Thứ Năm, 4 tháng 12, 2025

Khi Cơn Lũ Tràn Về - Thơ Vinh Hồ


Thơ:Vinh Hồ

Tình Người Tri Kỷ


Chưa bao giờ gặp mặt
Chỉ trao đổi vầng thơ
Hồn vui tình tri kỷ
Thoang thoáng chút mộng mơ!
Có vần thi xướng họa
Quý hơn cả ngọc ngà
Đó là máu của tim
Là hồn người tri kỷ
Cùng chung một nỗi niềm
Đang sống đời vong quốc

Hàn Thiên Lương

13-11-2025

Thế Gian Trong Tầm Tay Em

Tình yêu ai tính được thua,
Yêu anh em chỉ yêu vừa đủ thôi,
Diện đẹp ra phố rong chơi,
Thì ra em vẫn yêu đời xung quanh,

Vì đời không chỉ mình anh,
Có bè bạn có người thân nữa mà,
Tim em đâu phải trò đùa,
Em thương mến đã chia ra nhiều phần

Thí dụ như em mất anh,
Chắc gì em đã chông chênh đường cùng?
Thí dụ như anh lạnh lùng,
Chắc gì em đã thấy lòng hoang vu?

Vẫn còn những tình cảm kia,
Anh chị em ruột mẹ cha ngọt ngào,
Hoàn cảnh nào cũng có nhau,
Tội gì em lại héo sầu người dưng,

Cho dù em đã yêu anh,
Nhưng em cũng rất đành hanh yêu mình,
Cho dù em chẳng đẹp xinh,
Nhưng em không dễ lụy tình anh đâu,

Em không chấp nhận thương đau,
Em không lép vế đằng sau cuộc tình,
Mỉm cười em tự kiêu thầm,
Thế gian kia vẫn trong tầm tay em.

Nguyễn Thị Thanh Dương.
( Dec. 05- 2013)

Bạn Cũ Tình Xưa

Trường Y Khoa đường Trần Quý Cáp.

Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò. Câu này lúc nào

cũng đúng, cả với sinh viên y khoa. Khi ra đời, các y sĩ có hai bộ mặt: nghiêm trang, đạo mạo khi hành nghề, và khôi hài tinh nghịch khi họp mặt bạn bè. Lớp tôi có gần 200 người, khoảng 10% là phái nữ. Suốt sáu năm học, thực tập, trực gác, đi chơi chung, những kỷ niệm kể không bao giờ hết. Lần này tôi viết về những biệt danh (surnom) của một số bạn bè cùng lớp, hy vọng rằng các bạn có dịp nhớ những ngày vui xưa.

Muốn diễn nghĩa gốc tích của những biệt danh này, có khi tôi phải thổ lộ một vài bí mật của thời son trẻ, mong các bạn thông cảm, và các phu nhân đừng lấy đó làm lý do để đay nghiến đức lang quân. Những biệt danh này đôi khi không được thanh nhã, có thể sẽ bị một vài vị chê trách, nhưng tôi xin thưa ngay rằng, cái tục lệ đặt biệt danh ở trường Y khoa là do Giáo sư Nguyễn Hữu, vị thầy khả kính của chúng ta khơi mào, khi Thầy gọi bác sĩ Trần Sĩ Đôn là “Đôn Lò” và chúng tôi cứ thế mà khai triển.

Tôi xin mở đầu bài này với Vũ Thế Hùng và Trần Mộng Lâm, sau đó sẽ nhắc tới các bạn khác theo thứ tự ABC cho tiện việc. Thủa đó, ở Cầu Muối, có hai tay anh chị nổi danh là Hùng mụn và Lâm thợ điện. Sau một trận đại chiến, cả hai đều thiệt mạng, xác được đưa vào Cơ thể học viện ngâm formol để sinh viên thực tập. Vì vậy mà:

VŨ THẾ HÙNG biến thành “Hùng mụn ”. Hùng cao lớn đẹp trai, chả có “mụn” gì cả, rất nhiều đào. Anh này có tật hay chê, cô thì gót chân nhám, cô thì nút ruồi quá lớn ở....dưới rốn. Được tu nghiệp ở Mỹ, anh trốn sang Canada, lấy vợ đầm. Tuy ở Montréal, nhưng Hùng không liên lạc với anh em.

Chị ruột của Hùng là VŨ LAN ANH, cũng học cùng lớp với chúng tôi. Chị lớn tuổi, coi chúng tôi như pha, lúc nào cũng lên giọng kẻ cả. Câu chị hay dùng để mắng chúng tôi là: “Các cậu này mất nết, thấy con gái là hai mắt sáng lên như đèn ô tô” Khi đi thực tập với Thầy Út khu ngoài da, Thầy ngồi giữa, các chị ngồi xung quanh, con trai thì đứng lố nhố vì thiếu ghế. Có lần Trần Mộng Lâm đến sớm, giành được ghế ngồi, đang hớn hở thì bị chị Lan Anh kéo phắt dậy chiếm chỗ. Lâm tức quá lẩm bẩm, nhưng cốt để chị nghe:“già, xấu, khó tính, bất lịch sự” Chị giận tím người, thù Lâm ra mặt. Thật ra lúc đó chị chưa tới ba mươi, còn trẻ đẹp lắm. Chị bị chê già chỉ vì chúng tôi vừa mới hai mươi. Chị Lan Anh hiện làm anesthésie ở tiểu bang Québec, đã có cháu nội, ngoại một đàn.

TRẦN MỘNG LÂM, được gọi là “Lâm thợ điện”. Khi anh đi Từ Dũ, tuy tay chân lọng cọng, nhưng đỡ đẻ rất hăng say nên được cải danh là “Lâm bồn”. Anh hăng say không phải vì yêu nghề mà vì được dịp gần các cô sinh viên nữ hộ sinh đẹp như mơ. Hồi trẻ Lâm đẹp trai lãng mạn nhưng hơi nhát, nên lúc tán các cô anh quá cảm động, thường ú ớ không nói được huê tình như anh muốn. Bèn đổi chiến thuật tán bằng thơ. Bạn bè cản, sợ rằng bút sa gà chết, nhưng anh nhất định không nghe. Mà anh viết thư tình hay lắm, ngang ngửa với cuốn một trăm bức thư tình hay nhất thế giới. Câu tủ của anh, hình như bắt

chước một ông Tây nào đó là “anh muốn, ngoài mẹ anh ra, em là người đàn bà duy nhất đứng bên anh trong suốt cuộc đời”. Chiến thuật mới có vẻ thành công, anh đắt đào lắm, le lói một thời. Nhưng vì chủ quan khinh địch, Lâm có lần bị tổ trác. Số là chàng viết thư rất nhiều, cùng một lúc cho bốn, năm cô. Hồi đầu, các thư đều personnalisé, sau chàng làm biếng, cứ bổn cũ soạn lại (chỉ đổi tên và ngày tháng) không dè, trong các destinataire, có hai người quen nhau, đem thư ra khoe, thì thấy hai bức thư y chang, chỉ khác tên người nhận, bèn cho tác giả rớt đài.

Ở ngoài đời, Hùng mụn và Lâm thợ điện giết nhau, thì ở trong trường Y khoa, Hùng và Lâm cũng có lần đánh nhau, xém xẩy ra án mạng. Đó là lần thực tập Sinh lý học với Thầy Trần Vỹ, làm spirométrie. Trong lúc Lâm đang cong lưng thổi để cái phao úp trên bồn nước nổi lên từ từ, thì Hùng đưa tay nhấn cái phao thật mạnh, nước bắn tung tóe, ướt cả áo quần. Lâm điên tiết, phóng một cước, trúng ngay hạ bộ của Hùng. Hùng ngã vật xuống, mắt trợn trắng, thều thào nói không ra tiếng, làm chị Lan Anh sợ toát mồ hôi, phải gọi xe cứu thương chở em đi bệnh viện.

Năm 1975, Lâm chậm chân, bị lũ dép râu, nón cối bắt đi cải tạo. Anh vượt biên, sang định cư tại Canada từ năm 1979, hiện có vợ và hai con. Sau hai mươi năm lưu lạc, mọi thứ trong người anh đều xìu, chỉ có hai thứ còn hoạt động được, đó là cái đầu để viết bài cho Tập San Y Sĩ và cái tay để xoa mạt chược.

Lâm bồn là bạn nối khố của “Bình dò” (xin xem phần sau). Cứ vài ba ngày không gặp là lại phone loạn lên rủ nhau đi ăn trưa. Năm 78, khi nghe tin đồn thất thiệt là Lâm bồn bị Việt cộng chặt làm ba khúc, Bình dò kéo Trần Văn Dũng đi nhậu để tâm sự, uống say mèm rồi khóc rưng rức ở tiệm ăn...Thân thì
thân, nhưng hai anh này khắc khẩu, cứ ngồi vào bàn vuông là cãi nhau chí chóe như chó với mèo. Kể cũng lạ.

Cơ thể Học Viện đường Trần Hoàng Quân

ĐẶNG VŨ ÁI. Người hiền lành, chân chỉ hạt bột, chỉ biết học. Thời học sinh, môn gì anh cũng nhất, kể cả sử địa, công dân. Vì tên Ái, nên được gọi là “ Lao Ái”, dù đồ đạc và tính tình của anh không giống Lao Ái chút nào (quý vị chắc cũng biết Lao Ái, một nhân vật thời Chiến Quốc, nổi tiếng về bộ phận sinh dục rất lớn, khi érection, có thể để bánh xe vào đó mà quay. Lao Ái được Lã Bất Vi dàn cảnh, giả vờ hoạn, rồi đưa vào “phục vụ” mẹ của Tần Thủy Hoàng). Anh Ái hiện ở Pháp.

Lớp tôi còn có anh PHẠM NHƯ ÁI, nhưng không ai dám đặt tên vì anh quá nghiêm trang, đứng đắn. Sau anh kết hôn với chị Lê Quỳnh Anh là bạn cùng lớp. Ái và Quỳnh Anh hiện đang ở Floride.

Lớp tôi còn một anh có tên rất ngắn là TRẦN ĐÔNG A, anh này không có biệt hiệu, nhưng tôi nhắc ở đây vì nhiều lý do: Ngày đi học anh rất chăm, thuộc bài như cháo và rất đía. Năm thứ nhất, thi xong, anh tuyên bố ầm ĩ là thế nào cũng đỗ major, hạ bệ Lê Quỳnh Anh và Phan Hữu Thành. Khi ra bảng, anh đỗ hạng chót. anh em cười ầm lên. Có tên nói đểu: “Thằng A nó đỗ major thiệt đó chớ, tại ông thơ ký dán ngược tờ kết quả”.

Khi ra trường, anh đi Nhảy Dù, Vì được lòng xếp, anh lên Thiếu tá rất mau.

Đến mùa pháp nạn, anh đi tù, lại được lòng quản giáo và nhà nước. Giờ anh ở Việt Nam rất nổi tiếng và được biệt đãi, chỉ thua ông bác sĩ dân cử Trần Thành Trai một chút.

NGUYỄN PHÚC BÌNH, tức “Bình đen” vì da anh hơi đen. Anh

ăn nói nhỏ nhẹ, ăn mặc sạch sẽ, học hành rất đàng hoàng, cựu nội trú ở Bình Dân. Anh hiện hành nghề Néphrologie ở Louisianne.

NGUYỄN THANH BÌNH, tức “Bình dò”. Nguồn gốc chữ “dò” này dài lắm. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, khi xem cinéma, bao giờ cũng phải chào cờ và suy tôn Ngô Tổng Thống, sau đó là quảng cáo thuốc “Tam tinh hải cẩu bổ thận hoàn” của nhà thuốc Võ Văn Vân. Ngoài bài hát “thuốc tam tinh là thuốc thanh niên” bài quảng cáo đó đại khái như sau:

“tam tinh là gì? Là bệnh của thanh niên, gồm có: - Mộng tinh: Nằm mơ thấy giao hợp với đàn bà thì xuất tinh. Đó là bệnh nhẹ, tỷ như bình đầy tràn...

- Di tinh: Trông thấy hay nghĩ tới đàn bà thì tinh xuất, tỷ như bình nghiêng.

- Hượt tinh: Lúc nào tinh khí cũng chảy dầm dề. Đó là bệnh nặng, tỷ như bình dò hay bình hư lủng đít. Đáng lẽ phải gọi RÒ mới đúng, thay vì dò...

“Bình dò” bị gán cho tên này đau lắm, nhưng cũng phải chịu. Bạn bè nhiều khi quên hẳn tên Bình, cứ thấy mặt là “ê dò”, riết thành quen. Có vài chị tò mò hỏi tại sao thì anh phải trả lời qua quýt rằng thích ăn giò, rồi bẽn lẽn lảng đi chỗ khác.

Hồi năm thứ hai, anh Bình mê một chị bạn cùng lớp. Lúc đầu, anh không dám nói, cứ sáng sáng đến trường thật sớm, chờ nàng đến cười một phát, rồi xem nàng ngồi ở đâu thì đến ngồi ngay ở đàng sau để ngắm cho đã. Hai người coi bộ càng ngày càng thân mật, nhưng qua năm thứ ba, đùng một cái, nàng lên xe hoa về nhà chồng, phu quân của nàng là một đàn anh đã ra trường. Nói theo từ ngữ thông dụng của y khoa thời đó, Bình đã bị đàn anh “nhét sao vào miệng”. Bị chưởng

này, Bình sụm ba chè, người cứ nhược ra như bị “hóa công đại pháp” của Tinh Tú Hải Lão Ma. Sau khi phục hồi được một vài thành công lực, Bình đổi tính vừa ngang vừa gàn, thành tay chơi cầu ba cẳng, nên mãi đến năm 78 mới lấy được vợ. Tuy “dò” nhưng cũng rặn ra được hai đứa con.

Anh Bình hiện ở Canada, hành nghề gastro entérologie, mà anh thường gọi đùa là nghề đo lòng người. Lạng quạng thế nào mà anh lại thành Chủ tịch Hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada. Bạn bè gọi anh là président digital, không phải vì anh giỏi về électronique, mà vì anh lười, cứ ngồi ì ra, chỉ tay sai loạn cào cào.

LÊ TẤT CƯƠNG, tức “Cương mù” hay “Cương lòa”. Vì cận thị nên bị gọi như vậy thôi, chứ mắt anh sáng như điện. Cô nào có lông măng ở cánh tay, nốt ruồi ở gáy là anh biết hết. Mặt anh rất sáng và nghiêm, nhưng tính hay nghịch, đúng như tuổi Mùi của anh vậy. Có khi anh bị bạn bè đổi họ, biến thành Lên Tất Cương. Cũng đúng thôi, lên thì làm sao mà nhu được. Sau cách mạng 1963, anh và Lâm bồn lén đi học nhảy với giáo sư Trọng Tấu, sau lại theo Bình dò và Đạm heo học thêm một khóa nữa với giáo sư Đỗ Long. Anh còn ân hận vì chưa được thụ giáo với Tony Chương, “cựu thủy thủ của chiến hạm La Motte Piquet, từng đặt chân trên khắp sàn nhẩy Âu, Á”. Chẳng hiểu nghề nhảy của Cương Lòa giờ này ra sao, nhưng Lâm bồn thì rõ là không có khiếu, vì trong các đám tiệc, đám cưới, anh ngồi xếp ve, đến phần hai của mục văn nghệ là anh len lén dắt vợ chuồn ra cửa. Cương lòa, hồi trẻ có học nhạc, chơi violon mà chúng tôi gọi đùa là kéo nhị tây. Một lần anh hứng chí kéo ba tên bạn than về nhà, say sưa biểu diễn độc tấu vĩ cầm. Mấy tên mù nhạc ngồi nghe, gật gù có vẻ tán thưởng làm anh

càng hào hứng. Khi bản nhạc chấm dứt, Đạm heo bèn cười rất đểu, kể chuyện tiếu lâm, chuyện vợ hóa của một đồ tể, mỗi khi nghe ông hàng xóm kéo vĩ cầm thì khóc sướt mướt, vì nhớ tiếng heo kêu khi bị chọc tiết. Cương lòa bị chưởng này nặng quá, bèn dấu biến cây đàn.

Cương lòa, sau làm tới Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 25 Quân Y. Lên Thiếu tá rất sớm, và bị tù cũng lâu vì chức lớn. Anh hiện ở California, nhan sắc không mấy thay đổi, đêm đêm đem nhị tây hòa tấu với vợ là một danh thủ dương cầm. Chả hiểu có bà hàng xóm nào khóc hay không?

HOÀNG THIỆN CĂN, tức là “Cú căn”, anh này người roi roi, để râu cá chốt, khi gặp người Trung thì nói tiếng Huế, khi gặp người Bắc thì nói tiếng Hà Nội, nên bạn bè không biết anh gốc gác ở đâu. Ngày xưa, anh mê mạt chược xoa liên miên, có khi ngã gục trên bàn bài. Anh rất văn nghệ, thổi sáo, làm thơ, vẽ tranh đủ thứ, bây giờ anh làm lớn ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ.

LÊ VĂN CÔNG, tức CÔNG NGỦ: Hồi đi học, Công nói chuyện vui lắm, hay pha chè, và hói khá sớm. Hồi trẻ, Công Ngủ thật hay không, chỉ có vợ hắn mới biết, khi già rồi thì hết ngủ, đêm nào cũng thức cầm canh.. Công ở DC, anh em qua chơi là được tiếp đãi nồng hậu…

VƯƠNG BÌNH DZƯƠNG. Dù tên đã có chữ Z, anh cũng bị gọi là “Dzương vật ”. Tên này không được thanh nhã, vì nói thẳng chứ không nói lái. Anh nhỏ con, lúc nào cũng cười toe toét, và thường tuyên bố, một vợ năm con. Mọi người đều tưởng thật, đến khi đi lính, khai gia cảnh để lãnh lương, bạn bè mới biết là anh xạo. Anh hiện ở Mỹ, lấy vợ khoảng thập niên 90.

VŨ VĂN DZI, tức “Vỗ Sinh”. Anh con nhà giàu, học giỏi, đẹp trai. Trong lúc bạn bè đi solex, lambretta thì anh đi xe hơi Toyota Corona thứ xịn. Hồi làm nội trú, trong túi áo blouse của anh lúc nào cũng có bộ bài tây, hễ cứ đủ tay là ngả bàn đèn. Anh muốn bắt chước “interne xì” tức Nguyễn Văn Lâm, trên tụi tôi hai lớp. Kể về y lý thì hai anh ngang ngửa, nhưng về xì lý, thì Dzi có lẽ phải nhường đàn anh. Ngày đó, trên báo “Tình Thương” của Y Khoa, anh có viết một truyện liêu trai “nàng cư lệ” kể mối tình của một sinh viên với chị muỗi culex: “Vũ Sinh quán ở Hà Đông....bèn giao hoan....nghe có vẻ Bồ Tùng Linh lắm. Anh vốn gốc trường Tây, tính tự nhiên, gặp bạn bè thì vỗ vai, vỗ lưng, vỗ cả ... đít nữa. Vỗ bạn trai thì không sao, vỗ bạn gái thì hơi chướng, vì vậy anh được tặng danh hiệu là Vỗ Sinh, thay vì Vũ Sinh. Vì tên Dzi có trong bảng quảng cáo Tam tinh hải cẩu nên đôi khi anh cũng được gọi là Di tinh...

Anh lập gia đình sớm, cỡ 5 année. Bạn bè thầm thì rằng, tuần trăng mật trên Đà Lạt, thay vì “vầy duyên cá nước” thì anh lại mang theo một valise sách vở để trau giồi y lý. Chả hiểu sự thật ra sao, nhưng bạn bè được dịp cười thỏa thích, và bây giờ, có lẽ nhờ vậy nên y lý của anh cao lắm, làm giáo sư Y khoa và viết bài lia chia cho Tập San Y Sĩ.

CAI VĂN DUNG, tức “Cai dù”. Tên không dùng được thì phải dùng họ để đặt biệt hiệu cho kêu. Thời sinh viên ai trực chung với anh cũng hay bị anh gửi để đi “có tí việc”. Khi “việc” xong, anh về nhà thương, leo vào lavabo để làm vệ sinh thân thể. Cái màn tắm trong lavabo này khó lắm, phải có võ mới làm được, lờ quờ là té bể đầu. Anh Dung thì khỏi chê, tắm rất ngọt, đã không ngã lại không ướt nhà. Dung bây

giờ ở California.

VŨ THIỆN ĐẠM, tức “Đạm heo”. Anh là người lịch sự, vui vẻ mà bị cái tên không mấy thanh nhã, chỉ vì tật ăn nhanh, vào hiệu phở, trong lúc mọi người đang vắt chanh, bỏ ớt, ăn được vài miếng thì anh đã tỉnh bơ ngồi xỉa răng, nhậm xà. Đạm tính rất tếu, thường nhớ thuộc lòng những câu văn Tây, rồi đổi chữ hoặc dịch ra tiếng Việt để cười chơi. Chắc quý vị còn nhớ, khi làm observation, ở đây gọi là histoire de cas, thường có câu Foie, rate non palpables. Câu này được Đạm dịch ra “Gan lá lách không sờ thấy”, rồi thêm “vú thấy không sờ được” làm bạn bè cười chảy nước mắt.

Khoảng 5è année, Đạm theo đuổi một cô sinh viên Dược, lơ là với bạn bè nên được gọi là “Đạm thu” dù Thu không phải là tên người đẹp. Mọi người đều tò mò, muốn điều tra, nhưng Đạm rất kín miệng, anh em hỏi mấy cũng không có kết quả. Khi muốn đi với bồ, thì Đạm len lén chuồn êm. Chúng tôi đã nhiều lần đóng vai thám tử, theo dõi tận tình, nhưng Đạm lái vespa nghề lắm, ẹo qua ẹo lại, chạy lòng vòng rồi bất ngờ biến mất.

Đến gần đám cưới, cuối năm thứ sáu, chúng tôi mới biết mặt giai nhân. Đám cưới Đạm heo có bốn tên phù rể là Đại du, Lâm bồn, Bình dò và Cương lòa. Đạm hiện ở California, có ba con, đứa con trai của anh tên là Đôn...lò.

NGHIÊM ĐẠO ĐẠI, tức “Đại du”. Tên Đại thì phải du vậy thôi, chứ sự thật ra sao thì chỉ mình anh biết. Đại học vừa giỏi vừa chăm, giờ là giáo sư chuyên ghép thận ở Pittsburgh. Có khi anh cũng được gọi là Đại đầu bạc vì tóc anh bạc rất sớm.

NGUYỄN ĐỖ HẠNH, biệt danh là “Hạnh thâm”, vì môi thâm. Hạnh hiện ở Californie.

NGUYỄN HOÀNG, tức “Hoàng Jaune” hoặc “Hoàng thợ mộc”. Ở Việt Nam nắng nhiều, Hoàng sợ nắng nên thường đội cái mũ lưỡi trai của bộ binh, mà đội ngược nên trông rất giống thợ mộc. Anh không ưa cái tên này lắm. Khi Hoàng cãi nhau với ai, anh em thường can bằng cách thêm dầu vào lửa: “Thôi nhịn đi, nó mà lấy dăm bào nhét vào miệng thì mày bá thở”. Thế là có đại chiến. Nhưng hồi trẻ, tình hồn nhiên, mau quên; ngày hôm trước cãi nhau chí chát, ngày hôm sau lại mày mày, tao tao, dắt nhau đi ăn uống. Hoàng hiện & California.

DƯƠNG QUANG HẢO tự “Alon Delain ” là tiếng nói lái của Alain Delon, vì anh trắng trẻo, đẹp trai. Khổ nỗi, anh hói sớm, đầu láng coóng nên có thêm biệt hiệu là “quả trứng”.

NGUYỄN DUY HẢO “JACK PALANCE” anh gầy và cao, miệng hơi móm, rất giống kép ciné jack palance. Đi đâu, anh cũng xách cái cặp màu nâu, người ngoài tưởng là sách vở, dân cờ bạc thì biết đó là cỗ bài mạt chược. Khi muốn đánh bài, anh đi một vòng miệng hô leng keng tay nào rảnh thì theo anh gầy sòng.

TRẦN QUANG HIỂN, tức là “Hiển sữa” vì nhỏ con, trắng trẻo lúc nào cũng cười toe toét. Tới giờ này, ngoài 50 anh vẫn sữa như xưa.

LÊ VĂN HIỂN, tức là “Hiển xoăn ” vì tóc anh xoăn tít như tóc chà và. Khi tử tế thì được gọi là “Hiển xoăn”, khi cãi nhau thì bị gọi là “giọt máu viễn chinh”.

Thời sinh viên, anh có hai biệt tài là bắt chước giọng và quất ngựa chuối.

Ở Cơ thể học viện, anh nhại Thầy Nguyễn Đình Hoằng, giảng về radio, image en chapeau Mexicain, en feuille de treffle, giống đến nỗi, Thanh Lan là con gái thầy Hoằng cũng tưởng thật. Anh cũng hay nhại Thầy Út, vừa nói vừa hất hất đầu giống như hệt. Có lần anh ngồi nói chuyện với Thầy Út rất say sưa hào hứng. Bạn bè tò mò để ý nghe thì thấy anh kể chuyện Thủ tướng Néhru của Ấn Độ. Về sau mọi người mới vỡ lẽ, vì Thầy Út có cái mũi đỏ, mà Nehru, đọc theo tiếng Tây đồng âm với Nez rouge.

Sinh viên y khoa ngày xưa có giá lắm, muốn tán chỗ nào, vào thì dễ, rút lui rất khó, thật thiên nan, vạn nan. Khi muốn rút lui, Hiển chờ người đẹp đi vắng, lén lén đến gặp bà mẹ, đưa ra một tấm hình phổi lủng bốn, năm lỗ rồi rơm rớm nước mắt, nói rằng mình bị lao nặng, phải nằm nhà thương. Thế là bà mẹ chạy có cờ, em cũng chạy theo, và anh “di tản chiến thuật” an toàn trên xa lộ.

Khi ra đời, Hiển thành công mỹ mãn. Trong khi các bạn đi lính, thì anh giải phẫu thẩm mỹ, kiêm nghề dân biểu, đơn vị Cần Thơ, nơi anh chưa hề ở một ngày nào, trừ lúc xuống vận động tranh cử. Anh ở biệt thự, có tài xế mặc áo trắng, đội képi đưa rước đi làm. Khi ra ngoại quốc, trong lúc bạn bè ở App, đi xe bus, thì anh ở lâu đài trên đồi, lái Mercedes.

Anh vốn ở Califomie, nhưng từ mấy năm nay, tuyệt tích giang hồ.

PHẠM NGỌC KHUÊ tức “ Khuê lù” vì anh mập và hơi còng,

đi tới đâu cũng lù lù một đống. Khuê là một cây mạt chược tay chân nhanh như chớp, ngồi xoa với anh một lúc là hoa mắt. Biệt tài của anh là nhớ số xe. Nói đến tên ai là anh đọc ra số xe vanh vách. Ngày đó, nhà anh có chiếc Vauxhall màu vàng. lâu lâu được phép của bà già là anh chở bạn bè đi chơi. Anh lái xe cao bồi không chịu được, chạy thục mạng, hễ thấy cô nào có dáng đẹp đẹp là anh thắng két xe lại, thò đầu ra thả lời ong bướm. Khuê hiện ở Califonie, có vợ và hai con.

NGUYỄN GIA KHÁNH, tức “Khánh nháy” vì có tật chớp quàng. Khi qua Canada, anh học ngành pathologie, chuyên coi kính hiển vi, nhờ đó hết nháy và hiện là giáo sư uy tín của trường Y khoa Saskatoon.

NGUYỄN TRÙNG KHÁNH, tức “Khánh chửi” vì cứ mở miệng ra là anh văng tiếng Đức. Thời sinh viên anh lúc nào cũng khệnh khạng, ra vẻ dân cậu, đi học mà mặc chemise trắng dài tay, đeo manchette, thắt cravate, ngồi xích lô...oai vậy mà chuyên môn cọp, lại cọp kiểu cha nhà thờ. Khát thì “Sao không đứa nào mời cậu đi uống cà phê; đói thì: “Cậu chờ mãi sao không thấy đứa nào rủ cậu đi ăn phở”. “Cậu” đói rách như vậy chỉ vì xài sang, cả tháng lương chỉ đủ một bữa nhậu, kể từ mùng hai là bắt đầu cọp. Ra trường. Khánh đi Thủy Quân Lục Chiến. Anh em cười ầm lên: Vua cọp thành chiến sĩ cọp biển. Tại binh chủng này, anh bị thương, bị cắt mất một khúc ruột. Tái ông thất mã. Nhờ bị thương, anh được giải ngũ, du học bên Anh về quang tuyến, và thành giáo sư đại học Queen ở Kingston. Khánh có vợ và hai con, viết văn, in sách tùm lum, nhưng tật chửi thì vẫn chưa bỏ được: gặp bạn bè thì chửi bằng tiếng Việt, ở nhà thương chửi bằng tiếng Mỹ.

NGUYỄN VĂN LỘC, tức “Lộc cò”. Lộc cao cỡ 1 mét 8, nặng 40 ký, giống con cò, gió thổi bay. Nếu đi lính thật thì anh không đủ tiêu chuẩn; nhờ có bằng đốc tờ nên mới được kho an hồng, cho mặc áo nhà binh. Lộc hiện ở Pháp, vẫn cò như xưa.

LÊ LỮ, tức “ Le lưỡi ”, anh tuy học chung lớp, nhưng hơn tụi tôi cả 17, 18 tuổi. Anh nhà giàu, đã “du học” bên Pháp một thời gian trước khi về nước học y khoa.

Hồi mới vào năm thứ nhất, chúng tôi nhát như thỏ. Buổi đi thực tập đầu tiên ở bệnh viện Nguyễn Văn Học, chưa biết mặt cụ Rivoalen và các anh Lữ Y, Thế Minh, cả bọn đương đứng ngơ ngáo thì thấy một chiếc xe DS 19 đậu kịch trước cửa trại bệnh, rồi một ông mặc áo blouse trắng xuống xe, hùng dũng đi vào, trông rất oai phong. Có vài anh sợ quá, tưởng ông thầy định chào, chợt nhìn ngực áo thấy tên Lê Lữ, cũng chỉ một sao đỏ toòng teng như mình bèn cười sặc lên! Anh Lữ là tay sành điệu, đã dong chơi từ Á sang Âu nên thường đem kinh nghiệm ra kể, đầu độc tâm hồn trong trắng của đàn em. Để đền ơn, chúng tôi mới tặng anh biệt danh là “Le lưỡi”

Anh Lữ bây giờ ở Canada, đã có một đàn cháu nội, cháu ngoại. Mong rằng khi đọc những dòng này, anh sẽ cười ha hả, chứ không phone đến Tập San Y Sĩ mà mắng vốn.

NGUYỄN CAO MÔN, tức “Môn lù”. Đây có lẽ là cái biệt hiệu hay nhất của lớp chúng tôi. Mọi người đều thích, nhưng đương sự không ưa lắm. Bạn thân gọi thì anh cười hề hề, tên nào không thân mà vô phúc đụng tới thì bị anh chửi cho tối mắt tắt đèn. Tác giả bài này vốn là bạn thân của anh, nhưng cũng phải uống mấy viên thuốc liều, phân vân cả tháng mới

dám viết. Môn ơi, nếu không có tên anh thì bài này sẽ thiếu sót trầm trọng.

NGUYỄN NGỌC QUANG, tức “Quang điên”. Anh hiền lành, dễ thương, không gây gổ với ai bao giờ, chỉ vì hơi ngang một chút, lại theo lò luyện y lý của anh Đinh Hoàng Diệp nên mới có cái tên như vậy, Quang hiện ở Pháp.

TRẦN MẠNH RỰC, tức “ Rực việt cộng ”. Khó tả lắm! Quý vị nghe biệt danh thì chắc mường tượng ra được hình dáng của anh. Có điều anh hiền như bột, không có ác ôn còn đổ chút nào. Rực kết duyên với Kim Doanh là bạn cùng lớp. Cặp này hợp lắm vì Doanh cũng hiền không kém gì chồng. Thân phụ của Doanh hành nghề Đông y, nên hồi đi thực tập sinh lý học, tụi bạn trời đánh thường lấy phân thỏ, phân mèo gói lại đem tặng chị, nói là cao đơn hoàn tán, chọc cho chị khóc dài dài. Rực và Doanh hiện ở Texas.

HÀ MẠNH TUẤN, tức “Tuấn què” gẫy chân vì tập nhảy dù. Cũng có khi anh được gọi là Tuấn ghẻ, không hiểu vì sao? Bên ngoài thì không thấy ghẻ, hoặc giả anh ghẻ ở chỗ kín? Khi ngồi xoa, Tuấn nói như thánh phán, vậy mà ai nói lạng quạng là anh lại dọa “tạo đặt mua cái máy vả rồi, máy mà tới thì có thằng vêu mặt”. Tuấn hiện ở Pháp, có chân trong Ban Tổ Chức Đại Hội 2000.

HOÀNG TRỌNG TUẤN, tức “Tuấn chì ”, vì da ngăm đen và rất “chì” nghĩa là gan dạ, chịu chơi.

LÊ TIẾN VĂN, tức “Văn lõ” vì mũi cao.

VĂN CẠO, tôi quên tên và cũng không biết tại sao gọi là cạo. Cả hai anh này đều mê bài cào. Hồi đó, ở Chợ Rẫy, Văn lõ thường làm hồ lý cho Nhân già làm cái. Khi cái bị “oắc” là anh em lại nghe Văn cạo ré lên “Nại bù”. Bác sĩ Trang Đắc Hiếu đã có lần gọi cảnh sát mang xe cây tới hốt, làm xấu mặt đám đàn em. Nhờ có Nguyễn An, là em Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát nên mọi người được tai qua nạn khỏi, không bị đăng tên trên báo.

Lớp chúng tôi cón rất nhiều người, nhưng không có biệt danh, hoặc có biệt danh, nhưng không đại chúng.

PHAN HỮU THÀNH, ngày xưa chăm chỉ, nghiêm trang, chỉ lo học, bây giờ coi bộ muốn tiếc thời son trẻ. Thành ở Mỹ, chuyên giải phẫu lồng ngực. Bà xã của anh là ÁI TRINH, chuyên về pa thologie, coi lame và làm autopsie . Vì vậy mới bị trêu “chồng mổ bệnh nhân xong thì chuyển qua cho vợ”. Ái Trinh là người nữ duy nhất có surnom. Tên của chị có nghĩa là yêu sự trinh bạch. Cái màng trinh của thiếu nữ, tiếng chuyên môn gọi là hymen và Ái Trinh được gọi là Hymenophile .

THÀNH QUANG LÂN, học giỏi, con nhà giầu, đi ăn phở 100 thì cho pourboire 50. Lân là em rể của Đạm, hiện ở Montréal, hành nghề Gastro .

Các anh như CHU BÁ HỌC, VŨ TRỌNG HÙNG, LÊ VĂN DUYÊN, LÊ VĂN MỸ PHƯỚC, TÔ NGỌC ẨN, NGUYỄN VĂN QUÝ, HUỲNH LỢI, PHẠM VĂN CHẤT, ĐOÀN LÂN là những người hiền lành, chân chỉ, thường đứng nghe bạn bè kể chuyện rồi cười góp. Các bạn này tản mát, mỗi người một nơi.

Hiện ở Montréal chúng tôi còn có HỒ THỊ HƯỜNG và chồng là NGUYỄN ĐỨC LONG, TRẦN ĐỨC CƯƠNG, PHẠM PHÚ HIỀN, NGUYỄN ĐÌNH THẢO, NGUYỆN MẠNH LƯU, NGUYỄN KIM TÍNH, LÂM TÀI THƯỢNG, PHẠM NHỰT HƯỚNG

Tuy viết chuyện xưa để cười, để nhớ lại kỷ niệm thời son trẻ, nhưng trong lòng không khỏi bùi ngùi. Thời gian không cánh mà bay! Hơn 30 năm, biết bao nhiêu dâu bể. Một số bạn đã ra người thiên cổ.

Tôi muốn dành đoạn cuối này để tưởng niệm những người bạn đã từng cùng tôi chia ngọt xẻ bùi trong bao nhiêu năm, thời sinh viên và thời trong quân ngũ.

ĐẶNG ĐỨC KIỆM, qua đời vì tai nạn ở Việt Nam, một thời gian ngắn sau khi nhập ngũ.
ĐÀO VĂN ĐÔN, qua đời vì bệnh Lou Gherig.
NGUYỄN VĂN TỰU, bị Việt cộng sát hại tại Cần Thơ, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
BÙI HUY KHA, qua đời vì tai nạn ở Hoa Kỳ.

PHẠM KIM PHÁN, qua đời vì viêm gam và ung thư gan. Phán là người thân với tôi nhất, từ hồi trung học. Anh nho nhã, trắng trẻo, hiền lành, hiền đến nỗi, là bác sĩ mà còn trinh khi cưới vợ. Thời sinh viên, anh mê Thu, nữ sinh viên Đại học Sư Phạm. Phán mê mà không dám tán, thường hay tâm sự với tôi, và lâu lâu lại chở tôi trên xe vespa , đến trước trường Đại học Sư Phạm, đậu xa xa bên kia đường mà trồng cây si. Vì thương bạn, tôi xung phong đến làm quen với Thu, thêm mắm, thêm muối, kể lể rất lâm ly bi đát về mối chân tình của Phán. Tán cho mình thì khó, hay bị khớp, chứ tán hộ thì khỏe

lắm, nói năng hoạt bát, văn vẻ đâu ra đấy. Phán-Thu sau thành vợ chồng, và thường chiều chuộng tôi đặc biệt. Khi ra trường, Phán đi Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ, rồi về Cộng Hòa học Radio.

Năm 1975, tôi chạy thoát, Phán đi tù. Vừa được thả là Phán đến ngay nhà song thân tôi hỏi thăm tin tức. Thế là chúng tôi lại liên lạc được với nhau.

Khi song thân tôi còn ở Việt Nam, lâu lâu Phán lại ghé thăm, khi cho mượn sách, khi tặng gói trà. Tôi ít thấy ai cư xử trung hậu như Phán. Anh ra đi, để lại trong lòng tôi một khoảng trống không sao lấp đầy được.

Để kỷ niệm thêm sống động, xin đăng hai tấm hình: Một tấm ở trường Y Khoa đường Trần Quý Cáp.
Một tấm ở Cơ thể Học viện đường Trần Hoàng Quân. Hình nhỏ có tám người, thì hai đã ra người thiên cổ. Hình lớn chụp gần đủ cả lớp, có nhiều người tôi không nhớ tên. Bạn nào nhớ thì nhắc giùm.


ĐỐC MỀN
Ngày xưa, thi đỗ Tú tài 2 lần thì gọi là Tú Kép, đỗ 3 lần gọi là Tú Mền. Nguyễn Thanh Bình, đỗ đốc tờ Việt Nam, Canada và Mỹ, 3 lần nên xưng là Đốc Mền.

Thứ Tư, 3 tháng 12, 2025

Giọt Buồn Không Tên - Tô Giang - Kim Trúc


Sáng Tác: Tô Giang
Trình Bày: Kim Trúc

Lời Tử Sĩ

 

Tạ ơn em đến thăm anh!
Nằm ngoan, ôm nấm cỏ xanh trên mồ!
Mùi hương lan tỏa mơ hồ,
Thấm vào lòng huyệt, thơm tho nồng nàn.

Thôi em! Xin chớ khóc than,
Để hồn anh được bình an miên trường!
Tình mình, chẳng trọn yêu thương,
Biệt ly nhau, giữa đoạn đường thanh xuân.

Anh xin chịu lỗi muôn phần,
Làm em đứt ruột bao lần xót thương!
Anh nằm xuống giữa chiến trường!
Dâng lên Tổ Quốc, máu xương hình hài.

Tình nhà, tình Nước: hai vai,
Đáp đền chỉ một, trong hai mối tình!
Trận tiền, thập tử nhất sinh,
Bỏ em đành đoạn, một mình lẻ loi!

Bơ vơ góa bụa nửa đời,
Khăn tang ủ rũ, bời bời tóc xanh!
Tạ ơn em, đến thăm anh,
Hai dòng nước mắt, tưới xanh cỏ vàng!

Trần Quốc Bảo
Richmond, Virginia

Bụi Hồng Vương Gót



Tiếng khóc xa nhau thật não lòng
Trăm năm hò hẹn cũng thành không
Mai sau trăng rụng trên dòng tóc
Mắt có long lanh môi có hồng

Duyên nợ ba sinh quá mơ hồ
Cho nên dệt mãi chưa thành thơ
Mười năm gặp gỡ bao nhiêu mộng
Tình vẫn nổi trôi vẫn dật dờ

Mây tự nghìn xưa như áo màu
Lững lờ để gió gọi chiêm bao
Không bờ không bến không thuyền mộng
Quanh quẩn mê say chẳng lối vào

Có lẽ người chỉ là mây hồng
Cho nên áo lụa quá bềnh bồng
Cho nhìn một chút rồi tan biến
Vóc dáng mơ hồ mắt hư không

Có lẽ người chỉ là khói bay
Cho nên mờ mịt nhớ thương hoài
Không hình không bóng không cho gặp
Hờ hững bỏ quên kẻ lưu đày

Có lẽ người chỉ là giọt sương
Cho nên không giữ một chút hương
Chưa quen đã thẹn thùng quay mặt
Đã tan nhanh như một giọt đường

Có lẽ người chỉ là gió trưa
Mơ màng đem lại chút hương xưa
Thẫn thờ hồn dạo chơi rừng núi
Văng vẳng bên tai tiếng cợt đùa

Có lẽ người chỉ là trăng non
Cho nên còn mãi lo dỗi hờn
Không lo trang điểm buồn son phấn
Chờ đến bạc đầu vẫn cô đơn

Có lẽ người chỉ là ánh sao
Cho nên xa cách vẫn ngọt ngào
Hư hư thực thực lòng như tuyết
Trong trắng ngọc ngà đến nghìn sau

Có lẽ người chỉ là hương hoa
Cho nên chưa đượm đã phôi pha
Ngẩn ngơ tình vội bay theo áo
Áo cũng lạnh lùng vội tránh xa

Có lẽ người chỉ là bướm vàng
Cho nên chưa hợp đã vội tan
Giấc sầu lận đận tàn hương phấn
Mờ mịt vòng bay khóc lỡ làng

Người là tiên hay tiên là người
Mà sao nghìn kiếp vẫn xa xôi
Có gần thì cũng như hư ảo
Chưa hẹn mà sao lỗi hẹn rồi

Mây khói trăng sao đã nhạt nhòa
Gió sương hoa bướm tiên quá xa
May còn hạt bụi hồng vương gót
Kiếp khác dẫn đường ta gặp ta…

MD 03/31/03
LuânTâm
(Trích trong TT HƯƠNG ÁO,MinhThư xb,MD/USA. 2007 ,tr.296-298)

 

Phùng Tuyết Túc Phù Dung Sơn Chủ Nhân 逢雪宿芙蓉山主人 - Lưu Trường Khanh

 

Phùng tuyết túc Phù Dung sơn chủ nhân 逢雪宿芙蓉山主人 • Gặp tuyết trọ lại nhà chủ nhân núi Phù Dung Thơ Trung Quốc " Thịnh Đường" của Lưu Trường Khanh.

逢雪宿芙蓉山主人

日暮蒼山遠,
天寒白屋貧。
柴門聞犬吠,
風雪夜歸人。

Phùng Tuyết Túc Phù Dung Sơn Chủ Nhân

Nhật mộ thương sơn viễn,
Thiên hàn bạch ốc bần.
Sài môn văn khuyển phệ,
Phong tuyết dạ quy nhân.

Lưu Trường Khanh

Dịch nghĩa:

Mặt trời đã lặn, núi xanh thấy đằng xa xa,
Trời lạnh, nhà ở trống trải nghèo nàn.
Có tiếng chó sủa ngoài cổng cây,
Nhân trở về nhà trong đêm tối đầy gió và tuyết.
(Thi viện)

Gặp Tuyết Trọ Đêm Tại Nhà Ờ Núi Phù Dung Do Chủ Nhân Tiếp Đãi

Mặt trời đã lặn, núi xanh thấy nơi xa xa.
Trời lạnh, nhà ở trống trải nghèo nàn, mái phủ tuyết trắng.
Có tiếng chó sủa ngoài cổng thô.
Trong đêm tối đầy gió tuyết, chủ nhân tiếp đãi khách như người nhà trở về.
(Phí Minh Tâm)

***
Gặp Bão Tuyết Trọ Đêm ở Núi Phù Dung

1-

Tối trời núi thẳm đường còn xa,
Chợt thấy nhà tranh mái trắng ngà.
Chó sủa cổng ngoài chào khách lạ,
Chủ nhân tiếp khách như người nhà.

Gặp tuyết trọ nơi xóm núi Phù Dung

1-

Ngày tắt non xa biếc
Lạnh căm trắng mái quê
Ngoài rào nghe chó sủa
Đêm tuyết đón người về

Trời tối núi còn xa,
Đơn sơ một mái nhà.
Cổng ngoài chó sủa khách,
Gió tuyết chờ đêm qua.

Phí Minh Tâm
***

Chiều tàn non biếc xa xăm
Nhà nghèo trống trải lạnh căm trắng ngần
Cửa sài chó sủa vang rân
Ấm lòng tuyết đón người thân trở về!

Lộc Bắc
Juil21
***
Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu

Chiều hôm hòn núi thẳm
Trời lạnh mái tranh nghèo
Chó sủa đâu ngoài ngõ
Người về đêm tuyết theo.

Bản dịch của Trần Trọng Kim

Chiều hôm thăm thẳm non xanh,
Một bầu trời lạnh, nhà tranh đói nghèo.
Cửa sài chó sủa nhì nhèo,
Đương đêm gió tuyết quạnh hiu người về.

***
Gặp tuyết trọ nơi xóm núi Phù Dung

1-

Ngày tắt non xa biếc
Lạnh căm trắng mái quê
Ngoài rào nghe chó sủa
Bão tuyết đón người về!

2-

Chiều tàn non biếc xa xăm
Nhà nghèo trống trải lạnh căm trắng ngần
Cửa sài chó sủa vang rân
Ấm lòng tuyết đón người thân trở về!

Lộc Bắc
Juil21

1-

Mặt trời lặn núi xa
Lạnh phủ mái tranh tàn
Người về đêm gió tuyết
Cổng đóng chó sủa vang

2-

Hoàng hôn khuất bóng núi xa xa
Một túp lều tranh khí lạnh tràn
Cổng đóng cài then nghe chó sủa
Ai về đêm gió tuyết miên man

CN-H.N.T., 
Feb.25.23 (584)

Phân Tích Danh Và Sắc


Trong phần Duyên Khởi và Thập Nhị Nhân Duyên, cái gọi là con người đã được phân tích thành 2 thành phần:
- Sắc, tức phần Vật Lý, gọi là Thân.
- Danh tức phần Phi Vật Lý gọi là Tâm. Tâm lại được phân tích thành 4 thành phần là Thức, Tưởng Thọ, Hành.
Trong phần này, mình sẽ tiếp tục phân tích sâu hơn tới khi thấy được các thành phần cơ bản nhất của Sắc hay Thân và Danh hay Tâm. Đó là sự phân tích tới tận cùng, phân tích sâu đến mức không thể phân tích sâu hơn nũa.
Tại sao lại phải phân tích sâu như vậy?
Mục đích: rất quan trọng: để thấy thật rõ những yếu tố cơ bản nào trong Thân và Tâm chi phối các hoạt động của Thân và Tâm đưa tới Đau Khổ hay An Vui.

SẮC.


28 Sắc Pháp

Tất cả các thể vật lý (Sắc pháp), theo lời giảng của Phật, thì được cấu tạo bởi 4 yếu tố cơ bản nhất, có thể gọi là 4 nguyên tố. Đó là 4 yếu tố Đất, Nước, Gió, Lửa hay tiếng hán việt thường dùng trong sách là Địa, Thủy, Phong, Hỏa.

Bốn yếu tố cơ bàn này gọi là Tứ Đại tức 4 yếu tố chủ yếu nhất.

Dẫn xuất từ 4 yếu tố cơ bản chủ yếu nhất này là 24 sắc pháp khác. Tổng công như vậy là có 28 sắc pháp.Tạm thời chỉ tìm hiểu 4 yếu tố chính này trước, vì cũng tạm đủ  để có mot65v kiến thức căn bản về Sắc

Tứ Đại

Đất : Tuy gọi tên là Đất, nhưng thực ra đó là tên gọi cho yếu tố có tánh chất đặc (solid).
Nước: cũng vậy, không phải là Nước (H2O) như mình thường gọi, mà đó là tên gọi cho yếu tố có tính kết nối, kết dính các yếu tố đặc (Đất).
Gió: cũng vậy, không phải là gió như mình thường gọi, mà chỉ là tên gọi cho yếu tố hỗ trợ sự chuyển động, tức Khoảng Không
Lửa: cũng vây, không hẳn phải là Lửa như thường thấy, mà chỉ là tên gọi cho năng lượng, trong đó nhiệt độ là một dạng năng lượng, Nhiệt Năng.
Nhờ vào tiến bộ của Khoa Học Vật Lý, ngày nay ta có thể biết rằng :
Tất cả các thể vật lý, cái bàn, cái ghế, hòn đá, cây cối, sông hồ. biển cả, và cơ thể con người đều cấu tạo bởi các phân tử (molecules). Mỗi phân tử lại được cấu tạo bởi các nguyên tử (atom)
Mỗi nguyên tử được cấu tạo bởi :
-các hạt : proton (hạt dương tính), neutron (hạt trung tính), electron (hạt âm tính): đó là yếu tố Đất
- lực kết nối giữa proton và electron : yếu tố Nước
- khoảng không giữa các hạt : yếu tố Gió
- năng lượng để các electrons di chuyển trên các quỹ đạo của chúng : yếu tố Lửa.
Tùy theo số lượng các proton, electron, và proton mà có những nguyên tử khác nhau.
Thí dụ 1 : nguyên tử Oxygen thì có
Nhân (nucleus) gồm có 8 proton và 8 neutron.
Chung quanh nhân là 8 electrons được phân phối trên 2 quỹ đạo :
Quỹ đạo trong, gần Nhân : có 2 electrons
Quỹ đạo ngoài : có 6 electrons.
Thí dụ 2: nguyên tử hydrogen
Nhân : chỉ gồm có 1 proton, không có neutron nào.
Quỹ đạo: chỉ có 1 electron duy nhất.

Các nguyên tử khác nhau kết hợp thành các phân tử khác nhau.

Thí dụ: 2 nguyên tử hydrogen kết hợp với 1 nguyên tử oxygen thành một phân tử nước H2O.

Nhiều phân tử khác nhau kết hợp lại thành các thể vật lý phức tạp hơn như cái bàn, cái ghế, cây cỏ, hòn đá, cơ thể con người.

Bốn yếu tố cơ bản thì có bản chất không thay đổi và được gọi là Sắc Chân Đế. Nhưng những hợp thể cấu tạo bởi các yếu tố cơ bản này chỉ là kết quả của sự kết hợp tạm thời, luôn luôn biến đổi tùy điều kiện, và được gọi là Sắc Tục Đế.

Thí dụ:

- Nước lỏng khi gặp nhiệt độ cao sẽ biến thành khí hơi nước.
- Hạt lúa phát triển, biến đổi thành cây lúa.
- Bé sơ sinh phát triển biến đổi dần thành trẻ em, rồi người lớn.

Như vậy, 4 yếu tố cơ bản này giống như 4 loại gạch để xây dựng lên những ngôi nhà mang tên Sắc. Những ngôi nhà này chỉ là sự kết hợp tạm thời của 4 loại gạch đó với số lượng và tỉ lệ khác nhau. Tùy theo tỉ lệ của từng yếu tố Đất, Nước, Gió. Lủa. 

Một lần nữa ta lại thấy luật duyên khởi trong sự sinh khởi và biến đổi của các pháp, ở đây là Sắc pháp:


Có Tứ Đại thì mới có Cây Lúa.Tứ Đại là duyên cho Cây Lúa sinh khởi. Ngay cả một nguyên tử : một nguyên tử được hình thành, sinh khởi từ sự kết hợp của 4 yếu tố căn bản đó. Nguyên Tử, Atom, vẫn là một Sắc Tục đế


Tứ Đại, Đất, Nước, Gió, Lửa được gọi là Chân Đề Absolute Reality hay Sắc Chân Đế.

Cái Cây tự nó không tự hiện hữu mà chỉ sinh khởi do duyên là Tứ Đại, và được gọi là Sắc Tục Đế, Conventional Reality. Cái Cây, một Sắc Tục Đế thì luôn luôn biến đổi theo những điều kiện, những "duyên". Tên gọi cố định “cái cây” là một tên gọi theo ước lệ ( tục lệ, convention) để giao tiếp, chứ sự thực là không có một cái cây với đặc tính cố định, bất biến đúng theo tên gọi.

Thí dụ: Hạt Lúa biến đổi thành Cây Lúa nhờ các điều kiện như nước, thời tiết, phân bón hay màu mỡ của đất.


Đất, Nước, Gió, Lửa được gọi là Sắc Chân Đế vì chúng là một thực thể thực sự hiện hữu, mỗi một Sắc Chân Đế là một đơn vị cơ bản nhất, nó không được cấu tạo từ các thành phần. Tuy đặc điểm của từng Sắc Chân Đế không thay đổi, nhưng nó vẫn góp phần vào tiến trình sinh diệt biến đổi của các Sắc Pháp tục Đế, nên nó vẫn thuộc thế giới hữu vi (vi : nghĩa là làm ra, tạo ra)


Cái bàn, cây lúa. v.v. sinh khởi từ sự kết hợp tạm thời các Sắc Chân Đế, và do đó luôn luôn biến đổi, nhưng vẫn được gọi bằng một cái tên cố định “ Cây Lúa”. Do đó cái tên “ Cây Lúa” chỉ là một cái tên đặt ra theo ước lệ (convention) để tiện giao tiếp.


Tại sao phải phân tích chi li như vậy làm chi?


Để thấy:


Tất cả các Sắc Pháp Tục Đế đều Vô Thường, sinh diệt biến đổi Tùy Duyên


DANH (NAMA)

Trong phần phân tích Tâm, ta cũng sẽ thấy được liên hệ mật thiết giũa tâm và thân, danh và sắc theo đúng luật duyên khởi

Tâm gồm có 4 thành phần, đó là Thức, Tưởng, Thọ, Hành.

Xin nhắc lại một chút về danh từ :
Tâm và Thức là 2 cái khác nhau: Thức (Vinnana) chỉ là một thành phần của Tâm (Citta). Tâm thì gồm có 4 thành phần : Thức, Tưởng, Thọ, Hành. Thức chỉ là một thành phần của Tâm
Tưởng, Thọ, Hành là các trạng thái, hoạt động của tâm cùng sinh khởi với Thức, được gọi là sở hữu tâm (mental properties, Cetaska).
Cetasikas có 4 đặc tánh:

- Cùng sinh với Thức.
- Cùng diệt với Thức
- Cùng một đối tượng
- Cùng một Căn  (sense-base).

Như vậy Thức và tất cả cetasikas cùng sinh cùng diệt. Phải hiểu rõ và ghi nhớ điều này thì mới hiểu đúng Phật Pháp, như sẽ thấy sau trong bài này.

Danh từ:

Sở Hữu Tâm= Sở Hửu của Tâm =  mental properties = mental concomitants  = concomitant mental states =  cetasika).

Tâm (Citta) và Thức ( Vinnana) thường được (hay bị) dùng như 2 tiếng đồng nghĩa. Nhưng thực ra như đã thấy ở trên, Thức chỉ là một thành phần, một hoạt động của Tâm. Cần phải chấp nhận và xử đụng đúng như vậy để tránh bị confused trong việc nghiên cứu phân tích và hiểu cho đúng cho rõ Phật Pháp tức Sự Thật về Hoạt Động của Tâm-Thân, Ngũ Uẩn.

Tâm = Thức + (Tưởng + Thọ + Hành)

Citta = Vinnana + ( Sanna + Vedana + Sankhara)

Để có thể theo dõi và hiếu các phần kế tiếp, để hiểu Phật Pháp, thì hiểu và nhớ tiến trình hoạt động của Tâm là một điều kiện cần thiết, có thể gọi là thiết yếu. Vì thế tôi xin nhắc lại sơ đồ về các Tiến Trình Hoạt Động của Tâm, hay còn gọ là Lộ Trình Tâm. 

Những điều trình bày về Lộ Trình Tâm dưới đây sẽ cho mình có một cái nhìn tổng quát, đại cương về Hoạt Động của Tâm-Thân, Ngũ Uẩn. Từ cái khung đó mình sẽ tiếp tục phân tích sâu hơn để thấy đầy đủ chi tiết về hoạt động của Tâm-Thân, Ngũ Uẩn. Đó chính là mục đích của học Phật.

Sự Thật về Hoạt Động của Tâm Thân chính là Phật Pháp.

Trong phần Duyên Khởi và Thập Nhị Nhân Duyên, Lộ Trình Tâm đã được trình bày một cách đại cương, nay cũng xin nhắc lại, trước khi đi sâu hơn vào sự phân tích.

Có 2 Lộ Trình Tâm :

-Lộ Ngũ Môn với đối tượng là một Sắc Cảnh tục đế

- Lộ Ý Môn với đối tượng là một Pháp Cảnh (cảnh phi vật lý)

Lộ Ngũ Môn: Lộ Trình hoạt động của Tâm với đối tượng là một với đối tượng là một Sắc Cảnh tục đế với Căn là Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân:

Lấy Lộ Ngũ Môn với Căn là Mắt : Lộ Nhãn Môn. Tiến trình hoạt động của Tâm, tức tiến trinh sinh diệt biến đổi của Tâm, trải qua những giai đoạn kế tiếp như sau :

Tâm Hữu Phần -- > Tâm Khán Nhãn Môn -- > Tâm Nhãn Thức --> Tâm Tiếp Nhận -- > Tâm Quan Sát -->  Tâm Xác Định -- > Tâm Tạo Nghiệp -- >Tâm Thập Di-- > Tâm Hữu Phần mới.

Để minh họa, tôi xin kể lại một kinh nghiệm quan sát tâm của bản thân tôi :

Love at First Glance. Yêu từ Cái Nhìn Đầu Tiên.


Một hôm, tôi đang dạo bước trong khuôn viên Bệnh Viện. Cảnh vật đã quá quen thuộc, không có gì mới lạ đáng để tôi chú ý tới. Lúc đó tâm tôi như đang chìm đắm về những kỷ niệm xa xưa mơ hồ trong tiềm thức .(Tâm tôi lúc này được gọi là Tâm Hữu Phần).

Rồi một người con gái lạ xuất hiện, bước đi ngược chiều với tôi. Cặp mắt kính cũ đã lâu không đổi, khiến tôi chỉ nhìn rõ gương mặt của nàng khi nàng tới gần. Hướng mắt tới khuôn mặt của nàng, ánh mắt của tôi tiếp xúc với khuôn mặt kiều diễm của nàng. (Hướng mắt tới, hay hướng tâm qua mắt tới khuôn mặt của nàng là hoạt động của Tâm Khán Nhãn Môn).

 Sự tiếp xúc này tạo một biến đổi trong tâm tôi khiến tôi chú ý tới và nhìn thấy rõ khuôn  mặt kiều diễm của nàng, tâm tôi bỗng choáng ngợp với một niềm vui khó tả.(Đây là sự sinh khởi và hoạt động của Tâm Nhãn Thức, với Cảm Thọ cùng sinh khởi với Nhãn Thức).

Nàng tiếp bước qua khỏi tầm mắt của tôi, tôi không còn nhìn thấy nàng, cô gái vật lý đó, nhưng hình ảnh gương mặt của nàng đã in vào tâm tôi (Đây là hoạt động của Tưởng tạo hình ảnh cô gái trong tâm, tức ký ức về cô gái), khiến tôi vẫn thấy được hình ảnh gương mặt nàng trong tâm, mental image of her face. Ký ức của gương mặt và niềm vui cùng sinh khởi vẫn lắng đọng trong tâm của tôi. Tâm tôi nhận biết và tiếp nhận hình ảnh trong tâm đó là đối tượng. Đó là Tâm Tiếp Thu


Rồi tâm tôi quan sát hình ảnh trong tâm (mental image) đó. Tôi quan sát từng chi tiết của hình ảnh khuôn mặt nàng: ánh mắt, làn môi, cánh mũi nhỏ nhắn...

Quan sát này là hoạt động của Tâm Quan Sát. Đối tượng của Tâm Quan Sát là Ký Ức về đối tượng vật lý. Ký Ức không thuộc về thế giới vật lý, mà thuộc về thế giới phi vật lý. Đối tượng phi vật lý được gọi là Pháp Cảnh. Phap Cảnh như vậy có thể là ngôn từ, khái niệm, ý tưởng, cảm thọ..v..v.


Sau khi quan sát và biết rõ các chi tiết do quan sát thấy, thì tâm tôi xác định rằng quả thật gương mặt nàng thật kiều diễm, đã tạo niềm vui khó tả trong tâm tôi. Đây là hoạt động của Tâm Xác Định


Rồi sau khi đã xác định chắc như vậy, tôi tin chắc rằng sự tiếp xúc với cô gái xinh đẹp đó mang lại niềm vui khó tả trong tâm tôi, nên khi nhớ lại nhớ lại (Niệm) cái niềm vui khi ban đầu nhìn thấy gương mặt kiều diễm của nàng, tôi không tránh khỏi khao khát được gặp lại nàng để hưởng lại niềm vui đó. Mỗi khi nhớ lại như vậy (trong mỗi Tâm Tạo Nghiệp của 7 tâm tạo nghiệp liên tiếp), tôi lại càng khao khát hơn. Như vậy việc nhớ lại hỉ lạc đã được hưởng là duyên cho khao khát sinh khởi. Đây là hoạt động của Tâm Tạo Nghiệp, còn gọi là Tâm Tạo Tác hay Tâm Đổng Tốc, Javana. Sự khao khát trong tâm là Ý Nghiệp. Khi sự khao khát đủ mạnh thì sẽ có hành động để thực hiện Ý Nghiệp, bằng lời nói thì gọi là Khẩu Nghiệp, bằng hành động của Thân thì gọi là Thân Nghiệp.


Nhãn Thức sinh khởi và chỉ tồn tại một satna, như trong trường hợp này: cô gái đi ngược chiều với tôi, tôi chỉ có thể nhìn thoáng qua gương mặt trong một khoảnh khắc, nhưng sau đó, gần như ngay lập tức sau đó, khi nhớ lại khuôn mặt kiều diễm của cô thì khao khát sinh khởi trong tâm tôi. Khoảng thời gian từ khi Nhãn Thức sinh khởi, tới khi có khao khát là khoảng thời gian tâm biến đổi qua các giai đoạn Tâm Tiếp Thu, Tâm Quan Sát, và Tâm Xác Định trước khi Khao khát sinh khởi trong Tâm Tạo Nghiệp kế đó khi nhớ lại hỉ lạc đã sinh khởi trước đó vài satna.


 Sự khao khát dẫu thoáng qua đó vẫn để lại dấu ấn trong tâm khiến tôi ước mong ngày nào đó sẽ gặp lại nàng. Đây là hoạt động của Tâm Thập Di, ước mong ngày nào đó sẽ gặp lại nàng, đó là Hữu Ái, muốn tiếp tục sống, tiếp tục hiện hữu để được hưởng lại niềm vui đã từng được hưởng. Hữu Ái là một hoạt động của Tâm Thập Di.. Sau một loạt biến đổi thì Tâm tôi trở lại tình trạng Tâm Hữu Phần. Nhưng là mốt Tâm hữu Phần mới vì đã tiếp nhận thêm một loạt kinh nghiệm từ khi gặp nàng.


Khoảng một lễ sau, tình cờ tôi gặp lại nàng trong một bữa tiệc sinh nhật của con gái người bạn. Lần này tôi có nhiều thời gian tiếp xúc với nàng. Tiến trình hoạt động của tâm tôi cũng như vậy và được lập đi lập lại không biết bao nhiêu lần. Cứ mỗi chu kỳ hoạt động của tậm, tôi thấy vẫn nàng luôn luôn đẹp, luôn luôn tạo một cảm thọ thật dễ chịu trong tâm tôi, và tôi lại càng yêu thích nàng hơn và thầm mơ ước được chung số với nàng mãi mãi.

Như vậy Lộ Trình Tâm hay Diễn Tiến Hoạt Động của Tâm đã trải qua các giai đoạn :


Tâm Hữu Phần x3 --> Tâm Khán Nhãn Môn --> Tâm Nhãn thức -->Tâm Tiếp Thu--> Tâm Quan Sát --> Tâm Xác Định --> Tâm Tạo nghiệp (Javana) x7 --> Tâm Thập Di (Retentive Mind) x2. Tới đây là chấm dứt một chu kỳ 17 sat na.


Qua 17 satna này thì Sắc Thân, trong đó có Sắc Căn ( Mắt), cũng đã biến đổi thành một Sắc Thân mới.

Sắc Thân mới này lại cùng với Tâm Hữu Phần mới tiếp tục các chu trình 17 satna mới. Cứ thế liên tục mãi.


Tâm Hữu Phần x3 có nghĩa là có 3 Tâm hữu Phần liên tiếp sinh rồi diệt biến đổi thành một Tâm hữu Phần kế tiếp. Tuy cùng tên Hữu Phần nhưng 3 Tâm Hữu Phần đều khác nhau.

Tâm Tạo Tác x7, Tâm Thập Di x2 cũng vậy. 

Mỗi Tâm chỉ tồn tại 1 satna. Nên tổng cộng một chu trình là 17 satna.


Như vậy mình có thể thấy sự Tục Sinh, hay Tái Sinh của Tâm và Thân mỗi 17 satna.


Phật cũng lại nói : "Mỗi quý vị đều đã sinh ra và chết đi từng satna". Như vậy nghĩa là gì ?

Như trên đã nói : mỗi Tâm chỉ tồn tại 1 satna. Thí dụ : Tâm Khán Nhãn Môn kết hợp với Sắc Thân thành một hợp thể Tâm Khán Nhãn Môn-Thân

Satna kế tiếp thì ta có hợp thể Tâm Nhãn Thức-Thân.

Như vậy hợp thể Tâm-Thân biến đổi mỗi satna, hợp thể Tâm-Thân sinh diệt, sinh ra rồi chết (diệt) mỗi satna.


Điểm mấu chốt phải hiểu và nhớ là: Vào bất kỳ một thời điểm nào cũng chỉ có một tâm và mỗi tâm đó chỉ tồn tại 1 satna rồi bị biến đổi thành một Tâm mới.

Vì thế không có dòng tâm thức nào cả. Một thời điểm chỉ có một tâm. Dùng chữ Dòng Tâm Thức nghe có vẻ hay, và gợi hình, nhưng thực sự không đúng và khiến không hiểu được ý nghĩa của Tái Sinh.


Tái Sinh là :  MỘT Tâm này diệt thì được tiếp nối bởi MỘT Tâm mới.

Tiến trình sinh diệt của Tâm cứ tiếp tục như vậy suốt trong kiếp 100 năm này và tiếp tục qua kiếp khác

Tâm cuối cùng của một kiếp 100 năm này (Tâm Tử) được biến đổi thành Tâm đầu tiên trong kiếp 100 năm mới. Tâm này được gọi là Tâm Tục Sinh hay Tâm Tái Sinh. Tâm này kết hợp với một Sắc Thân mới, là Trứng Thụ Tinh để tiếp tục tiến trình sinh diệt của Tâm-Thân.

Chu trình Tâm 17 satna cuối cùng chấm dứt bằng Tâm Thập Di, trong Tâm Thập Di thì có Hữu ái, khao khao được tiếp tục trở thành một thực thể mới, một hiện hữu mới để tiếp tục hưởng lạc. Hữu Ái này tiếp tục được chuyển vào các Tâm Hữu Phần kế tiếp. Tâm hữu Phần cuối cùng (Tâm Tử), vẫn tích trữ Hữu Ái, Hữu Ái là động lực cho Nghiệp Hữu, tức ý nghiệp đưa tới Tái Sinh : Tâm Hữu Phần cuối cùng do năng lực của Hữu Ái biến đổi thành Tâm Hữu Phần đầu tiên của kiếp mới, gọi là Tâm Tục Sinh


Như vậy : Tâm A biến thành Tâm B, nghĩa là Tâm A không còn (diệt) và Tâm B được sinh ra. 

Đó chính là Tái Sinh.


Không có một cái Tôi, một Linh Hồn bất biến, thường hằng, bất tử nào di chuyển từ Sắc Thân cũ của kiếp trăm năm này qua một sắc thân mới của kiếp trăm năm mới cả.


Tiến trình Tục Sinh như vây không phải Thường Kiến vì không có một Linh Hồn bất biến, thường hằng nào cả

Tục Sinh cũng không phải là Đoạn Kiến vì sau cái chết của săc thân của kiếp trăm năm thì Tâm cuối vẫn tiếp tục biến đổi thành Tâm mới đầu tiên trong kiếp trăm năm mới.


Tôi hi vọng là Quý Bạn có đủ kiên nhẫn đọc và tôi đã trình bày tương đối đủ nhưng không qua nhiều chi tiết để mình hiểu Tái Sinh và phân biệt được Tái Sinh (Rebirth) của Đạo Phật và Tái Nhập ( Reincarnation) của các Tôn Giáo khác.

Tái Nhập (Reincarnation) là có một linh hồn, một cái Ngã, thường hằng, bất biến, bất tử di chuyển từ kiếp này sang kiếp khác và nhập vào một  sắc thân mới.


Lộ Ý Môn: Lộ Trình hoạt động của Tâm với đối tượng là một Pháp Cảnh (cảnh phi vật lý).

Lộ Ý Môn tiến triển qua các giai đoạn sau :

Tâm Hữu Phần -- > Tâm Khán Ý Môn -- > Tâm Tạo Nghiệp.

Để minh họa, tôi xin kể lại một kinh nghiệm khác qua sự quan sát tâm của tôi:

Một tuần trước, bạn tôi rủ tôi đi ăn phở tại tiệm phở House of Pho là nơi tôi chưa từng tới. Tô phở tái nạm gân mới ngon làm sao.

Sáng nay mới thức dậy (Tâm Hữu Phần), thấy đói, chợt nghĩ tới, nhớ lại  tô phở thơm phức với vị thật đậm đà khoái khẩu, đã từng ăn tại tiệm phở House of Pho đó (Tâm Khán Ý Môn) thấy thèm (khao khát), liền thay quần áo và lái xe để tới tiệm phở (Tâm Tạo Nghiệp). Ăn xong tô phở thì hương vị tô phở, niềm vui khi được hưởng lạc thú đến từ tô phở vẫn còn vương vấn trong tâm khiến tôi mong có dịp thưởng thức lại (Tâm Thập Di với Hữu Ái và Nghiệp Hữu).

Sở dĩ tôi đã trình bày khá dài dòng về tiến trình hoạt động của tâm vì phân thích và thấu hiểu tiến trình hoạt động của tâm sẽ giúp mình thấy hoạt động trong tâm nào mang lại khổ đau và hoạt động nào giúp mình tránh được khổ đau và có được an vui, hạnh phúc.

Phần trên cho ta thấy một cách tổng quát tiến trình hoạt động của Tâm-Thân. Dựa trên đó, sẽ phân tich, mở rộng và sâu hơn để có thể bao gồm tất cả các hoạt động của Tâm-Thân.

Sau đây xin trở lại với phần Phân Tích Danh, Analysis of the Mind.

Tâm có 4 hoạt động là Thức,Thọ, Hành, Tưởng. Thức, Thọ và Tưởng đã nói trong phần Luật Duyên Khởi và Thập Nhị Nhân Duyên. Phần sau đây tới sẽ chú trọng nhiều vào Hành Uẩn.

Qua thí dụ trên “ Yêu từ cái nhìn đầu tiên”. Ta thấy tiến trình hoạt động, sinh diệt biến đổi của Tâm theo một nguyên tắc cơ bản là :

Sự tiếp xúc của một tâm A qua Căn với Cảnh sẽ tạo nên những biến đổi trong Tâm A và biến đổi Tâm A thành một tâm mới, Tâm B  với Thức, Tưởng,Thọ, Hành của nó, tâm B.

Thí dụ: Sự tiếp xúc của Tâm Khán Nhãn Môn qua Nhãn Môn tiếp xúc với Nhãn Cảnh thì tạo những biến đổi trong Tâm Khán NHãn Môn và biến đổi Tâm Khán Nhna4 Môn thành Tâm Nhãn Thức với các thành phần Thức ( NHãn Thức), Tưởng, Thọ, Hàn của Tâm Nhãn thức.

Thức (Vinnana):

Thức là sự nhận biết đối tượng. Đối tượng gọi là Cảnh hay Trần. Đối tượng có thể là một thể vật lý, Sắc Cảnh, hay phi vật lý, Pháp Cảnh.

Sắc Cảnh là đối tượng của Ngũ Thức : Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỉ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức.

Pháp Cảnh là đối tượng của Ý Thức.

Để hiểu rõ Thức sinh khởi như thế nào, tôi xin trở lại Lộ Trình Tâm Ngũ Môn.

Nguyên tắc căn bản trong tiến trình sinh diệt biến đổi của Tâm là :

Tiếp xúc của Tâm A với Cảnh qua Căn sẽ tạo biến đổi trong Tâm A và biến đổi Tâm A thành một Tâm B mới với Thức, Tưởng, Thọ, Hành của nó, Tâm B.

Hay nói cách khác

Tiếp xúc của Tâm A với Cảnh sẽ khiến Thức sinh khởi trong Tâm B kế tiếp. 

Lộ Ngũ Môn trải qua các giai đoạn sau:

1.Tâm Hữu Phần (Bhavanga Citta))

Khi không có đối tượng mới thì Tâm ở trạng thái gọi là Tâm Hữu Phần. Đối tượng của Tâm hữu Phần là Kho Ký Ức trong tiềm thức. Tâm hữu phần cũng có đủ Thức, Tưởng, Thọ, Hành. Một trong hoạt động Hành của Tâm hữu Phần là tiếp xúc với cành (ký ức tiềm thức)

2. Tâm Khán Nhãn Môn

Khi có một đối tượng mới xuất hiện (cô gái) thì sự tiếp xúc của Tâm Hữu Phần với Cảnh biến đổi Tâm Hữu Phần thành một Tâm mới. Tâm này hướng về Nhãn Môn, rồi qua Nhãn Môn tiếp xúc với Cô Gái và nhận biết đó là Đối Tượng mới của nó. Tâm này vì thế được gọi là Tâm Khán Nhãn Môn. “Nhận biết bông hoa là đối tượng mới của nó” là Thức của Tâm Khán Nhãn Môn.

2.Tâm Nhãn Thức.

Tiếp xúc của Tâm Khán Nhãn môn với Bông Hoa biến đổi Tâm Khán Nhãn Mộn thành một Tâm mới với Thức mới là Nhãn Thức, nhìn thấy bông hoa, biết đối tượng mới của nó là một bông hoa, là bông hoa đó.

Để ý 2 câu :

-Thức của Tâm Khán Nhãn Môn là nhận biết bông hoa, hay một sắc pháp nào đó, là đối tượng của nó.

- Thức của Tâm Nhãn thức (Visual Mind), tức Nhãn thức là Biết đối tượng của nó là bông hoa.

Nghe qua có vẻ giống nhau, nhưng nghĩ kỹ thì sẽ thấy ý khác nhau.

3. Tâm Tiếp Thu.

Khi Nhãn Thức sinh khởi thì Thọ, Tưởng, Hành cũng cùng sinh khởi. Trong các hoạt động đó thì Tưởng tự động tạo hình ảnh cô gái trong tâm, mental image of the girl, đó là Ký Ức về Cô Gái. Hình ảnh cô gái trong tâm đó trở thành đối tượng cho tâm kế tiếp. Tâm kế tiếp này tiếp nhận và nhận biết hình ảnh cô gái trong tâm đó là đối tượng của nó. Vì thế được gọi là Tâm Tiếp Thu. Hình ảnh cô gái trong tâm là phi vật lý, một pháp cảnh. Do đó Thức của Tâm Tiếp Thu là một Ý Thức (Mental Consciousness, Mental Awareness).

4. Tâm Quan Sát.

Tiếp xúc của Tâm Tiếp Thu với đối tượng, ký ức về cô gái, tạo biến đổi trong Tâm Tiếp Thu, biến đổi tâm tiếp thu thành một tâm mới với chức năng mới là Quan Sát đối tượng pháp cảnh đó. Thức của Tâm Quan Sát là nhận biết các chi tiết của đối tượng do sự quan sát.

5. Tâm Xác Định.

Tiếp xúc của tâm quan sát với đối tượng (ký ức về cô gái) biến đổi tâm quan sát thành một tâm mới với chức năng xác định : xác định rằng tiếp xúc với cô gái đem lại niềm vui. Thức của Tâm Xác Định là nhận biết rằng cô gái là đối tượng tạo hỉ lạc. “Rằng cô gái là đối tượng tạo hỉ lạc” là một ý tưởng, một pháp cảnh, làm đối tượng cho Thức của tâm xác định.

6. Tâm Tạo Nghiệp:

Tiếp xúc của tâm xác định với đối tượng, ký ức về cô gái và niềm vui sinh khởi khi nhìn thấy cô gái, biến đổi tâm xác định thành tâm tạo nghiệp: sau khi xác định thì biết chắc ( Thức) và tin chắc rằng tiếp xúc với cô gái thì có niềm vui, nên khi nhớ lại niềm vui ban đầu đó thì khao khát  sinh khởi, và sau mỗi lần nhớ lại thì khao khát lại càng mạnh (qua 7 tâm tạo nghiệp liên tiếp). Khi khao khát đủ mạnh thì khao khát (Ý Nghiệp) đưa tới hành động (Nghiệp) để thỏa mãn khao khát đó. 

7. Tâm Thập Di.

Sau 7 satna của 7 tâm đổng tốc, dù có có tạo nghiệp hay vẫn chỉ là ý nghiệp thì ký ức của đối tượng, cảm thọ và khao khát vẫn lưu lại trong tâm. Vì thế tâm này được gọi là Tâm Thập Di (Retentive Mind). Có 2 Tâm Thập Di nối tiếp nhau. 

Sau khi tâm thập di cuối cùng chấm dứt thì Tâm trở lại trạng thái Tâm Hữu Phần, nhưng là một Tâm hữu Phần mới, vì đã qua một quá trình biến đổi trong 17 satna vừa qua. Và một chu trình mới lại tiếp diễn khi có một đối tượng mới.

Sau 17 satna thì sắc cảnh (cô gái) cũng đã biến đổi thành một cô gái mới.

Sắc Thân, trong đó có Sắc Căn (Mắt) cũng biến đổi thành một Sắc Thân mới với Sắc Căn mới.

Như vậy sau 17 satna thì có một Sắc Thân mới + môt Tâm Hữu Phần mới để bắt đầu một chu trình mới.

Mắt là một Căn trong Ngụ Căn, Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi,Thân. Tương ứng với mỗi Căn thì có môt lộ trình tâm tương ứng, nhưng cũng vẫn theo trình tự nhất định như vậy. Vì thế nên có tên gọi tổng quát là Ngũ Thức

Xét lộ trình Ngũ Môn ta có thể thấy Ngũ Thức là duyên cho các Ý Thức sinh khởi sau đó : không có Ngũ Thức thì không có Ý Thức.

Trong thí dụ “ Love at First Glance” thì một thời gian sau, một tuần, một tháng... mỗi khi nhớ lại niềm vui ban đầu khi gặp cô gái thì khao khát lại sinh khởi. Như vậy ta thấy phải có lộ ngũ môn trước đó thì mới có lộ ý môn: lộ ngũ môn là duyên cho lộ ý môn sinh khởi.

Thọ (Vedana):

Thọ tự động sinh khởi khi có Thức. Không thể ngăn chặn sự sinh khởi của Thọ. Xin coi lại phần Thọ đã được trình bày đây đủ trong Duyên Khởi và Thập nhị Nhân Duyên.

Tóm tắt lại: Thọ có 2 loại : Sắc Thọ (Physical Felings) và Tâm Thọ (Psychological Feelings)

Sắc Thọ thì có 3 cấp bậc : Lạc (sukkha), Khổ (dukkha), Trung Tính (upekkha)

Tâm Thọ thì có 3 cấp bậc : Hỉ (somanassa), Ưu (domanassa),Trung Tính (upekkha).

Hành

Hành là các hoạt động có chủ ý của một Tâm, phối hợp vơi nhau nhằm thực hiện chức năng, công việc của Tâm đó. Mỗi môt Tâm thì có một số hoạt động có chủ ý riêng cho Tâm đó.

Hành của Tâm Khán Nhãn Môn gồm các hoạt động có chủ ý của Tâm để thực hiện công việc của Tâm Khán Nhãn Môn: hướng tâm về Nhãn Môn va qua đó tiếp xúc với Cảnh, Bông Hoa.

Hành của Tâm Nhãn Thức thì gồm những hoạt động có chủ ý của Tâm để thực hiện công việc Nhìn để Thấy, thi dụ Xúc, tiếp xúc là một Hành của Tâm Nhãn Thức.

Hành của Tâm Quan Sát thì gồm các hoạt động có chủ ý của Tâm để thực hiện việc Quan Sát.

Hành của Tâm Phân Đoán, Xác Định thì gồm các hoạt động có chủ ý của để thực hiện việc phân tích, phán đoán và xác định.

Hành của Tâm Tạo Nghiệp thì gồm các hoạt động có chủ ý của tâm nhằm thực hiện ý định hành động của Tâm (ý nghiệp), có tiềm năng đưa tới hành động có chủ ý của thân (thân nghiệp). Tùy theo các sở Hành trong Tâm Tạo Nghiệp là Thiện hay Bất Thiện mà Tâm có tánh Thiện hay Bất Thiện. Tâm Thiện thì đưa tới Thiện Nghiệp. Tâm Bất Thiện thì đưa tới Bất Thiện Nghiệp.

Nói chung, Hành của các Tâm sẽ được nói rõ hơn sau khi phân tích thật sâu để thấy tất cả các sở hữu thuộc Hành uẩn.

Tưởng (Sanna) là automatic memorization, là một hoạt động không có chủ ý của Tâm, tự động ghi chép, copy trọn vẹn thực tại (đối tượng) vào tâm, giống như . Kết quả hoạt động của Tưởng là Ký Ức, Memory: ký ức của đối tượng ( Thức), ký ức về cảm thọ (Thọ) cùng sinh khởi với thức, ký ức về cảm xúc và hành động (Hành) sinh khởi từ Thức. Tóm lại : Tưởng tự động ghi chép lại tất cả mọi hoạt động của Tâm ( Thức + Thọ + Hành)

Ký ức, memory, sẽ tồn tại mãi trong Tâm (Tâm Hữu Phần, Bhavanga).

Tưởng là một hoạt động tự động, không thể ngăn chặn sự sinh khởi và hoạt động của Tưởng.

Tưởng là một đặc tánh rất quan trọng của Tâm, vì nó liên quan mật thiết với Niệm (Sati), như đã thấy trong lộ trình tâm ngũ môn: Nhớ lại (Niệm) ký ức về cô gái (do Tưởng) thì Khao Khát sinh khởi.

Nhưng Tưởng (Sanna) và NIệm (Sati) lại được giải thích và phiên dịch nhiều cách khác nhau có khi mâu thuẫn nhau tùy tác giả, và có khi không chính xác, không đúng theo sự quan sát hoạt động của Tâm. Vì thế xin được nhắc lại phần nói về Tưởng đã trình bày trong phần Luật Duyên Khởi.

Tưởng: (Định nghĩa danh từ : Tưởng là tiếng Hán Việt có nghĩa là Nhớ). Khi nhìn môt bông hoa, rồi nhắm mắt lại thì vẫn thấy hình ảnh bông hoa đó được lưu trữ trong tâm. HÌnh ảnh trong tâm (mental image) đó phải là kết quả của một hoạt động của tâm. Hoạt động đó là Tưởng. Nói cách khác, khi nhìn thấy một bông hoa thì hình ảnh bông hoa vật lý đó được tự động ghi chép lại vào tâm, trở thành một một hình ảnh trong tâm của bông hoa, a mental image of the physical flower, trở thành ký ức về bông hoa ( memory of the flower). Hoạt động đó là Tưởng (Sanna). Như vậy Tưởng, cùng sinh khởi với Thức, có hoạt động là tự động ghi nhớ toàn bộ, trọn vẹn đối tượng với tất cả các đặc tính của đối tượng. Có thể nói Tưởng sao chép lại thực tại như nó là: những gì mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, và các cảm giác trên thân.

Không thể dùng ngôn từ mà có thể diễn tả toàn bộ thực tại, do đó cũng không thể dùng ngôn từ để diễn tả toàn bộ một ký ức. Hình ảnh bông hoa như thế nào như thế nào, thì nhớ như vây thôi. Ngôn từ hoa hồng không thể diễn tả trọn ven bông hoa trong thực tại. Nếm một thức ăn như thê nào (Thức, Vị thức, Vị một thức ăn) thì biết như vậy, không cần và cũng không nên gọi tên. Như vậy chính là “Biết thực tại như nó thật là” “Knowing thing as it really is”. Cái biết do ngũ thức như vậy thì hoàn có tính chủ quan. Hai người cùng ngửi một mùi nhưng chắc chắn cái mùi mỗi người nhận biết thì không thể giống nhau.

Thí dụ: mùi sầu riêng : có người nói nó thơm, có người nói nó thối. Cả 2 đều nói thật. Cả 2 đểu nói lên Sự Thật của riêng mỗi người. Đó là sự thật chủ quan.

Sanna thường được dịch qua tiếng Anh là Perception. 
Chữ perception không diễn tả đúng ý nghĩa của Sanna.
Perception trong Anh ngữ có nghĩa là view, understanding.
Thí dụ : How you react depends on how you perceive the situation.
Hay Perception có nghĩa là being aware of. Thí dụ: Visual Perception.
Visually imperceptible: không thể nhận biết bằng mắt. The difference is so small that it is imperceptible.
Trong khi hoạt động của sanna là ghi nhớ (tự động), tao ra ký ức (memory) của đối tượng. Do đó chữ Tưởng, hán việt, có nghĩa là Nhớ, tương đối chính xác hơn.

Sanna nếu dịch qua tiếng Anh là Automatic Memorization thi hợp lý hơn.

Sanna cũng thường được dịch qua tiếng hán việt là Tri Giác. Tri Giác có nghĩa là Biết. Biết là hoạt động của Thức (vinnana, awareness, cónciousness). Nếu dịch Sanna la Tri Giác thi Sanna đồng nghia voi Vinnana. Điều này không hợp lý.

Bây giờ mình thử xét xem Tưởng, Sanna, có phải là hoạt động tạo ra memory trong tâm hay không.

Nếu Tưởng, Sanna không phải là hoạt động tạo ký ức, memory, thì hoạt động tạo memory là cái nào :Thức? hay Thọ? hay Hành?

-Thức là hoạt động tạo ra Ký Ức?

Chức năng, hoạt động của Thức là nhận biết đối tượng của Tâm vào một thời điểm. Chứ hoạt động của Thức không phải là tạo ký ức, memory. Vậy hoạt động tạo memory không phải là Thức

-Thọ là hoạt động tạo ra Ký Ức?

Khi có Thức thì Thọ tự động sinh khởi. Thọ không có chức năng tạo memory. 

-Hành là hoạt động tao Ký Ức?

Như ta thấy sự sinh khởi memory trong Tâm là một hiện tượng tự động, không cần tới chủ ý, volition, intention: dù muốn hay không muốn thì khi nhìn thấy một bông hoa thì hình ảnh trong tâm của bông hoa cũng tự động xuất hiện trong tâm. Vây hoạt động tạo memory không phải là Hành.

Như vậy: hoạt động tự động tạo ký ức (automatic memorization) chỉ có thể là Tưởng, Sanna. Hơn nữa Tưởng và Hành là 2 Uẩn khác nhau. Tưởng không thể là Hành, không thể thuộc Hành uẩn được.

Thọ và Tưởng sinh khởi tự động, không tùy thuộc vào chủ ý, volition, intention, nên không thuộc Hành Uẩn

Hoạt động của Tưởng là tạo Memory về Thức + Thọ + Hành

Bất kỳ một Tâm nào cũng gồm có Thức, Thọ, Hành, Tưởng
                                      Tưởng
(Thức + Thọ + Hành) -----------------> Ký Ức về (Thức + Thọ + Hành) 
Thí dụ: 
-Thức : nhìn thấy một cô gái (Nhãn Thức)
-Thọ: niềm vui khi nhìn thấy cô gái đẹp (Thọ hỉ), 

-Hành: phản ứng của tâm, những hoạt động có chủ ý của tâm, có tiềm năng đưa tới hành động có chủ ý: yêu thích, muốn gần gũi làm quen cô gái đẹp (Ý Nghiệp) đưa tới hành động có chủ ý của Thân (Thân Nghiệp). Ý Nghiệp và Thân Nghiệp là Hành của Tâm tạo Nghiệp

Hoạt động của Tưởng là tự động tạo memory về cô gái (Nhãn Thức), tạo memory về niềm vui (cảm thọ) khi nhìn thấy cô gái, tạo memory về phản ứng, hành động của Tâm và Thân khi nhìn thấy cô gái (Hành)

Hoạt động của Tưởng là tạo ký ức về toàn bộ hoạt động của Tâm (Thức +Thọ + Hành)

Ký ức về Thức, Thọ, Hành của một Tâm sẽ là đối tượng của Tâm kế tiếp.Vì thế memory, ký ức, được tích lũy thêm dần qua từng sát na, tạo thành kho ký ức ngày càng thêm nhiều ký ức qua thời gian, trong một kiếp và nhiều kiếp kế tiếp nhau: tuy các ký ức thì tồn tại mãi trong tâm, nhưng kho ký ức thì biến đổi liên tục vì liên tục nhận thêm các ký ức mới: Tưởng thì Vô Thường, Kho Ký Ức thì Vô Thường.

Tới đây ta đã lược qua tất cả 4 thành phần Thức, Tưởng, Thọ, Hành. Sau đây ta sẽ tiếp tục phân tích sâu hơn về Hành Uẩn, phân tích sâu tới mức tối hậu, không thể phân tích sâu hơn nữa, để thấy những yếu tố căn bản nhất của Hành Uẩn 


PHÂN TÍCH SÂU VỀ HÀNH UẨN


Trong phần này Hành Uẩn được phân tích sâu hơn để trình bày tất cả sở hữu thuộc Hành Uẩn ( sankhara cetasikas), tức tất cả các hoạt động của Tâm thuộc Hành Uẩn.

Về danh từ : Sankhara cetasika = sở hữu tâm thuộc Hành uẩn = sở hữu Hành= sở Hành. Từ đây sẽ gọi tắt là sở Hành cho gọn.


Hành Uẩn gồm có 3 nhóm sở Hành:


- Sở Hành Thiện : những sở Hành nào tạo hỉ lạc trong tâm thì đó những là sở Hành Thiện (kusala sankhara cetasika)

-  Sở Hành Bất Thiện : những sở Hành nào tạo khổ, ưu trong tâm thì gọi là những sở Hành Bất Thiện ( akusala sankhara cetasika).

-  Sở Hành Trung Tính : những sở Hành tự nó không tạo khổ, ưu hay hỉ, lạc, thì gọi là sở Hành Trung Tính. Tính của nó thể Thiện hay Bất Thiện tùy theo nó hiện hữu, cùng hoạt động với sở Hành khác Thiện hay Bất Thiện. Vì thế nó còn được gọi là sở Hành Tợ Tha ( Tợ= giống như; Tha = cái khác). Vì tính của nó thay đổi theo cái khác, nên tiếng Anh gọi nó là Variable Concomittant Mental States. Thí dụ : Xúc nào tạo Thọ Khổ thì đó là Xúc bất thiện.


Tổng cộng có 50 sở Hành thuộc Hành Uẩn, chia làm 3 nhóm:


- Sở Hành Trung Tính : gồm có 13 sở Hành.

- Sở Hành Bất Thiện : gồm 14 sở Hành

- Sở Hành Thiện : gồm 25 sở Hành.

Để có cái nhìn tổng quát về Hành Uẩn, tôi sẽ trình bày ở đây bảng tổng kết 50 sở Hành:


Sở Hành Trung Tính (Tợ Tha): có 11 sở Hành, chia làm 2 nhóm:


-5 sở Hành Trung Tính Phổ Quát (Universal): Xúc, Tư, Nhất Điểm, Mạng Quyền, Chú Ý. Những sở Hành này có mặt trong tất cả các Tâm. 

(Về danh từ Universal, Phổ Quát : trong sách thường  dùng chữ BIến Hành thay cho Phổ Quát. BIến Hành là một từ Hán VIệt không thông dụng, it người hiểu, nên tôi dung chữ Phổ Quát. Tuy nhiên cần biết để khi đọc sách khác không bị ngạc nhiên).


-6 sở Hành Trung Tính Chuyên Biệt (Specific) : Tầm, Tứ, Thắng, Cần, Hoan Hỉ, Dục.

Thường chỉ có trong tâm tạo nghiệp. Gọi là Chuyên biệt vì chỉ có trong một số tâm nhất định. Trong sách thường dùng chữ Biệt Cảnh, một tiếng Hán Việt không thông dụng, nhưng ý nghĩa vẫn là Chuyên Biệt cho một số trường hợp.


Sở Hành Bất Thiện của Tâm Tạo Nghiệp: gồm có 14 sở Hành, chia làm 5 Phần:


-Si, Vô Tàm, Vô Quý, Phóng Dật.

-Tham phần: Tham, Tà Kiền, Ngã Mạn,

-Sân phần: Sân, Tật, Lận, Hối.

-Hô phần: Hôn Trầm, Thụy Miên

-Nghi phần: Nghi 


Sở Hành Thiện của Tâm Tạo Nghiệp: chia làm 4 nhóm:


- 19 sở Hành Thiện Phổ Quát: luôn có mặt trong tất cả các Tâm tạo Nghiệp Thiện :

   - Tín, NIệm, Tàm, Quý, Vô Tham, Vô Sân, Bình Đẳng.

   - Tịnh (Tâm và Thân) ; Khinh (Tâm và Thân, Nhu (Tâm và Thân.

   - Thích (Tâm và Thân), Thuần (Tâm và Thân), Chánh (Tâm và Thân).


- 3 sở Hành Tiết Giới

   - Chánh Ngữ, Chánh Ngiệp, Chánh Mạng,

- 2 sở Hành Vô Lượng : Bi, Tùy Hỉ

- 1 sở Hành Trí Tuệ.


Những danh từ này thật xa lạ, không gặp trong ngôn ngữ hàng ngày của người Việt, vì tất cả đều là những từ Hán VIệt. Tuy nhiên ý nghĩa của chúng khi dịch ra tiếng Việt thông thường thì cũng rất đơn giản dễ hiểu. Thí dụ : Tàm = xấu hổ. Điều bất tiện này cũng tương đối nhỏ so với việc học một ngôn ngữ mới. Thí dụ học Anh hay Pháp ngữ thì ta phải học nghĩa hàng ngàn từ. Và những từ ngữ hán việt hay Pali khi thảo luận tới thì sẽ giải thích rõ ràng. Bảng Tổng Kết trên chỉ là để có một cái nhìn tổng quát về Hành Uẩn thôi.


Để có cái nhìn tổng quát tôi xin đính kèm Biểu Đồ Sở Hữu Tâm:



Thiện và Bất Thiện trong Đạo Phật:


Thiện đây là gì? Khi nói tới chữ Thiện thì thường người ta chỉ hiểu nghĩa chữ Thiện theo ý nghĩa, theo quy định của giáo điều Đạo Đức (moral codes). Trong Đạo Phật thì Thiện có nghĩa là “không tạo Khổ, Khổ Thân hay Khổ Tâm” cho mình và cho người và do đó tạo thêm Niềm Vui và An Bình cho mình và cho người, vì khi không có Khổ thì cảm thọ chỉ có thể là Hỉ hay Trung Tính (An Bình)

Thiện tiếng pali là Kusala, được dịch qua tiếng Anh với nhiều từ ngữ khác nhau như Good (vs Evil), Wholesome. Chữ Wholesome có ý nghĩa rất hay và phù hợp với từ Kusala. Wholesome có nghĩa là healthy, promoting health, physical health and/or mental health.

Bất Thiện, Akusala, Unwholesome, thì có nghĩa ngược lại.

(Văn phạm: mẫu tự A đứng trước một từ pali nào đó thì A có nghĩa phủ định, trái ngược : Kusala là Thiện, thì Akusala là Bất Thiện)

Sau đây sẽ đi vào phân tích sâu và chi tiết về 50 sở Hành của Hành Uẩn

Sở Hành Trung Tính (Tợ Tha); gồm có 11 sở Hành:

     -5 sở hành tợ tha phổ quát : Xúc, Tư, Nhất Điểm, Mạng Quyền, Chú Ý.

-6 sở hành tợ tha chuyên biệt : Tầm, Tứ, Thắng, Cần, Hoan Hỉ, Dục

5 Sở Hành Tợ Tha Phổ Quát:

Xúc: Xúc là hoạt động tạo tiếp xúc của Tâm với Cảnh qua Căn. Như đã trình bày ở trên thì sự tiếp xúc của Tâm với Cảnh qua Căn sẽ biến đổi tâm đó thành một tâm mới vói Thức mới và Tưởng,Thọ, Hành tương ứng cùng sinh khởi

Tâm Tánh Trung Tính gổm có : Xúc, Tư, Định, Chú Ý, Sinh Lực.

Xúc (Phalla, Contact): Xúc là hoạt động tạo sự tiếp xúc của một Tâm với Cảnh qua Căn (Môn). 

Sự tiếp xúc của một Tâm với Cảnh tạo những biến đổi trong tâm đó  và biến đổi Tâm đó thành một tâm mới với các thành phần mới của nó: Thức, Tưởng, Thọ, Hành, 

Thí dụ: Xúc của Tâm Khán Nhãn Môn tạo sự tiếp xúc của Tâm Khán Nhãn Môn với Nhãn Cảnh, sự tiếp xúc này tạo biến đổi trong Tâm Khán Nhãn Môn và biến đổi tâm này thành Tâm Nhãn Thức với Thức là Nhãn Thức.

Tầm quan trọng của Xúc: 

- Xúc là duyên cho sự biến đổi Tâm này thành một Tâm khác trong tiến trình hoạt động của Tâm, hay nói khác đi thì Xúc là duyên cho Vô Thường

- Xúc là duyên cho một Thức mới sinh khởi cùng với Thọ.

(Cetana, Intention): Tư là từ hán việt có nghĩa giống chữ Tư trong Tư lệnh. Tiếng Anh dịch là Intention, Chủ Ý. Pali là cetana. Cetana có nghĩa rộng hơn là Chủ Ý. Cetana hoạt động giống như một team leader, một đội trưởng, một tư lệnh, điều động và phối hợp các sở Hành khác để lập chương trình để thực hiện chức năng hoạt động của tâm đó. Có thể nói : Tư = chủ ý + dự tính = intention + planning =  intentional planning. Mỗi tâm đều có Cetana và các sở Hành tương ứng cần cho việc thực hiện chức năng hoạt động của Tâm đó. Khi học qua tất cả các sở hành thì ta có thể kể ra những sở hành của từng tâm.

Nhất Điểm (Ekaggatà): Mỗi một thời điểm một tâm chỉ có một đối tượng. 

Ekaggata : eka = một. Vì thế thường được dịch là Nhất Điểm, One-Pointed. Danh từ Nhất Điểm hay One-Pointedness không được chính xác hay có thể nói là quá hạn hẹp.

Một đối tượng không bắt buộc phải nhất định là một điểm. Đối tượng là tất cả những gì tâm tiếp xúc vào thời điểm đó. Thí dụ: đứng trên bãi biển, đối tượng vào một thời điểm có thể là toàn cảnh trời đất biển trước mắt, hay có thể chỉ là một chiếc tàu trên biển, hay chỉ là là cờ trên tàu. Nếu Thân là đối tượng thì đối tượng có thể là toàn bộ khối vật chất gọi là Thân, hay một phần của cơ thể, thí dụ lồng ngực, thành bụng, hay chỉ là một phần nhỏ xíu là chóp mũi trong môt cách tập Thiền, trong Thiền Hơi Thở ( sẽ thảo luận sau khi bàn về Thực Hành Thiết Lập Chánh NIệm trên 4 nơi (Xứ) : Thân, Thọ, Tâm, Pháp theo Kinh Satipatthana).

Vào mỗi thời điểm một tâm chỉ có một đối tượng cùa tâm đó. Thí dụ: coi xi nê, có vẻ như vừa nhìn vừa nghe. Nhưng chính thực ra, khi nghe (Nhĩ Thức) thì không nhìn (Nhãn Thức). Nhưng nhờ có Tưởng và Niệm nên âm thanh nghe xong vẫn nhớ lại được khi nhìn hình ảnh. Chính cái memory của Âm Thanh được nhớ lại bởi NIệm, xuất hiện lại khi nhìn, khiến có cảm tưởng là vừa nhìn vừa nghe đồng thời

Nhất Điểm thường được dùng như đồng nghĩa với Định ( concentration, samadhi), nhưng đúng ra thì chỉ khi Tâm được duy trì qua thời gian trên một đối tượng duy nhất thì hoạt động đó của tâm được mới gọi là Định (Samadhi). 

Hiểu biết về Định thí có thể có áp dụng quan trọng thực tế trong cuộc sống hàng ngày.

Khi định tâm trên một đối tượng thì tâm không còn nhận biết một đối tượng nào khác.

Thí dụ: Trong chuyện Tam Quốc Chí, có đoạn kể rằng Quan Công đã thản nhiên ngồi đánh cờ trong khi người ta mổ xẻ, chữa trị vết thương ở cánh tay ông. Ông đã đặt hết tâm trí vào bàn cờ nện tâm ông không con nhận biết được một đói tượng nào khác dù là cái đau. Mình có thể áp dụng giống như vậy : khi bi đau thì đừng chú ý định tâm trên cái đau, mà tập trung tâm trí vào một công việc khác thì không cảm thấy đau nhiều nữa.

Khi có chuyện gì buồn bực, thì đừng định tâm trên cái buồn đó nữa mà hãy tập trung hết tâm ý vào một việc khác.

Định vẫn chỉ sở Hành Trung Tính, có thể là Thiện hay Bất Thiện, chứ không phải lúc nào cũng Thiện.

Thí dụ: tôi là một nam y sĩ, khám bệnh cho một nữ bệnh nhân.

Nếu tôi chú ý tới và định tâm trên vẻ đẹp kiều diễm của cô ta thì tôi có thể sinh lòng Tham Ái. Định trong trường hợp này Bất Thiện. Ngược lại, nếu tôi chú ý tới và định tâm trên cái Khổ do bệnh của cô thì Từ Bi sẽ sinh khởi trong Tâm tôi khiến tôi cố gắng chẩn bệnh và điều trị giúp cô thoát cái khổ do bệnh, thì Định trong trường hợp này là Thiện

Mạng Quyền. (Jãvitindriya): Javit = sự sống, indriya = năng lực, quyền lực, năng lực. Mạng Quyền là năng lực duy trì sự sống, sự hoạt động của tâm. Sự sống, sự hoạt động của tâm là sự biến đổi của tâm từ trạng thái này sang một trạng thái khác. Sinh lực là năng lượng cần thiết để tạo sự biến đổi này. Sở Hành Sinh Lực, hay Mạng Quyền, là hoạt động cung cấp năng lượng để duy trì sự sống, tức hoạt động của tâm

Sinh lực là năng lượng cần thiết cho sự sống, tức hoạt động của cả Tâm và Thân.

Năng lượng cho sự sống, hoạt động của Thân thì đến từ thức ăn. Có thể chính năng lượng này cũng là năng lượng cho Tâm. Hay cũng có thể Tâm nhận năng lượng từ một nguồn khác, một dạng năng lượng đặc biệt cho Tâm. Điều này chưa được khẳng định.

Chú Ý (Manasikara): Manasikara trong pali có nghĩa là Hướng Tâm về, Advertence. Hướng tâm về đối tượng tức Chú Ý tới đối tượng. Phải hướng tâm về, chú ý một cái gì đó, một thể vật lý (sắc pháp) hay một ký ức, một khái niệm (danh pháp) thì cái đó mới trở thành đối tượng, Cảnh, của Tâm và từ đó mới có những hoạt động khác của tâm đối với Cảnh đó.

Chú Ý không đồng nghĩa với Định. Định là tập trung mọi hoạt động của tâm trên MỘT đối tượng qua thời gian. Duy trì Chú Ý trên MỘT đối tượng thì có Định.

Chú Ý có thể là một hoạt động Thiện hay Bất Thiện. Chú ý tới, hướng tâm tới hỉ lạc thì có thể sinh khao khát và bám víu. Thí dụ : Bác Sĩ tiếp xúc với một nữ bệnh nhân, nếu chú ý tới vẻ đẹp của bệnh nhân thì có thể sinh khao khát. Đây là Chú Ý thiếu Khôn Ngoan (Phi Như Lý Tác Ý, Ayoniso Manasikara) Ngược lại, nếu chỉ chú ý tới bệnh tình của bệnh nhân thì có thể sinh lòng từ bi. Đây là Chú Ý Khôn Ngoan (Như Lý Tác Ý Yoniso Manasikara). Khôn Ngoan, được hướng dẫn bởi Trí Tuệ.

Bàn về danh từ Tác Ý: Manasikara theo nghĩa Pali là hướng tâm về, chú ý tới. Nhưng đã được một tác giả có uy tín dịch là Tác Ý và được số đông chấp nhận nên tôi vẫn xử dụng, nhưng vẫn hiểu Manaskrara là hướng tâm về, chú ý tới.

Ngoài ra có tác giả lại dùng chữ Tác Ý cho Cetana, Ý Định. Nên phải tùy context, ngữ cảnh, để hiểu cho đúng với ngữ cảnh đó.

Như Lý: có thể hiểu là hợp lý, hợp với lý trí, hợp với lý của trí tuệ, hợp với lý duyên khởi.

6 Sở Hành Tợ Tha Chuyên Biệt:

Tầm (Vitakka): Tầm tiếng hán Việt có nghĩa là Tìm Kiếm, search, find.

Với Ngũ Thức, thì Tầm có nghĩa tìm thấy đối tượng, một sắc pháp tục đế, và đặt tâm trên đối tượng.

Với Ý Thức thì Tầm là hoạt động của Ý Thức tìm thấy đối tượng, đặt ý thức trên đối tượng và bắt đầu suy nghĩ về đối tượng đó. Đó là suy nghĩ ban đầu, initial thought. Trong Bát Chánh Đạo (sẽ trình bày sau), thì Tầm của Tâm đạt Đạo chính là Chánh Tư Duy, 

Tứ (Vicara

Tiếng hán việt có nghĩa là quan sát. Thí dụ: ăn trông nồi, ngồi trông hướng. Đó là có ý tứ.

Với Ngũ Thức thì Tứ là để tâm bám sát đối tượng nhờ vậy biết rõ đối tượng hơn.

Với Ý Thức thì Tứ là duy trì ý thức trên đối tượng để quan sát và suy nghĩ sâu rộng hơn  để hiểu rõ đối tượng hơn. Tiếng Anh thường dịch là Sustained Thought

 Xác Định (Adhimokka), Determination. Trong sách Việt thường dịch là Thắng Giải. Tôi không hiểu nghĩa, xin bạn nào giỏi hán việt giải nghĩa dùm cho.

Xác định là biết chắc chắn để sau đó quyết định hành động. 

Xác Định là một sở Hành Tợ Tha , tự nó không Thiện hay Bất Thiện. Xác Định chỉ là xác định một sự kiện có thật, một sự thật : tiếp xúc với cô gái đẹp đó thì niềm vui sinh khởi trong tâm tôi. Sự Xác Định này có thể dẫn tới điều Thiện hay Bất Thiện trong Hành Động từ tâm tạo nghiệp. Nếu có Vô Minh, Tà NIệm trong Tâm Tạo Nghiệp thì Hỉ Lạc (Thọ) sẽ sinh Tham Ái, Khao Khát và Bám Víu ( Ái Thủ). Nếu trong Tâm Tạo Nghiệp có Trí Tuệ và Chánh NIệm thì Hỉ Lac (Thọ) không đưa tới Ái Thủ.

Cần (Viriya). Còn gọi là Tinh Tấn: nỗ lực, chuyên cần, nghị lực. Trở lại đặc tánh “Nhất Điểm” của Tâm: vào một thời điểm thì Tâm chỉ có một đối tượng. Nếu có nỗ lực để duy trì sự chú ý của tâm (manasikara) trên một đối tượng thì đó là Định. Không có Cần thì không có Định. Cần và Định vẫn chỉ là các sở Hành tợ tha nên có thể Thiện hay Bất Thiện. Thí dụ : nỗ lực để thực hiện việc bất thiện, hại người thì đó là một nỗ lực bất thiện. Ngược lại, nỗ lực để giúp đỡ người khác thì đó là một nỗ lực có tánh thiện

Hoan Hỉ (Piti): hoan hỉ, hăng hái, enthusiasm, with joy, joyfully, hân hoan, nhiệt thành, nồng nhiệt...

(Về danh từ : Trong các sách Việt thường chỉ dùng chữ Hỉ. Như vậy thì sẽ lẫn lộn với thọ Hỉ (somanassa), và tùy Hỉ (sympathetic gladness) trong Từ, Bi, Hỉ, “Xả”).

Nhưng trong các kinh sách tiếng Việt hay Việt Hán, 3 sở hữu này thường bị dùng chung một chữ Hỉ, do đó dễ lẫn lộn và phải tùy theo ngữ cảnh, context mà hiểu cho đúng :

- Somanassa vedana: dịch là Hỉ (thọ Hỉ)
- Piti, là một sở Hành (sankhara); cũng dịch là Hỉ (trong Thất Giác Chi, hay 5 yếu tố của Thiền Định: Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc, Định). Hỉ ở đây phải dịch là Hoan Hỉ
- Mudita là sympathetic joy, trong Từ Bi Hỉ Xả, là một sở Hành có nghĩa là Vui Mừng cho Hạnh Phúc, Niềm Vui của người khác cũng bị dịch là Hỉ. Đúng ra phải dich cho đủ là Tùy Hỉ
Hoan Hỉ có thể có tánh Thiện hay Bất Thiện.
Hoan Hỉ trong khi được hưởng lạc thú theo đúng khao khát của mình. Đó là hoan hỉ của Tham Ái, tức có tánh Bất Thiện.
Hoan Hỉ trong khi làm việc thiện, giúp đỡ người khác. Đó là Hoan Hỉ có tánh Thiện

Dục (Chanda) là muốn, ý muốn. Chữ này thường bị hiểu lầm là xấu. Nhưng Dục, ý muốn có thể Thiện hay Bất Thiện. Vấn đề là intention, muốn gì. Muốn hưởng lạc  (kamachanda), muốn ăn cướp nhà băng, đó là Bất Thiện Dục. Muốn giúp đỡ người nghèo khổ : Thiện Dục. Dục tức ý muốn, ý chí là một yếu tố rất quan trọng để thành công, dù theo hướng Thiện hay Bất Thiện.

Sở Hành Bất Thiện của Tâm Tạo Nghiệp

Sở Hữu Tâm, Cetasika, là những Đặc tánh sở hữu của Tâm, mental properties, nên có thể gọi là Tâm Tánh hay Tánh, tùy theo context.

Sở Hành bất thiện của tâm tạo nghiệp (tâm đổng tốc, javana) gồm có 5 nhóm: 

- Si Phần: gồm có Si, Vô Tàm, Vô Quý, Phóng Dật.
Bốn sở Hành Si này là những sở Hành Phổ Biến, luôn luôn có mặt trong tất cả các Tâm Bất Thiện : Si luôn luôn đi cùng với Tham. Không có Si thì không có Tham. Si luôn đi cùng với Sân. Không có Si thì không có Sân. Si thì có thể đúng một mình.
-Tham Phần : gồm có Tham, Tà Kiến, Ngã Mạn.
- Sân Phần :gồm có Sân, Tật, Lận, Hối
- Hôn Phần: gồm có Hôn Trầm, Thụy Miên
- Nghi Phần : một sở Hành : Nghi Hoặc

Bốn sở Hành Si là những sở Hành Phổ Biến, luôn luôn đi cùng với tất cả các Tâm Tánh Bất Thiện : Si luôn luôn đi cùng với Tham. Không có Si thì không có Tham. Si luôn đi cùng với Sân. Không có Si thì không có Sân. Si luôn luôn có mặt cùng với Hôn Trầm, Thụy Miện. Si luôn luôn có mặt cùng với Nghi Hoặc.

 Si thì có thể đứng một mình

1. Si Phần: có 4 tánh: Si, Vô Tàm, Vô Quý, Phóng Dật

Si : tức Vô Minh, 

Vô Minh là gì ?


Vô Minh căn bản nhất là không thấu hiểu Duyên Khởi.


Vì thế :

Không thấy được :

- Vô Thường, Tùy Duyên

- Vô Ngã

Nên không chứng ngộ được Tứ Diệu Đế :

- Khổ khi có Tham Ái và Ngã Mạn

  Dứt Khổ khi Dứt Tham Ái và Ngã Mạn

- Không hiểu được Đạo là Bát Chánh Đạo tiếp nối với Thập Nhị Nhân Duyên.

- Không hiểu được rằng muốn Giải Thoát thì phải tu tập 7 nhóm Phẩm Trợ Đạo.


Để hiểu được những điều này thì phải học, hiểu, và nhớ Vi Diệu Pháp.

Sẽ bàn sâu hơn khi bàn về sở Hành Trí Tuệ


Vô Tàm: Tàm, tiếng hán việt, có nghĩa là Xấu Hổ. Vô Tàm: không biết xấu hổ, vô liêm sỉ. Thú thật tôi chưa bao giờ nghe tới chữ Tàm và không hiểu tại sao lại không dùng chữ Xấu Hổ, hay Liêm Sỉ cũng là một từ hán việt nhưng tương đối thông dụng

Tàm, xấu hổ ở đây không có nghĩa là e thẹn, mắc cỡ thông thường, mà là Biết Xấu Hổ khi làm việc bất thiện, biết rằng việc bật thiện là việc đáng xấu hổ. Vô liêm sỉ, vì vô minh nên không biết rằng việc bất thiện là đáng xấu hổ. Không biết xấu hổ (Vô Tàm) với việc bất thiện nên sẵn sàng làm việc bất thiện.

Xin nhắc lại : Bất Thiện là gây khổ, gây khổ cho mình hay cho người khác. Thiện là không gây khổ cho mình hay cho người.

Vô Quý: Quý, hán việt, có nghĩa là sợ hãi. Vô Quý: không biết sợ hậu quả xấu do việc làm bất thiện, do không biết Luật Nhân Quả, Luật Nghiệp và Nghiệp Quả

Quý không phải là Quý trong Quý Giá, Quý Trọng. Thường hay dùng chữ Úy là Sợ. Có thể phát âm theo giọng miền Nam VN thì Úy cũng phát Âm giống Quý?

Bất An: Restless, distracted, anxiety. Bứt rứt, bồn chồn, không yên, lo lắng, tâm không được an tịnh (sách Việt dùng chữ Phóng Dật, một từ không thông dụng, khó hiểu).  Bất An sinh khởi khi làm những việc bất thiện. 

2. Tham Phần

 Gom có Tham, Tà Kiến, Ngã Mạn. 
Tham (Lobha).
Trong Thập Nhị Nhân Duyên thì Tham (Lobha) = Ái (Tanha) + Thủ (Upadana)
Tham (Lobha) có 2 yếu tố, 2 đặc tính chủ yếu là Khao Khát (Tanha, craving) và Bám Giữ (Upadana, attachment).

Đặc tính chính của Lobha, Tham là Bám Dính, Attachment. Bám dính vào đối tượng tạo  để có hỉ lạc, bám dính, cố gắng duy trì tiếp xúc với đối tượng để có hỉ lạc.

Tham bắt đầu bằng yêu thích hỉ lạc, yêu thích đối tượng nào mang lại hỉ lạc cho mình. Từ thích tới yêu, rồi khao khát (tanha), rồi muốn bám dính vào đối tượng, muốn thủ đắc, chiếm hữu, ghì giữ đối tượng, để duy trì tiếp xúc với đối tượng để có hỉ lạc, muốn hỉ lạc, hạnh phúc không bao giờ mất đi vì đối tượng rời xa rời xa mình.

Khao Khát sinh khởi như thế nào?

Xét lại Lộ Ngũ Môn:

Tâm Nhãn Thức-- > Tâm Tiếp Thu-- > Tâm Quan Sát-- > Tâm Xác Định-- > Tâm Tạo Nghiệp : Niệm trong Tâm Tạo Nghiệp nhớ lại Cảm Thọ đã sinh khởi cùng với Nhãn Thức trước đó 4 sát na thì Khao Khát sinh khởi. Có Khao Khát thì đồng thời có ý muốn tạo nghiệp để được hưởng lại hỉ lạc đã từng được hưởng. Khi đạt được hỉ lạc thì vui sướng và cố gắng bám giữ hỉ lạc, bám víu vào đối tượng tạo hỉ lạc. Nếu không đạt được hỉ lạc thì chưa hài lòng (khổ) và lại khao khát, tiếp tục tạo nghiệp cho tới khi nào đạt được hỉ lạc. Nhưng không phải muốn là được. Có khi không bao giờ đạt được hỉ lạc mình khao khát, Mà dù có đạt được thì hỉ lạc thế gian vốn dĩ vô thường sẽ qua đi. Ái BIệt Ly : Khổ.

Xét lại Lộ Trình Tâm Ngũ Môn thì ta thấy Cảm Thọ Hỉ Lạc thực sự (real feeling) chỉ sinh khởi và tồn tại một satna cùng sinh cùng diệt với Ngũ Thức. Cảm Thọ trong tâm tạo nghiệp chỉ là ký ức của cảm thọ thực sự sinh khởi cùng Ngũ Thức.

Khao Khát có nghĩa là chưa được cái mình khao khát, đó chính là cầu bất đắc, Khổ.

Thủ là cố gắng duy trì hỉ lạc, cố gắng bám víu vào đối tượng đã tạo hỉ lạc, cố gắng duy trì sự tiếp xúc với đối tượng tạo hỉ lạc để duy trì hỉ lạc. Trong thời gian có hỉ lạc thì vui sướng. Vì thế Thọ của Tham là Hỉ. Hỉ là đối tượng của Tham, của Ái Thủ, Craving and Attachment, Khao Khát và Bám Giữ

Ái là từ hán việt chỉ có nghĩa là yêu thích, nên không đủ nghĩa của Tanha. Tanha viêt cho đầy đủ là Kamatanha, Khao Khát Hỉ Lạc. Vậy Ái phải được hiểu là Yêu Thích và Khao Khát Hỉ Lạc.

Tà Kiến (Michaditthi). Micha = Tà, không đúng sự thật, không phù hợp với lý Duyên Khởi. Ditthi chỉ có nghĩa là View. Nhưng, theo quy ước thì Ditthi đứng một mình thì có nghĩa là Michaditthi, Tà KIến.

Tà Kiến là cái nhìn sai lạc về Thực Tại. Thực Tại là một cái gì thực sự hiện hữu. Thực Tại, pháp, có thể là một sắc pháp (thể vật lý) hay một danh pháp (một ý tưởng, một khái niệm, một niềm tin).

Tà Kiến về Thường Hằng: Thực Tại thì Vô Thường mà Tà Kiến cho rằng là Thường Hằng.Thức sinh khởi nương tụa vào Sắc Cảnh và Sắc Căn nên Thức,Thọ, Hành đều Vô Thường mà Tà Kiến cứ cho rằng Ngũ Uẩn thì Thường Hằng vì thế mới sinh Ái Thủ.

Hỉ Lạc thì vô thường, không một cảm thọ nào tồn tại trong cùng một trạng thái hơn 1 satna. Vậy mà cứ "thấy”, thấy lầm, hiểu lầm là “hạnh phúc như thế này này có thể kéo dài hơn 1 satna, 1 giờ, 1 ngày, 1 tháng, 1 năm”. Bông Hoa thì vô thường, biến đổi theo thời gian qua từng khoảnh khắc (khana), vậy mà không thấy được sự biến đổi, Vô Thường đó. Đúng là ảo giác (illusion). Đây là Tham đi cùng với Tà Kiến

Tà Kiến về Danh pháp (một khái niệm, một ý tưởng sai lầm)

Thí dụ: 

- Tà Kiến cho rằng cầu nguyện Thượng Đế thì sẽ được điều mình mong muốn
- Chì cần Thiền Định thì sẽ đạt Giải Thoát mọi Khổ Đau.
- Yêu nước là yêu Xã Hội Chủ Nghĩa, phải đập tan, tiêu diệt các giai cấp bóc lột, địa chủ, tư sản, tiểu tư sản..
- Nói chung mê tín là thể hiện của Tà Kiến.

Đây cũng là Tham đi cùng với Tà Kiến: bám víu vào, tìm vui thú trong một tà kiến, một quan điểm, một định kiến không đúng, không đúng với Sự Thật, không hợp lý, không hợp với lý Duyên Khởi.

Ngã Mạn.

Mạn là so sánh. Ngã là cái “Tôi”

Để có thể hiểu được Ngã Mạn thì phải hiểu về Ngã và Vô Ngã.

Để minh họa tôi xin trình bày một kinh nghiệm : “Vô Thường trên từng bước chân” và mẩu đối thoại ngắn với một bạn trẻ.

Quý Bạn có bao giờ để ý quan sát cảm giác trên lòng bàn chân khi bạn bước đi trên nền đất không?

Nếu bạn để ý quan sát bạn sẽ thấy giống như tôi thấy:

Khi bước đi thì bàn chân đi tới trước thì gót chân sẽ chạm mặt đất trước, toàn thể trọng lượng thân bạn sẽ đặt trên gót chân, bạn sẽ cảm nhận được cảm giác do áp lực trên gót chân. Cùng với cảm giác đó bạn có cảm thọ hơi khó chịu. Rồi thân bạn từ từ nghiêng về phía trước, áp lực của trọng lượng chuyển dần về phía ngón chân. Cảm giác (thân thức) trên lòng bàn chân biến đổi liên tục qua từng khoảnh khắc. Cảm giác (áp lực) thì vô thường biến đổi qua từng khoảnh khắc, Cảm Thọ cùng sinh khởi cũng vô thường biến đổi qua từng khoảnh khắc theo cảm giác. Cảm xúc (hành) cũng biến đổi theo cảm thọ. Khi gót chân nhấc lên khỏi mặt đất không còn cảm giác chịu áp lực nữa, thì cảm thấy dễ chịu (lạc thọ). Phần nào của lòng bàn chân chịu áp lực thì cảm thấy không được dễ chịu (khổ).


Cám ơn bạn nhiều đã đọc và suy nghĩ về bài viết ngắn của anh.

Đúng vậy. Bạn thử quan sát từng bước chân khi bạn dạo bước trên bãi cát hay bất kỳ nơi nào đi.

Bạn sẽ thấy Phật Pháp trong từng bước chân.


Sắc Thân của bạn Thường Hằng hay Vô Thường?

Nếu Sắc Thân của bạn là Thường Hằng, thí dụ như một tượng đá, thì bạn có bước đi được không?

Dĩ nhiên là không. Đúng không ?

Vậy: Sắc Thân thì Vô Thường.


Người ta thường nghĩ có một cái Tôi, một Linh Hồn tự hiện hữu và bất biến thưởng hằng.

Thế thì bạn có thấy một cái Tôi nào như vậy trong lòng bàn chân của bạn không? Có một cái Tôi nào như vậy trong Sắc Thân của Kim Oanh không?

Dĩ nhiên là không. Phải vậy không?

Thế thì có một cái Tôi nào khác với cái Sắc Thân này, đứng ra làm chủ để sai khiến, ra lệnh cho Sắc Thân này chuyển động không?

Không có. Phải vậy không?

Như vậy thì: Không có một cái Tôi nào cả. Không có một cái Tôi nào trong Sắc Thân, không có một cái Tôi nào bên ngoài Sắc Thân cả. Tìm khắp vũ trụ đều không thấy một cái Tôi nào cả.


Cảm giác trên Thân chính là Thân THỨC.


Cảm giác trên bàn chân, tức cảm giác trên Thân thường hằng bất biến không?

Kim Oanh quan sát thì dĩ nhiên sẽ thấy rằng cảm giác trên lòng bàn chân thì biến đổi liên tục, tùy vào tư thế của cơ thể, tùy theo sự biến đổi của áp lực do trọng lượng trong khi bước đi.

Vậy là : Cảm giác trên lòng bàn chân, tức Thân THỨC thì Vô Thường sinh diệt biến đổi tùy duyên. Phải vậy không?


Tương tự như với SẮC Thân, Bạn có thấy cái Tôi nào trong cảm giác trên lòng bàn chân không ? 

Dĩ nhiên là không thấy. Phải vậy không ?

Thế thì Kim Oanh có thấy một cái Tôi nào bên ngoài đứng ra cảm nhận cái cảm giác đó không ?

Dĩ nhiên là không rồi. Phải vậy không ?

Như vậy : không có một cái Tôi tự hiện hữu và bất biến nào trong vũ trụ này cả. 


Bước đi, walking, là một HÀNH động.


Bạn có thấy một cái Tôi nào trong HÀNH động đó không? 

Dĩ nhiên là không. Phải vậy không ?

Bạn có thấy một cái Tôi nào bên ngoài ra lệnh cho Bạn bước đi không ? 

Không có cái Tôi nào như vậy cả. Không thấy con ma nào cả ! 

Như vậy : Không có cái Tôi nào trong hành động, không cái Tôi nào bên ngoai hành động. Khắp vũ trụ không có con ma nào như vậy cả. Không có cái Tôi nào cả trong khắp vũ trụ.


Ký Ức là kết quả của Tưởng.


Ký Ức về bước chân đi trên bãi cát, cảm giác trên bước chân trong khi đi, cảm thọ cùng sinh khởi với cảm giác.

Kim Oanh có thấy cái Tôi nào trong hoạt động của Tưởng không? Có một cái Tôi nào bên ngoài tạo ra ký ức không?

Dĩ nhiên là không. Phải vậy không?


Tóm lại: 


1.Tất cả 5 uẩn, Sắc, Thức, Tưởng, Thọ, Hành đều Vô Thường sinh diệt biến đổi tùy duyên.

2. Không có một con ma nào có tên là cái Tôi trong và ngoài ngũ uẩn : Vô Ngã. 

Không có một cái Tôi nào đúng là làm sở hữu chủ của Ngũ Uẩn này. Ngũ Uẩn này không phải là của Tôi.

3. Vì thế:


Khao khát, bám víu vào Sắc, Sắc bên ngoài và Sắc Thân, bám víu vào Thức (Cảm giác), bám víu vào Thọ, bám víu vào Hành động, bám víu vào Tưởng để có Hỉ Lạc thì SẼ Khổ Tâm, Ưu phiền, domanassa.

Bám víu, nương tựa vào Ngũ Uẩn thì SẼ Khổ.

Thế nên Phật mới nói:

" Tóm lại, Ngũ Uẩn Thủ là Khổ"


Bám víu vào cái Tôi ảo tưởng, Chấp Ngã, thì là điên, tâm thần phân liệt, schizophrenia, thì SẼ Khổ.

Ngã Chấp, Ngã Mạn thì SẼ Khổ.


Bạn thấy đó: Phật Pháp trong từng bước chân.


Qua câu chuyện trên, bằng sự quan sát “như thật” các hoạt động của Tâm Thân thì ta thấy rõ là không có một cái Tôi bất biến nào cả, không có một cái gì trong thế giới danh và sắc là của Tôi cả. Thế nhưng vì Vô Minh nên có Ảo Tưởng rằng có một cái Tôi đó. Vì thế nên mới ôm giữ, cố gắng bảo vệ cái Tôi, cái của Tôi. Ôm giữ bám víu vào Ngũ Uẩn của Tôi để hưởng lạc.


Trở lại với Ngã Mạn.


Mạn là so sánh. Ngã Mạn là so sánh cái Tôi của Tôi với cái Tôi của người khác. 

Tham Ái đi với Ngã Mạn là so sánh cái Tôi của Tôi với cái Tôi của người khác để được vui thú khi thấy cái Tôi của Tôi tốt đẹp hơn cái Tôi của người khác. 

Cái Tôi luôn luôn tìm những điểm nào đó trong ngũ uẩn của Tôi mà Tôi cho rằng hơn người khác để đem ra phô trương, so sánh với người khác với mục đích là có được vui thú khi Tôi hơn người khác về điểm đó. Tôi luôn muốn khoa trương, làm đủ mọi việc để được người khác chú ý tới Tôi, yêu Tôi, kính phục, ngưỡng mộ Tôi, đồng ý với Tôi rằng Tôi đúng, chịu khuất phục Tôi, tuân theo ý của Tôi. Cái “Tôi” không khao khát cái gì khác hơn là lời khen ngợi, dưới nhiều hình thức khác nhau. Cái "Tôi” luôn muốn được ve vuốt, mơn trớn. 

Cái Tôi cho rằng ngũ uẩn của Tôi là rất có giá trị, rất đáng được yêu, rất đáng yêu, rất đáng khen, rất đáng tự hào. Vì thế Tôi rất yêu ngũ uẩn của Tôi. Đó là cái gọi là Ngã Ái, Narcissism.

Tôi muốn mọi người phải công nhận giá trị của Tôi, giá trị của ngũ uẩn của Tôi. Tất cả những gì của Tôi đều có giá trị, đáng khen ngợi, đáng yêu, không ai có thể xâm phạm, không ai có quyền chê bai. Cái Tôi rất tự hào về những cái gì của Tôi. Tôi chỉ muốn được khen ngợi, nên Tôi chỉ muốn phô trương những ưu điểm hơn người và che dấu những nhược điểm yếu kém hơn người khác.


Vì muốn được khen, được ngưỡng phục,cái Tôi có thể làm bất cứ điều gì để được khen, những việc đó có thể là việc “thiện” hay bất thiện, miễn là để được khen, được tự hào. Việc làm đó chỉ là phương tiện để được khen. Làm việc “thiện” không với chủ ý muốn giúp người khác tránh khổ và có an vui, mà chỉ với mục đích là được khen.


Thực ra thì trong vũ trụ danh và sắc này, có bất kỳ cái gì thực sự là của Tôi không?

Tài sản này thực sự có phải là của Tôi không?

Tài sản này từ đâu mà có?

Bằng kiến thức của Tôi, Tôi đã làm việc để kiếm tiền.

Vậy kiến thức gọi là của Tôi đó có thực sự là của Tôi không?


Câu trả lời là KHÔNG?


Kiến Thức gọi là “của Tôi” này đây thực ra là không phải là của Tôi, dù theo nghĩa tục đế. Kiến thức này là của những người khác, của Phật, của Sư, của Thầy Cô, của những khoa học gia, của những nhà nghiên cứu trong mọi lãnh vực. Hay, ngay cả những cái biết thông thường trong cuộc sống hàng ngày như biết lái xe, biết nghe nhạc, biết mua sắm dàn stereo tốt giá cả phải chăng..v.v.., tất cả đều đến từ bên ngoài. Ngay cả kiến thức về thiên nhiên, thì thiên nhiên chính là cái cho tôi kiến thức về thiên nhiên.

Không có cái gì là của Tôi cả. Không có cái gì là của Tôi để Tôi tự hào cả.


Con của Tôi là một bác sĩ rất giỏi và nổi tiếng Tôi rất tự hào về con của Tôi.

Nhưng thực ra cái ngũ uẩn đó mà Tôi gọi là con của Tôi, có thực là của Tôi không?

Nếu cái ngũ uẩn đó là của Tôi thì ngũ uẩn đó phải theo đúng ý muốn của Tôi. Nó phải đẹp như ý muốn của Tôi, nó phải thông minh như ý muốn của Tôi, nó phải có sở thích tinh tế như ý muốn của Tôi, nó phải thích nhạc cổ điển Tây Phương, chứ không thích nhạc “sến”. Nhưng thực tế thì sao ? Không phải như vậy. Cái sắc đẹp của nó, cái ngũ uẩn đó, không phải do Tôi tạo ra, mà là do sự kết hợp tạm thời của Tứ Đại và các Sắc Pháp Chân Đế khác. Toàn bộ các kiến thức của nó có phải do Tôi tạo ra không, có phải tôi cho nó không? Hoàn toàn là Không?


Với những ngũ uẩn khác mà Tôi gọi là Vợ của Tôi, anh, chị, em, bạn.v..v.. của Tôi thì cũng vậy: thực ra thì những ngũ uẩn đó không phải là của Tôi.


Không có gì trong vũ trụ Danh Sắc này là của Tôi cả!

Không phải sự so sánh nào cũng là Ngã Mạn. Tùy ý định, intention, mà sự so sánh có thể là một việc thiện: so sánh để giúp đỡ người khác. 


Thí dụ:


-Tôi so sánh và tôi biết tôi giỏi toán hơn anh bạn cùng lớp, với mục đích giúp đỡ bạn tôi trong việc hoc Toán.

-Tôi so sánh và tôi biết tôi giàu hơn bạn tôi, với mục đích giúp đỡ bạn tôi. Tôi không để bạn tôi phải trả tiền khi cùng đi ăn với tôi.



Tà Kiến và Ngã Mạn không hề đi chung với nhau vì chúng có 2 đối tượng, 2 mục đích hoàn toàn khác nhau.

Tham + Tà Kiến: đối tượng dù sao cũng là một cái gì thực sự hiện hữu, dù không thường hằng. Đối tượng này mang lại khoái cảm thể chất và niềm vui được hưởng lạc đó.

Tham + Ngã Mạn : mục đích của nó không phải là hỉ lạc đến từ ngũ quan, mà chỉ là khoái cảm cho một cái Ngã ảo tưởng, a pathetic delusory ego.

Nó không quan tâm tới hỉ lạc ngũ quan. Chẳng những vậy, nó sẵn sàng chịu khổ thân chỉ để được khen ngợi.

Thí dụ: một người với tánh Ngã Mạn, có thể bỏ tiền bạc, thời gian, và ngay cả chịu đựng khổ thân, ngay cả nguy hiểm tới tánh mạng để nhất định leo ngọn núi cao, hiểm trở nhất thế giới Himalaya chỉ để được khen ngợi và ghi tên vào Guiness. Họ không phải là nhà khoa học thám hiểm để phụng sự khoa học có ích lợi.

Ngẫm nghĩ thì thấy thật không có gì ngu hơn cái "Ngã”.

Tuy nhiên Cái "Tôi” ngã mạn rất tinh ranh, đôi khi rất vi tế, subltle, nếu không thật tỉnh táo và thành thật với chính bản thân thì không thể thấy được.

Ngã và Vô Ngã là để mục rất lớn. Xin hẹn sẽ thảo luận nhiều hơn trong đề mục Tứ Diệu Đế.

3. Sân Phần

Có 4 tâm tánh: Sân, Tật, Lận, Hối

-Sân là ghét, là không muốn gần, muốn xua đuổi, không muốn giữ gìn mà còn muốn tiêu diệt đối tượng gây ưu phiền, đau khổ cho mình.

Sân là HẬU quả của Tham Ái: vì chỉ muốn hưởng lạc, muốn gần gũi với đối tượng tạo hỉ lạc cho mình, nên buồn phiền, bực bội, ghét những gì mang lại khổ thân và ưu phiền cho tâm.

-Tật, hay Ngã Tật là đố kỵ, ganh ghét người hơn mình. Đó là hậu quả của Ngã Mạn. Khổ Tâm, buồn bực luôn luôn có mặt cùng với  Ngã Tật, ganh tị, ghen tị, ghen tuông.

- Lận, hay Biển Lận: là keo kiệt, rất đau khổ khi phải chia sẻ, cho đi cái gì mình có, dù là tiền bạc, kiến thức, thời gian. Rất ghét phải chia sẻ. Đau khổ khi phải chia sẻ.

Hối Hận: mới nghe qua thì thấy có vẻ không hợp lý. Thường thì ai cũng nghĩ biết hối hận là điều tốt. Nhưng hối hận luôn đi với buồn bã, đau khổ vì lầm lỗi của mình. Rồi tự trách móc, có khi tự xỉ vả, đay nghiến chính bản thân mình. Đó là tự gây khổ cho mình, tàn ác với mình. Vì thế Hối Hận mới được liệt kê vào nhóm tâm tánh Sân.

Thay vì Hối Hận, điều chánh đáng nên làm là can đảm, thành thật, sáng suốt, thấy được lỗi lầm và nhất định, cố gắng sửa chữa hậu quả lỗi lầm, xin lỗi người chịu hậu quả do mình tạo ra, và cố gắng không tái phạm.

Tóm lại sau khi lược qua tất cả các tâm tánh trong Sân phần thì: Thọ đi với Sân luôn luôn là Buồn, Ưu Phiền, Khổ Tâm

Nói một cách khác: Khi có cảm thọ Buồn thì có nghĩa là đang có Sân và Si
Duyên Khởi về Bất An (Restless)
Sau khi đã lược qua Tham và Sân, Ngã Mạn và Ngã Tật, ta hãy tìm hiểu mối duyên khởi về Bất An: 
Tham và Sân, Ngã Mạn và Ngã Tật chính là những nhân duyên cho Bất An.

- Tham với Tà Kiến: khi khao khát mong cầu được hưởng hỉ lạc ngũ quan thì hầu như chắn có lo âu, lo lắng vì không biết chắc có được như mong cầu. Khi không được như ý thì buồn phiền, bực bội và lại khao khát mong cầu, do đó lại lo lắng, bất an.

- Tham với Ngã Mạn: khi muốn thắng, muốn được khen, muốn được yêu, muốn được kính… thì hầu như chắc chằn sẽ có lo lắng, không biết có thắng được hay không, có được khen, được yêu, được kính hay không. Khi bị thua thì buồn phiền, ganh ghét và lại bứt rứt với ý muốn cần phải hơn người.

4. Hôn Phần: gồm Hôn Trầm, Thụy Miên

Cả 2 đều chỉ sự yếu ớt, suy nhược, thiếu sinh lực của tâm, tinh thần yếu đuối, bạc nhược, uể oải, lười biếng, không còn đủ sức, không còn đủ sinh lực để có thể sáng suốt để nhận thức, suy nghĩ, hành động đúng mức. Những lúc như vậy thì trong tâm không thể có sự vui vẻ được, túc là Khổ.

5. Nghi Phần: Nghi Hoặc

Nghi ở đây không có nghĩa là không tin. Mà là nghi hoặc, không biết đúng hay sai, bất quyết, không dám quyết định, bối rối. Khi có nghi hoặc như vậy thì luôn cảm thấy bất an, Khổ.

Tóm lại sau khi lược qua tất cả các tâm tánh trong Sân phần thì: Thọ đi với Sân luôn luôn là Buồn, Ưu Phiền, Khổ Tâm.

An Vui