Thứ Hai, 16 tháng 12, 2024

Niệm Phút Cuối - Sáng Tác: Ngô Thụy Miên - Tiếng Hát: Mã Thị Lợi


Sáng Tác: Ngô Thụy Miên
Tiếng Hát: Mã Thị Lợi
  

Vọng



Đông về tâm vọng Đấng uy linh
Giáng thế hy sinh gánh tội tình
Ban phúc giao hòa ơn cứu rỗi
Vinh danh gắn kết ý yên bình
Tình yêu Thiên Chúa luôn ngời sáng
Lòng kính Ngôi Lời mãi phát sinh
Dù dẫu đường đời bao vấp ngã
Đức tin con nguyện khắc tim mình

Bằng Bùi Nguyên


Hạnh Phúc

 

Hạnh phúc không ở đâu xa!

Ở ngay trong xó bếp, vườn nhà…

Mãi mê…nên không nhìn thấy

Than thân, trách phận…tháng ngày qua!


Cha Mẹ nào…không thương con

Ngàn năm nhân loại trường tồn…

“Trời sinh…thì trời dưỡng”

Ngẩn ngơ…lặng suối trèo non!


Hảy thức tỉnh…các con ơi!

Sầu khổ chi…chuyện qua rồi…

Còn chăng…chỉ là kỷ niệm

Tương lai hy vọng…giữa dòng trôi…


Hãy sống đẹp hôm nay

Tình đời…gang tấc trong tầm tay!

Hãy cho đi…đừng luyến tiếc

Suối mát tình thương…rỡ mặt mày!


Trọn tình, trọn nghĩa với bà con

Hiếu Trung…cuộc sống vuông tròn

Nước trôi đi…mây sẽ quay lại

Mưa hòa, gió thuận…ấm núi  non!


Tô Đình Đài




Thiên Nhai 天涯- Lý Thương Ẩn (813 - 858)


天涯

春日在天涯,
天涯日又斜。
鶯啼如有淚,
為濕最高花

Thiên Nhai

Xuân nhật tại thiên nhai 
Thiên nhai nhật hựu tà 
Oanh đề như hữu lệ
Vi thấp tối cao hoa

Phụ Chú:

Một Chiều Xuân Bên Trời

Bên trời góc bể bơ vơ (Truyện Kiều, Nguyễn Du) PKT – Mây Tần
Ngày xuân nơi xứ lạ,
Lại một chiều xa nhà.
Oanh hót đổ sương muộn,
Hoa trời đẫm lệ sa.

Dịch Xuôi:

Ngày xuân nơi xứ lạ
Lại một chiều xa nhà
Oanh hót như có nước mắt
Làm ướt đóa hoa trời


Trời cao, đất thấp. Cho rằng Trời là cao nhất, tối cao hoa là hoa cao nhất, chuyển ngữ thành hoa trời. Còn hoa trời là hoa gì thì tùy ý. Có nói gì chăng nữa vẫn là, cuối đời lữ thứ, bên trời góc bể, mình tôi với bóng, trong một chiều xuân ̣

Phạm Khắc Trí


Đường Về Cõi Tịnh

 

Cái tuổi lão niên sắp tới rồi
Đời người như gió thoáng mây trôi
Ta đành đưa tiễn khung trời mộng
Để được an nhiên cuối cuộc đời
Ảo giác quay cuồng mê muội đắm
Tâm tư chìm lắng tiếng chuông khơi
Đường trần vạn nẻo lôi thân xác
Tiếng kệ lời kinh sẽ thảnh thơi.

Lâm Hoài Vũ

Dự Đám Cưới Mỹ Boston Và Thăm Newport, Rhode Island


Năm nay vùng Hoa Thịnh Đốn trời lạnh sớm hơn mọi năm. Giữa tháng 11 đã có tuyết đầu mùa. Không nhiều lắm, lất phất bông tuyết nhỏ nhỏ rơi xuống đất độ 5, 10 phút là tan. Tuy nhiên trời lạnh. Ban đêm 33 độ F -36 độ F. Ban ngày phần lớn nắng đẹp lắm, vàng tươi. Các loại hoa như impatient hay petunia hoa lá héo úa, thấy tội nghiệp. Hoa Pansy không sao, xanh tươi như cũ. Loại hoa này chịu được lạnh suốt mùa Đông.

Những hôm thời tiết xấu Vân thường ở nhà, ai rủ đi đâu cũng từ chối dù Vân đã chích ngừa cảm và dịch Covid đủ 5 lần. Đi ra ngoài lạnh lẽo rủi bịnh bất tử mất thì giờ đi bác sĩ, chờ đợi lâu lắc và tốn tiền mua thuốc, không đáng.

Nhìn cây trụi lá hoa héo tàn Vân nhớ lại lúc cả nhà đi Boston vào đầu mùa Hè. Lúc ấy thời tiết mát mẻ ,nhà nhà sân cỏ xanh mướt, hoa tươi thắm khắp các siêu thị, tư gia, công viên… nhìn thật mát mắt.

Thời gian ấy có đám cưới cháu ngoại người bạn thân. Chị bạn mời cả, Vân và vợ chồng con gái dự đám cưới. Vân ở vùng Hoa Thịnh Đốn, lễ cưới tổ chức ở Boston vào thứ Bảy. Vân và vợ chồng con gái rời nhà từ thứ Sáu và sẽ trở về nhà vào Chủ Nhật. Mất 9 tiếng từ nhà đến Boston. Trên đường đi xe chạy qua các thành phố nhà cửa đông đúc hay các đồng ruộng trồng các loại ngũ cốc lá xanh um. Nhà dân cư nằm rải rác dọc hai bên đường. Có lúc thấy cây cầu dài ngoằn, tàu thuyền dưới bến. Vui mắt nhất lúc đi ngang Nữu Ước được nhìn những cầu vượt vòng vèo, các cao ốc cao nghệu nhìn mỏi mắt. Vùng đô thị sầm uất này kẹt xe kinh khủng phải nhích nhích từ chút. Qua khỏi Nữu Ước lái xe thong thả hơn, it gặp đèn xanh đỏ. Đến Boston lại bị kẹt xe lần nữa trước khi rẻ vào đường nhỏ đến nhà mẹ cô dâu.

Khác với thị trấn đông đúc cao ốc hay nhà phố sát vách nhau, nơi cô cháu ở nhà nọ cách nhà kia cái hàng rào. Chung quanh nhà có sân, có vườn hoa nho nhỏ, hồ nuôi cá koi và trồng vài cây ăn trái. Cô cho biết văn phòng của vợ chồng cô là nơi thị trấn nhiều xe và người đi lại, không thoải mái yên tịnh như khu vực cô cư ngụ.

Lúc Vân đến đã có một số con cháu đến trước, chuyện trò vui vẻ và một số bà con đến lai rai sau gia đình Vân. Chiều thứ Bảy là ngày nhóm họ, có khoảng 50 thực khách nên phải đặt thêm bàn ghế ngoài sân cỏ. Thức ăn một số ở tiệm ăn mang lại, một số do chủ nhà làm và con cháu đem đến. Họ hàng bà con ở xa thường chỉ liên lạc qua điện thoại. Nhờ đám cưới mới có dịp gặp nhau nên mọi người chuyện trò cười nói thật vui vẻ. Con trai Út chủ nhà lúc Vân gặp khi đi chung một chuyến du lịch bằng du thuyền là cậu bé má phính môi hồng. Nay cậu Út thành thanh niên tráng kiện khôi ngô, đang học Đại Học. Thời gian qua nhanh quá chừng.

Rể bạn Vân là người da trắng nên cô dâu mũi cao, môi hồng xinh đẹp. Cô giống Bố nhiều, ít giống Việt Nam. Chú rể người Mỹ trông hiền lành dễ mến.

Sau buổi tiệc nhóm họ các bà con ở xa như Virginia. Maryland… trở về khách sạn nghỉ ngơi. Các con gái, con trai, con dâu, cháu nội từ tiểu bang hay quốc gia khác đến thì ở lại Bố Mẹ để chuyện trò cho thỏa vi sau lễ cưới ai về nhà nấy. Có nhóm được ngủ nơi phòng ngủ, có người ngủ sofa, trên lầu, dưới hầm (basement) nhưng ai cũng chuyện trò rôm rả đến khuya

Cô dâu có hai cháu con người anh cả, thật dễ thương. Cháu gái 6 tuổi, cháu trai 4 tuổi. Cả hai đều xinh xắn, ngoan và bạo dạn, thân thiện với họ hàng dù các cháu mới gặp họ lần đầu.

Hôm sau lễ cưới tổ chức nơi công viên có cây to bóng mát, có vườn hoa xinh xắn rực rỡ nhiều màu sắc hồng, đỏ, tím.. . Bàn thờ để Linh mục làm phép cưới trang hoàng trịnh trọng khang trang. Những băng gỗ xấp hàng thứ tự dưới bóng cây cho khách ngồi dự lễ…

Hai đứa trẻ cháu cô dâu trai mặc vest, gái áo đầm xinh đẹp. Bé gái mang giỏ hoa theo cô dâu chú rể và rải hoa theo lối họ đi. Bé trai trang trọng mang khay đựng nhẫn cưới đến bàn lễ cho Cha làm phép. Bé trai trang nghiêm chững chạc, bé gái tươi cười. Khách vỗ tay chào mừng khi cô dâu chú rể xuất hiện. Sau buổi lễ mọi người đến nhà hàng dự tiệc. Khách phần lớn là người da trắng nên toàn thức ăn Hoa Kỳ. Khách Á Đông tạm dùng muỗng nĩa thay vì dùng đũa như hàng ngày. Mọi người vui vẻ chúc phúc cô dâu chú rể. Tiệc tàn người ở xa trở về khách san sau khi chia tay với chủ nhà. Họ sẽ trở về nhà hôm sau bằng máy bay hay lái xe như gia đinh Vân. Thật là một cái đám cưới tuyệt vời đáng nhớ.

NEWPORT, RHODE ISLAND:


Sáng Chủ Nhật sau khi dùng điểm tâm cả nhà lên đường về sớm để còn ghé Newport, Rhode Island viếng các nơi nổi tiếng của địa phương như lâu đài gia đinh Vanderbilt II, Clift Walk ...Khi chúng tôi đến Newport gần 10 giờ nhưng đã có xe tua (Tour) chở khách du lịch đậu gần kín bãi đậu rộng rãi. Họ đến từ Canada và các địa phương khác. Khách du lịch đã mua vé trên mạng lưới trước khi rời nhà. Có tua dài 3 tiếng, có tua 2 tiếng tùy nơi muốn thăm viếng nhiều hay ít. Cũng có du khách viếng Newport bằng tàu nhỏ hay thuyền buồm.

CLIFT WALK:

Clift Walk là con đường công cộng bề ngang nhỏ, dài 3, 5 dặm theo Wikipedia . Con đường này tráng nhựa sạch sẽ, chỉ có thể đi đạp hay xe lăn. Xe ô tô không đi được . Một bên con đường là hàng rào có song sắt cao ngăn các sân cỏ biệt thự với con đường. Phía bên kia là ghềnh đá đầy những tảng đá thật to và nước biển trong xanh nhấp nhô. Có khoảng đường có hàng rào giữa con đường và ghềnh đá và những bậc thang xi măng để xuống ghềnh. Những tảng đá dưới ghềnh to bằng cái bàn, cái ghế... chồng chất lên nhau chạy dài theo bờ biển dọc con đường. Gió biển thổi lên rất mát. Xa xa những chiếc tàu nhỏ và thuyền buồm chở khách du lich ngoạn cảnh. Clift walk nằm bên ngoài các biệt thự to, xinh đẹp như: Marble House,The Breakers Mansion, Astor's Beechwood…

Gia đình Vân không đi hết con đường, chỉ đi khoảng ngắn xong trở lại đi thăm các lâu đài to và đẹp trong vùng. Phong cảnh ở Cliffwalk hữu tình theo Vân:

Gió mát trời trong nước biển xanh
Thuyền buồm, tàu nhỏ chạy loanh quanh
Trên bờ đi bộ đoàn du khách
Chuyện trò vui vẻ cuộc đời lành

THE BREAKERS MANSION:


The Breakers Mansion là lâu đài lớn nhất ở Newport, Rhode Island. Nếu thăm cả lâu đài và vườn hoa phải mất từ 2 đến 3 tiếng, là nhà nghỉ mát của gia đinh Cornelius Vanderbilt II. Lâu đài xây bằng đá cẩm thạch năm 1890, có 70 phòng gồm các phòng ăn, thư viện, phòng khách và rất nhiều phòng ngủ, có lối di dành cho xe lăn, người tàn tật. Tầng hầm là nơi cho người hầu, gia nhân cư ngụ thuở xưa, cũng có giường nệm tử tế, tủ đựng quần áo, vật dụng riêng tư. Ngày nay trong lâu đài có nơi bán quà lưu niệm, nước giải khát và thức ăn nhẹ cho du khách thưởng thức.

Trên trần nhà mỗi phòng có những tranh vẽ khác nhau. Tuy hơn 200 năm nhưng màu sắc các tranh nơi trần nhà vẫn tươi đẹp. Mặt trước lâu đài nhìn ra biển và Clift Walk. Sân và vườn chung quanh lâu đài rất rộng . Vườn hoa đẹp . Chỉ ngắm vườn hoa cũng đáng đồng tiền. Kiến trúc này được tặng cho thành phố và mở cửa cho dân chúng vào xem từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Có cả trăm ngàn du khách viếng lâu đài hàng năm. Còn các lâu đài xinh đẹp khác trong vùng nhưng gia đinh Vân không đủ thì giờ thăm viếng.

Trên đường về nhà Vân bâng khuâng nghĩ ngợi và liên tưởng đến các kiến trúc đẹp cổ, xưa ở Việt Nam. Không biết chúng có được chủ nhân, con cháu sửa chữa hay đã tiêu tùng vì thời gian hoặc chiến tranh. Ngoài ra Vân còn tiếc xót xa khi nghĩ bao nhân tài miền Nam phải đi đốn tre gánh củi trên rừng. Họ là những kỹ sư, bác sĩ … đã tốn nhiều rất tiền của, thời gian, vất vả thức khuya dậy sớm mới hoàn thành việc học mong giúp ích cho xã hội đúng với khả năng mình. Khi đất nước thống nhất thay vì đi nước ngoài, họ ở lại mong giúp ích quê hương. Trái với ước mong, phần lớn họ bị đi ”học tập cải tạo”, thời gian dài ngắn tùy theo học lực và địa vị .

Bạn Vân, bà ngoại cô dâu là góa phụ tù nhân cải tạo. Chồng, Đại Úy thời Việt Nam Cộng Hòa, chết trong tù. Chị có 4 con từ 9 đến 3 tuổi. Không có lương chồng, không có việc làm, chị buôn bán loanh quanh. Bà nội giúp đỡ những cụ cũng già, tiền bạc không còn bao nhiêu sau khi đổi tiền. Nhân có người sắp đi bán chánh thức, muốn cưới chị và hứa sẽ yêu thương các con chị. Chi suy nghĩ, đắn đo mãi.

Sau cùng chị xin phép bà nội các cháu cho chị bước thêm bước nữa. Vì tương lai các cháu nội và thương dâu trẻ tuổi, bà Cụ tử tế đã bằng lòng cho cô dâu mang các cháu nội theo chồng, sau mới đi bán chánh thức và đến được đất nước Hoa Kỳ.

Bố dượng là một người tốt, biết giữ lời hứa, nuôi các con riêng của vợ và cho học hành tử tế. Nhờ sự khuyến khích của Mẹ và sự dìu dắt bố dượng, bốn người con chị đều đỗ đạt thành tài. Các cháu bây giờ đang chung tay xây dựng quê hương mới, xây dựng nước Mỹ với tương lai tươi sáng vô cùng.

Nghĩ lại người ta thường nói mỗi người một số phận. Có người được trăm năm hạnh phúc với chồng con, còn chị lúc trẻ theo chồng sống trong khu gia binh chật hẹp từ nơi này đến nơi khác, chia sẻ những thiếu thốn khó khăn với người bạn đời. Lúc chồng mất chị bước thêm bước nữa vì tương lai các con, nhưng chị cũng đã được đền đáp sống hạnh phúc. Quan trọng nhất, là các con chị đã cố gắng học hành mới được nên người. Đất nước của chú Sam rất nhân từ và đầy cơ hội, nếu những người nhập cư siêng năng học hành và làm việc thì thành công là chuyện đương nhiên.

Bên ngoài nắng vàng rực rỡ nhưng trời lạnh tái tê. Vân mừng con cháu chị bạn ngày nay có cuộc sống tốt đẹp. Mỗi lần đặt bút viết, là Vân lại muốn cám ơn chính phủ và dân chúng Hoa Kỳ giàu lòng nhân đạo, cưu mang giúp đỡ đồng bào Vân lúc mới định cư, hướng dẫn và tìm việc cho người lớn, cấp phiếu y tế, cấp nhà ở cho người có lợi tức thấp, già yếu, tạo điều kiện dễ dàng cho thanh niên tiếp tục đến trường ... Vân cầu mong đồng bào nhất là phụ nữ trong và ngoài nước có cơ hội học hành, sống trong yêu thương, gia đình hạnh phúc, thế giới hết chiến tranh, mọi người mãi được ấm no an lành.

Nhân đây, Vân có mấy câu thơ tặng độc giả:

Thăm Viếng Boston

Mây trắng trời xanh, ánh nắng vàng
Thành phố Boston thật là sang
Ngoài đường đông đúc xe qua lại
Nhà thờ, trường học rất khang trang

Ngoại ô đất rộng nhiều cây xanh
Đại Học Boston đã nổi danh
Thầy giỏi trò hay trường quá tốt*
Cầu mong dân chúng mãi an lành

Virginia , tháng 12 năm 2024
Ngọc Hạnh
*(Đại Học Harvard, MIT)

Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2024

Vì Bởi Em Là Thu - Lời: Minh Thúy - Nhạc: Lê Hữu Nghia - Ca Sĩ: Ngọc Quy


Lời: Minh Thúy
Nhạc: Lê Hữu Nghia
Ca Sĩ: Ngọc Quy

Ru Hời Trong Đêm

  

Ngày tháng đẹp xa xưa bạc hình hài
Chỉ còn sợi nắng thưa len trong mắt
Tan trong chiều mưa lạnh ngắt hoàng hôn
Chỉ còn lại đêm xuân hờ cúi mặt
Những bước chân ngập ngừng bặt âm vang
Chỉ còn thoáng bâng khuâng rơi tản mạn

Vương hồn hoa tháng hạ phượng ngậm ngùi
Chỉ còn chút hương thơ mang buổn tủi
Nửa chừng thu viết dỡ suốt canh thâu
Chỉ còn chút hương mơ mộng tình Ngâu
Thương gửi người tri kỷ cầu Ô Thước
Chỉ còn giọt sương mai sướt mướt đau
Đọng trên cành đông trắng bạc mái đầu

Chỉ còn lại bờ vai nguyện cầu run rẫy

Tựa đầu khi thổn thức mấy mùa qua
Chỉ còn trong ngăn tim bóng nhỏ tìm
Một thoáng tình êm ả trong cô miên
Chỉ còn lại trong đêm lạnh chỗ nằm
Tiếng buồn rơi của lá âm thầm gọi

Chỉ còn ta đêm nay người diệu vợi

Và tiếng mưa tầm tã ru hời... ru.

Kim Oanh

Thi Nhân

 

Tâm thi sĩ biết đời là cõi tạm

Trốn trần gian nơi trú ẩn vãn sinh

Tiền tài danh vọng chỉ là hư ảo

Sống bình an tự tại nơi lòng mình.

 

Ngọn sóng dạt dào con thuyền viễn xứ

Vỗ vào bờ trắng xoá bọt vô thường

Thi nhân mang nặng cõi hồn lãng tử

Có sá gì mưa bão chốn phong sương.

 

Những ánh mắt đăm đăm như họng súng

Soi mói phận người, trách ẩn hờn căm

Đời đã qua nỗi kinh hoàng chinh chiến

Đống tro tàn phế tích buồn trăm năm.

 

Nhìn đời sống bồng bềnh theo nước mắt

Gánh vô thường, cát bụi nặng hai vai

Thương mây, khóc gió trong đêm thao thức

Chữ nghĩa dệt thơ, quanh mối tình dài.

 

Lỗi hẹn trăm năm tình vừa chớm nở

Đem lời thơ tô đỏ nét môi em

Nỗi niềm gặm nhấm tình thêm ray rứt

Ngôn ngữ trong thơ chưa đủ cơn thèm.

 

Thi nhân là lữ khách đường xa đến

Sưởi ấm tâm hồn bằng những câu thơ

Tình yêu nhân thế cõi hồn say đắm

Để sầu đọng lệ, thao thức trong mơ.

 

Rồi mùa thu dát vàng trên ngõ vắng

Em trở về khu phố bỗng hân hoan

Vạt áo bay mùi nước hoa thơm ngát

Hồn thi nhân bay bổng tận mây ngàn.

 

Lê Tuấn
Người nghệ sĩ lang thang hoài trong tâm tưởng Viết nốt vần thơ ca tụng tình yêu


Em Hư Không?

 

-Thương anh biết bao nhiêu!
Hạnh phúc được nâng niu
Suốt ngày em nhõng nhẽo
Mà anh vẫn tưng tiu.

Em khó dễ đủ điều
Sao anh vẫn nuông chiều?
Mai thêm nhiều quấy nhiễu,
Rồi anh có còn yêu?

-Em mè nheo quá trời
Nhưng anh lỡ thương rồi
Mặc ai cười ra… khói*
Cũng thương hoài em ơi!

Ừ, em hư… tuyệt vời
Không còn chỗ lấy… hơi
Cái này "ghiền" mới đúng!
Ai đi kiện?

Chúng cười!

Á Nghi
18-2-2011
*Cười ra khói: Canada khí hậu lạnh, 
khi ra ngoài không cần hút thuốc, chỉ cười nói là ra khói ngay.


Tâm Sự

(Kính dâng Cậu Mợ)

Quê ngoại tôi ở Ninh Bình, một tỉnh nhỏ phía nam Hà Nội. Ông ngoại tôi mất sớm, lúc bà tôi trên dưới 30. Cụ ở vậy tảo tần nuôi ba người con. Người con gái lớn, chúng tôi gọi là bá, lập gia đình sớm, rồi theo chồng vào Nam. Bà mất trước đợt di cư 54 nên tôi không biết mặt bà, chỉ thấy ảnh, bà đẹp và rất giống mẹ tôi. Người con thứ hai là bác Sử, bạn học của cha tôi, do đó mới có mối nhân duyên kéo dài tới nay đã 63 năm, đúng như người ta chúc ‘Sắt cầm hoà hợp, đầu bạc răng long”. Mẹ tôi là con út. Nghe nói ngày hai người gặp nhau, mẹ tôi không dám nhìn cha tôi, chỉ bưng nước, bánh trái ra, rồi lủi mất, mà cha tôi cũng không dám nhìn thằng, chờ mẹ tôi quay vào rồi mới lén nhìn theo, chỉ mê vì cái gáy trắng và mấy sợi tóc mai loà xoà.

Cha mẹ tôi thành hôn năm 1933. Sau khi sanh được hai chị tôi, mẹ tôi bị tắc ống dẫn trứng, không mang thai được nữa. Cha tôi lo lắm, tìm thầy, chạy thuốc lung tung, may gặp được một ông bác sĩ già người Pháp là ông Paterson chữa khỏi nên mới có tôi. Tôi bị “tràng hoa quấn cổ, nghĩa là cuống nhau quấn quanh cổ một vòng nên lúc tôi lọt lòng, kéo theo lá nhau làm mẹ tôi bị băng huyết, gần chết. Tôi ra đời trong mùa khói lửa., Đệ nhị thế chiến đang lúc mãnh liệt. Người Pháp tuy vẫn giữ các cơ quan hành chánh, nhưng bị Nhật cai quản, chỉ huy. Kinh tế suy sụp, dân chúng bắt đầu kiệt quệ. Cha tôi nhờ làm công chức, lại có ít ruộng ở quê cho thuê, nên còn phong lưu, có khả năng giúp đỡ họ hàng và nuôi nấng chúng tôi đầy đủ. Qua năm 1946, hoà bình trở lại, mẹ tôi sanh thêm một em trai, nhưng tôi bị bệnh nặng, viêm màng óc. Trong vòng mấy ngày, tôi sốt liên miên, rồi mê man, tay bắt chuồn chuồn, cả nhà đều tuyệt vọng. Tôi nằm ở bệnh viện tư, do bác sĩ Quát làm Giám đốc, ông này sau làm đến Thủ Tướng VNCH. Y sĩ điều trị của tôi là bác sĩ Chất. Lúc đó Pénicilline vừa được phát minh, tôi nhờ thứ trụ sinh mới này mà thoát chết.

 
Khoảng cuối năm 1946, phong trào kháng chiến chống Pháp giành độc lập đang lên mạnh. Cha tôi cũng như bao người cùng lứa tuổi, vì lòng yêu nước, hăng hái tham gia kháng chiến: Ông bỏ sở vào chiến khu, theo đơn vị di chuyển lung tung, Nghĩa Lộ, Nho Quan, Hoà Bình...
Mẹ tôi dẫn chúng tôi về quê nội, một làng nhỏ cách tỉnh lỵ Bắc Giang khoảng 2 cây số. Nhà tôi tọa lạc trên một khu đất rộng, có tường bao quanh. Từ cổng vào, phía bên trái là giếng nước, bên phải là nhà bếp. Căn nhà 3 gian, 2 chái nằm ở phía trái, cuối sân là vườn mà mẹ tôi để một phần trồng dâu, nuôi tằm, một phần nuôi gà vịt. Góc sân, xế cửa nhà là một cây soan cổ thụ. Cây soan ở trong Nam không có, miền Trung gọi là cây sầu đông. Khoảng tháng Giêng, tháng Hai hoa soan nở đầy, những cánh hoa màu tím nhạt theo gió bay tơi tả, rồi phủ kín cả một góc sân. Tôi chưa tới tuổi đi học, cả ngày chỉ lò mò đi bắt mấy con sâu dâu, nướng ăn, hoặc mải mê ngồi cạnh mấy nong tằm, nhìn chúng ăn lá, nghe rào rào như tiếng mưa.

Lũ tằm mau lớn lắm, mới đầu nhỏ xíu màu xanh, chỉ ít lâu sau chúng đã lớn bằng đầu đũa, đổi màu vàng rồi kéo kén. Khi kén đã chín, mẹ tôi kéo tơ đem bán, còn lại mấy con nhộng bà biến chế thành những món ăn rất hấp dẫn. Những con nhộng vừa thơm vừa bùi này, đã gần 50 năm nay, tôi chưa có dịp thưởng thức lại. Trong thời gian này cô Tổng ở chung với chúng tôi. Cô là chị ruột của cha tôi, goá chồng sớm, không có con, nên rất thân với gia đình chúng tôi; cô chiều tôi còn hơn mẹ tôi nữa. Chúng tôi sống an lành được khoảng 1 năm thì tang tóc xảy ra: em trai tôi bất hạnh bị bệnh đậu mùa và qua đời. Mẹ tôi buồn bã, mất ăn, mất ngủ, người gầy xọm. Tôi còn quá nhỏ để hiểu thấm thía nỗi buồn tử biệt, nhưng sau này, mỗi khi hồi tưởng lại chuyện xưa, lòng tôi lại dâng lên một niềm đau xót khó tả.

Chiến tranh mỗi ngày một mãnh liệt, quân Pháp mở rộng phạm vi hoạt động, làng tôi đã nhiều phen trở thành bãi chiến trường. Khi giặc càn quét, mẹ tôi và hai chị tôi chạy bộ, cô tôi gánh quang chạy theo, một bên tôi ngồi, một bên là bao gạo; phía sau đạn bắn tơi bời. Mấy anh du kích, thấy bóng Tây thì chạy có cờ, nhưng Tây rút đi là về hoạch hoạ đám dân đen: tuần lễ vàng, tuần lễ bạc, tiêu thổ kháng chiến, diệt chó...Ai không tuân lệnh thì bị gán là Việt gian! Người nào giàu, có nhà lớn là bị đốt; chó bị đập chết hết, con chó nhà tôi cũng không thoát, dù đã được dấu kỹ trong kho lúa. Thấy tình hình bất ổn, gia đình tôi dắt díu nhau lên Sơn Tây, gần chỗ cha tôi đóng cơ quan. Sơn Tây đất cằn cỗi, toàn đá ong, có những giếng nước trong nhìn thấy đáy, có những đồi sim hoa tím bạt ngàn. Nhưng ở đây cũng không yên, vì Pháp tấn công liên miên, thả bom hoặc nhảy dù càn quét, chúng tôi lại quay về Nhã Nam, tá túc ở nhà Cụ Chánh Cán, thân phụ của một người bạn học của cha tôi. Lúc đó tôi học ở gần nhà, hai chị tôi học ở trường Ngô Sĩ Liên, bên Luộc Hạ. Ngày ngày hai chị đi bộ 8, 9 cây số đến trường, chiều về lo cơm nước. Mẹ tôi buôn bán hàng tấm, nghĩa là đi chợ mua vải, rồi gánh đi bán rong ở các làng. Ngày nào bà cũng đi từ sớm, đến khuya mới về. Đôi khi bà về trễ, chị em tôi lo sợ cuống cuồng, ra tận cổng làng đứng ngóng, đến khi thấy bóng dáng gầy gò quen thuộc của bà, chúng tôi ùa ra đón. Các chị tôi gánh hàng, tôi níu tay mẹ đòi quà. Lúc nào tôi cũng có vài cái kẹo lạc, kẹo vừng hay cái bánh đa. Đến nhà mẹ tôi lấy cơm nguội ra ăn, thường chỉ toàn là rau muống luộc, cà chua xanh. Mẹ tôi vẫn tươi cười hỏi về sinh hoạt của các con trong ngày, hỏi về sự học hành, về giao tình với thầy, với bạn. Nhưng một đôi khi, bên ánh đèn dầu vàng vọt, tôi thoáng nghe tiếng mẹ thở dài, bóng bà gầy gò cô đơn chập chờn trên vách. 


Nước mắt tôi trào ra, tôi thương mẹ, nhớ cha, chỉ mong cha tôi bỏ kháng chiến, bỏ cơ quan để về xum họp với gia đình. Ước vọng của tôi chỉ là ảo vọng. Mẹ tôi vẫn âm thầm tần tảo nuôi con, cha tôi vẫn miệt mài theo kháng chiến. Ông leo tới chức Chủ tịch Huyện Quốc Oai! Đó là thời tiểu tư sản trí thức còn được cộng sản o bế để lợi dụng. Chúng theo đúng chiến thuật vắt chanh bỏ vỏ nên những người đầy công trạng này dần dần bị thanh trừng, khai trừ, hoặc hạ tầng công tác. Đến năm 1952, cha tôi hiểu được bộ mặt gian manh của cộng sản, viện cớ mẹ tôi bị bệnh nặng để xin nghỉ phép nhiều lần rồi sau cùng xin từ dịch. Khi cha tôi trở về với gia đình cũng là lúc tôi bị sốt rét nặng, phải nằm nhà thương, 2 mông chích đầy quinine nên bị thọt, đi cà nhắc, phải chống gậy. Phi cơ Pháp oanh tạc hàng ngày, chúng tôi phải học đêm. Con nít 9, 10 tuổi đi học xa 2, 3 cây số, đêm không có đèn mà phải qua vùng cây cối rậm rạp, qua bãi tha ma thì đứa nào chả sợ! Tôi có mấy đứa bạn đi cùng đường, nhưng chúng ác lắm, thấy tôi chân yếu không đi nhanh được, nên khi qua chỗ nguy hiểm là chúng hè nhau bỏ chạy, để tôi khóc sướt mướt vì sợ. Khi cha tôi biết chuyện, đêm nào ông cũng chống ba-toong đến đón tận trường. 

Đến cuối năm 1952, gia đình tôi dọn về Trị Cụ, xây một căn nhà nhỏ vách đất, mái rơm. Thời gian đó tôi sống rất hạnh phúc, vì được gần cả cha lẫn mẹ, lại có đứa em để bồng bế nâng niu. Khi em tôi được khoảng 6 tháng, đang bụ sữa dễ thương, thì mẹ và em “dinh tê” tức là về vùng tề, do Pháp kiểm soát. Mẹ tôi mở cửa hàng bán gạo và tạp hoá ở tỉnh lỵ Bắc Giang, cha con tôi ở lại Trị Cụ. Thời gian khổ sở nhất trong tuổi ấu thơ của tôi bắt đầu. Tôi xa cha đã nhiều lần, đây là lần đầu tiên tôi xa mẹ. Đối với cha, tôi vừa yêu vừa sợ, vì cha tôi vốn nghiêm khắc. Đối với mẹ, tôi chỉ yêu mà không sợ, bà là người che chở, bênh vực cho tôi mỗi khi cha tôi nổi trận lôi đình. Cha tôi vẫn đi dạy học, buổi tối thường phải họp hành, học tập do đó, lúc nào tôi cũng lủi thủi một mình, cơm nước nhiều khi phải tự lực. Tôi thèm bàn tay dịu dàng vuốt ve của mẹ, nhớ những món ăn hấp dẫn, ao ước những món quà nho nhỏ mỗi khi mẹ về chợ...Đêm đêm tôi thường gặp mẹ trong mơ. Một lần tôi mơ thấy mẹ bồng em đi trên con đường làng, tôi vừa chạy theo, vừa gọi, muốn hụt hơi mà mẹ không thưa, đến khi tôi mệt xỉu thì mẹ mới quay lại, ôm tội và đưa tay vuốt má. Tôi giật mình tỉnh dậy, thấy cha đang vuốt má tôi, đôi mắt ông long lanh ngấn lệ. Ông dỗ tôi: “Thôi nín đi con, vài tháng nữa mình sẽ về với mę và em”.

Có hôm nắng ráo, đẹp trời, cha tôi đem phơi quần áo cũ. Khi đi học về, tôi thấy chiếc áo bông của mẹ để lại. Lúc đó trời đã hoàng hôn, chim chóc xào xạc về tổ, gà mái cục cục gọi con, lòng tôi buồn tê tái. Tôi ôm chiếc áo bông của mẹ vào lòng, nghe mùi hơi quen thuộc mà đầm đìa nước mắt...
Lúc đó tôi học lớp 4 theo chương trình cộng sản, tương đương với lớp nhất của Quốc gia. Sau khi đậu vào lớp 5 của trường Ngô Sĩ Liên, tôi học ở đây được mấy tháng thì xảy ra trận Điện Biên Phủ, rồi Hiệp định Geneve chia đôi đất nước.
Phe cộng sản lúc đó say men chiến thắng, dương dương tự đắc việc kiểm soát lơ là, chúng tôi mới có cơ hội về quê. Mới thấy thấp thoáng cây đa đầu làng là lòng tôi đã rộn lên một cảm giác xao xuyến khó tả. Làng cũ, nhà xưa không có gì thay đổi. Em tôi lớn hơn nhiều, đã bập bẹ biết nói, nó nhìn chúng tôi rồi khóc oà lên vì lạ. Mẹ tôi có vẻ gầy, tóc điểm vài sợi bạc. Bà ôm tôi vuốt ve, nước mắt rưng rưng.

Gia đình chúng tôi quyết định di cư vào Nam. Cha tôi và tôi đi trước để lo nơi ăn chốn ở, mẹ và chị em tôi sẽ đi sau. Thế là tôi lại phải xa mẹ. Chúng tôi ra Hà Nội để chạy giấy tờ, ở nhờ một người bạn của cha tôi, bên bờ hồ Trúc Bạch. Ngoài hậu phương không có gì đọc, ở Hà Nội, báo chí, sách, truyện tràn đầy, tôi đọc say mê, quên ăn, quên ngủ, đến nỗi trong mấy tuần lễ ở đây, tôi không bước ra khỏi cửa, nên chẳng biết mặt mũi Hà Nội nó ra sao. Ngày lên đường, chiếc Dakota cất cánh từ phi trường Gia Lâm. Nhìn qua cửa kính, tôi thấy Hà Nội nhỏ dần và xa dần, dòng sông Hồng như một sợi chỉ đỏ, uốn khúc giữa những thuở ruộng xanh bát ngát...Tôi hớn hở, chạy lăng xăng, nào đã biết buồn viễn xứ, nhưng khi quay lại phía cha tôi, thấy ông ngồi bất động, mắt nhìn vào khoảng không, buồn vời vợi, tôi sợ hãi ngồi yên. Sau này tôi mới hiểu tâm trạng của ông lúc đó, chắc cũng như tâm trạng của tôi, 21 năm sau, đêm 30-4-75 khi tôi ngồi trên chiếc tàu há mồm, xuôi dòng Tiền Giang di tản.

Đến Saigon, chúng tôi đi tìm nhà bác rể của tôi, là chồng của Bá. Vì mất liên lạc từ lâu, không có địa chỉ, chỉ nhớ máng là hai bác ở Tân Định. Tôi ngồi giữ hành lý ở cạnh nhà thờ, đường Hai Bà Trưng, cha tôi lò mò đi hỏi thăm khắp hang cùng ngõ hẻm, vậy mà cũng tìm ra nhà bác. Chúng tôi ở tạm đây ít lâu thì thuê được một căn nhà ở Gia Định, gần chợ Bà

Chiểu. Đây là một xóm nghèo, nhưng dân cư thật hiền lành, khả ái, họ đối với chúng tôi bằng một tấm lòng bao dung, chân thành. Cha tôi làm đơn xin hồi ngạch, nhưng vì theo kháng chiến lâu năm, bị điều tra hơi kỹ, nên cả năm sau ông mới được thu dụng. Trong khi chờ đợi, mẹ tôi may thuê, vá mướn, kiếm ăn. Đêm đêm bà thức tới 2, 3 giờ sáng lịch kịch bên bàn máy may, dưới ánh điện câu vàng vọt. Cha tôi đi làm công nhật ở sở Ba Xoong. Sở này lúc đó còn Tây. Tụi Tây ăn uống sang trọng lắm, thịt cá ê hề. Cha tôi trưa nào cũng dở món trường kỳ là cơm mắm, muối vừng ra ăn, nhưng với nét mặt hãnh diện, ngạo nghễ. Tụi Tây thích cha tôi lắm, vì tiếng Tây trường Bưởi của ông rất ngọt. Họ thường mời cha tôi ăn cùng, nhưng bao giờ ông cũng từ chối, nói rằng ông muốn ăn những thứ chính tay mẹ tôi làm. Có lần họ mời ông một trái táo, ông nhận nhưng không ăn, gói ghém cẩn thận mang về cho con. Ôi trái táo thủa hàn vi của cha tôi, tôi vẫn nhớ suốt đời...


Khi được hồi ngạch, cha tôi bị đổi đi làm mấy năm ở Long Xuyên, Long An rồi về làm Đầu phỏng Biện Lý Tòa Saigon. Mẹ tôi đỡ vất vả, bà để hết thì giờ cho con cái và sanh thêm được một bé trai, là đứa em út của tôi bây giờ.

Thời gian qua mau, chị em chúng tôi lần lượt trưởng thành. Các chị tôi xong Đại học Sư Phạm, rồi xong Luật. Tôi học Y khoa, năm 67 ra trường. Trong 2 năm theo đơn vị tác chiến, cha mẹ tôi lo lắng, chỉ sợ rủi ro xảy đến cho tôi. Biết bao nhiêu đồng nghiệp đàn anh của tôi như Đỗ Vinh, Trần Ngọc Minh, Nghiêm Sĩ Tuấn...đã gục ngã nơi chiến trường.

Khoảng đầu thập niên 70, phong trào du học lên đến cực điểm, nên cha mẹ tôi dù nghèo cũng gồng mình cho hai đứa em của tôi xuất ngoại. Tôi vốn tính hoang đàng, ham chơi, nên tiền lương, tiền phòng mạch còm cứ theo nhau mà vào bàn bài, quán nhậu và xóm yên hoa. Tôi không giúp gia đình được một xu nhỏ. Mỗi khi về phép tôi thường báo trước, nên lúc nào đến nhà cũng thấy cơm gà, cá gỏi. Ăn cơm nhà được một hai bữa là tôi lại biến đi du hý. Khi nào thấy tôi nằm nhà là mẹ tôi biết quý tử yếu địa, lại dúi cho mấy trăm. Tôi ngây thơ, cứ tưởng cha mẹ tôi còn phong lưu! Một lần đi công tác, về bất chợt, gặp bữa cơm, tôi thấy trên mâm chỉ có cá khô và rau luộc. Tôi hối hận lắm tự hứa với lòng là sẽ để dành tiền, giúp đỡ cha mẹ, nhưng rồi chứng nào tật nấy, tiền giúp gia đình chẳng được bao nhiêu, khi có khi không. Cha mẹ tôi cũng muốn tôi lập gia đình để có người cột chân tôi, để ông bà sớm có cháu bế, nhưng tôi như con ngựa chứng, đám nào cũng lắc nên cha mẹ tôi rất buồn lòng.


Rồi tháng Tư đen năm 1975 ập tới, tôi chạy thoát một mình từ Cần Thơ. Cha tôi xuống hỏi thăm, người thì người ta nói tôi đã di tản, người thì nói tôi đã chết, vì chiếc xe jeep tôi thường đi bị bắn cháy nát trên đường Trà Nóc, Cần Thơ. Lúc đó cha tôi ngất xỉu. Khi tỉnh lại, ông thất thểu trở về, yên trí đã mất đứa con. Mãi 8 tháng sau cha mẹ tôi mới biết là tôi còn sống. Sau mấy lần vượt biên thất bại, vốn liếng đã cạn, cha mẹ tôi đành cam phận sống dưới gông cùm. Ở Canada, vừa có việc là tôi làm giấy bảo lãnh, nhưng mãi đến tháng 5 năm 82, cha mẹ và chị tôi mới được sang đoàn tụ. Nhờ ơn Trời, cha mẹ tôi còn khoẻ mạnh. Bây giờ tôi đã lớn tuổi, tình thương của ông bà dồn xuống các cháu. Nhìn ông bà săn sóc mấy đứa con tôi, dĩ vãng lại hiện về, những hình ảnh của 40 năm xưa còn đậm nét. Nước mắt vốn chảy xuôi...và đứa con hư, cho đến bây giờ, có lẽ vẫn chưa làm được điều gì để báo đáp lại lòng cha mẹ.

(Bài đã đăng trên TSYS số 132, tháng 8 năm 1996)

Bát Sách


Chuông Paris Chuông Sài-Gòn


Tối qua, tôi nghĩ đến chim Phượng Hoàng!
Một trong những ‘’điểm’’ chung của hai nền văn hóa Đông-Tây là chim Phượng Hoàng. Nếu trong thần thoại phương Đông, Phượng Hoàng là một trong Tứ Linh: Long, Ly, Quy, Phượng (Phụng), tồn tại trên quả địa cầu từ thời ông Bàn Cổ thì, trong thần thoại phương Tây, nó là biểu tượng của sự tái sinh: sau khi chết, cơ thể nó bốc cháy để rồi tái sinh từ đống tro tàn xương cốt của chính mình.

Tôi nghĩ đến chim Phượng Hoàng khi nghe câu ‘’renait de ses cendres’’, tái sinh từ đống tro tàn, của một bình luận viên (đài LCI/ Pháp) trong buổi truyền hình trực tiếp lễ mở cửa trở lại Nhà Thờ Đức Bà Paris tối qua, 19h, 7/12/2024.

Trên 40 nguyên thủ, lãnh đạo các quốc-gia ( đa số ‘’công-giáo’’) đã hiện diện trong buổi lễ này. Ngoài 2 khuôn mặt ‘’nổi bật’’ nhất : Tổng Thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Tổng Thống (cũng ‘’tái sinh’’ ) Hoa Kỳ Donald Trump (20/1/2025), còn là đương kim Đệ Nhất Phu Nhân Jill Biden, Hoàng Hậu Na-Uy, Tổng Thống Đức, Ý vv Còn là các nhà lãnh đạo: Bỉ, Đức, Ý (thủ tướng), Hy, Monaco , Luxembourg, Maroc, Congo, hai cựu Tổng Thống Pháp Hollande, Sarkozy, các cựu Thủ Tướng Pháp, bộ trưởng, cựu bộ trưởng vv Những khuôn mặt nổi tiếng trong chính trường, kinh tế Pháp và quốc tế (Tân Bộ Trưởng Mỹ Elon Musk chẳng hạn) . Sự hiện diện của họ cho thấy tầm quan trọng của buổi lễ này . Điều đáng nói là khi bước vào Nhà Thờ, Tổng Thống Volodymyr đã nhận được những tràng pháo tay nồng nhiệt chào đón. Như một tín hiệu gởi đến ‘’Ác Quán Mãn Doanh’’ Putin !

Khởi xây từ năm 1163 ( ở Việt Nam, là triều đại vua Lý Anh Tông / 1138-1175 / với sự phục vụ đắc lực của Thái Úy Tô Hiến Thành ) kéo dài gần 200 năm. Với kiến trúc Gothic, những vòm cong, những tháp nhọn, những trần cao, những ô kính vv, ngần ấy thứ đã khiến Nhà Thờ Đức Bà Paris là một trong những biểu tượng của Paris , đã đi vào văn học sử Pháp mà, nổi tiếng nhất, là ‘’Thằng gù ở Nhà Thờ Đức Bà’’ Quasimodo của Hugo ! Bị hủy hoại trong thời điểm Cách Mạng 1789 Pháp ( một cuộc Cách Mạng đúng nghĩa, của chính người dân, mà không cần một .. Đảng nào ‘’lãnh đạo’’ cả) chỉ còn mấy bức tường , Nhà Thờ đã được trùng tu, dưới sự điều khiển của kiến trúc sư Eugène Viollet-le-Duc ( tôi rất ngạc nhiên khi chưa thấy ‘’con đường (nào) mang tên ông ‘’ cả ! ). Mãi đến cuối thế kỷ 19 mới xong! Và Nhà Thờ Đức Bà là một trong những nơi đón nhận nhiều du khách ghé Paris!

Ngày 15/4/2019, tai ương đã xảy đến cho nước Pháp, cho du khách thế giới! Nhà Thờ bị cháy, 2/3 đỉnh mái nhà thờ trở thành tro than ! Nhớ chiều đó, trên đường từ sở về nhà, nghe tin này, tôi đã bàng hoàng. Tối đến, xem truyền hình, đến đoạn đỉnh tháp Nhà Thờ rơi xuống, như biết bao nhiêu người ở hiện trường , tôi đã bật khóc ! Gần 400 lính cứu hỏa đã cố gắng là mđr mọi cách để cứu vãn . Cũng tối đó, phát biếu trước các ống kính truyền hình, người Tổng thống 2 năm (đắc cử 2017) Macron đã nói, đại khái, ‘’Chúng ta sẽ cùng nhau dựng lại Nhà Thờ. Trong 5 năm nữa, Nhà Thờ sẽ tái sinh, cửa Nhà Thờ sẽ rộng mở lại. Bởi vì đó là một phần ‘’vận mệnh’’ nước Pháp ‘’. Không biết ông Macron dựa vào đâu mà đưa ra con số 5 năm ? Theo các chuyên viên trong nghề, phải cần đến, ít nhất, cũng 20 năm đế kiến tạo lại. Giảm xuống ¾ thời gian, cái chỉ tiêu 5 năm mà ông Macron đưa ra, không biết là cái ''tiêu để chỉ'' hay là cái ''chỉ để tiêu … cái tuyên bổ ‘’sảng’’ này ? – Vậy đó mà cũng xong ! Chả nhẽ một trong những cố vấn của ông Macron là Khống Minh đầu thai, tính toán như … Gia cát Lượng hay ông Macron nằm mộng thấy Nostradamus hiện về nói :’phải làm như vầy, như vầy .. ‘’ ? !

340.000 người từ các công ty, xí nghiệp vv ở Pháp cũng như trên 150 quốc gia đã ủng hộ tài chánh cho việc trùng tu lại Nhà Thở : trên 880 triệu đô la ! 250 xí nghiệp, hãng xưởng, 2000 chuyên viên, thợ thuyền các ngành nghề, đã làm việc ngày đêm, trong 5 năm qua, ngay cả dưới thời ‘’cô-lập Covid’’, để ‘’5 năm rồi trở lại’’, cỏ hoang không đầy lối ‘’giáo đường’’. Mà trái lại. Nhà Thờ Đức Bà đã tái sinh. Và mới mẻ, sạch sẽ, đẹp đẽ còn hơn 5 năm trước. Từ ngoài vào trong .
Vì trở trời bất ngờ, gió mưa tơi tả, nên chương trình đã được thay đổi cấp tốc ngày trước, Tổng Thống Pháp sẽ phát biểu trong Nhà Thờ thay ví trước sân (parvis de la cathedrale ).

18h50, Tổng Tống và phu nhân đứng đón quan khách trước Nhà Thờ .
19h09, như tiếng khóc oe oe chào đời, chuông Nhà Thờ bắt đầu đổ ( trong 4 phút ? ), buổi lễ bắt đầu.
19h13, Tổng Thống Macron và phu nhân, cùng bà Thị Trưởng Paris Hidalgo nghiêm trang đứng trước Nhà Thờ, dự nghi lễ khai mạc, chờ Đức Tổng Giám Mục Paris Laurent Ulrich, xin phép Đức Bà để mở cửa.Nhà Thờ. Đức Tổng Giám Mục đã dùng cây trượng (làm từ một cây xà nhà còn sót lại sau đám cháy ) gõ cửa Nhà Thờ 3 lần, mỗi lần thì có một bài thánh ca được ca đoàn thiếu-nhi từ bên trong đáp lại.
19h40, sau đoạn phim ngắn nói về trận hỏa hoạn 15/4/2019 và công cuộc tái thiết, là tấu khúc ‘’Passcaille‘’ của G.F Handel qua phần trình diễn của hai anh em, nhạc sĩ vĩ cầm và đại vĩ cầm, nổi tiếng: Renaud & Gautier Capuçon
19h47. Trong diễn văn đọc trước quan khách, ông Macron đã ‘’bày tỏ lòng biết ơn của nước Pháp đến các ân nhân, những người đã trực tiếp ( chuyên viên, thợ thuyền ) và gián tiếp ( hổ trợ tài chánh) tái thiết Nhà Thờ . Ông nhắc lại một phần lịch sử của Nhà Thờ, nơi những hồi chuông đã đổ lên, từ Henri IV, Louis 13, 14, Napoléon sang đến Victor Hugo, Claudel. Chuông đổ mừng nước Pháp được giải phóng khỏi họng súng Quốc Xã . Ông cũng nói lên sự huyền diệu, phép nhiệm mầu, khi tượng Đức Bà , suýt bị đập vở, khi đỉnh tháp ( fleche) rơi xuống cách tượng chỉ vài centimetres ! ‘’Defigurée mái sauvée’’ ! Một giây phút tưởng niệm đến tướng Georgelin, cựu Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Pháp; đã được giao trách nhiệm chỉ huy cuộc trùng tu, đã ‘’ra đi’’ hôm 18/8/2023! Tên của ông được khắc trên đỉnh tháp !
20h21. Một Đức Tổng Giám Mục đọc thông điệp của Đức Giáo Hoàng, trong đó, Ngài nói đến ‘’những biểu hiện các giá trị thiêng liêng vẫn luôn được con người cảm nhận’’


20h26. Cây đàn ''orgue'' lớn nhất nước Pháp, gồm 8000 ống, 5 bộ phím, sau khi đã ‘’tai qua, nạn khỏi’’ đã được tháo ra toàn bộ, lau chùi, đánh bóng lại, tối qua, sau khi được đức Tổng Giám Mục ban phép lành, đã trổi cao tiếng nhạc ( đệm theo ‘’cảm hứng’’ của nhạc sĩ ) sau trên 5 năm im tiếng !

Sự tái sinh của Nhà Thờ Đức Bà Paris trong một thời gian kỷ lục, theo nhiều người, là một phép lạ ! Với tôi, phép lạ đó đến từ con người, mà trước nhất là của người (và chính quyền) Pháp. Từ trái tim, khối óc, hay, nói một cách khác, từ sự quyết tâm, sáng tạo, từ lòng can đảm, hy sinh.

Ở Sài Gòn cũng có Nhà Thờ Đức Bà, do giám mục Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên ngày 7/10/1877. Theo wikipedia ‘’ Năm 1958, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên, cai quản Giáo xứ Sài Gòn thời ấy, đã đặt tạc một Tượng Đức Bà Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch trắng Carrara của Ý. Tượng được tạc tại Pietrasanta cách Roma khoảng 500 km. Khí tượng hoàn tất thì được đưa xuống tàu Oyalox vào ngày 8 tháng 1 năm 1959 từ hải cảng Gênes chở tượng qua Việt Nam và tới Sài Gòn ngày 15 tháng 2 năm 1959. Sau đó, công ty Société d'Entreprises đã dựng tượng Đức Mẹ lên bệ đá vốn còn để trống kể từ năm 1945 trước nhà thờ. Tự tay linh mục viết câu kinh cầu nguyện "Xin Đức Mẹ cho Việt Nam được hòa bình" rồi đọc trước đông đảo quan khách có mặt hôm ấy. Ngày hôm sau, Hồng y Krikor Bedros XV Aghagianian từ Roma qua Sài Gòn để chủ tọa lễ bế mạc Đại hội Thánh Mẫu Toàn Quốc, đã làm phép bức tượng này vào buổi chiều ngày 17 tháng 2 năm 1959. Từ sự kiện này mà từ đó nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Đức Bà. Ngày 5 tháng 12 năm 1959, Tòa Thánh đã cho phép làm lễ "xức dầu", tấn phong Nhà thờ chính tòa Sài Gòn lên hàng tiểu Vương cung thánh đường (basilique). Từ đó, tên gọi chính thức của thánh đường là Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn. Năm 1960, Tòa Thánh thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam với ba tòa Tổng Giám mục tại Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Nhà thờ trở thành nhà thờ chính tòa của vị tổng giám mục Sài Gòn cho đến ngày nay ‘’ . Sau ngày 30/4/1975, thì Nhà Thờ Đức Bà ‘’im tiếng’’ !

Gần 50 năm qua rồi, chuông Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn chắc cũng đã đổ vang hồi nhưng, tôi biết, đó chỉ là những tiếng vang kim khí ! Khác với những hồi chuông tái sinh ‘’oe oe’’ của Nhà Thờ Đức Bà Paris tối qua !

Bao giờ thì Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn sẽ tái sinh như Nhà Thờ Đức Bà Paris?!
Để tiếng chuông bên kia sẽ ‘’có hồn’’ như tiếng đổ bên này !

BP
08/12/2024