Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2024

Noel Tây Nguyên - Sáng Tác: Giang Ân - Ca Sĩ Trần Ngọc


Sáng Tác: Giang Ân
Ca Sĩ: Trần Ngọc

Mari Thăm Ê-Li-Sa-Bét

 

Luca1(39-50)

Ê-li-sa-bét ở xứ Guida…

Mari đến thăm…tình nghĩa ruột rà!

Chủ nhà mừng rỡ…Maria thăm viếng!

Con bà trong bụng nhảy múa hát ca!!


Ê-li-sa-bét…luôn miệng ngợi khen!

Đón mừng con Thánh Vĩnh hằng!

Mari được tràn đầy ơn phước…

Muôn đời mây gió tung tăng!!


Lời Tiên tri…đã ứng nghiệm rồi!

Mari…hoa nở thắm vành môi…

Tạ ơn…Ngài xót thương tôi tớ!

Dòng dõi Vua David…thật tuyệt vời!


Tuyệt vời…nguồn sống yêu thương!

Những ai trong cảnh đoạn trường…

Đói khát tâm linh…thèm công chính!

Qua rồi cảnh sống lắm tai ương!


Tô Đình Đài

Huyền Thoại Đêm Giáng Sinh

 

Trời đất rộn ràng tháng mười hai,

Mùa đã vào Đông gió lạnh đầy,

Giáng Sinh sẽ đến cùng năm tháng,

Anh đến cùng em mùa lễ này.

 

Lòng em mở rộng đêm giáo đường,

Đợi chờ anh đến hẹn mùa thương,

Tình em trong trắng hoa huệ trắng,

Tình anh quyến rũ mùi trầm hương.

 

Anh sẽ đọc rất nhiều câu kinh,

Em tưởng như chỉ dành riêng em,

Là vạn lời thơ tình chan chứa,

Trong những lời kinh cầu trang nghiêm.

 

Đêm thơm vì màu sắc Giáng Sinh,

Em thơm vì mùi nước hoa quen,

Trong mùa Đông lạnh anh sẽ ấm,

Khi tay anh cầm lấy tay em.

 

Đêm sáng những ngôi sao Giáng Sinh,

Cùng với thế gian ước điều lành,

Em ước mình là vì sao nhỏ,

Giữa trời cao rộng em gặp anh.

 

Em một vì sao, anh vì sao,

Em và anh hẹn ở kiếp nào,

Hai vì sao lạc xuống trần thế,

Vạn nẻo đời ta lại gặp nhau.

 

Giáo đường ngân vang bài thánh ca,

Chào mừng Chúa hài đồng sinh ra,

Đêm nay chúa ban cho ân sủng,

Anh cho em cuộc tình thiết tha.

 

Cùng với niềm vui của thế gian,  

Anh và em khấn cầu nhân duyên,

Đêm Giáng Sinh đẹp như huyền thoại,

Tình yêu này huyền thoại trăm năm.

 

Nguyễn Thị Thanh Dương

( Giáng Sinh 2015)

Xóm Đạo Ngoại Ô


Chúng ta khi sống trên xứ người, đều mang theo một chút quê hương theo mình. Có thể là một con đường, một góc phố, hay một xóm nhỏ yêu thương đã gắn bó một quãng đời dài. Tôi cũng có một quê hương trong trái tim mà mỗi khi nhớ đến vẫn làm tôi thổn thức, rạo rực khôn nguôi.

Đó là một xóm nhỏ vùng ngoại ô, cách trung tâm Sài Gòn khoảng gần 10 cây số. Nhớ hồi ra Sài Gòn học, khi các bạn bè hỏi đến nhà chơi, tôi trả lời ở Hạnh Thông Tây quận Gò Vấp, nhiều người còn ngơ ngác không biết nó ở đâu. Tôi phải vẽ trên giấy chỉ đường cẩn thận, nếu bạn đi từ hướng Ngã Tư Phú Nhuận xuống, đường Hai Bà Trưng kéo dài là đường Võ Di Nguy, sau đổi thành Nguyễn Kiệm, đến khu vực Ngã Năm Chuồng Chó, cứ tiếp tục đến Ngã Ba An Nhơn thì rẽ trái khoảng 500m, hỏi Giáo Xứ Đức Tin, nhà của tôi nằm phía sau nhà thờ đấy. Nhà tôi không ở trung tâm phố thị phồn hoa, xóm tôi không cao sang lộng lẫy, nhưng tôi yêu thương xóm đạo của tôi quá đỗi, vì đó là nơi tôi được sinh ra, lớn lên và cho tôi một tuổi thơ êm đềm, hạnh phúc.

Có thể nói, ngôi nhà thờ nhỏ, đơn sơ, bên cạnh cái chợ bé xíu là trung tâm điểm của xóm tôi, được bao bọc chung quanh bởi những dãy nhà cách nhau bằng những con hẻm, kéo dài và ăn thông với nhau dẫn ra đường cái đến thẳng chợ Thông Tây Hội (cũ) và xa hơn nữa là Xóm Mới. Thuở lên 9 lên 10, niềm vui của tôi là cùng lũ bạn nhỏ tụ tập chơi quanh xóm và sân nhà thờ. Tuy nhà thờ không lớn nhưng cũng có một khoảng sân tráng xi măng và hàng rào sắt bao bọc, đủ cho thế giới tuổi thơ chúng tôi. Góc bên trái của sân nhà thờ có trồng một cây hoa sứ, bên cạnh cái tháp chuông. Những buổi trưa nắng, cây hoa sứ và cái tháp chuông làm thành một bóng mát, lũ trẻ con nhặt hoa sứ chơi bán hàng, đám con gái chúng tôi chơi banh đũa, nhảy dây, trong khi mấy đứa con trai chơi trò tạt lon ồn ào, náo nhiệt.
Vui nhất là 3 tháng hè, khi cây hoa phượng ở đầu xóm nở hoa đỏ rực, chúng tôi được nghỉ học, và những cuộc chơi trẻ thơ dường như dài bất tận. Buổi trưa hè nóng nực và im vắng, tôi thường trốn giấc ngủ trưa để nhập bọn cùng lũ bạn đã đợi sẵn ở sân nhà thờ. Những trò chơi làm chúng tôi say mê quên cả thời gian. Hết trò này đến trò kia nhưng không bao giờ mệt mỏi. Đến khi chán chường với những trò chơi ấy, chúng tôi lại rủ nhau đến chơi nhà xứ. Nhà của Cha nằm trong dãy nhà ngoài đường cái và là ngôi nhà đẹp nhất xóm. Nhà lầu đúc hai tầng, có ban công lót gạch đá hoa mát rượi nhìn ra khoảng sân rộng rãi, phía trước có hàng rào sắt bao quanh cao hơn đầu người lớn. Trong khuôn viên ấy, có một căn nhà nhỏ, là nhà bếp và nơi ở của ông cụ Hanh, người chăm lo việc giặt giũ cơm nước cho Cha. Con đường từ cổng vào nhà được tráng xi măng, và tất cả phần còn lại là mảnh vườn có đầy đủ các loại hoa kiểng. Ngay góc sân là cây mận cổ thụ cao to, cành lá xum xuê, vươn ra đến ban công trên tầng lầu. Sát bên hàng rào sắt là những bụi hoa mai, mỗi mùa Tết đến trổ bông vàng rực khiến ai đi qua cũng phải dừng lại trầm trồ.

Cổng sắt của nhà xứ luôn luôn để ngỏ, chúng tôi lại bày trò chơi trên nền xi măng, vì dọc lối đi có những hòn đá tảng rất to có thể làm chỗ ngồi nghỉ ngơi. Gió hiu hiu thổi, đưa những bông hoa mận rụng trắng xóa một góc vườn. Chúng tôi gom những bông hoa trắng tơi như bông để chơi bán hàng, hoặc rải lên mái tóc để làm điệu như người lớn, rồi đi khắp vườn tìm những trái mận rơi rụng, khi ăn vào ngọt lịm đến tận ruột gan. Cũng có khi Cha xứ sai ông cụ Hanh ra vườn với cái cây dài để hái mận cho lũ chúng tôi. Cả đám reo hò ầm ĩ khi thấy rổ mận đầy ắp, ông cụ Hanh dẫn chúng tôi vào nhà bếp rửa mận, và còn hào phóng làm thêm một chén muối ớt đỏ tươi ngon lành, chưa ăn đã kịp chảy nước miếng.
Rất nhiều lần, Cha xứ cho chúng tôi vào căn nhà lót gạch đá hoa mát rượi của Cha. Chúng tôi ùa vào và len lỏi khắp nơi để khám phá thỏa chí tò mò trẻ thơ. Căn phòng khách rộng rãi có bộ bàn ghế sa lông và chiếc đàn piano lớn đặt ngay cửa sổ nhìn ra khu vườn. Cha đã dạy tôi những nốt nhạc đầu tiên trong đời trên chiếc piano này. Khi đánh được một câu nhạc, tôi đu người trên song sắt cửa sổ và hét to lên vì sung sướng. Ở trên lầu, còn có một phòng lớn để các nhạc cụ như một bộ trống, đàn guitar, và một cây đàn piano khác nữa. Đặc biệt có một thư viện nhỏ hẹp, bên trong là 2 kệ sách sát tường cao ngất ngưỡng, tôi phải kiễng chân ngửa đầu nhìn cho đến khi mỏi cổ mới thôi.

Cha xứ yêu thương chúng tôi đến như vậy, nhưng Ngài vẫn không thoát khỏi những trò chơi nghịch ngợm của lũ chúng tôi. Đó là những buổi trưa chúng tôi đến sân nhà xứ hơi sớm, khi nhìn thấy cửa nhà Cha vẫn đóng, đó là dấu hiệu Ngài đang ngủ trưa hay đang đọc kinh. Chẳng có chuyện gì làm, chúng tôi bèn nghĩ ra cái trò... bấm chuông. Một đứa leo lên vai đứa kia để với tới cái chuông và... bấm! Nghe tiếng dép lịch xịch ra mở cửa là cả đám co giò chạy hết tốc lực ra ngoài cổng. Trò chơi này cho cảm giác mạnh, tim đập nhanh và hồi hộp vô tả. Không phải Cha xứ không biết tác giả là lũ chúng tôi, nhưng Ngài chưa hề la rầy nửa lời. Có người phàn nàn với Cha, Ngài cười tươi rói: “Cứ cho chúng nó phá nhà xứ, còn hơn là để chúng đi phá làng phá xóm!” Ôi, câu nói ấy vẫn ám ảnh theo tôi cho đến bây giờ. Cha ơi, nếu ngày ấy Cha cấm đoán hay trừng phạt chúng con, thì con đã mất đi một thiên đường tuổi thơ đẹp tuyệt vời!

Ngọc Lan xinh đẹp, dịu dàng
Buồn vương đôi mắt, nồng nàn lời ca
Mong manh như một kiếp hoa
Luyến lưu hương sắc thiết tha dâng đời.

Ngọc Lan (áo dài sậm màu) tại ca đoàn giáo xứ Đức Tin, Hạnh Thông Tây Gò Vấp thuở ấy. Người phía cuối đeo mắt kiếng là anh Quang.

Những buổi tối mùa hè cũng là những cuộc chơi không dứt. Trời oi bức hiếm hoi những ngọn gió mát, cả xóm kéo nhau ra chơi ngoài cửa. Chúng tôi lại rủ đến nhà xứ hay sân nhà thờ. Những khi có trăng, những ngõ hẻm trong xóm trở nên đẹp lung linh, thơ mộng, nhất là những ngày bị cúp điện. Nhà xứ là nơi có những buổi hội họp của các hội đoàn giáo xứ, và ca đoàn cũng tập hát nơi đây, nên chúng tôi thích ghé chơi vì không khí rất vui. (Ai đã từng yêu mến tiếng hát Ngọc Lan, cô ca sỹ có giọng hát nhẹ như khói sương, dáng người mỏng manh và cuộc đời vắn số, cô ấy chính là một giọng ca chính của Ca Đoàn xứ Đức Tin thuở ấy, mà chúng tôi thường hay chen lấn ở cửa sổ nhà xứ chỉ để ngắm nhìn sắc đẹp của chị Lan. Chị có một mối tình rất đẹp với anh ca trưởng tên Quang, là sinh viên Y khoa, với cặp kính cận và cây đàn guitar. Hai người sau đó đi vượt biên, khi ra hải ngoại thì chia tay và Ngọc Lan trở thành ca sỹ nổi tiếng của Trung Tâm Asia. Tôi sẽ trở lại đề tài này vào một dịp khác, kẻo sẽ bị lạc đề, không chừng còn mang tiếng “nhiều chiệng” thì oan cho tôi lắm!) Sau khi họp hành, Cha xứ thường mở rộng cửa cho chúng tôi vào xem ti vi, nhưng cũng chẳng níu kéo chúng tôi lâu hơn, cả đám lại kéo nhau đi tìm thú vui khác tại sân nhà thờ. Thế là một khung cảnh náo động lại bắt đầu. Chơi bịt mắt bắt dê, chơi trò trốn tìm, mệt thì ngồi xuống dưới bóng tối tháp chuông kể chuyện... ma, và khi có thêm trẻ nhập bọn thì chúng tôi chơi trò chơi tập thể. Hai đứa lớn làm quản trò, giơ hai tay thành cái cổng, đám còn lại xếp hàng nối đuôi nhau đi qua cổng và hát to:

Thiên đàng địa ngục hai bên
Ai khôn thời dại, ai dại thời khôn
Trên trời có Chúa có Cha
Đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn
Linh hồn phải giữ linh hồn
Đến khi gần chết được lên thiên đàng …”

Đến lúc đó hai người làm cổng mới hỏi từng đứa: “Ăn cam hay ăn quít?” cứ thế tiếp tục đi qua cổng và hát, đám ăn cam ngồi một bên, đám ăn quýt ngồi một bên (trước đó hai người quản trò đã bàn với nhau ăn cái nào là thiên đàng, ăn cái nào là hỏa ngục), cuối cùng tuyên bố ra, những đứa bên hỏa ngục phải còng lưng ra cõng mấy đứa bên thiên đàng xung quanh sân. Có thế thôi mà vui thật là vui, đến khi ba má đến réo gọi mới chịu chạy về nhà đi ngủ.

Thế rồi thời gian trôi đi, chúng tôi lớn lên thành những chàng trai thiếu nữ. Chúng tôi không còn tụ tập chơi ở sân nhà thờ hay nhà xứ nữa, chỉ thỉnh thoảng khi trường làm bích báo, tôi lại chạy đến phòng thư viện nhỏ của Cha để mượn những cuốn sách Tuổi Hoa được xuất bản trước năm 1975 mà Cha còn giữ lại, hoặc khi lớp của tôi mở tiệc Giáng Sinh tại nhà tôi thì tôi và mấy đứa bạn kéo nhau đến nhà xứ để mượn thêm bàn ghế. Tuy nhiên, tôi vẫn giữ thói quen mừng tuổi Cha vào dịp Tết. Cứ vào sáng mồng 1 Tết, sau bữa ăn trưa, tôi và hai nhỏ bạn thân trong xóm cùng đi chúc Tết Cha. (Lạ kỳ thật đấy, gần 20 đứa trẻ của ngày xưa mà bây giờ chỉ còn 3 đứa đến thăm Cha xứ thôi ư? Mà thôi, ngay chính Chúa Giesu xưa kia chữa bệnh phong hủi cho 10 người, cũng chỉ có 1 người quay lại cám ơn Ngài đó sao? Mà đó lại là 1 người dân ngoại, huống hồ là lũ trẻ vô tâm vô tánh như chúng tôi, chắc Cha Sở cũng không lấy gì làm phiền hà). Ngài cũng đã già hơn, yếu hơn xưa, và ánh mắt nhìn chúng tôi mừng vui xen lẫn với một chút buồn ngậm ngùi, vì chúng tôi đã đủ lông đủ cánh bay vào cuộc đời mênh mông.
Quả là như thế, tôi đã bận rộn triền miên với sách vở, học hành và những mùa thi nối tiếp nhau. Có chút rảnh rang thì cùng bạn bè vào những quán đèn màu thưởng thức cocktail, nhâm nhi ly café đá, tập tành nghe nhạc xập xình những bài hát thời thượng của Boney M, Abba, the Carpenters, hoặc thả hồn vào những bài hát tiền chiến ủy mị, nào Hương Xưa, nào Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay, nào Thu Quyến Rũ, hoặc đạp xe ra Sài Gòn dưới những con đường có lá me bay. Rồi có bạn trai, bận làm Thơ tình, yêu thương và hờn giận, xen kẽ với những căng thẳng lo âu của những mùa thi trên giảng đường, xôn xao những ngày phượng nở và chia tay, nên những trò chơi đơn sơ và rẻ tiền của thời thơ ấu đã thực sự chìm vào lãng quên, trở thành một kỷ niệm xa xăm.
 
Tháng 12 năm 1989, tôi và 40 người khác được gửi đến trú ngụ ở một căn nhà giữa cánh đồng ở miền quê tỉnh Kompomsom, Cambodia chờ ngày lên tàu vượt biển. Buổi sáng tôi thường dậy rất sớm, bước ra ngoài tập thể dục và hít khí trời trong lành. Bàn chân tôi dẫm lên những đám cỏ còn ướt đẫm hơi sương, và phía xa tận chân trời còn mờ tối là mặt trời đang mọc sớm hay ánh trăng tàn đang lặn muộn? Xa xa, làng mạc vẫn còn chìm trong giấc ngủ say dưới màn sương mờ đục, đẹp như một bức tranh. Những cây thốt nốt vươn mình trong bầu trời sớm, dáng cong rũ mềm mại như những cây dừa quê hương, tôi bỗng thấy nhớ nhà đến xót xa.
Giờ này chắc cái chợ nhỏ đã bắt đầu dọn hàng, nào bún riêu, bánh cuốn, xôi vò, bánh cam, chuẩn bị cho những hàng quà buổi sáng. Hai quán café ở đầu xóm cũng đã mở cửa đón khách đi làm sớm. Tôi như nghe thấy tiếng chuông nhà thờ buổi sớm vừa vang lên rộn ràng, thúc giục. Tôi ước sao có đôi cánh để bay về với xóm nhỏ của tôi, dù chỉ là vài phút thôi, để kịp nhìn thấy trong những ngõ hẻm còn mờ tối là bóng dáng các cụ ông cụ bà rảo bước đến nhà thờ, có bà vừa đi vừa cài vội mấy nút áo dài, trước sân nhà thờ ông trùm Cương vừa mở cổng vừa tươi cười hỏi thăm những người đi lễ sớm.
Và phía sau ngôi nhà thờ, là căn nhà thân yêu của tôi, với giàn hoa bông giấy đỏ tươi trước cổng. Tôi nhớ từng người thân ruột thịt của mình, tôi nhớ cả những đồ vật vô tri vô giác nhưng đã từng gắn bó với tôi như hơi thở. Nhớ căn phòng ngủ của tôi, có một ô cửa sổ bé xíu nhìn ra khu vườn sau của nhà hàng xóm, thấy cả những cây chuối đong đưa những trưa hè dưới làn gió thoảng. Nhớ cái tủ đứng nơi góc phòng, bên trong là cả “gia tài” vô giá của tôi: những bộ quần áo tôi sắm được bằng chính đồng lương của mình, những cuốn albums, những cuốn lưu bút và nhật ký, đồ trang điểm. Nhớ chiếc bàn viết bên cạnh giường ngủ, nơi tôi vẫn ngồi hàng đêm soạn giáo án và chấm bài học trò, hoặc lãng đãng trên những trang nhật ký khi những hạt mưa đầu mùa rơi lộp độp trên mái tôn vào những đêm khuya lắc khuya lơ…
Rồi tôi khóc nghẹn ngào. Ở cái giây phút sắp sửa bỏ lại quê hương, tôi bỗng thấy yêu mảnh đất xứ sở của mình quá đỗi. Sao tôi lại muốn mình trở lại như trẻ thơ, hồn nhiên vô tư, không chút buồn lo nơi cuộc đời đầy biến động này:

Cho tôi lại ngày nào
Trăng lên bằng ngọn cau
Me tôi ngồi khâu áo
Bên cây đèn dầu hao
Cha tôi ngồi xem báo
Phố xá vắng hiu hiu
Trong đêm mùa khô ráo
Tôi nghe tiếng còi tàu.
(Phạm Duy)


Ngày hôm sau, con tàu định mệnh đã đưa tôi ra khơi, xa mãi quê hương thân yêu, đến trại tị nạn Thailand ở 4 năm ròng rã trước khi định cư tại Canada. Gia đình, người thân tôi cũng lần lượt ra đi sinh sống rải rác ở Mỹ, nên mãi 20 năm sau kể từ buổi sáng năm nào khóc trên xứ Chùa Tháp, tôi mới có dịp trở về thăm xóm nhỏ của tôi.
Thời kinh tế thị trường đã thay da đổi thịt đến tận xóm ngoại ô. Tôi đã lặng lẽ khóc khi đứng trước căn nhà xưa của mình mà nay không còn gì quen thuộc ngoài bảng số nhà 112/4, vì bây giờ đó là nhà hàng cơm bình dân. Nơi giàn bông giấy ngày xưa cho tôi những chiều mưa ủy mị xót thương những cánh hoa mỏng manh run rẩy, nay là quầy để thịt kho, cá chiên, rau xào, đậu hũ. Mảnh sân trước tráng xi măng thuở nào êm ấm những sáng mùa xuân chị em tôi phơi dưa kiệu, làm bánh mứt, nay là chỗ cho thực khách ngồi ăn vội vàng bữa cơm trước khi trở về hãng xưởng làm việc. Những căn nhà lầu mọc lên thay cho những căn nhà đơn sơ thuở nào làm cho những con hẻm bị nhỏ lại. Tôi hỏi bạn: “Vậy ánh trăng có còn tràn xuống hẻm lấp lánh, kỳ ảo vào những ngày rằm?” Câu trả lời là: “Trời ạ! Thời buổi này chẳng ai còn thời giờ để lãng mạn, mộng mơ nữa đâu”.
 
Nhà xứ được xây đẹp hơn, nhưng cây mận với những chùm hoa trắng như bông tuyết của tôi đâu rồi?! (Tôi nghe lòng mình thổn thức). Nhà thờ cũng được phá đi xây lại toàn bộ, cũng trên diện tích ấy người ta xây hai tầng lầu, phía dưới là chỗ để xe, phòng áo, phòng hội họp, còn trên lầu là Cung Thánh cao sang, gác đàn rộng rãi. Phía trước nhà thờ thật bề thế với những bậc cầu thang trải dài xuống tận phía dưới. Cái tháp chuông mới hơn và cao hơn, và không hiểu tại sao cây hoa sứ đã không còn nữa. Tôi hốt hoảng: “Vậy làm sao lũ trẻ nhặt hoa ngửi mùi hương và chơi bán hàng?” Bạn tôi cười buồn: “Mày lo bò trắng răng. Con nít ngày nay chơi game, trò chơi điện tử, chứ đâu thèm chơi những trò chơi quê mùa rẻ tiền như chúng mình ngày xưa”. Tôi vớt vát: “Thế còn những bài đồng dao: Thiên đàng địa ngục hai bên?... Rồng rắn lên mây có cây lúc lắc?...” Bạn tôi lại cười buồn: “Xưa rồi, Diễm!” Buồn nữa là Cha xứ, linh mục Heromino Phạm Ngọc Giá và ông cụ Hanh cũng đã lần lượt qua đời cách đây khá lâu. Bạn bè xưa mỗi đứa tan tác 1 phương trời.Tất cả đều đã đổi thay như cuộc đời dâu bể.
Từ trong đáy lòng, tôi thực sự vui mừng cho người dân xóm tôi vì cuộc sống đã được nâng cao. Tôi mừng vui cho những giáo dân của xóm đạo ngoại ô đã có một ngôi nhà thờ khang trang rộng rãi. Nhưng mãi mãi trong tâm trí tôi vẫn là hình ảnh một xóm nhỏ đơn sơ, có những căn nhà cao thấp xen kẽ nhau, có những ngõ hẻm rộn ràng sáng rực ánh trăng, và một ngôi giáo đường bé nhỏ xinh xinh. Và bao giờ cũng vậy, qua làn nước mắt, tôi thấy lung linh hình bóng của Cha Heromino Phạm Ngọc Giá, với đôi mắt nhân từ sau cặp mắt kiếng và nụ cười nở trên môi, đang mở rộng cánh cửa nhà xứ cho lũ chúng tôi ùa vào trong mùi thơm ngào ngạt của những bông hoa mận rụng trắng ngoài sân. Ngày ấy đâu rồi?!

Kim Loan
(Edmonton, trời lập đông, tháng 12/2023) 

Thứ Sáu, 20 tháng 12, 2024

Chiều Bên Giáo Đường - Sáng Tác: Lê Trọng Nguyễn - Tiếng Hát: Lệ Thanh(1963)


Sáng Tác: Lê Trọng Nguyễn
Tiếng Hát: Lệ Thanh

Mừng Noel

 

Mẹ ơi! Noel là gì?

Lửa bập bùng sưởi ấm

Bão tuyết rơi ngoài sân

Ánh đèn màu lấp lánh.

 

Mẹ ơi! Noel đép quá!

Ông già râu bạc phơ

Mặt hiền hòa phúc hậu

Mang qùa cho tuổi thơ.

 

Mẹ ơi! Noel thánh thiện

Nhạc thánh ca vang lừng

Lòng rộn ràng háo hức

Tiếng chuông ngân không ngừng.

 

Mẹ ơi! Chúa chào đời

Trong máng cỏ đơn sơ

Ánh hào quang rực rỡ

Soi sáng cả bài thơ.

 

Mẹ ơi! Trời đầy sao

Một ngôi sao Mẹ cài

Trên cây thông xanh biếc

Noel xưa! Nhớ hoài.

 

Tế Luân

Ơn Chúa Giáng Sinh


Máng cỏ hang lừa Đức Mẹ sinh
Ngôi Hai giáng hiện đấng hiền linh
Trên trời Thiên Chúa ban ân điển
Dưới thế con chiên nhận nghĩa tình
Bốn biển cầu mong dừng chiến sự
Năm Châu khẩn nguyện giữ yên bình
Vòng gai chuộc tội vì nhân loại
Thập giá ơn Người bậc Thánh minh


ThanhSong ntkp
Họa

Trong Ngôi Giáo Đường( Văn Bia) - (Thanh Thanh)

 


Hai dãy hàng ghế trong ngôi giáo đường
Chia đôi tín hữu, chia cả người thương
Từ thuở ấu thơ, kinh còn chưa thuộc
Phải tách quỳ mỗi bên ảnh Cứu Chuộc
Chúa rẽ phân mình, em hữu tả anh.

Từ hàng ghế đầu, năm tháng qua nhanh
Ðẩy mình xuống lần ngang hàng ghế giữa
Tóc em đã dài, tình đầu bốc lửa
Anh nhìn ngang hơn nhìn thẳng bàn thờ:
Ngang anh có thiên thần đẹp như mơ
Không sốt sắng vẫn vì em đi lễ
Chúa Nhật nào trông qua bên hàng ghế
Thấy vắng em, anh thấy mất thiên đường.

Rồi Chúa thương tình hai kẻ yêu đương
Cho anh dắt thiên thần lên cung thánh
Nhẫn cưới trao nhau, ghế quỳ bên cạnh
Ước cuộc đời cứ thế mãi song đôi .
Hôn lễ tan, dòng giữa trở về ngồi

Thời gian chưa kịp dần dà xua đuổi
Ðôi ta xuống tận nơi hàng ghế cuối
Anh đã đưa em trở lại trước bàn thờ
Trong nước mắt, trong thần trí đần ngơ
Sao em ẩn trong quan tài lạnh lẽo
Ðể mình anh đứng cô đơn teo héo
Bơ vơ lạc lõng giữa chốn thánh đường

Rồi đây trong tuổi đông giá phong sương
Chịu sao nổi suốt cuộc đời còn lại!
Lúc xem lễ vẫn quen nhìn bên trái
Mắt đã lờ, được thấy em trong mây
Và anh mơ, mơ được sớm đến ngày
Gặp lại em khi rời hàng ghế chót.

Văn  Bia

***
Inside The Cathedral

The two blocks of seats in the cathedral wide
Divided the believers, separated the lovers too.
Since childhood, the prayers not yet known through,
We had to kneel down on each of the Image's side:
The Savior parted us, on the left me, on the right you.

Time passed fast, pushing us from the first line
Gradually down to the middle rows to sit.
Your hair had grown long, my first love strong wine,
I looked sideways rather than straight at the altar fit.
Sideways in my row there was an angel like a dream:
Even not fervent, I went to church for you, my nice.
If on Sunday I glanced in your direction with a beam
But did not see you there, I felt I had lost Paradise.

Then God took compassion on the two infatuated,
Allowing me to lead up to the pulpit my sprite,
Exchange wedding rings, kneel as to be graduated,
And wish for a forever side-by-side happy life bright.
After that, we got back to the middle row in His light.

Time had not been enough after our such treats
To drive both of us down to the last row of seats,
Back in front of the altar I already had to send you,
In hot tears, in dull spirit and dumb mind, so blue!
Why have you hid yourself in that coffin, how cold!
Leaving me lonely, pain unable to withhold,
Standing abandoned, got lost in the holy place.

From now on, having my time-worn age to face,
How could I endure my life's remaining days!
In the cathedral I am still used to glance sideways
To wish through dim eyes to see you in the clouds;
And I dream, dream of being soon rid of all shrouds,
I meet you again on leaving the last row of seats.

Translation by Thanh Thanh

Giáng Sinh 2024


Trước giáo đường ánh đèn chập chờn hư ảo
Chợt vang lên tiếng chuông mừng Giáng-sinh về
Đất nước này bắt đầu bừng tỉnh khỏi cơn mê
Trong làn sóng thanh âm đang ầm ầm trỗi dậy
Bản hùng ca dân tộc America Great Again !
(GiángSinh 2023, #568)

Là kẻ ngoại đạo, nhưng từ lâu trong tâm hồn tôi vẫn mang hình ảnh Chúa. Nay thì tôi lại càng tin Chúa hơn. Tôi tin Chúa đã che trở cho một con chiên sùng kính Chúa vô cùng thoát khỏi 3 lần bị ám sát, để người ấy hiện nay đang thực hiện sứ mạng tái lập trật tự, bảo vệ Hoa Kỳ, một xứ sở của American Dream, và thực hiện nền hoà bình cho toàn thế giới.

Nhớ lại một thời xưa, trên quê hương Việt Nam yêu dấu, cứ mỗi dịp Lễ Giáng Sinh, mặc dầu là người ngoại đạo, tôi vẫn hân hoan với niềm vui chung của mọi người.

Hay đêm nao ánh sáng ngợp kinh thành
Chân rộn bước trong lòng đời mở hội.

Tôi hoà vào giòng người đổ xuống khu vực Vương-Cung-Thánh-Đường.... Gần triệu con người đi trong đêm Giáng-sinh...... đứng ở một góc tối, xem lễ. Giàn đại phong cầm vang lên nhạc thánh ca, ru hồn tôi vào thế giới thiên thần, nơi ấy tất cả mọi người mọi vật đều thanh khiết, an hoà, thương yêu nhau. Ave Maria, bản nhạc của Schubert mà tôi hằng ưa thích từ lâu và đã có lần thử dạo trên phím vĩ cầm, giéo giắt đưa tôi đến với Đức Bà Maria, như hình ảnh người mẹ hiền của nhân loại.... Lòng tôi tràn trề hạnh phúc qua âm hưởng thánh ca phát ra từ máy nhạc và trong khung cảnh nồng nàn, ấm cúng của một mái ấm gia đình: Vòng tay ôm chặt người thân,/đêm nay là những Thiên Thần trong tôi./Ôi sao hạnh phúc tuyệt vời,/ước mong ấp ủ cả đời yêu thương ! (Những Đêm Giáng - Sinh , 2012 , #54 )

Rồi một nửa thế kỷ qua từ khi rời bỏ quê hương để định cư trên đất nước người, một quốc gia tư do hàng đầu thế giới, tôi đã được hưởng cảnh an bình hạnh phúc

The Statue Of Liberty, New York với một bó đuốc vàng
Soi sáng rực con đường DÂN-CHỦ, TỰ-DO cho nhân loại.

Bốn-mươi-lăm năm xây lại cuộc sống
Đặt hết niềm tin thực hiện ước mơ:
A-me-ri-can-Dream và Hi-vọng
Được an vui cho đến tận cuối đời
(Giấc Mơ 2020 , #413 )

Thế rồi, ngược lại, trong mấy năm gần đây, xứ sở của Giấc Mơ đi vào một giấc mộng đời khủng khiếp, hãi hùng

.Nhưng chưa đầy mấy trăm năm lập quốc
Lò Melting-pot bắt lửa đuốc thần
Người đốt cháy người vô cùng thảm khốc
Ôi hạnh phúc vĩnh cửu của di dân ?
Nền Dân-chủ cháy bừng bừng quá mức
Thiêu đốt niềm tin đã có trong tôi
(Giấc Mơ 2020 , #413 )

.Tối không ra tối, sáng thôi đành / Xanh đỏ trộn màu, xấu tấm tranh
Đấy xứ cờ Hoa, tan giấc mộng / Này miền bắc Mỹ, vỡ mơ xanh
(Vịnh xứ của Giấc Mơ 2023 , #596 )

Nhưng may mắn thay! giờ đây, xứ sở của Giấc Mơ bắt đầu lật sang một trang sử mới.. Nước Mỹ đang tỉnh thức khỏi giấc mộng kinh hoàng, trở lại với việc bảo tồn truyền thống lịch sử hơn hai trăm năm lập quốc, phục hồi vị thế đứng đầu Thế Giới Tự Do. Hoa Kỳ đang thắp lên ngọn lửa hi vọng, cho tương lai bừng sáng.

God Bless(ed) America ! Thực vậy Chúa đã ban ân sủng cho nhân vật <con chiên sùng kính của Chúa> được bảo toàn mạng sống, tức là Chúa đã và sẽ luôn luôn che trở cho dân tộc Hoa Kỳ trong đó có tôi là một công dân. Và...và dường như từ bấy lâu nay, với lời cầu nguyện chân thành từ một xứ sở xa xôi của hai vị thân hữu, tôi đã có được một sức khoẻ khá tốt so với tuổi tác đã xế chiều. Xin cảm ơn Người . Xin cảm ơn phước lành Người đã ban cho. Và tôi tin rằng hình ảnh Người sẽ luôn luôn ngự trị trong tâm hồn tôi mãi.

VẬY GIÁNG SINH 2024 là GIÁNG SINH của NIỀM TIN VÀ HY VỌNG.

ChinhNguyên/H.N.T. 
 Mùa Lễ Giáng Sinh 2024 (675)




Chuyện Vãn: Giang Hồ, Hai Nghĩa Tương Phản

Hai chữ giang hồ không mấy xa lạ trong đời sống của mỗi người đều thường đề cập trong thơ, văn, điện ảnh… và cũng là câu nói thường tình với cá nhân, nhóm người trong xã hội.

Tác phẩm Thủy Hử ban đầu là Giang Hồ Khách Truyện, sau lấy tên là Thủy Hử vì “căn cứ địa” Lương Sơn là vùng đầm, hồ nên Thủy Hử (bến nước). Truyện nầy qua bản dịch của La Thần và Á Nam Trần Tuấn Khải, gồm 3 cuốn, năm 1973, sau đó với Tử Vi Lang nên rất quen thuộc với độc giả Việt Nam.

Trong truyện Thủy Hử của của nhà văn Thi Nại Am (1296-1372) ở Trung Hoa vào triều Nguyên-Mông (1295-1368), kể về câu chuyện của Tống Giang triều nhà Tống, nổi dậy kéo theo “giang hồ hảo hán” gồm 108 người đến núi Lương Sơn. Gọi là anh hùng Lương Sơn Bạc.

Tác giả phác họa chân dung từng nhân vật tầng lớp nông dân, võ biền “thế thiên hành đạo” chống lại ách độc tài của triều đình.

Sau khi Thi Nại Am đã sáng tác xong 70 hồi truyện Thủy Hử, vua nhà Nguyên tuy đã cướp ngôi nhà Tống nhưng đọc xong truyện đã nổi giận bắt giam Thi Nại Am và hạ lệnh phải viết tiếp đoạn sau, kể về việc Lương Sơn Bạc bị dẹp, nếu không sẽ bị xử tội. Lý do của vua Nguyên là sự nổi dậy của “nghĩa quân” sẽ ảnh hưởng cho chế độ hiện tại.

Thi Nại Am lo lắng, liên lạc với học trò là La Quán Trung (1330-1400, tác giả Tam Quốc Diễn Nghĩa) tới nhà lao cùng bàn bạc. Hai người cùng viết tiếp Hậu Thủy Hử kể việc thất bại của quân Tống Giang. Sau 1 năm, Hậu Thủy Hử hoàn thành, hai thầy trò mang dâng vua Nguyên. Vua Nguyên xem xong bằng lòng, hạ lệnh thả Thi Nại Am.

Chương đầu của Thủy Hử, khi kể về sự hình thành của nhóm hảo hán Lương Sơn Bạc, Thi Nại Am viết: “Những người trong giang hồ có nghĩa khí đều tụ hội ở Lương Sơn Bạc”.

Khi Chu Nguyên Chương (1328-1398), xuất thân từ tầng lớp nghèo khổ, từng giữ dê chăn bò cho địa chủ, khi gia nhập nghĩa quân Quách Tử Hưng, dần dà lập công trạng tiêu diệt Trần Hữu Lượng rồi dẫn 25 vạn đại quân Bắc phạt chiếm được Sơn Đông. Quân nhà Nguyên chạy về Mông Cổ. Tháng Giêng năm 1368, Chu Nguyên Chương xưng Đế, đặt quốc hiệu là Minh, trở thành vua Minh Thái Tổ. Chu Nguyên Chương gọi Thi Nại Am làm quan nhưng ông từ chối, ông nhuận sắc lại Thủy Hử viết chung với La Quán Trung (có tài viết chương, hồi và hư cấu) lưu lại hậu thế. Vì Chu Nguyên Chương gốc gác như như các nhân vật của Lương Sơn Bạc và sự đời “Được làm vua, thua làm giặc” nên chữ nghĩa văn chương biến hóa từ “giặc” (khi thua) thành “nghĩa quân” khi lật đổ quan quân, triều đình… Trong quyển Ỷ Thiên Đồ Long của Kim Dung đề cập đến Chu Nguyên Chương với hình ảnh hư cấu “Chu Nguyên Chương thống lĩnh Minh Giáo và nhờ binh pháp trong Vũ Mục Di Thư đánh đuổi người Mông Cổ, lập ra nhà Minh”.

“Giang hồ” từ Việt gốc Hán. Chữ “giang” thuộc bộ thủy, nghĩa là “sông”; “hồ” cũng thuộc bộ thủy nên “giang hồ” chính là “sông và hồ”. Danh từ “Giang” và “Hồ” khi đi với nhau thành tính từ, không còn liên quan gì đến nghĩa của từ gốc

Trong Tầm Nguyên Từ Điển của Bửu Kế (Sài Gòn 1955): “Giang là sông; Hồ là hồ nước... nghĩa bóng là người sống lang bạt, bất định. Cảnh sống nay đây mai đó, tự do, phóng túng như “thú giang hồ, giang hồ lãng tử” không bị ràng buộc trong phép vua, lệ làng…

Theo học giả Đào Duy Anh “Nghĩa đen là sông hồ, xuất phát từ chữ Tam Giang (sông Trường Giang, sông Hán Giang và hồ Bành Lãi; Ngũ Hồ (năm hồ lớn của Trung Hoa) nơi người ta hay đến chơi, sau đó chữ giang hồ chỉ những người ngao du nay đây mai đó, hoặc những người lang thang không theo triều đình. Khi áp dụng cho đàn bà, nó chỉ người làm gái điếm”.

Trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du đã linh động sử dụng hai chữ giang hồ uyển chuyển tùy theo mỗi trường hợp.

Từ Hải có ý chí độc lập ngang tàng, không chấp nhận sự khuất phục của triều đình nên:


“Đội trời đạp đất ở đời,

Họ Từ, tên Hải vốn người Việt Đông.

Giang hồ quen thói vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”.

(Câu 1791-1793)


Nhưng khi Thúc Sinh nói với Hoạn Thư về nàng Kiều thì Nguyễn Du đã dùng giang hồ theo một hàm ý khác:

“Tiếc thay lưu lạc giang hồ,

Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài”.

(Câu 1989-1990)


Hay hình ảnh khi Hoạn Thư nổi cơn ghen vì vậy Thúy Kiều cảm thấy:

“Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,

Một màu quan tái bốn mùa gió trăng”

(Câu 1595-1596)


Trong thi ca cũng thường đề cập đến hai chữ giang hồ, điển hình như các bậc tiền nhân:

Giang Hành, bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi


“Tây tân sơ nghĩ trạo

Phong cảnh tiện giang hồ

Vũ quá sơn dung sấu

Thiên trường nhạn ảnh cô…”

(Bến tây thuyền mới ghé mái,

Phong cảnh đã là giang hồ rồi.

Mưa qua rồi trông dáng núi gầy;

Trời rộng bóng nhạn như đơn chiếc...)


Bài thơ chữ Hán Giang Hồ Ngụ Hứng của Nguyễn Thượng Hiền:


“Giang hồ ngụ khách,

Thiên địa tản nhân.

Nhất tháp nhàn ngâm,

Chung niên lãn ngoạ…”

Quốc Kêu Cảm Hứng của nhà thơ Nguyễn Khuyến

“Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ,

Đây hồn Thục Đế thác bao giờ…

Ban đêm ròng rã kêu ai đó?

Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ”.

Vào thời tiền chiến với các nhà thơ:

Bài thơ Dâng Tình của Vũ Hoàng Chương với hai chữ giang hồ:

“Lũ chúng em chờ chàng qua chín kiếp

Tình giang hồ phong nhụy vẫn nguyên hương…

… Tình nhân thế chua cay người lịch duyệt

Niềm giang hồ tan tác lệ Giang Châu”

Bài thơ Mộng Xuân Hương của Bích Khê:

“Nửa cánh giang hồ bạt nhớ thương

Đêm nay buồn lắm, gục bên giường

Ngoài ly Lý Bạch trời như mộng

Sau khói phù dung mộng cố hương”



Trong văn chương, ngày xưa hai chữ giang hồ liên quan với kiếm khách, điển hình như tác phẩm Giang Hồ Kiếm Khách của nhà văn Nhật Yoshikawa Eiji. Ban đầu truyện nầy đăng tải trên báo Asahi, tác giả dự tính chỉ vài chục chương nhưng rất lôi cuốn độc giả ái mộ nên tờ báo yêu cầu tác giả viết tiếp vì vậy đăng liên tục từ ngày 23 tháng 8 năm 1935 đến ngày 11 tháng 7 năm 1939. Sau đó in thành sách gồm năm tập khoảng một nghìn năm trăm trang.

Bối cảnh xảy ra ở thế kỷ 16 viết về cuộc đời kiếm sĩ Musashi từ thuở thiếu niên với nhiều bất trắc, quyết lập thân bằng kiếm đạo cho đến lúc trở thành kiếm sĩ vang danh thiên hạ. Kiếm khách thời đó dưới sự thống trị của kẻ quyền lực nên lộng hành trấn áp khắp nơi. Dĩ nhiên “tức nước vỡ bờ” nên có sự nổi dậy của kiếm sĩ chống lại ách độc tài. Đây là một trong những tác phẩm kinh điển nổi tiếng của Nhật.


Và, điển hình như tác phẩm hư cấu Tiếu Ngạo Giang Hồ của nhà văn Kim Dung trong chốn võ lâm. Nhà văn Cổ Long với Tuyệt Đại Song Kiêu hay Giang Hồ Thập Ác ở Đài Loan vào giữa thập niên 1960.

Tiếu Ngạo Giang Hồ là một trong những tác phẩm rất ăn khách với độc giả ở miền Nam Việt Nam cũng vào thập niên 1960’ ở Hồng Kông. Tác phẩm đặt theo bản nhạc cầm tiêu hợp tấu giữa hai cao thủ võ lâm chánh/tà. Lưu Chính Phong của phái Hành Sơn và Khúc Dương của Nhật Nguyệt Thần Giáo cảm thấy chốn võ lâm gió tanh mưa máu nên quyết định rời khỏi chốn võ lâm “gió tanh mưa máu” dùng âm nhạc ngao du với đất trời nhưng rồi bị hai phe chính/tà truy sát. Khúc nhạc đó truyền lại cho Lệnh Hồ Xung, chánh phái Võ Đang và Nhậm Doanh Doanh, tà phái Nhật Nguyệt Thần Giáo… Trải qua bao sóng gió, oan nghiệt, cuối cùng hai người trai tài, gái sắc chán cảnh thị phi, chém giết, dắt tay nhau tiếu ngạo giang hồ.


Thú vị nhất trong truyện, phim kiếm hiệp (chưởng) luôn nhắc đến hai chữ giang hồ hầu như dành cho chánh phái, ơn đền oán trả, nghĩa khí võ sĩ, trượng phu với kẻ ngã ngựa… Hình ảnh Cái Bang ăn mặc rách rưới, sống “đầu đường xó chợ” nhưng hành hiệp đạo nghĩa.
Về âm nhạc, ca khúc Dừng Bước Giang Hồ của nhạc sĩ Hoàng Trọng với ban hợp ca Thăng Long đã một thời vàng son với giới mộ điệu âm nhạc:


“Chiều nay sương gió, lữ khách dừng bên quán xưa

Mơ màng nghe tiếng chuông chiều, vương về bên quán tiêu điều…

Tới đây nơi xưa, gió êm êm đưa

Áng mây trôi tới xa xôi khuất nơi sau đồi

Quán tranh xiêu xiêu, chốn đây cô liêu,

Nhắc cho ta biết bao nhiêu dáng xưa yêu kiều…

Đã bao năm qua, sống nơi phương xa,

Về phương cũ đành dừng bước chân giang hồ”

Ca khúc Tình Kỹ Nữ của nhạc sĩ Phạm Duy

“Đêm nay đôi người khách giang hồ

Gặp nhau tình trăng nước

Sánh vai nhịp bước giang hồ

Kề vai ước xây nhà bên suối

Kề môi ước gây vài đường tơ…

… Đêm nay khi tàn giấc mơ vàng

Ngồi đây sầu ngơ ngác

Ngắm bao tình khách giang hồ

Lòng ta nhớ duyên tình kỹ nữ

Lòng ta nhớ cung đàn mùa xưa”.


Hai chữ giang hồ với những dòng trích trên với hình ảnh đẹp trong tâm hồn lãng tử, phiêu bồng, không vướng bụi trần với thiên nhiên hữu tình. Ngày đó. hai chữ giang hồ đi kèm với lãng tử, những chàng trai nét phong trần ưa lang bạt nay đây mai đó vì “Thời lai đồ điếu thành công dị. Vận khứ anh hùng ẩm hận đa” (Cảm Hoài của danh sĩ Đặng Dung) hay đâu đó “Chí lớn trong thiên hạ đựng không đầy đôi mắt mỹ nhân” của Phạm Thái.

Trong bài viết của Hà Khánh Quân (Luân Hoán) về người bạn cùng cố hương với tựa đề: Nguyễn Đông Giang, Thơ Của Người Giang Hồ. “Người Giang Hồ của đám chiến sĩ sớm ngã ngựa, có tên thật Nguyễn Văn Ngọc. Anh được ra đời vào ngày 06 tháng 02 năm 1943 tại làng An Hải, Đông Giang, quận 3 thành phố Đà Nẵng. Anh theo học tiểu học tại trường Hoàng Diệu rồi vào Khóa 19 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.

Năm ngón tay của một bàn tay phải, là món quà lưu niệm, anh dành cho cuộc chiến tranh Việt Nam. Nguyễn Đông Giang thành thầy giáo tại các trung học Quốc Gia Nghĩa Tử, Đông Giang, Bồ Đề, Khiết Tâm,Vinh Sơn, Duy Nhân (Đà Nẵng), Trần Quý Cáp (Hội An)... Sau 1975, không thủ phận, nên anh có mặt trong tổ chức phục quốc. Được ghép vào thành phần “âm mưu lật đổ chế độ”, Nguyễn Đông Giang có cơ hội ăn cơm tù Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam sáu năm. Ra tù bị quản chế tại gia, cấm vượt khỏi Đà Nẵng. Anh nhanh chóng trở thành một ông xe thồ lành nghề.

Ngoài cái thân trần, không có mảnh giấy nào lận lưng, kể cả bằng tốt nghiệp “cải tạo” tốt, Nguyễn Đông Giang đến Hồng Kông một mình năm 1991. Không có bất cứ thứ gì để chứng minh thân thế, sự nghiệp, anh bị giữ tại trại một thời gian năm năm. Có tay nghề tranh đấu, nên anh tiếp tục hành nghề trước những bất công trong trại tạm trú. Song song với công việc giúp mình, giúp người, anh làm thơ. “Cuối cùng, một số thơ, một số bài viết của ông, đã là đầu mối cho International Pen in London và Liên Hiệp Quốc can thiệp, vớt anh đến Hoa Kỳ vào năm 1996, theo diện nhà báo tị nạn chính trị”.

***
Giang hồ mang hình ảnh xấu với băng đảng, các tay anh chị sống ngoài vòng pháp luật, mạnh được yếu thua. Giang hồ nghĩa xấu chỉ bọn lưu manh, du đãng, du côn, du thủ du thực, đầu gấu, trộm cắp, đâm thuê chém mướn… Ngày nay, người ta nói rằng nhiều người tự xưng là giang hồ thực ra là du đãng, lưu manh, họ không có tư cách và phẩm chất của những giang hồ xưa.

Nhà văn Duyên Anh với các tác phẩm Nặng Nợ Giang Hồ, Điệu Ru Nước Mắt Luật Hè Phố, Dzũng Đa-Kao, Vết Thù Hằn Trên Lưng Con Ngựa. Nhà văn Nguyễn Thụy Long với Bước Giang Hồ, Loan Mắt Nhung, Nợ Máu… Tuy nhiên trong vài tác phẩm nầy, tác giả cũng đề cao vài nhân vật trong băng nhóm có tính nhân bản, sống chết có nhau để hài hòa trong xã hội đen.

Trong quyển Điệu Ru Nước Mắt với hình ảnh Trần Đại (Đại Cathay) đứng đầu “tứ đại giang hồ. Duyên Anh nghe Trần Đại kể lại cuộc đời giang hồ, những trận đấm đá, đem chém thư hùng đẫm máu trên đường phố, dựng nên tác phẩm.tác bài thơ tặng cho Đại Cathay.
Trần Đại trong Điệu Ru Nước Mắt xuất thân là con nhà giàu, học giỏi nhưng chán ghét thời cuộc, bỏ nhà theo tiếng gọi giang hồ, làm đại ca nhưng vô cùng nghĩa hiệp, cứu giúp kẻ thân cô thế cô, dám đánh cảnh sát ăn hối lộ. Cuối cùng, vì chung thủy với mối tình cô gái (con nhà trâm anh thế phiệt, học trướng Tây ở Đà Lạt và Sài Gòn, chán ghét xã hội thượng lưu dối trá nên gia nhập vào băng nhóm) vô cùng lãng mạn, đã dũng cảm chết bi tráng trên hàng rào kẽm gai…

Trong quyển Loan Mắt Nhung của Nguyễn Thụy Long với hình ảnh Loan có đôi mắt đen huyền đẹp như nhung, do biến cố cuộc sống, thời cuộc đẩy đưa, từ thiếu niên ngây thơ trong sáng thật thà gia nhập băng đãng, bản lĩnh lỳ lợm, trở thành đại ca giang hồ. Tuy sống trong xã hội đen nhưng bản chất lương thiện.
Hai nhà văn không đề cao xã hội đen, đâm thuê chém giết nhưng đề cập đến trong vũng lầy tội lỗi đó cũng có vài nhân vật có nghĩa, có tình trong giới giang hồ (?).

Trong ca dao có câu: “Trai tứ chiếng gái giang hồ. Gặp nhau làm nổi cơ đồ cũng nên” đề cập đến hình ảnh “trai tứ chiếng, gái giang hồ” thường bị khinh bỉ tùy theo môi trường và xã hội.
Thoạt đầu “trai tứ chiếng” xưa kia có nghĩa gốc là nơi quy tụ bốn kinh trấn xung quanh kinh đô Thăng Long, đã từng trải qua bốn phương trời tụ hội. Theo thời gian và môi trường xã hội xấu, nó trở thành trai “tứ cố vô thân” tụ tập nhau làm điều bất chính.
“Gái giang hồ” với nghĩa xấu ám chỉ hình ảnh gái làm điếm bụi đời, trùm băng đãng dụ dỗ, bắt cóc con gái vào tệ nạn buôn bán tình dục và cả móc túi… Trong những thập niên qua, báo chí trong nước đề cập rất nhiều loại “gái giang hồ” nầy từ nơi nầy đến nơi khác, qua mặt luật pháp, làm ăn phi pháp.

Như đề ở trên, giang hồ, hai nghĩa tương phản (tốt/xấu, tích cực/tiêu cực) vì vậy khi đề cập đến hai chữ nầy không nên nhìn phiến diện mà xét từng nhân vật, thời điểm cũng như vai trò của nó trong cuộc sống.

***

Sau năm 1975 ở trong Nam có hai bài thơ viết về Giang Hồ rất thú vị.

Nhà thơ Linh Phương, Thư ký tòa soạn tuần san Tinh Hoa Nữ Sinh 1967. Tác giả bài thơ Kỷ Vật Cho Em, nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc trước năm 1975 được phổ biến rộng rãi. Tác phẩm đã xuất bản: Thơ Tình Linh Phương (Thơ - NXB. Ngựa Hồng – Sài Gòn 1967), Kỷ Vật Cho Em (Thơ - NXB. Động Đất – Sài Gòn 1971), anh đã phục vụ trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến.


Giang Hồ


“Giang hồ từ thuở ta thất thế
Chí lớn không thành thà ẩn cư
Viễn xứ. Ờ! Thôi thì viễn xứ
Hết đời phiêu bạt chốn quê xa…
… Cha xưa cầm súng ra đánh trận
Bỏ xác trên rừng mấy mươi năm
Lần đi đưa tiễn - tay chưa nắm
Vạt áo che ngang mẹ khóc thầm…
… Giang hồ. Ta giang hồ trăm bận
Vẫn thấy lòng đau rứt ruột đau
Thèm nghe tiếng dế thời thơ ấu
Ngắm cánh diều bay giữa vô cùng
Giang hồ. Ta giang hồ trăm bận
Thầm hẹn mai này quy cố hương
Ta về làm bạn cùng chim chóc
Lẫn với muỗi mòng chín cửa sông”

Bài thơ Giang Hồ của Phạm Hữu Quang, quê An Giang, cựu sinh viên Đại Học Sư Phạm Sài Gòn và Đại Học Cần Thơ, bị stroke lần thứ hai, qua đời ngày 28/4/2000 lúc 49 tuổi. Phạm Hữu Quang viết bài thơ vào tháng 5/1991.


Giang Hồ


“… Giang hồ đâu bận lo tiền túi

Ngày ta đi chỉ có tay không…

Giang hồ ta ghé nhờ cơm bạn

Đũa lệch mâm suông cũng gọi tình…

Giang hồ có buổi ta ngồi quán

Quán vắng mà ta chửa chịu về

Cô chủ giả đò nghiêng ghế trống

Đếm thấy thừa ra một gốc si

Giang hồ mấy bận say như chết

Rượu sáng chưa lưa đã rượu chiều

Chí cốt cầm ra chai rượu cốt

Ừ. Thôi. Trời đất cứ liêu xiêu

Giang hồ ta chẳng hay áo rách

Sá gì chải lược với soi gương…

Giang hồ ba bữa buồn một bữa

Thấy núi thành sông biển hoá rừng

Chân sẵn dép giày, trời sẵn gió

Ngựa về. Ta đứng. Bụi mù tung...

Giang hồ tay nải cầm chưa chắc

Hình như ta khóc mới hôm qua

Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt

Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà”.


Mấy câu thơ “Giang hồ. Ta giang hồ trăm bận. Vẫn thấy lòng đau rứt ruột đau” (LP) và “Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt. Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà” (PHQ) quá tuyệt.
Hai bài thơ của Linh Phương và Phạm Hữu Quang trong hoàn cảnh xã hội lúc đó của bản thân tựa như kẻ sĩ ngày xưa khi thất thế.

Lục Du viết “Chính xã hội thay đổi sau những biến cố lớn, quan niệm trong văn hóa truyền thống bị thay bằng những quan niệm duy vật, tôn sùng kim tiền, vật chất, không tin vào nhân quả, luân hồi đã tạo điều kiện cho cái xấu, cái ác lên ngôi, hình thành môi trường sống thuận lợi cho những người giỏi luồn lách ký ức”.
Trong quyển Tiêu Sơn Tráng Sĩ của nhà văn Khái Hưng ấn hành năm 1967, dày hơn bốn trăm trang gồm hồi.

Hồi 3: Tiêu Sơn Kết Nghĩa, “Trần Quang Ngọc, hai mươi nhăm tuổi, Phạm Thái hai mươi tuổi, Lê Báo mười chín tuổi, xin theo gương ngài cùng họ Lưu, họ Trương, kết nghĩa anh em, trước là để phò nhà Lê, sau nữa là để rửa thù cho cha chúng tôi. Tôi thề rằng tôi coi Phạm Thái, Lê Báo như hai anh em ruột, cùng hai người sống chết có nhau. Nếu tôi ở không đúng lời thề xin chết như thế nầy”. Hình ảnh 3 chàng trai trẻ với nghĩa khí vì vận mệnh đất nước lên vùng Kinh Bắc “kết nghĩa giang hồ” quá đẹp.

Hình ảnh Phạm Thái (1777-1813) quê làng Yên Thị, con của võ tướng Trạch Trung Hầu Phạm Đạt. Tuổi đôi mươi, Phạm Thái nối chí cha, kết giao với những người đồng chí hướng, khi bị truy nã thì cắt tóc, giả làm nhà sư vào tu ở chùa Tiêu Sơn, đặt đạo hiệu là Phổ Chiếu thiền sư. Đi tu được mấy năm, nhưng sự chưa đâu vào đâu thì Trương Đăng Thụ ốm chết, Phạm Thái hay tin liền vội vã về quê bạn ở làng Thanh Nê, Kiến Xương để điếu tang, rồi được gia chủ mến tài lưu lại trong nhà. Định mệnh run rủi, Phạm Thái gặp gỡ, xướng họa thơ văn rồi nảy lòng si tình Trương Quỳnh Như, em gái Trương Đăng Thụ. Cuộc tình không thuận, mẹ Trương Quỳnh Như nhất quyết muốn gả nàng cho gia đình giàu có Trịnh Nhị, khiến nàng phẫn uất tự vẫn. Đại nghiệp chưa thành, tình duyên đau khổ, Phạm Thái chẳng màng thế sự, trổ hết tài hoa làm thơ và lang bạt, rồi ốm đau tử tận ở Thanh Hóa lúc mới 36 tuổi”.

Trong tác phẩm nầy đề cập đến các tráng sĩ hoài Lê để chống lại nhà Tây Sơn. Nhân đây nhắc sơ về Quang Trung Nguyễn Huệ (1753-1792) xuất thân từ Tây Sơn, Bình Định. Ba anh em Tây Sơn tam kiệt, lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh. Bắc Bình Vương Quang Trung đánh Nam dẹp Bắc lập nên nhiều chiến công hiển hách như Trận Ngọc Hồi - Đống Đa (Chiến Thắng Kỷ Dậu) làm quân Thanh xâm lược khiếp hồn bạt vía, và sau đó lên ngôi Hoàng Đế Quang Trung, chẳng may qua đời trong 4 năm làm vua, nên quân Tây Sơn như rắn mất đầu trong cuộc nội chiến và dẫn kết hậu quả thảm hại!
Trải qua một trăm năm mươi năm, Nguyễn Huệ không những chìm trong quên lãng mà lăng mộ thân xác cũng bị làm nhục! Từ danh tướng, hoàng đế trở thành tội đồ!...

Danh dự nhân vật lịch sử được phục hồi, vinh danh trở lại, ghi trang sử mới trong lịch sử Việt Nam. Thời Việt Nam Cộng Hòa Quang Trung - Nguyễn Huệ: Thánh Tổ binh chủng Quân Vận (hình ảnh ngày xưa điều quân thần tốc). Chân dung Quang Trung được in trện tờ 200 đồng và nhiều con đường, ngôi trường mang tên Quang Trung, Nguyễn Huệ, ngay cả Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung… Đây cũng là giai đoạn bi thảm của lịch sử vì chỉ là chuyện vãn nên không đề cập nhiều sẽ lạc đề.

Giang hồ ngày xưa là vậy, giang hồ của kẻ sĩ trước hoàn cảnh nhiễu nhương của xã hội nên bôn ba kết nghĩa dấn thân cho đại cuộc. Giang hồ ngày xưa là hình ảnh những người chán cảnh ô trọc trong xã hội, không muốn vương lụy, bon chen nên tự chọn con đường phiêu lãng… Còn giang hồ ngày nay chỉ là phần tử “giá áo túi cơm” băng nhóm bất hảo, gian manh chỉ làm băng hoại xã hội!

Little Saigon, December 2024

Vương Trùng Dương

Thứ Năm, 19 tháng 12, 2024

Thúy Ơi Thúy À - Nhạc: Lê Hữu Nghĩa - Ca Sĩ: Ngọc Quy


Nhạc: Lê Hữu Nghĩa
Ca Sĩ: Ngọc Quy

Người Được Ơn

 

Luca 1:26-38


Marry là Phụ nữ bình thường,

Được ơn phước, Cha đoái thương.

Thiên sứ viếng thăm và báo,

Cô sắp mang ngọn đuốc soi đường.


Được tin… Bà quá ngạc nhiên,

Tôi mới hứa hôn với bạn hiền.

Làm sao có được việc đó

Lẽ nào trời đất ngửa nghiêng!


Đây là phước Chúa ban ,

Bà Elisabeth, già yếu vẫn sinh con.

Có gì Thượng đế không làm được,

Vũ trụ bao la mãi trường tồn.


Tôi là tôi tớ của Ngài,

Sẵn sàng vâng lệnh Cha sai.

Mặc cho dòng đời giông bão

Xin nguyền một dạ không sai.


Tô Đình Đài