huynh Trưởng Trần Qúi Sách, K24SQTĐ.
Sinh năm 1942.
Đã tạ thế ngày 27-5-2024 tại New Jersey, USA.
Thượng thọ 82 tuổi.

Thành kính chia buồn cùng cháu, BS Trần Qúi Thoại và tang quyến.
Nguyện cầu hương linh Huynh Trưởng Trần Hoài Thư sớm về cõi Niết Bàn.

Đồng kính bái.
Germany, ngày 28.05.2024

- Lý Trung Tín, Chủ Nhiệm Tạp Chí Dân Văn.
- Tô Ly Hương, Chủ Bút TCDV.
- Đặng Quang Minh, Tổng Trị Sự TCDV.
- GĐ Lê Thanh Tùng, TĐ51LĐ6BĐQ/QLVNCH - K25SQTĐ, Bochum, Germany.
- Nguyên Đại Úy Kỵ Binh Nguyễn Thiện Tường, Orlando, Fl, USA.
- GĐ Thông Gia Tạ Chí Thiện, Germany.
- Thi Sĩ Yên Sơn, Houston, Texas, USA.
- Thi Sĩ Lâm Hoài Vũ, Italy.

Thứ Tư, 29 tháng 5, 2024

Chiều Mưa Bong Bóng - Thơ Phan Khâm - Nhạc Vĩnh Điện - Tiếng Hát: Diệu Hiền


Thơ: Phan Khâm
Nhạc: Vĩnh Điện
Tiếng Hát: Diệu Hiền

Hình Như



Đêm qua tiếng lá trở mình
Con tim xao xuyến bảo hình như yêu
Vầng trăng xẻ bóng cô liêu
Bốn bề vắng lặng thêm nhiều xót xa
Cớ gì hình bóng người ta
Âm thầm lặng lẽ vào ra tự tình
Đêm qua tiếng lá trở mình
Con tim xao xuyến bảo hình như yêu

Kim Phượng

Nắng Thu



(QYV Trương Bá Hân 1973)

Ôi nắng gắt bên thềm lở lói,
Bức tranh nghèo mòn mỏi cô-đơn!
Điệu nhạc buồn như oán như hờn, 
 Nơi phố nhỏ trăng lùa ngõ vắng.

Chiều nay sao lòng ta rung động, 
 Gót thời gian ôm ấp muôn loài
Tim ta ray rứt nỗi ước ao,
Nghe đứt ruột, loài người từ chối.

Lá giăng
giăng, giày khua rẽ lối,
Nét u-hoài gắn chặt vành mi!
Quán trọ buồn sờn áo Treilli
Thương xóm nhỏ âu sầu khôn tả!

Chiều Bệnh-viện, nắng rây buồn qua kẽ lá,
Gió ngập ngừng trên mái ngói cong cong.
Niềm đau thương không thể cầm lòng,
Ôi chiến trận, mồ chôn thế-hệ!

Trong doanh trại những người còn lại,
Những con người chẳng phải nên người.
Nắng thu về xoáy nát lòng tôi,
Người chăm bệnh mỏi mòn năm tháng!

Nắng thu ơi, thôi đừng mơ mộng,
Hãy bắt tay lay chuyển gió chiều.
Người lành xin hãy thương yêu,
Người ác lưới trời định đoạt!!

Tô Đình Đài
 

Tìm Hướng - Seek Refuge - Chercher Refuge (Lưu Nguyễn Đạt)

 

hỡi người bạn tha phương
xin chào mừng thăm hỏi
hỡi con chim tìm hướng
hãy đậu lại thảnh thơi

hỡi luồng gió bến trời
nhớ tìm về lá ngủ
chờ ngàn giọt sương thu
nhập dòng sông vời vợi

hẹn cánh hoa trong mơ
dưới mưa trăng hé nở
hẹn đêm linh giăng tơ
nhuộm cõi biếc xanh mờ

nhớ người tình tri ân
bên kia dòng sông mặn
từ nguồn mắt xa xăm
mùa xuân nào khơi đậm

hỡi người yêu hôm nay
hãy để hồn thức dậy
từ cõi nhớ thoáng phai
trong lòng xưa sống lại

 ***
Seek Refuge

o friend scattered throughout the world
hello and compliment
o bird in search of refuge
perch quietly

o breeze of heaven

try to find the leaves of asylum
wait a thousand drops of dew
fill the river with wonders

inviting the petals of dream

to blossom in the moon rain
and the celestial soul to stretch from silk
to tint this realm pale blue

remember the charming lover

on the other side of the salted river
from this gaze of a distant source
with the spring of dazzling blossoming

o lover of today
let your soul awaken
from this scarcely etiolated world
to be ecstatic again at the loves of yesteryears

***
Chercher Refuge


ô ami dispersé dans le monde
bonjour et compliment
ô oiseau en recherche de refuge
perche-toi tranquillement

ô brise du ciel

essaie de trouver les feuilles d’asile
attends mille gouttes de rosée
remplir la rivière à merveilles

invitant les pétales de rêve
à s’épanouir sous la pluie de lune
et l’âme céleste à s’étirer de soie
pour teinter ce domaine bleu pâle

souviens-toi de l’amoureux charmant
à l’autre côté de la rivière salée
de ce regard de source lointaine
au printemps de floraison éclatante

ô amante d’aujourd’hui
laisse ton âme se réveiller
de ce monde à peine étiolé
pour s‘extasier à nouveau aux amours d’antan

Lưu Nguyễn Đạt

Có Ướt Cũng Khôn Cùng!

 
(Bát Sách, Phạm Xuân Hy, Lê Bình Phương - Hình ảnh Bát Sách gửi)

‘’ Em không biết Phạm Xuân Hy à? Tay này nổi tiếng, chuyên trị chữ Hán, viết nhiều bài khảo cứu, dịch thuật vv Nó là bạn anh, nhà gần đây thôi, không biết bao nhiêu là sách Tàu, mà toàn là sách quý . Em đi với tụi anh đến đó đi, có hẹn thì cứ về sớm. Đến đi ! Nó cũng ‘’biết’’ em nữa! ‘’. Anh Cửu Vạn nói với tôi như thế, khi tôi xin phép hai anh : Cửu Vạn và Bát Sách về lại nhà .

Sáng thứ ba rồi, 21/5, như đã hẹn với anh Bát Sách, tôi lấy xe lửa từ ngọại ô lên Paris ‘’ra mắt’’ ông anh từ Montréal mới sang ! Gọi ‘’ra mắt’’ vì, từ 5,6 năm nay, dù trao đổi email thường xuyên nhưng anh em chưa gặp nhau bao giờ. Năm 2019 khi anh sang đây, thì tôi bận chuyện, không đến chào anh được. Rồi vụ đại dịch Covid ….

Anh Bát Sách hẹn anh Cửu Vạn và tôi, 11h30, 21/5, tại khách sạn anh chị ở, gần Porte d'Italie. Hôm đó lại là ngày mấy bố công đoàn CGT, Sud Rail của ‘’SNCF’’, Société nationale des chemins de fer, tôi gọi đại là ‘’Cục … đường sắt‘’, rầm rộ đình công, để thị uy với ban lãnh đạo, trước khi bước vào cuộc thảo luận tăng lương. Chưa biết được tăng bao nhiêu nhưng đình công trước cái đã! Vả lại, sẳn có thứ hai nghỉ lễ Pentecôte, ngu sao không làm luôn cái thứ ba cho có cái cuối tuần 4 ngày đi chơi?! CGT mờ!

Nhờ công đoàn CFDT chiếm đa số, nên RER phía tôi ở không bị ảnh hưởng nhiều (2/3 train), nhưng tôi cũng cẩn thận, thổi xôi, cụ bị hành lý, 9 rưởi đã ra khỏi nhà. Chờ tới, đợi lui, tà tà, thì 11h đã đến khách sạn. Không dám làm phiền anh chị, tôi ngồi đợi trong phòng khách.

‘’Thủa chờ đợi, thời gian chưa rét mấy’’ thì 15 phút sau đã nghe một giọng Bắc kỳ.. Pháp hỏi cô tiếp viên khách sạn, xin gặp ông bà Nguyễn từ Montreal mới sang. Mừng quá, tôi bước ra bắt tay đại ca Cửu Vạn, miệng cười tươi hỏi : ‘’anh nhớ … em hông? ‘’. Thấy anh hơi ngần ngừ, tôi nhắc đã gặp anh chị hai lần, ở nhà anh Chín tôi, khoảng 96, 97 gì đó (?) , lúc anh Phan Nhật Nam ghé dùng cơm chiều .Hôm đó có nhiều anh chị khác nhưng tôi đặc biệt nhớ vì mới gặp anh, anh Nam đã nhận ra liền ‘’T. hở? Lâu quá không gặp! ‘’. Tôi tưởng anh Cửu Vạn cũng là ‘’thiên thần mũ đỏ’’. Nhưng không, chàng là ‘’thiên thần áo trắng’’, quen anh Nam lúc cùng học mấy ‘’saut Nhảy Dù’’! Lần gặp sau, nghe anh Nam kể lại, khuya đó, anh Cửu Vạn tình nguyện đưa bạn về, không ngờ chạy … lạc tùm lum, khuya lơ, khuya lắc mới về nhà!

Cửu Vạn, Bát Sách: nghe tên là biết ngay đó là những người có ‘’bàn tay 5 ngón kiêu .. xoa’’. Nhưng ’’xoa’’ chỉ là giải trí, nghề chính của hai chàng là ‘’ cầm ống nghe, ống chích vv ’’. Không biết các phân khoa khác thì sao nhưng có vẻ mạt chược là môn giải trí được Y giới ‘’phe ta’’ chiếu cố rất tận tình, đến đổi , trên diễn đàn ‘’svqy.org’’ ( sinh viên quân y) có đăng bài của GS Tô Đồng chỉ dẫn ‘’ Cách chơi Mạt Chược’’!

Mà không chỉ dân ‘’áo trắng’’, giới ‘’kaki’’ cũng nhiều người thích xoa. Trong quyển ‘’ Tướng Phạm văn Phú và những trận đánh’’ (1988), Thiếu tá tùy viên Phạm Huấn kể lại, đêm 9/3/1975, sau một ngày chỉ huy vất vã, khoảng 12h đêm, tướng Phú tự thưởng cho mình, cùng 3 thuộc cấp thân cận, một tẩy mạt chược trong ‘’bunker’’ chỉ huy. Tẩy mạt chược cuối đời ông !!!

Cửu Vạn và Bát Sách là hai đàn anh tôi! Đàn anh thôi, không ‘’niên trưởng’’, bởi vì hai anh trong ‘’corps médical’’, tôi bên Kỹ -Thuật. Năm hai anh ra Bác Sĩ (Sài Gòn) thì tôi chưa vào trung học! Hai anh học chung khóa, ra trường cùng năm, lại ăn rau muống Chu Văn An ngày xưa (dường như anh Bát Sách học đệ nhất ở Petrus?)! Ở tuổi 8 bó mấy que này, hai anh vẫn tình bơ ‘’mày tao’’ như ‘’ngày xưa còn bé ‘’!

(Bát Sách, Hà Mạnh Tuấn, Lê Bình Phương - Hình ảnh Bát Sách gửi)

Ông Cửu Vạn, Quân y từ đầu, trước 75, làm ở Tổng Y Viện Cộng Hòa ( nói ‘’Trung Tâm Tiếp Huyết’’ thì nghe ‘’gần gủi ‘’ hơn) trong khi anh Bát Sách là Đại Úy Quân Y Thiết Giáp, ‘’đàn em’’ Đại Tá Thiết đoàn trưởng Kỵ Binh Trần văn Thoàn ( Khóa 10 Đà Lạt), sau về làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5, phụ tá tướng Lê Nguyên Vỹ! Lúc ông Thoàn còn sinh tiền ( trước 9/2018) , mỗi lần sang Paris, anh Bát Sách đều ghé thăm ‘’Sếp’’. Anh bảo ‘’khó ai mà có được cái giao tình như giữa Đại Bàng Đại Tá và Đại Úy BS Mũ Đen’’. Nếu anh Bát Sách là ‘’người di tản buồn’’ ngày cuối tháng 4, thì anh Cửu Vạn là ‘’kẻ vượt biên sầu’’, sau mấy năm tù đày, vượt biển, được tàu Ý vớt (1980 ?) nên định cư tại Ý nhưng sau đó, vì ngán ăn ‘’mì ống‘’ (?) nên lại … ‘’vượt biên’’ lần nữa , sang Pháp tìm lại đồng môn, thầy cô Y giới, trở lại nghề!

Anh Bát Sách thì tôi ‘’biết’’ nhiều. Anh là một trong những tay viết gạo cội trong Y giới Canada. Cái trí nhớ tuyệt vời và những dòng chữ duyên dáng của anh, đã làm cho mục ‘’thư-tín’’ và ‘’tin tức mình’’ trong Tập San Y Sĩ Canada là những mục, với tôi, lôi cuốn nhất ! Như ông Hiếu Chân Nguyễn Hoạt với ‘’Chuyện Hàng Ngày’’, sau đổi thành ‘’Nói hay đừng ‘, với sự tiếp tay của các ông Đái Đức Tuấn, Hà Thượng Nhân ( ông Hà gọi là ‘’Nứng hay đòi ‘’!!) trên tờ Tự Do ( đệ nhất Cộng Hòa), hay như các ông ‘’Lô Răng’’ Phan Lạc Phúc, mục ‘’Tạp Ghi ‘’ trên ‘’Tiền Tuyến’’, Mai Thảo với ‘’Sổ Tay ‘’ trên Văn vv Trước đó, khi còn là sinh viên, anh đã có những đóng góp trên nguyệt san ‘’Tình Thương’’ của sinh viên Y Khoa với bút hiệu Yên-Thảo ( Yên ở đây là nói về quê anh , không phải ‘’Yên thảo như bích ty / Tần tang đê lục chi’’) . Anh và tôi thường hay liên lạc nhau qua email. Lá ‘’thư’’ nào của tôi cũng được anh hồi âm, khích lệ. Không những thế, đôi lần, anh còn viết cho tôi mấy dòng ‘’tâm sự’’. Em cám ơn anh, anh Bát Sách!

Anh Cửu Vạn thì khác. Mấy lần gặp trước, do có nhiều người , nên anh em không có dịp chuyện trò nhau . Tôi nhìn anh chị , chỉ biết ‘’kính nhi viễn chi’’! Lần này, gặp lại, thì anh rất là cởi mở với thằng đàn em mà anh tưởng là mới gặp lần đầu. Anh nói chuyện vừa vui, vừa tình thật, khiến người đối diện, là tôi, không cần phải ‘’giữ kẽ’’! Lúc anh em đứng riêng, tôi nói với anh Bát Sách:’’Anh T., cao ráo, đẹp trai, duyên dáng thế này, ngày xưa chắc bao nhiêu là ‘’hoa đào’’ rơi rụng trên con đường của BS ‘’đào hoa’’? Anh Bát Sách cười cười, không nói ‘’No No’’ nhưng tôi biết ngay là ‘’Yes Yes ’’!

Trò chuyện một tí ở khách sạn, anh Cửu Vạn mời ăn trưa . Anh hỏi ông bạn Bát Sách: ‘’mày muốn ăn đồ Tây hay đồ Tàu‘’? – Đồ Tây đi, thay đổi không khí tí! Thế là ông Cửu Vạn dõng dạc: ‘Vậy mình đi ăn brasserie, chỗ này tao biết rành. Chủ quán lẫn … tiếp viên! ’’.

Ông Cửu Vạn, không biết làm sao mà phải mổ đầu gối (xiết vít lại?) cách đây mấy tuần. Ông kéo (ống) quần lên, triễn lãm cái vết sẹo làm tôi quợn quá! Lúc anh em ngồi nói chuyện ở khách sạn, anh bảo :‘’ Bây giờ anh chỉ nhìn đời bằng nửa con mắt. -? - Con kia, đúng lý, phải mổ cataracte nhưng anh còn ngần ngừ, sợ thành Văn Vĩ mà không kéo được đòn cò thì thảm lắm! ‘’. Ông Tôn Tẩn ‘’TYV Cộng Hòa’’, tuy ‘’lờ mờ nhân ảnh’’ nhưng lái xe rất chiến. Đã vậy, ông bảo tôi: ‘’Kéo dây nịch làm quái gì? Anh lái là OK’’. Mà OK thật, sau mấy phút lạng qua, lạng lại, xe đã xuống parking Paris Store. Chúng tôi lên tầng trên, băng qua đường, sang khu Massena, đến ‘’brasserie-của-anh-Cửu’’ dùng trưa!

Khi vào nhà hàng, ‘’cái ‘’ làm tôi chú ý, không phải là cái không gian, số thực khách. Mà là cô … serveuse người Hoa nhưng nói tiếng Việt rất sỏi: một ‘’thiếu nữ thân gầy’’, độ chừng ‘’bốn mí’, nhan sắc trên trung bình, nói năng rất tếu, rất…‘’thoáng’’! Anh Cửu Vạn giới thiệu cô tên Lili. Lili? (J’t’aime bien Lili pour tous les livres que tu lis .... / Philippe Chatel). Nhờ đi với ‘’khách quý’’ nên chúng tôi được cô serveuse phục vụ rất tận tình, vui vẻ. Muốn gì có nấy. Cám ơn ông anh !

Anh Cửu Vạn kêu cái ‘’entrée’’ giả-cua với ''avocat'', anh Bát Sách và tôi kêu chung một dĩa nhỏ charcuterie, nhấm nháp với rượu đỏ. Món chánh của hai anh em là ‘’đùi vịt’’ (confit de canard) trong khi anh Cửu Vạn ‘’chơi’’ thịt bò (‘’bầm’’) tartare. Khi dọn ra, anh ‘’Chín’’ (Cửu) khiếu nại ‘’thiếu trứng’’, Lili cười cười ‘’ trứng đập pha với rau rồi, … anh ơi ‘’. Thế là chàng nín thinh, ‘’nắng chia nửa bãi chiều rồi’’, ăn đỡ! 3 anh em ăn ít, lại uống không nhiều (tôi thích uống rượu nhưng ‘’rượu vào thì … mắc cỡ’’, sợ quê với … Lili) nên khi tàn bữa, ‘’bỏ mứa’’ hơi nhiều, chẳng có gì ‘’nam thực như hổ‘’ cả! Lúc Lili dọn bàn, để đánh trống lảng, tôi xin 3 cái xây-chừng cho tỉnh táo ! Tôi dành cho ‘’pourboire’’ (khá hậu hỉnh) cho Lili. Tôi bảo với cô hàng ‘’cà (brasse)rie’’, rằng: ‘’ Tôi..’’bo’’ dùm cho ông anh tôi lần tới luôn, đấy nhé!‘’

Trong bữa ăn, qua hai ông anh, tôi nghe được nhiều chuyện. Chuyện học trò , chuyện Lính Tráng . Chuyện thủa Sinh Viên, chuyện thời tị nạn. Chuyện người hùng chống ‘’tham nhũng’’ HTN, chuyện di tản ngày 30/4 vv !!! Anh Cửu Vạn nói về những kỷ niệm với thầy Nguyên Sa lúc mới về VN, về bài Triết giảng sơ sơ xong, thầy rút túi đọc ‘’Cần Thiết’’ ( Không có anh , lấy ai đưa em đi học về…) cho cả lớp nghe ( Có phải nhờ thầy Lan, mà dân Chu Văn An: nhiều người nổi tiếng thơ văn?). Anh Bát Sách kể lại ngày cuối tháng tư, Cần Thơ di tản vv! Tôi nghe, ngoài miệng tuy cười, nhưng trong lòng buồn nẫu ruột: ‘’Tuổi trẻ anh em mình, sao khổ quá, mấy anh?!!!‘’.

Phê pháo xong xuôi, khoảng 14h hơn, ra khỏi nhà hàng, anh Cửu Vạn bảo‘’giờ mình đi thăm thằng Hy’’. Nghe tôi xin phép về nhà vì có hẹn thì anh phán ‘’… Cứ đi với tụi anh đến đó đi, có hẹn thì cứ về sớm. Tới nhà nó coi sách Tàu! ’’. Nghe tới sách là tôi ‘’ anh đi đâu thì em theo đó’’.

Nhà anh Hy gần khu Massena, anh em đi bộ, mấy phút đã đến. Lên đến tầng 7 của cao ốc, sau khi lòng vòng trong bát trận đồ, chúng tôi chỉ thấy số ‘’2071’’. Anh Cửu Vạn rên ‘’nó bảo 1071, mà thật ra, là 2071 ‘’, nhưng khi nhấn chuông, thì quả là anh Hy nói đúng! Anh Cửu Vạn xin lỗi em đầm 2071, rồi theo anh Bát Sách và tôi qua phía ‘’bên kia’’, nơi có số ‘’1071’’!

Mở cửa đón chúng tôi là một.. ông anh đội mũ len, vóc dáng ‘’tiên phong, đạo cốt’’, niềm nở mời khách vào. Anh Hy (1939), tóc bạc phơ, người mảnh khảnh, nói năng nhỏ nhẹ, chậm rãi,cái ‘’accent’’ Bắc-kỳ-9-nút của anh khác với cái ‘’accent’’ BK của anh Cửu Vạn và Bát Sách! Dù chúng tôi nói mới uống cà-phê ở tiệm … ‘’ Lili’’, nhưng anh Hy cũng vào bếp lui cui một tí, rồi bưng ra một mâm cà phê, với 4 cái bánh hạnh nhân.

Chủ khách vừa phân ngôi, anh Hy đã lấy quyển tiểu thuyết dã sử ‘’Mỹ Nhân Tự Cổ Như Danh Tướng’’ của anh Hoàng Xuân Thảo (BS Nhảy Dù Hoàng Ngọc Khôi: 1931-2021): 12 chương, mỗi chương có lời bàn của anh Bát Sách và thơ cảm đề của anh Trần Xuân Dũng ( BS Thủy Quân Lục Chiến :1939-2023), để sẳn trên bàn, với mấy trang giấy in. Anh cám ơn anh Bát Sách đã cho anh có cơ hội để ‘’trở lại’’ câu ‘’Mỹ Nhân và Danh Tướng’’. Không phải kiểu Thúy Kiều & Từ Hải, mà là kiểu ‘’ thứ phi Đặng thị Huệ và Chúa Trịnh Sâm: ‘’mỹ nhân tự cổ như danh … ‘’Chúa’’ / Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu’’. Tại sao lại mang mỹ nhân so sánh với danh tướng? - Anh Hy lấy tờ giấy đã in, đọc, giải thích . Ngồi kế bên anh, tôi mới thấy rõ toàn chữ ‘’Tàu’’! Đây là lần đầu tiên, ngoài ông … Ngoại tôi (1883-1967/ Nho học lẫn Tây học), tôi chứng kiến một người Việt ( không phải gốc Chợ Lớn) dịch chữ Nho vanh vách!

Khi anh Cửu Vạn hỏi ‘’Em không biết Phạm xuân Hy à? ‘’, thì quả tình tôi không biết ! Mà tôi không biết cũng … phải! Sang Pháp cuối 79, phải ‘’đi lại từ đầu’’, lại ở tỉnh nhỏ, tôi không có nhiều thời giờ và điều kiện để mua sách Việt, đọc sách Việt. Chỉ lúc đi làm, dọn nhà lên gần Paris ( cách 50km), tôi mới có dịp, thi thoảng lên ‘’khu 13’’, đi chợ Tàu, mua sách Việt (văn chương, chính trị). Mà anh Phạm xuân Hy thì chuyên về dịch thuật Hán-tự và Nôm-tự! Điều thú vị là anh chỉ bắt đầu học chữ Hán, sau 75! Tôi biết được, vì sau hôm gặp anh, tôi vào ‘’mạng’’, tìm đọc về anh.

Trên website ‘’buctranhvancau’’, anh Hy đã kể lại với người bạn Việt Dương:

“Tôi bước vào con đường tự học chữ Nho từ năm 1975, trước hết là để thực hiện ước vọng từ lâu và sau đó là để tiêu khiển trước sự đổi thay đột ngột kinh hoàng của đất nước. Học để quên đi những tháng ngày khó khăn đen tối, lo âu cho một tương lai mờ mịt. Mới đầu tôi mua cuốn tự điển Hán Việt của Thiều Chửu, bắt đầu gạch từng nét, đếm từng chữ. Khi đã có một số chữ làm vốn, tôi vào Chợ Lớn, trước cửa sân Tinh Võ, trên đường Nguyễn Trãi, mua những quyển truyện bằng tranh, lớn bằng bàn tay mà tôi mê thích khi còn nhỏ, như Tiểu Lý Quảng, Thuyết Đường, Song Trùy Hà Nguyên Khánh, Chinh Đông Chinh Tây...hình vẽ rất đẹp với những hàng chữ ngắn gọn dễ đọc. Tôi dùng tự điển Thiều Chửu để tra từng chữ cho hiểu cốt truyện và để học … ‘’

Vượt biên năm 79, định cư ở Pháp, sau khi ổn định đời sống, anh Hy học sang chữ Nôm!

Xin trích thêm:
“Nhắc tới dịch giả Phạm Xuân Hy, những người đọc sách, nhất là hàng trí giả về lãnh vực chữ Hán, chữ Nôm, hầu như không ai không biết tới tên tuổi của ông.

Họ Phạm không chỉ là tác giả của một số tác phẩm dịch được nhiều người ưa thích như Liêu Trai Chí Dị, Hậu Liêu Trai và Thiếp Bạc Mệnh là 3 tuyển tập chọn lọc do nhà xuất bản Văn Hóa ở Houston, Texas lần lượt ấn hành từ năm 1988 tới 2002, ông còn là tác giả của những công trình dịch thuật lớn như phiên âm bản truyện Nôm “Chiêu Quân Tân Truyện của tác giả Nguyễn Tiến Khang, xuất bản năm 1922, hay phiên âm bản “Phép Dòng Chị Em Mến Câu Rút Đức Chúa Giê Su”, bản khắc năm 1869, phiên âm bản Nôm “Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ” của Pigneau de Béhaine, bản khắc năm 1774. Ông cũng đã hoàn tất phần chuyển ngữ tác phẩm đồ sộ nhan đề “Trung Quốc Lịch Triều Đại Sự Niên Biểu (từ nhà Tần đến hết Tam Quốc).

Một số dịch giả chữ Hán có thẩm quyền ở trong cũng như ở ngoài Việt Nam cho rằng mức độ uyên thâm về chữ Hán để dịch được những tác phẩm văn học cổ Trung Hoa sang tiếng Việt, chúng ta có không ít tài năng. Nhưng một học giả được coi là uyên thâm cả chữ Hán và chữ Nôm thì phải nói là chúng ta có quá ít. Ngày một ít hơn nữa! “Trong số ít này, chúng ta có dịch giả Phạm Xuân Hy, hiện cư ngụ ở Paris”. Một nhà Nho cựu trào ở hải ngoại đã kết luận.(dutule.com).

Nhưng anh Hy không chỉ nói về ‘’Nho’’, mà còn về ‘’tổ tôm’’. Chính anh gọi ‘’Hà chưởng môn’’ ( tên anh em gọi ông chủ nhiệm Tiền Tuyến, nhà thơ Hà Thượng Nhân ) BS Hà M.T, là ‘’Cửu Vạn ‘’, rồi nói tiếp đến ‘’Chi chi, tôm lèo’’. Lúc mới nghe, tôi tưởng là các ông nói về Tom Yum Kung của Lèo, nghe tiếp thì càng .. không hiểu chi hết ! Cái gì mà ‘’phu tôm, phu lèo, ù tôm..vv’’. Ông Cửu Vạn tếu lắm ! Lúc anh Hy, anh Bát Sách nói về chữ Nho thì ông bảo ‘’Tao Hán rộng nhưng dốt chữ Tàu! ’’, tôi viết như thế nhưng khi ông Bắc Kỳ phát âm thì không phải như thế (có ‘’g’’) . Lần này đến ‘’tôm lèo’’ thì ông lại bảo : chắc là có nói … lái trong này?!!!

Trên đường về, ngồi trong xe lửa, tôi nghĩ về mấy ông đàn anh. Về cái giao tình ‘’60 năm cuộc đời’’. Về cái quá khứ ‘’người trai thời loạn’’ của các anh và, về những- ngày- hôm-nay. Anh Bát Sách thì còn một tuần mấy lần đi xoa cùng anh em ‘’bên ấy’’ (lâu lâu đi ăn tiệc, nghe nhạc ) nhưng anh Cửu Vạn thì nằm nhà đọc sách, xem TV ( lâu lâu chạy ra ‘’brasserie’’ ) , anh ‘’Chi Chi ‘’ không còn viết sách, chỉ biết bầu bạn cùng mấy chục (trăm ?) mấy quyển sách ‘’Tàu’’ hiếm, quý (lâu lâu đứng trên cao (tầng 7) chép miệng, ngó hồng trần đang loay hoay ở dưới)!

Anh Bát Sách vui, anh Cửu Vạn tếu nhưng anh Chi Chi (Hy) thì làm tôi nhớ đến ‘’Ông Đồ’’ của Vũ Đình Liên. Nhớ đến ‘’ông’’, và nghĩ đến ‘’chúng tôi’’, thế hệ VN sinh 40s, 50s đang sống ở hải ngoại: ‘’kẻ qua đường không ai biết’’ đã đành, nhưng ‘’lá vàng rơi trên giấy’’?

- Lá vàng như tuổi vàng. Thu đời đang sống với. Lá nào trên giấy mới ? - Khi gió mùa đông sang?!!!
.............................

Anh Bát Sách kể lại, lúc từ nhà anh ‘’Chi Chi’’ về, mưa Paris, ào ào , xối xả nhưng anh và anh Cửu Vạn không bị ướt .

Vâng, Paris đâu phải Sài Gòn: ‘’có … ướt cũng khôn cùng’’, thưa anh!
Cám ơn các anh đã cho em một ngày vui nhớ đời!

BP
27/05/2024