Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2025

Mùa Thu Qua Ngõ -Lời: Mỹ Ngọc - Nhạc: Phạm Anh Dũng - Hòa Âm Anh Vũ - Hát: Thu Hiền


Lời: Mỹ Ngọc
Nhạc: Phạm Anh Dũng
Hòa Âm Anh Vũ
Hát: Thu Hiền

Vầng Thơ Ngỏ Ý

 

Mắt em một biển mùa Thu nhớ
Quyến rũ lòng anh vào bến mơ
Muốn nói đôi lời sao mắc cỡ
Thôi đành dệt vận ướm tình thơ.

Mới gặp nhưng sao rực rỡ tình

Dâng tràn thương nhớ kiếp phù sinh
Mỗi lần đứng cạnh tim hồi hộp
Nhịp đập liên hồi tợ chiến chinh.

Có phải hồn anh sa cõi mê

Ngao du bất tận lạc đường về
Thời gian ngưng đọng trong tiềm thức
Kiếp trước cùng em đã ước thề.

Nếu đọc vầng thơ ngỏ ý này

Xin em đừng trách mộng thêm cay
Biết đâu duyên phận tô mầu thắm
Chấp nhận tình anh trót đắm say…

Lâm Hoài Vũ
1972

Cô Bạn Cũ

 

Bài Xướng:

Cô Bạn Cũ

Chúng mình quen cũ học cùng thời
Phượng thích học hành Đức thích chơi
Thế cuộc xoay dần chia mỗi ngã
Sự đời thay đổi khiến hai nơi
Tình cờ tìm được nhau trên mạng
Nên vẫn lại qua chẳng tiếc lời
Câu chữ sao gieo nhiều cảm xúc
Mình đây vui lắm Phượng Lê ơi.

Quên Đi
***

Bài Họa:

Những Ngày Xưa Ấy

Chân sáo tung tăng đã một thời
Mộng ngoài cửa lớp tuổi rong chơi
Tương lai khát vọng từ muôn hướng
Thế sự thăng trầm khắp mọi nơi
Năm tháng xứ người mong mỏi bạn
Sớm hôm đất mẹ thiết tha lời
Tâm giao vẫn đấy thời thơ dại
Đất Vĩnh muôn đời Hữu Đức ơi.

Kim Phượng

Trí Tuệ Thật Và Giả


Xin được góp một vài suy tư về AI sau khi tôi đón nhận những chia sẻ sáng tác âm nhạc (nhạc đời và thánh ca) của các nhạc sĩ gửi riêng cho tôi (cũng như gửi chung cho Hội) trong thời gian qua, và yêu cầu tôi cho ý kiến, cho nhận xét…

Nay, xin được trả lời chung.

Tôi nghĩ rằng, cái quý và giá trị nhất trong sáng tác nghệ thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực sáng tác Thánh ca chính là sự rung cảm phát xuất từ nội tâm con người. Một tác phẩm có hồn không thể chỉ được “tạo ra”, mà phải được “sinh ra” từ cảm xúc; từ trải nghiệm, từ những xao động rất thật của tâm hồn. Mỗi nốt nhạc, mỗi lời ca chỉ trở nên sống động khi người viết đã thực sự trải qua và cảm được điều mình viết.

Âm nhạc Thánh ca dùng trong Phụng vụ lài càng quan trọng hơn, vì không đơn thuần là sản phẩm sáng tạo kỹ thuật, mà là lời cầu nguyện được dệt bằng âm thanh, là tiếng lòng của con người hướng về Thiên Chúa. Nếu thiếu vắng cảm xúc thật, tác phẩm dù trau chuốt đến đâu, dù hay ho đến thế nào cũng chỉ là một khối âm thanh lạnh lẽo, thiếu vắng linh hồn. Vì thế, những so sánh mà “thầy cả” Nguyễn Công Hùng cho là “phân tích và so sánh tỉ mỉ” thật ra lại quá khập khiễng, phiến diện và tôi không muốn nói đó là sự hồ đồ.

Nghệ thuật không thể được cân đo bằng những con số hay thuật toán. Một nốt nhạc, một giai điệu, thậm chí một chuỗi hợp âm cùng những ca từ của bài hát được tạo ra bởi cảm xúc con người không thể đem so với những gì máy móc tổng hợp ra từ dữ liệu vô tri. Cảm xúc không có công thức; linh hồn con người không thể bị thay thế bởi lập trình.

Tôi chân thành khuyên các nhạc sĩ, nhất là những ai đang phục vụ và sáng tác Thánh ca, đừng lạm dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để “làm ra” bài hát. AI có thể là một công cụ hỗ trợ, nhưng không thể là nguồn cảm hứng. Nếu để máy móc dẫn dắt quá nhiều, trí óc ta sẽ trở nên lười biếng, con tim trở nên chai sạn, não ta sẽ bị teo lại và khả năng rung cảm, vốn là cội nguồn của sáng tạo sẽ dần mất đi.

Hãy nhớ rằng: AI chỉ bắt chước, còn con người mới biết cảm.

Âm nhạc hay một bài hát hay, thật không nằm ở chỗ đúng sai mà ở hơi thở của người viết trong từng giai điệu, thậm chí trong từng hợp âm được tính toán dựa trên tình cảm và kiến thức, cũng như chuỗi âm thanh của ca khúc ta dệt, màu của hòa âm/phối khí ta muốn, nhất là lời ca ta muốn chuyển tải như tôi nói ở trên.

Nếu chúng ta để “Giả” lấn át “Chân”, thì đến một lúc nào đó, nghệ thuật sẽ mất linh hồn của nó, và âm nhạc Thánh ca sẽ không còn là lời cầu nguyện, mà chỉ là một sản phẩm nhân tạo vô cảm. Trong khi Thiên Chúa muốn "lòng thành" hơn "của lễ" của ta muốn dâng Ngài.

Làm nghệ sĩ (nhạc sĩ) là dám trung thực với chính mình. Là dám thổn thức, dám yếu mềm, dám để cảm xúc thật chạm đến điều thiêng liêng. Vì chỉ khi ấy, âm nhạc mới chạm được tới trái tim người nghe, và tới trái tim của Đấng Tạo Hóa.

Tôi tin rằng đây là một đề tài rất đáng để chúng ta cùng suy ngẫm, nhất là trong thời đại mà trí tuệ nhân tạo (AI) đang từng bước len lỏi vào mọi lĩnh vực của đời sống con người, kể cả những lĩnh vực tưởng như chỉ thuộc về tâm hồn và cảm xúc, như văn chương, thi ca, âm nhạc, hội họa…

Thật ra, viết văn, làm thơ, dệt nhạc, nói chung là làm nghệ thuật, không chỉ là một hành động kỹ thuật, mà là một sự sáng tạo thiêng liêng, một thổ lộ tâm tình, một khát vọng được sẻ chia những rung cảm và khắc khoải sâu kín của con người.

Một tác phẩm nghệ thuật đích thực luôn bắt nguồn từ nội tâm, từ nơi trái tim con người rung lên cùng niềm vui, nỗi buồn, mất mát, hy vọng, và cả những điều không thể diễn tả bằng lời. Chính cảm xúc ấy, mới là linh hồn của nghệ thuật.

Cha xứ của tôi là Linh mục Nguyễn Đức Vượng, cũng là một nhạc sĩ và là hội viên Hội Nhạc Sĩ Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại. Thay vì sáng tác nhiều thể loại, ngài chọn chuyên tâm vào một hướng duy nhất: thánh ca về Đức Mẹ La Vang. Suốt hơn 20 năm, cha đã viết gần 50 ca khúc, tất cả đều xoay quanh chủ đề Đức Mẹ.

Người đời có thể hỏi: “Sao không sáng tác đề tài khác cho phong phú hơn ?” Nhưng với ngài, tình yêu dành cho Đức Mẹ La Vang là nguồn cảm hứng bất tận. Chính tình yêu đó, niềm tin đó, đã chảy thành giai điệu. Mỗi ca khúc của vị linh mục đều chứa đựng niềm xúc động thật, không vay mượn, không mô phỏng. Đó là nghệ thuật được sinh ra từ trái tim, từ niềm tin sống động. Cảm xúc ấy không thể “tạo” bằng máy móc, không thể “học” từ dữ liệu. Nó phải được sống, được trải nghiệm và được cầu nguyện.

Ngày nay, công nghệ AI có thể tạo ra nhạc, thậm chí mô phỏng cả giọng ca. Chúng ta không thể phủ nhận sự kỳ diệu của nó. Một bản nhạc được AI tạo ra có thể nghe rất mượt, rất hay, nhưng nhiều bạn tôi đã xác nhận rằng: “nghe qua 3 lần thì không còn cảm xúc nữa”.

Nhiều người, vì tò mò hay vì muốn nhanh chóng có “tác phẩm”, đã lạm dụng AI. Có người dùng nó để soạn nhạc, rồi ký tên mình và chia sẻ với niềm hãnh diện. Nhưng họ quên rằng: nghệ thuật không chỉ là sản phẩm, mà là chứng tích của một tâm hồn.

Một bài thơ hay, một trang văn cảm động, mỗi con chữ, mỗi nốt nhạc, mỗi dấu chấm, phẩy trong văn chương hay trong âm nhạc đều có linh hồn riêng. Nó mang hơi thở của người viết, mang dấu vết của mồ hôi, nước mắt, khổ đau và niềm vui sống, mà không thể được sinh ra chỉ bằng vài cú nhấp chuột hay vài “mệnh lệnh”. Nó phải đi qua từ khối óc và con tim của người, qua quá trình học hỏi (Học từ trường lớp và cả trường đời) qua những năm tháng lắng nghe, cảm nhận, chịu đựng, trau dồi, chiêm nghiệm. Nói một cách khác đó là trải nghiệm, điều mà AI không bao giờ có được.

Nếu con người đánh mất niềm tin vào cảm xúc thật, phó mặc cho công nghệ “sáng tạo thay”, thì sớm muộn gì người nghệ sĩ cũng đánh mất chính mình. Bởi đó không còn là sự sáng tạo, mà chỉ là sự sao chép cơ học, một bản sao vô hồn, không tim, không máu, không nước mắt. Tác phẩm ấy có thể khiến người đọc trầm trồ trong giây lát, nhưng rồi nó tan biến nhanh chóng, vì nó không chạm được vào trái tim người khác.

Tôi nhớ lời một ai đó đã từng nói: “Một bài thơ thật không cần hoàn hảo. Nó chỉ cần thật.”

Quả thật, câu nói ấy giản dị mà thấm thía. Nghệ thuật không cần trau chuốt đến mức vô cảm, mà cần chân thành. Sự chân thành ấy không thể được lập trình, không thể “tải về”. Nó phải được vun đắp bằng đời sống, bằng những rung động thật sự của trái tim người nghệ sĩ. Nghệ thuật, tự bản chất, là tiếng nói của con người hướng đến con người. Nó không chỉ nói lên cái đẹp, mà còn chạm đến chiều sâu nhân bản, nơi mỗi người nhìn thấy một phần của chính mình trong đó.

Tôi rất mong quý văn hữu dù ở bất kỳ lĩnh vực nào; thơ, văn, nhạc hay họa, cũng hãy giữ lấy ngọn lửa sáng tạo và tính trung thực nội tâm của chính mình. Có như thế, nghệ thuật mới là ánh sáng soi tâm hồn, mà không phải chỉ là ánh đèn giả lập, sáng chói mà lạnh lẽo.

Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn quý văn hữu, quý nhạc sĩ, những người đã lắng nghe, đã gửi thư đồng cảm, đã chia sẻ và cùng tôi thao thức trong chủ đề này.

Chúng ta, những người cầm bút, viết từng con chữ, dệt từng nốt nhạc, pha từng gam màu… có thể không chống lại được bước tiến của công nghệ, nhưng ta có thể giữ vững nhân tính trong nghệ thuật, và bảo vệ phần người trong chính mình.

Đừng để công nghệ làm chủ tâm hồn ta. Vì chỉ khi người nghệ sĩ còn cảm xúc thật, còn thao thức, còn đau, còn yêu, còn cầu nguyện, thì tác phẩm ấy mới giá trị.

Văn Duy Tùng

The Ghan Xe Lửa Huyền Thoại Xuyên Lục Địa Úc

 
 
Nhắc tới nước Úc, thiên hạ hay nghĩ tới kangaroo nhảy loi choi ngoài đồng cỏ, koala ôm gốc bạch đàn, hay mấy bãi biển nắng vàng cát trắng. Nhưng có một chuyện khác ít ai biết, đó là chuyến xe lửa The Ghan – một biểu tượng vừa lịch sử vừa du lịch. Nó nối liền từ Adelaide ở miền Nam lên tận Darwin miền Bắc, băng qua gần 3,000 cây số đường “ray”, chẻ dọc đất Úc ra làm đôi.

Đi một vòng trên The Ghan, người ta không chỉ coi cảnh, mà còn như sống lại câu chuyện mở đất của xứ sở này – một chuyện dài bằng mồ hôi, nước mắt và khát vọng chinh phục hoang mạc đỏ.
Cái tên The Ghan, chuyện mấy ông phu lạc đà

Nghe cái tên The Ghan, ai không rành tưởng là tên Tây, chớ thiệt ra nó rút gọn từ chữ “Afghan”. Nguyên do là hồi cuối thế kỷ 19, người Anh đem phu lạc đà từ Afghanistan, Pakistan, Ấn Độ qua Úc. Họ dắt theo mấy con lạc đà, chở đồ tiếp tế, nước uống, gỗ đá… để mở đường vô miền Outback khô khốc.

Nói vậy để thấy, cái xe lửa bây giờ có chạy ngon lành thì cũng nhờ bước chân ròng rã của mấy ông phu ấy ngày xưa. Người Úc đặt tên The Ghan là để nhớ ơn họ. Cái nghĩa cử ấy cũng đẹp – giữa đất khách quê người, những con người lặng lẽ mà để lại dấu ấn dài lâu.

Ước mơ Bắc – Nam nối liền

Ý tưởng vẽ đường sắt chạy từ Nam chí Bắc có từ 150 năm trước. Nhưng nói thì dễ, làm thì khó. Năm 1878, người ta mới khởi công đoạn đầu từ Adelaide đi dần lên hướng Bắc. Công trình thì kéo lê, khi có khi không, khi hết tiền thì ngưng, lúc có thì nối thêm được chút.

Cái khổ nhất là nước. Sa mạc đỏ, khát cháy, máy móc làm việc thì nóng ran. Công nhân cực khổ, phu lạc đà gánh nước từng thùng. Bởi vậy tới tận năm 2004, đường ray mới nối tới Darwin, để chiếc xe lửa The Ghan chính thức chạy một lèo xuyên lục địa.

Bữa nay, The Ghan do công ty Journey Beyond Rail Expeditions lo liệu. Nó trở thành chuyến xe lửa du lịch danh giá nhất nước Úc, được dân quốc tế nhắc tới ngang hàng với Orient Express bên Âu châu hay Trans-Siberian Railway bên Nga.
3 ngày đi xuyên tim nước Úc.

Một chuyến The Ghan trọn gói kéo dài 3 tới 4 ngày. Xe lửa rời Adelaide, chạy ngang mấy cánh đồng nho xanh ngút ngàn, rồi từ từ tiến vô Red Centre – trung tâm sa mạc đỏ khét lẹt.

Chặng dừng quan trọng là Alice Springs, một thị trấn nhỏ nhưng được coi là “trái tim nước Úc”. Ở đây du khách coi hội họa Aboriginal, nghe kể chuyện Dreamtime, hay ghé thăm mấy khu di tích của thổ dân.

Kế đó là Katherine Gorge. Con sông Katherine chẻ núi đá ra làm mấy hẻm sâu, vách dựng đứng, nhìn hùng vĩ thiệt. Du khách có thể đi thuyền trên sông, hoặc chịu khó leo lên chỗ cao ngó xuống – cảnh đẹp tới mức thở cũng muốn chậm lại.

Rồi cuối cùng, xe lửa tới Darwin, thành phố cảng miền Bắc. Darwin khác hẳn Adelaide: nóng ẩm, gần gũi Đông Nam Á, văn hóa thì pha trộn đủ loại – bản địa, Á châu, Âu châu.

Xe lửa mà như khách sạn


Người ta gọi The Ghan là khách sạn 5 sao trên đường ray cũng không sai. Giá vé đã bao gồm ăn, ở, rượu bia, cà phê, và cả mấy tour du ngoạn ngoài ga.

Khoang Gold Service thì nhỏ gọn, giường gấp. Khoang Platinum Service thì sang trọng, có phòng tắm riêng. Nhà hàng trên xe phục vụ kiểu fine dining, nhấn mạnh đặc sản Úc: cá barramundi, thịt kangaroo, kèm rượu vang Nam Úc.

Ban đêm, ai rảnh thì ra Outback Explorer Lounge, làm ly vang đỏ, nhìn cửa kính thấy sa mạc chạy qua vùn vụt, trong khi ngồi trò chuyện với bạn đồng hành. Cái thú đó, giống như thời xe lửa còn là vua của các nẻo đường – đi không chỉ để tới nơi, mà để tận hưởng chuyến đi.

Hơn cả một chuyến xe

Nói cho ngay, The Ghan không chỉ là phương tiện du lịch. Nó là ký ức lịch sử bằng thép. Nó kể rằng nước Úc đâu chỉ toàn nhà cao cửa rộng, bãi biển đẹp; mà còn có những ngày gian khổ, có những phu lạc đà gồng gánh, có những công nhân đào đá, kéo ray trong nắng cháy.

Bởi vậy, đi một chuyến The Ghan cũng như nghe một bản hùng ca. Người Úc bây giờ sống trong tiện nghi, nhưng quá khứ mở đất đầy gian nan thì vẫn còn in dấu trên từng thanh ray.

Kết lời

Nếu Orient Express được gọi là chuyến xe lửa lãng mạn nhất Âu châu, thì The Ghan chính là hồn nước Úc. Ai đã từng ngồi trên The Ghan, để bánh sắt gõ nhịp rầm rầm xuyên qua hoang mạc đỏ, để hoàng hôn đổ xuống hẻm núi Katherine, sẽ hiểu: cái giá trị lớn nhứt của The Ghan không nằm ở chỗ đưa ta tới Darwin hay Adelaide, mà nằm ở chính hành trình đó.

Một hành trình làm con người chậm lại, để nhìn kỹ hơn đất trời, để nhớ ơn người xưa đã mở lối. Và cũng để thấy rằng, giữa thế giới vội vàng ngày nay, vẫn còn những cảm nghiệm khiến người ta giữ mãi trong lòng.

Đoàn Xuân Thu

Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2025

Trở Về Phố Xưa - Nhạc & Lời: Khanh Phương (Trần Văn Khang) - Ca Sĩ: Tấn Đạt


Nhạc & Lời: Khanh Phương (Trần Văn Khang)
Ca Sĩ: Tấn Đạt

Hoa Xứ Cũ



Hoa xứ cũ thôi cài trên mái tóc
Nỗi niền đau ai khóc buổi chia tay
Gió thu đông thấm lạnh nỗi u hoài
Tình đã chết sao lần trao trọn vẹn!

Tưởng tình ta bao la như biển hẹn
Còn đời mình là thuyền nhỏ mong manh
Vui hạnh phúc thuyền yêu về bến mộng
Nhưng phũ phàng sống dữ dậy mênh mông!

Thuyền xa bến em ơi xa mãi mãi
Không bao giờ ta có buổi trùng lai
Hồn bơ vơ ôm trọn nỗi u hoài
Đời xa vắng trong nỗi sầu khắc khoải!

Không oán nhau hồn sầu khi ly biệt
Thuyền yêu thương sẽ lặng lẽ về xa
Là cố nhân mai nầy ta luyến tiếc:
-Đã một thời ta sống trọn tình ta !

28-5-2024
Hàn Thiên Lương


Chờ Đông

 

Chờ cuối đông thêm tuổi
Sẽ đi qua bốn mùa
Tính nhẩm lòng thầm hỏi
Ta đã già hay chưa?

Đông sưởi tình nồng ấm
Xuân nở bao niềm vui
Hạ gieo nhiều sức sống
Thu lãng mạn yêu đời

Thời gian xưa thấy chậm
Về hưu giờ nhanh trôi
Đường đời còn tự bước
Ấy thế là vui rồi

Tuổi trẻ lắm ước mơ
Kinh ngiệm thời rong ruổi
Ôn đời ta gom lại
Là quà con cháu thôi

Ngọn dầu hồi hương cạn
Đường về xa mù khơi
Rượu mừng ngày hội ngộ
Sợ không thành bạn ơi

Vô thường kiếp nhân sinh
Tiễn đông rồi chờ đón
Thôi tùy duyên ngọn nến
Chứng lời cầu hay không

Dương Việt-Chỉnh
          



Chuyện Hàng Xóm


1. Cô Dâu

Xóm nhỏ chín căn của tôi tuần rồi đón về một cô dâu mới. Cô dâu còn trong tuổi teen, ăn chưa no lo chưa tới, mới học xong high school, đang phân vân chưa biết chọn ngành gì khi vào đại học.

Ngày xưa, nữ thập tam, nam thập lục, chuyện cưới gả đều do gia đình đặt để, không thể nào cãi lệnh mẹ cha, bởi vì áo mặc sao qua khỏi đầu. Nhưng thời bây giờ, muốn mặc cái áo pull-over thì đương nhiên phải tròng từ trên đầu kéo xuống và muốn cởi ra cũng phải từ dưới dở qua khỏi đầu. Chuyện hôn nhân ngày nay là do chính người trong cuộc quyết định. Kết hôn hay không là tùy ở đôi lứa yêu nhau chớ không phải theo ý cha mẹ. Ngày nay, chuyện kết hôn đối với bọn trẻ như là nightmare, là đồng nghĩa với no more freedom, no more fun, no more life enjoyment, having a lot of responsibilities mà bọn nó cố tránh né trì hõan, chậm chừng nào tốt chừng nấy để được thong dong tự tại theo đuổi mục đích, sự nghiệp riêng của mình hay tự do bay nhảy vui chơi cho đến bao giờ thỏa mãn chán ngấy mới quay đầu về tìm bến nghỉ... dưỡng già.

Vậy mà cô dâu chú rể ở đây thì trái lại, chưa tới tuổi thành niên nhưng đã gấp gáp làm đám cưới, hăm hở dắt nhau đi ký giấy chung thân để được sống chung một mái nhà hôm sớm đi về có nhau.

Đôi uyên ương này quen nhau đã gần 10 năm từ khi mới học lớp 8 high school. Mỗi ngày sau khi tan học, hai đứa dắt nhau về nhà làm homework chung, ăn tối chung với gia đình chú rể. Mỗi cuối tuần nhà chú rể có tổ chức ăn uống vui chơi gì thì cũng có cô dâu tham dự, đi đâu hai đứa cũng đi chung như hình với bóng. Cô dâu ở nhà bạn trai nhiều hơn ở nhà mình. Không biết con cái nhà ai mà cha mẹ dễ dãi cho con sống theo lối Úc, ăn dầm nằm dề ở nhà bạn trai tới tối mịt mới về. Nghĩ cũng lạ! Nhưng có lẽ là do tiền duyên của hai đứa nó chưa dứt nên mới tái hợp ở kiếp này.

Tuần rồi hai đứa đã được gia đình cho làm đám cưới linh đình trọng thể, khách khứa đến chung vui với tụi nó rất đông, đa số là bạn học của tụi nó, quậy tưng bừng. Hai đứa còn đi học, chưa có việc làm, làm gì có tiền xây tổ ấm riêng nên sau đám cưới là đi thẳng về nhà chồng một nước cho ba má chồng bảo bọc nuôi ăn nuôi ở.

Ngày xưa con gái về nhà chồng làm dâu "sặc máu" nhưng thời nay nhứt là ở Úc làm gì có chuyện làm dâu. Con dâu này ở nhà chồng như ở nhà nó, chỉ ăn no rồi lo đi học chớ không rớ tay đến chuyện gì trong nhà cả, nói chi đến cái chuyện làm dâu dâng cơm hầu nước cha mẹ chồng, mà ngược lại má chồng đi làm về phải lẹ lẹ săn tay áo vô bếp nấu cơm cho con dâu và con trai ăn. Không biết vài năm nữa con dâu có biết điều hơn chút nào hay không chớ bây giờ thấy má chồng nó bắt đầu cực hơn lúc chưa cưới dâu về. Cũng may ba má chồng nó chỉ có một thằng con trai duy nhứt nên cũng rán chịu khó hy sinh cho con mình nó vui trọn vẹn.

Cặp ba má chồng này 20 năm về trước cũng là một đôi bạn học, vừa ra trường high school là vội đi làm, dành dụm tiền để xây tổ uyên ương, 18 tuổi là đã có thằng con này. Nghe má chồng nó kể lại, khi thằng con chào đời, hai vợ chồng nuôi con cực quá, mất tự do, lại ngủ không đủ, hai đứa cự lộn thiếu điều giết nhau. Không dè 20 năm sau, thằng con noi gương cha mẹ lập gia đình sớm, rồi đây có con, không biết ai sẽ nuôi con cho tụi nó đi học. Má chồng nó còn trẻ măng mới có 38 mùa hạ, còn tung tăng ham vui lắm, weekend nào cũng party với karaoke tới nửa đêm, làm sao chịu an phận ngồi một chỗ giữ cháu. Thấy tụi nó vô tư quá cũng phát ớn dùm! Chắc là cô dâu phải nghỉ học ở nhà trông con thôi. Má ruột cô dâu thì chắc chắn là không babysit rồi vì má cô dâu là một ca sĩ lại kiêm thêm cái job làm radio đài tiếng Việt.

Chờ coi! Rồi cũng xuôi theo tự nhiên đâu vào đó, như cha mẹ chồng nó vậy thôi!

2. Con Dâu

Chiều nay đi làm về, má chồng cô dâu đem qua cho tôi tấm hình chụp chung hôm tiệc cưới và một hộp bánh trung thu làm quà trung thu sắp tới.
Hỏi thăm về cô dâu, má chồng nói:
- Dạ bây giờ tụi nó chưa có khả năng ra riêng, con biểu tụi nó cứ ở chung với tụi con, khi nào học xong có việc làm hẳng tính. Nhà con chỉ có hai vợ chồng và thằng con trai, tụi nó mà dọn ra thì hai đứa con cũng buồn. Thôi kệ, có thêm con dâu về ở cho vui nhà vui cửa. Thấy thằng con vui là mình vui rồi. Hơn nữa, tụi nó ở chung thì con vẫn còn có thể săn sóc cho thằng con mình như lúc nó chưa cưới vợ. Lúc trước, đêm nào thằng nhỏ cũng phải đưa con nhỏ này về, bây giờ cưới rồi thì ở đây là nhà nó, khỏi mắc công đưa tới đưa lui.
Tôi gật đầu phụ họa:
- Ờ vậy là phải đó, chớ nếu tụi nó dọn ra rồi thì mình coi như mất thằng con. Vì nếu ở riêng, tụi nó phải tự lo lấy cuộc sống của tụi nó, biết chừng nào mới có dịp về thăm mình. Họa may mình có làm cái gì ăn kêu nó thì nó mới về. Bữa nọ đi shop, bác nghe một bà di dân người Ý đang nói chuyện với người bạn. Bạn bà hỏi bữa nay cuối tuần, con cái bà có đứa nào về thăm bà không. Bà Italian nói "today me sick, me no cook, no cook, no eat, no come". Ý bà nói là bữa nay bà bịnh, không có nấu ăn, không có ăn thì con không tới. Nghe người mà nghĩ đến ta, sao đúng y chang hòan cảnh chung của những người cha mẹ có con ra riêng quá! Còn một chuyện khác cũng vui lắm, có một ông Úc làm kỹ sư trong hảng của cậu em bác, thằng con ổng mới học lớp 9 một hôm về nói với ổng là nó phải nghỉ học đi kiếm việc làm vì con bồ nó có bầu. Nghe nó nói ổng giựt mình tá hỏa la lối nó một hồi rồi nói "Thôi mày chờ nó đẻ đi, nếu má nó không nuôi thì bồng về tao với má mày nuôi cho tụi mày đi học tiếp, chớ mới lớp 9, tụi mày nghỉ học rồi làm gì ăn, còn phải nuôi con nữa, thiệt là con nít ăn chưa no lo chưa tới mà đòi làm người lớn!"
Vậy đó, mình thương con thì phải ráng giúp đỡ cho tụi nó lúc đầu cho nó đỡ chới với!

Con dâu này thật là có phước, ở nhà chồng mà như ở nhà má ruột, tự do tự tại muốn làm gì thì làm, ngủ tới giờ nào thì ngủ. Bữa nào con dâu không có giờ học sớm thì cứ “nướng” thả dàn, tám chín giờ cũng chưa thấy mở cửa sổ. Còn má chồng nó sáng nào cũng dậy sớm, bảy giờ rưởi là tấm sáo cửa sổ trên lầu đã được vén qua một bên để trang điểm rồi đi làm.

Má chồng lại chịu chơi, cuối tuần thường có màn họp bạn hoặc gia đình, chị em cả thảy chín đứa, cứ xoay vòng mỗi tuần đi một nhà cũng đủ vui cả đời. Con dâu đã từng “nhập bọn” đi theo từ hồi mới làm bạn gái với thằng con nhà này nên bây giờ không có gì bỡ ngỡ, chơi hết mình như má chồng nó. Lo gì trời nắng, lo gì trời mưa, tới đâu hay tới đó, rồi thì cũng đi làm, cũng có nhà cửa xe cộ như ai!

Xã hội này bình đẳng, chỉ cần sống vui, không cần ai trọng vọng nể vì, không cần phải tranh danh đọat lợi, cũng không cần địa vị quyền uy hay nhiều tiền nhiều của. More money more blood, càng cao danh vọng càng nhiều gian nan chớ chắc chi có thời giờ hưởng thụ cuộc sống, chắc chi có hạnh phúc thật sự trong lòng!

3. Cháu Nội Đầy Tháng


Hồi nào tới giờ, tôi chưa đi cái party nào mà gần nhà như lần nầy. Gần tới nổi không cần đi ra đường lộ mà chỉ bước qua cái driveway bên kia là tới nhà hàng xóm để dự tiệc đầy tháng đứa cháu nội đích tôn của chủ nhà.

Thằng cháu nội chào đời ngày 25 tháng 12 năm 2014 tới bữa nay là tròn một tháng. Hai vợ chồng hàng xóm của tôi tổ chức đãi tiệc mừng đầy tháng cháu nội tại nhà, mời bà con bạn bè gần 100 người, đặt 10 bàn, từ trong garage ra tới vườn sau, mướn đầu bếp chuyên catering cho các đám tiệc tư gia tới nhà nấu nướng rình rang như nhà hàng. Ban thợ nấu gồm hai vợ chồng và hai người phụ bếp. Thực đơn gồm có gỏi đu đủ tôm thịt bánh phồng tôm, bánh hỏi thịt quay, Singapore spicy crab, Mongolian beef, cơm chiên, cá chưng, lẩu thập cẩm và chè tráng miệng.

Hai vợ chồng người chef, ông này có biệt danh là Bảy Thọ (7 Thọ) đã từng làm chef trong Sheraton hotel, Israel trước khi định cư ở Úc, hiện tại chuyên catering cho các đám tiệc tư gia (Trường Thọ mobile master chef)


Mừng đầy tháng cháu nội mà không thấy thằng cháu đâu hết, chỉ thấy người lớn cụng ly ăn uống tưng bừng và đám nhỏ chạy giỡn rùm beng ầm ĩ nhảy jumping castle. Hỏi bà nội cháu đâu thì bà nội nói là má cháu mới cho bú xong, đã bồng lên lầu ngủ. Có người hỏi ông nội sao mới có bốn mươi mà đã có cháu nội rồi. Ông nội cười ruồi nói là do di truyền, cha truyền, con nối gương cha đó chú bác ơi! Có người hỏi thằng ba của baby chớ con mày có khóc đêm không thì nó nói là I wonder why he is so qiuet! (con hổng biết sao mà nó ngủ êm ru hà!). Vậy là mày trúng số rồi đó nghe con. Nó mà khóc đêm tụi bây khỏi ngủ thế nào cũng gây lộn!

Không biết năm sau tới thôi nôi có "lôi đầy tháng" nữa không. Nếu đầy tháng thêm đứa nữa thì tội cho ông bà nội cháu quá. Cha mẹ nào cũng thương con, khi con chưa đủ lông cánh để bay thì nhà cha mẹ vẫn là chiếc tổ ấm cúng êm đềm cho đàn con trú thân nương náu...

4. Ra Riêng

Bốn năm sau, đôi trẻ lại cho chào đời thêm một bé gái. Lại nghe tiếng khóc oe oe bên nhà hàng xóm và ông bà nội lại ca tiếp điệp khúc nuôi cháu như nuôi con, trang trải hết mọi việc giúp con và dâu mình. Cháu nội trai từ khi 3 tuổi đã cho đi nhà trẻ một tuần ba ngày tập cho quen dần để mai mốt còn đi học.

Thằng con sau khi vào đại học đôi ba năm thì tìm được một việc làm tốt nên cũng đã đi làm. Nhận thấy ở chung với ba má hơi chật chội vì bây giờ đã có tới hai đứa con cho nên hai vợ chồng nó xin ba má nó ra riêng, mướn nhà ở gần đó cho tiện việc gởi con hằng ngày.

Bà nội hai cháu làm ở một chemist, mỗi ngày ra về 3 giờ đi rước cháu ở trường rồi về nấu ăn cho con trai chiều lại rước con thì take away về nhà ăn luôn thể.
Thằng cháu nội rất khôn lanh, từ khi biết nói đủ, nó nói tía lia tối ngày, miệng không lành da non. Chuyện gì nó cũng hỏi, hỏi vặn vẹo đủ thứ tới ông nội nó phát chóng mặt luôn. Nó thương bà nội nó hết biết, mỗi chiều khi ba nó tới rước về, nó leo lên xe gài seat belt xong còn ráng thò đầu ra cửa sổ nói với bà nội nó "Bye grandma, I love you, I love you grandma" và cứ một câu như thế lập lại cho tới khi xe ba nó khuất sau cái cua quẹo để ra đường lộ mà ở đây tôi vẫn còn nghe văng vẳng thấy mà thương.

Khi cháu nội gái được ba tuổi thì con dâu lại có bầu thêm lần nữa, không biết vì tụi nó thích nhiều con hay bị "accident". Tiền mướn nhà một tuần là hết 750 đô. Còn tiền điện, tiền ga, tiền điện thoại, tiền quần áo, ăn uống lung tung, tôi nghĩ tới còn thấy lo mà coi bộ tụi nó không lo chút nào.

Rồi ngày qua ngày tháng qua tháng, sau mười năm, hai vợ chồng thằng con nhà hàng xóm đã có tất cả hai trai một gái.
Thằng anh năm nay đã 11 tuổi. Đứa em gái kế thì lên 7, còn thằng nhóc bây giờ lên 3. Tới đây thì tôi nghĩ chắc tụi nó phải bớt vô tư mà nghĩ kỹ tính xa. Con cái nó càng ngày càng lớn, nhu cầu càng nhiều càng cao, càng hao càng tốn. Ba má tụi nó chỉ có thể giúp tụi nó tới một mức độ nào thôi chớ làm sao theo tới tới hoài cho nổi...

Đã biết chuyện gì rồi cũng có giải pháp. What will be will be...! Vậy mà sao tôi cứ lo xa lo dùm thiệt là vô duyên hết sức!!

Người Phương Nam


Portland, Oregon Một Cõi Thiền Nhàn Của Tôi


Đây là bài số bảy trăm tám mươi sáu (786) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ ORTB.

Mùa Thu đã thực sự đến với Portland với lá vàng rơi đầy trên đường phố, với sương lam mờ đỉnh núi, với những cơn mưa lạnh.

Cảnh vật mùa Thu đẹp tĩnh lặng và đã gợi hứng cho bao thi nhân nhạc sĩ viết lên nhiều bài thơ, bản nhạc tuyệt vời: “Thu quyến rũ, Nhìn những mùa Thu đi, Giọt mưa thu, Thu ca “ v…v…

Tôi cũng đã sống tại Portland qua bao mùa lá rụng. Phải nói rằng thành phố này tương đối hiền lành an tĩnh hơn những thành phố mà tôi đã có dịp đi qua: New York, Paris, Hồng Kông, Thượng Hải, Tokyo v…v…Vì thế tôi thường nói đùa với bạn bè ở nơi phồn hoa náo thị khác rằng: “Portland, nơi tôi ở là tỉnh lẻ đèn vàng”.

Tuy nhiên, trái tim tình cảm của tôi đã gắn liền với từng tên đường, góc phố, công viên ở nơi đây rồi, bạn ạ. Những người bạn của tôi từ nơi khác đến thăm tôi cũng đã nói: “Nơi đây buồn quá, tại sao tôi có thể ở đây được hơn 30 năm rồi. Phục SL quá trời”.

Thật tình, trải qua bao cuộc biển dâu và người viết cũng “không còn trẻ nữa” nên tôi cũng muốn bắt chước người xưa ngâm nga câu thơ:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao “
Nguyễn Bỉnh Khiêm

Khi còn đi học ở trường nữ trung học Gia Long, đến giờ giảng văn học về Nguyễn Công Trứ, tôi rất thích bài thơ Cây Thông của ông:

Cây Thông

Ngồi buồn mà trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Giữa trời, vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông
Nguyễn Công Trứ

Hay là có thể vì tôi thích bài thơ này nên ông Trời đã xui khiến tôi được định cư ở xứ ngàn thông này chăng?
Rồi đến lúc tôi “không còn trẻ nữa”, tôi lại thích hưởng nhàn theo ý tưởng của ông được diễn đạt qua bài thơ Chữ Nhàn dưới đây:



Chữ Nhàn

Thị tại môn tiền: náo
Nguyệt lai môn hạ: nhàn.
So lao tâm lao lực cũng một đàn,
Người trần thế muốn nhàn sao được?
Nên phải giữ lấy nhàn làm trước,
Dẩu trời cho có tiếc cũng xin nài.
Cuộc nhân sinh chừng bảy tám chín mười mươi
Mười lăm trẻ, năm mươi già không kể.

Thoát sinh ra thì đà khóc chóe,
Trần có vui sao chẳng cười khì?
Khi hỷ lạc, khi ái ố, lúc sầu bi,
Chứa chi lắm một bầu nhân dục.

Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc,
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn?
Cầm kỳ thi tửu với giang sơn,
Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế.

Ngã kim nhật tại tọa chi địa,
Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi.
Ngàn muôn năm âu cũng thế ni,
Ai hay hát mà ai hay nghe hát?

Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất,
Để ông Tô riêng một thú thanh cao
Chữ nhàn là chữ làm sao?
Nguyễn Công Trứ

Bởi thế bây giờ tôi an trụ ở Một Cõi Thiền Nhàn là phải rồi! Ý Trời! Thiện thay! Thiện thay!
Lâu lâu đọc lại những bài thơ cũ mà mình đã được học ở thời trung học kể cũng thú vị, vui vui. Bạn nhỉ?

Tôi bây giờ tìm thấy niềm vui trong việc sưu tầm bài vỡ hay lạ, những mẫu chuyện thiền ngắn gọn nhưng đáng để chúng ta suy ngẫm, rồi đem chia sẻ với bạn bè ở cõi thật cũng như ở cõi ảo đọc cho vui với cái tuổi “mùa thu lá bay” này. Cũng hay hay chứ bạn?

Xin được chia sẻ với bạn mẩu chuyện ngắn ngắn dưới đây nhé
.Ngôi nhà có ngàn chiếc gương
Ngày xửa ngày xưa, ở một ngôi làng xa xôi người ta biết đến một ngôi nhà kỳ lạ nơi có đến hơn 1.000 chiếc gương.

Một chú chó nhỏ biết được điều đó và quyết định đến xem cho biết.

Khi tới nơi, chú chó mừng rỡ leo lên cầu thang chạy về phía cửa chính. Chú vểnh cả hai tai còn đuôi thì quẫy liên tục khi nhìn vào căn nhà. Hết sức ngạc nhiên, chú cún phát hiện mình đang nhìn chăm chú 1.000 con chó nhỏ cũng đang rất vui sướng quẫy đuôi như mình. Chú chó nhỏ ngoác miệng cười và được đáp trả bởi 1.000 nụ cười khác cũng thật ấm áp và thân thiện làm sao. Khi rời khỏi căn nhà chú chó thầm nghĩ “Quả là một nơi thật tuyệt vời. Mình sẽ quay trở lại thăm nơi này thường xuyên.”

Cũng tại ngôi làng đó, có một chú chó nhỏ khác, tuy nhiên chú chó này không vui vẻ như chú chó nhỏ kia. Chú ta cũng quyết định đi xem ngôi nhà cho biết. Một cách chậm chạp chú leo lên cầu thang về phía cửa chính và cúi thấp đầu xuống nhìn vào ngôi nhà. Khi nhìn thấy 1.000 con chó đang cau có nhìn mình chú sủa thật to và hoảng hốt khi nhận thấy 1.000 con chó kia cũng đang sủa lại mình. Chú chó bỏ về và thầm nghĩ “Thật là một nơi kinh khủng. Mình sẽ chẳng bao giờ quay lại nơi này.”

Tất cả những người bạn gặp trong đời đều là những tấm gương phản chiếu. Vậy bạn đã gặp những hình ảnh phản chiếu nào?

Uyên Phương (Theo Chicken soup)

Tuy rằng những hình ảnh phản chiếu trong cuộc sống mình không phải lúc nào cũng hoàn mỹ hoặc như ta mong muốn...nhưng mình không nên vì vậy muốn cho tất cả là thế, hoặc tốt ...hoặc xấu....Bàn tay có ngón dài ngón ngắn, không thể nào vừa ý hết nhưng hãy cư xử với mọi vật mọi việc với tấm lòng nhân hậu là tốt lắm rồi.

Chúc các bạn một ngày vui, nhiều sức khoẻ và mọi sự an lành đến với các bạn.
Cầu nguyện cho tất cả chúng sinh trên thế giới đều được thân tâm an lạc, phát triển lòng từ bi thương yêu tất cả mọi người
Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát

Xin chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.

Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn

Sương Lam
(Nguồn: tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên internet, qua email bạn gửi-MCTN 786, ORTB 1227-1110-25)
Sương Lam

Thứ Năm, 13 tháng 11, 2025

Tĩnh Tâm - Thơ: Đình Duy Phương - Nhạc: Nguyễn Như Ánh - Trình Bày: Phát Đạt


Thơ : Đình Duy Phương
Nhạc : Nguyễn Như Ánh
Ca Sĩ: Phát Đạt

Mùa Thu Québec

Giàn nho leo đổi màu đỏ rực một hong nha của chúng em đó
Thu trên núi Mont-Royal
Sắc màu trong 1 park gần nhà (đẹp như 1 bức tranh Sơn dầu hé )
Hàng dâm bục lá đổi màu rực rỡ cả một góc đường trong xómNho leo trước cổng nhà ai ( nhà tui )

Hình Ảnh: Kim Trúc

Thu Nhớ Người

 

Ngẩn ngơ chào đón ngọn thu phong
Nhớ bạn tri âm nát cả lòng
Mới đó mà bao mùa đổ lá
Mà giờ đến nữa ...mạch sầu đông

Người đi biền biệt trong sương lạnh
Kẻ ở tương tư nhạt má hồng
Thức trắng canh thâu buồn viễn xứ
Chập chờn mộng mị giữa hư không...

nguyễn phan ngọc an
thu buồn 2025


Vài Tâm Sự Về Câu " Nghịch Thiên Cải Mệnh"


Khuya qua, ngày 10 tháng 11 năm 2025, một bạn đọc điện hỏi con người có "Nghịch Thiên cải Mệnh" được không vì mấy Thầy Tử vi nói với cậu ấy là "Di cung hoán số" được. Vì đã gần 24 giờ, khuya quá rồi, tôi không tiện trả lời nên hẹn cậu ấy sáng nay sẽ viết vài dòng về thắc mắc của cậu ấy, cũng là thắc mắc của một số bạn đọc khác đã gửi tới tôi: có thật sự "Nghịch Thiên cải Mệnh" được không?

Cái được gọi là "Thiên Mệnh" ấy, hiểu đơn giản là khuôn khổ, giới hạn mà tạo hóa đã định sẵn cho mỗi người, nó tựa như bản vẽ thiết kế gốc ngôi nhà cuộc đời của mỗi người ngay từ khoảnh khắc người đó cất tiếng khóc chào đời. Cái khung giới hạn đó con người không thể thay đổi được nhưng có thể tác động mạnh mẽ đến chất lượng cuộc sống bên trong khuôn khổ đó bằng những nỗ lực, đạo đức và trí tuệ của chính mình.

Tử Vi, Tứ Trụ hay Tướng Thuật, Lý Số,... chỉ là các phương tiện giúp ta nhìn rõ những cây cột cái vững chắc, những góc khuất ẩm thấp và những lối đi gập ghềnh cần tránh trong bản vẽ thiết kế ngôi nhà cuộc đời đó, tuyệt nhiên không phải là cây bút thần thánh có thể tùy tiện vẽ lại bản thiết kế đó theo ý của mình. Vì thế, việc "Nghịch Thiên cải Mệnh" hay "Di cung hoán số" như những ông đồng bà cốt lôi kéo các “con nhang đệ tử” vào các nghi lễ tâm linh, mà trong nhiều trường hợp các nghi lễ này bị biến tướng thành hành vi lừa đảo, tuyệt đối là ảo tưởng hão huyền, là điều không thể. Ví như “Thiên Mệnh” của mình là ngôi nhà cấp 4 thì mình chỉ có thể quét tước sạch sẽ, sơn phết lại màu tường, trồng thêm mấy khóm hoa, bắc thêm cái giàn mướp... để ngôi nhà nhiều năng lượng hơn, ấm áp hơn, đẹp đẽ hơn trong giới hạn của cái "Mệnh" đã được tạo hóa định sẵn, những việc làm đó là cái "vận" mình tự sửa sang, chứ không thể là "cải mệnh" để biến ngôi nhà cấp 4 thành căn biệt thự lầu son được?!

Mục đích của việc xem số không phải để mưu cầu sự giàu sang phú quý mà là để “Thuận Thiên ứng Mệnh”, để hiểu thấu triệt cụm từ "biết mình biết ta" trong đời sống tâm linh (ta chỉ cần biết rõ về ta là ta đã "giác ngộ", ta sẽ chiến thắng được đời) mà sống thuận theo dòng chảy của lẽ tự nhiên. Ví như khi mùa đông đến thì lo chuẩn bị quần áo chống rét, khi mùa gió nồm về thì lo ngăn không khí ẩm từ bên ngoài vào nhà, đó là sự thích nghi khôn ngoan của người thức thời. Hay khi biết vận hạn đang bủa vây thì thận trọng lại lời ăn tiếng nói và khiêm nhường hơn trong hành động, rồi lo gieo duyên lành để giảm bớt tai ương. Đó là sự tính toán khôn ngoan của người biết nương theo chiều gió, biết lèo lái con thuyền đời qua ghềnh thác được an toàn hoặc chí ít giảm thiểu những nguy hiểm thiệt hại, chứ không phải cái kiểu biết được số rồi thì ngông nghênh gồng mình lên chống lại cơn bão táp vô hình mà chuốc lấy họa vào thân. Việc xem Tử Vi, Tứ Trụ hay Tướng Thuật, Lý Số... giúp ta biết được lúc nào vận mình lên, lúc nào vận mình xuống mà chuẩn bị tâm lý, hành động để sống hòa hợp với quy luật đó, giống như có trong tay một bản đồ dự báo thời tiết sẽ giúp ta biết được lúc nào trời nắng, lúc nào trời mưa để mang theo ô khi trời nắng, mang theo áo mưa khi trời mưa chứ không phải để ta cản lại trời nắng, ngăn lại trời mưa. Tóm lại, mục đích việc xem số không phải để "nghịch Thiên cải Mệnh" mà là để ta sống một cuộc đời chủ động, có ý nghĩa và bình thản hơn trong khuôn khổ của số phận đã được an bài.

Về việc cải vận thì đúng là trong tín ngưỡng dân gian có lưu truyền những phương pháp "cải thiện số mệnh" được cổ nhân đúc kết như: Làm việc thiện, ăn chay niệm Phật, thay đổi môi trường sống tích cực... những phương pháp này có thể giúp chuyển "Vận" (chứ không cải được Mệnh) thay đổi theo thời gian, theo công sức nỗ lực của mỗi người. Nó giống như ta chăm bón cho mảnh vườn của mình: giúp cây tươi tốt hơn, hoa nở rộ hơn, đẹp hơn, thậm chí có thể khiến hoa nở cả lúc trái mùa nhưng không thể biến cây mai thành cây đào, biến quả na thành quả mít được. Mức độ thay đổi này, nói cho cùng cũng nằm trong cái "nghiệp quả" của mỗi người. Ai gieo nhân nào thì gặt quả nấy, luật trời công bằng lắm, sự can thiệp của con người thật nhỏ bé trước sự chế tài công bằng đến khắc nghiệt của luật Luân Hồi - Nhân Quả.

*.

Hà Nội, sáng 11 tháng 11-2025

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

.


Lời Nguyền Trên Đèo Rù Rì


Tôi trở lại Nha Trang vào một buổi chiều tháng Mười, bầu trời loang một lớp xám nhợt như tro tàn mỏng. Thành phố vẫn ồn ào và rực rỡ ánh đèn như trong ký ức hơn ba mươi năm trước, chỉ có tôi là già theo năm tháng.

Từ trong taxi, tôi nhìn về phía Bắc, nơi dãy núi uốn lượn như một con rắn khổng lồ đang say ngủ. Đó là đèo Rù Rì.  Con đường xưa từng nối Vĩnh Hải với Lương Sơn. Giờ đây, hiếm ai còn qua lại.  Cỏ dại đã phủ kín đường đi. Ba mươi năm trước, khi mới mười lăm tuổi, tôi vẫn thường đu bám theo những chiếc xe tải chở rác từ thành phố chạy ngang đèo mỗi buổi tan học…

-oOo-

Chiếc taxi dừng lại trên đỉnh đèo giữa trưa. Người lái xe là một người đàn ông trung niên, dáng gầy, giọng khàn khàn. Ông nói tên Trung từng làm phóng viên cho báo Nhân Dân, bút danh là Yana. Khi đến đón tôi ở khách sạn, ông hỏi:

- Anh ở bên Mỹ mới về đúng không?

 — Dạ, đúng...

 — Giọng anh nghe quen lắm, chắc người Nha Trang?

 — Trước đây gia đình tôi từng sống gần đèo Rù Rì, rồi mới ra Lương Sơn. Lần này tôi về thăm quê, thăm mồ mả và người quen cũ.

 — Gần đèo Rù Rì hả? Vậy anh chắc biết ông Long?

— Ông Long?

 — Dạ, đúng rồi... Hồi trước, khi tôi còn làm phóng viên, tôi thường hay lên khu vực đèo Rù Rì và nghe người ta nhắc đến một ông tên Long. Tôi nghĩ chắc anh biết.

 — Long nào kìa? 

Tôi hỏi, cố gắng lục lại trí nhớ. 

Thời gian như cuộn phim quay ngược, đưa tôi trở về quãng ba mươi năm trước. Rồi bất chợt, tôi nhớ ra.

 — Có phải ông Long mà anh nói đến là bác Long Chì không?

Tôi hỏi lại:

 — Ông ấy da ngăm đen?

— Dạ, đúng rồi. Khi xưa ông buôn bán xăng dầu cho toàn thị xã Vĩnh Lương...

-oOo-


Khoảng ba mươi phút sau khi rời thành phố biển, chúng tôi mới đến một quán cà phê nhỏ nằm ngay trên đỉnh đèo. Người tài xế tên Trung tắt máy, cùng tôi bước vào. 

Giữa trưa, quán vắng lặng, chỉ có tiếng gió luồn qua những tán phi lao. Ngày trước, nơi này từng là chốn hẹn hò của đám thanh niên… Ban đêm xe máy dựng san sát, ánh đèn pha hắt sáng một góc đèo. Còn ban ngày, dân làng lại tụ tập ở đây, vừa nhâm nhi cà phê vừa kể cho nhau nghe những câu chuyện xưa.

Đến nơi, chúng tôi thấy một người đàn ông ngoài tám mươi ngồi sau quầy cà phê. Dáng ông gầy, da sạm nắng, đôi mắt vẫn sáng và tinh anh lạ thường.

 Thấy chúng tôi bước vào, ông hỏi:

 — Các cậu đi tìm ai?

Tôi nhận ra ngay đó là bác Long. Nhưng có lẽ bác không nhớ tôi, vì ngày tôi rời nơi này, tôi mới chỉ là một thằng bé gầy nhẳng. Giờ đã gần năm mươi. Tôi mỉm cười, nhắc:

 — Dạ chào bác, con là Lộc. Con ông Phúc dưới kia. Nhà con hồi xưa bán lại cho bác mảnh đất đó...

Ông nheo mắt, suy nghĩ một lát, rồi bật cười, vỗ nhẹ lên trán:

 — À… tao nhớ rồi! Thằng Lộc, con ông bà giáo Hằng chứ gì?

 — Dạ, đúng rồi.

 — Cha mẹ mi… mấy chục năm rồi, không biết gia đình đi đâu, nay mới về lại đây hả?

 — Dạ, nhà con dọn ra Lương Sơn một thời gian, rồi đi vượt biên qua Mỹ. Mới đó mà hơn ba mươi năm rồi...

 — Ừa… thời gian nhanh ghê.

Tôi hỏi:

 — Còn bác gái và mấy anh chị đâu rồi bác?

 — Bà ấy mất mấy năm trước. Còn tụi nhỏ thì chịu không nổi nơi khỉ ho cò gáy này, dọn hết vô Nha Trang với Sài Gòn rồi. Giờ chỉ còn mình tao trông quán, coi như quen rồi.

Chúng tôi ngồi xuống chiếc bàn cũ, gọi hai ly cà phê. Trong lúc trò chuyện, bác Long quay sang hỏi người lái taxi đi cùng tôi:

 — Còn cậu đây là ai?

 Anh tài xế lễ phép đáp:

 — Dạ, cháu là tài xế. Hồi xưa cháu cũng hay lên đây làm phóng viên, viết tin tai nạn. Sau này đèo Rù Rì đóng cửa, ít xe qua lại, nên tai nạn cũng giảm hẳn.  Rồi cháu đổi nghề qua chạy taxi.

Bác Long khẽ gật đầu, giọng trầm khàn:

 — Ừ, từ khi đèo bị chặn, người đi cũng ít. Đỡ được phần nào, chứ hồi đó… năm nào cũng có người chết.

Anh tài xế hỏi, giọng nửa tò mò, nửa đùa:

 — Bác ở đây một mình, ban đêm không sợ sao?

 — Tôi quen rồi, cậu ơi. Ở lâu thành thân với gió, với sương… và với cả những người đã khuất.

Anh cười, rồi chợt nhớ ra điều gì:

 — À, hồi cháu còn làm báo, bạn bè hay nói đèo Rù Rì có lời nguyền của người Chăm. Chuyện đó có thật không bác?

Bác Long im lặng một lúc, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Gió chiều lùa qua hàng phi lao khô khốc, tạo nên những âm thanh dài và rền rĩ.

 — Ờ… chuyện đó, tôi cũng nghe từ lâu. Tôi sống ở đây gần năm mươi năm, thấy nhiều xác hơn người sống. Năm nào cũng vài vụ, có năm tới hai chục mạng. Người ta bảo đèo này bị “giữ lại”. Xe cẩn thận mấy rồi cũng có người gặp chuyện.

Tôi hỏi, giọng nhỏ:

 — “Giữ lại” là sao, bác?

Bác Long nói chậm rãi, từng chữ:

 — Là người chết không đi được. Người Chăm xưa chôn lời nguyền ở đây, cùng tro cốt của mười ba người canh giữ. Mấy ông Pháp thời thuộc địa từng đào trúng chỗ đó… rồi chết hết.

Ông quay sang anh tài xế, ánh mắt sâu thẳm:

 — Cậu về đây để viết truyện… hay?

Anh tài xế vội xua tay:

 — Dạ không, cháu chỉ tò mò hỏi thôi. Hồi xưa làm phóng sự ở đây, bạn bè hay bàn tán nên muốn nghe bác kể chuyện.

Bác Long cười khẽ, môi nhếch nhẹ. Ông đặt tách cà phê bốc khói nghi ngút trước mặt tôi:

 — Nếu các cậu muốn biết, mai tui chỉ cho chỗ người ta đồn là nơi người Chăm chôn lời nguyền. Hôm nay tui không bỏ quán được.

Rồi ông quay sang tôi, giọng chùng xuống, pha chút thân tình:

 — Nói chuyện giáo lá mà chưa kịp hỏi thăm… Ba mẹ bây dạo này ra sao, Lộc? Ông bà cô vẫn khỏe chứ?

 — Dạ, ba mẹ con vẫn khỏe. Chỉ có mẹ con hơi yếu, còn ba thì đôi khi quên trước quên sau.

 — Ừa… thời gian mà…

Tôi chợt nhớ, hỏi:

 — Bác ơi, hồi nhỏ con đi học hay ghé cái miếu bên sườn đèo xin lộc trái cây. Sao giờ con không thấy nữa?

 — Còn chứ. Chắc giờ ít người qua lại, cây cỏ mọc phủ kín rồi. Gần Tết mới có người đến dọn dẹp, cúng kiếng. Nếu bây muốn đi, để mai tao dẫn luôn thể.   Hôm nay con nhỏ giúp việc xin nghỉ, tao không đi cùng được. Nhớ mai mua ít nhang đèn, bánh trái, rồi mình đi. 

Anh tài xế nhìn sang tôi, cười, hỏi:

 — Vậy anh tính sao?  Ngày mai anh có muốn đi không? Mai tôi chở anh luôn. Hôm nay hay là anh tranh thủ về Lương Sơn, Ninh Hòa thăm bà con… Ngày mai mình đi cúng và trở lại nơi này để tìm hiểu tiện cả đôi đường.

 Tôi gật đầu:

 — Dạ, hay đó. Mình quyết định vậy đi.

Tôi ngẩng lên định hỏi thêm, nhưng bác Long đã quay đi, lặng lẽ lau quầy cà phê. 

Bên ngoài, gió thổi qua rặng phi lao, phát ra âm thanh dài, trầm và đục. Trong tiếng gió, tôi bỗng nghe một âm vang mơ hồ như tiếng chim, khàn đục, kéo dài trong sương mù hai tiếng… “rù rì… rù rì…”

 Âm thanh ấy len vào tận tim, như hơi thở của những linh hồn chưa ngủ yên giữa lòng đèo chết.

-oOo-


Sáng hôm sau, trời đổ mưa nhẹ. Ông Long đã đợi sẵn trước cổng, tay cầm bó nhang và cái đèn pin cũ.

— Tui dẫn hai cậu lên nửa đèo thôi, chỗ miếu. Rồi sau đó mới đi xuống chưn đèo…

Chúng tôi leo theo con đường mòn, lẫn trong lớp cỏ ướt. Những khúc cua dốc quanh co, đá trơn, sương mù dày đặc đến mức không nhìn thấy mặt nhau dù chỉ cách vài mét. Tiếng nước chảy róc rách đâu đó.

Giữa chừng, ông Long dừng lại, thở dốc, chỉ tay về phía bên trái:

— Đó, chỗ cái lan can gãy kia, là nơi năm tám mươi ba có vụ lật xe. Hai chục người chết. Từ đó, người ta xây miếu.

Một ngôi miếu nhỏ hiện ra trong sương, mái ngói rêu phong, mấy bát nhang cũ đã tàn, mưa làm ướt nhẹp. Ông Long thắp nhang, khấn nhỏ mấy câu. Trong lúc bác Long thắp nhang khấn vái, tôi đưa máy ảnh lên chụp phong cảnh hùng vĩ ngọn đèo.  Tôi đứng lặng, nghe gió hú từ dưới vực thổi lên, tôi hỏi:

— Tiếng gì vậy bác? 

— Chim rù rì đó. Nó sống quanh đây. Nhưng người Chăm gọi nó là “Hồn Giữ Đèo”. Họ tin tiếng chim là linh hồn người đã chết, không rời được nơi này.

Nghe xong tôi chợt rùng mình.  Rồi bác Long lại tiếp:

- Ngày xưa, khi người Pháp mở đường qua đèo, họ đào lên mười bốn chiếc lọ sành. Một lớn, mười ba nhỏ. Lọ lớn có hai tấm da dê, một tấm ghi chữ lạ, tấm kia vẽ cảnh hành hình người đàn ông cụt đầu, phụ nữ bị trói. Người Pháp tò mò mở ra, rồi lần lượt gặp chuyện: hai người chết đột ngột, một viên sĩ quan bị điên, vợ ông ta mắc bệnh lạ. Cuối cùng, họ phải chôn lại.

Anh Trung chợt hỏi:

— Nhưng mà… chỗ đó ở đâu, bác? 

Ông Long quay sang, ánh mắt bỗng xa xăm:

— Ở dưới chưn đèo này. Tui là người chứng kiến lần cuối cùng nó bị đào lên.

Tôi nhìn ông, sững sờ. Ông rít hơi thuốc, giọng trầm lại:

— Năm tám lăm, sau vụ tai nạn liên tiếp, có nhóm công nhân định mở rộng đường. Họ cuốc phải thứ giống như mảnh da. Tôi khuyên họ chôn lại. Nhưng có một người, tên Bình, không nghe. Tối đó, hắn say rượu, đem về nhà. Hôm sau… vợ hắn chết. Mắt mở trừng trừng, trên ngực in vết như bàn tay cháy đỏ.

Ông Long ngừng nói. Mưa nặng hạt hơn. Tiếng chim rù rì lại vang lên, gần và rõ hơn.  Từng tiếng rù rì thê lương, kéo dài như lời than khóc.

Tôi nuốt khan, cố giữ giọng:

— Rồi… người tên Bình đó sao rồi bác?

— Mất tích! Ba ngày sau, người ta tìm thấy quần áo hắn dưới suối. Xác thì không.

Gió nổi lên, cuốn tro nhang tung bay. Trong giây lát, tôi thấy một bóng người thấp thoáng sau màn sương xa xa.  Tôi quay lại, định hỏi bác Long thì thấy ông đã cắm cúi gom đồ. Giọng ông khàn đặc:

— Đi thôi. Đừng đứng đó. Người ta nói, nếu nghe tiếng chim rù rì kêu ba lần liên tiếp mà vẫn còn nán lại, sẽ có người “đi theo”.

Chúng tôi bước vội theo. Nhưng trong đầu, câu chuyện về lời nguyền cứ xoay mãi. Khi xuống tới chân đèo, ông Long dừng lại, nói như dặn dò:

— Nếu hai cậu còn muốn tìm hiểu, hãy đến làng Ba Ngòi, hỏi cụ Sa Ly. Cụ là người Chăm cuối cùng còn nhớ. 

Tôi gật đầu. Trong lòng dấy lên thứ cảm giác kỳ lạ.  Vừa sợ, vừa háo hức. Tôi không tin vào ma quỷ, nhưng có gì đó ở Rù Rì khiến tôi không thể rời đi.

Chiều hôm ấy, khi trở lại khách sạn, tôi mở laptop, định chuyển toàn bộ những tấm ảnh chụp trong ngày từ máy ảnh sang máy computer. Bỗng một bức ảnh đập vào mắt tôi.

Đó là tấm hình tôi chụp lúc bác Long đang khấn vái trước miếu. Trong khung hình, khúc đèo mờ sương trải dài, và ngay giữa ảnh… là một cô gái mặc váy Chăm, mái tóc dài, đôi mắt buồn sâu thẳm.

Tôi sững người. Lúc bấm máy, tôi chỉ muốn ghi lại cảnh bác Long giữa làn khói hương nghi ngút, giữa sương mù và cây xanh quanh khúc cua, chứ nào có thấy ai khác. Khi ngồi xem lại ảnh, ngoài kia, gió biển thổi rì rào, tiếng sóng vọng lại xa xăm, dai dẳng như thể đang gọi tên ai đó trong giấc mơ.

Đêm ấy, tôi không tài nào ngủ được. Mưa đã tạnh, nhưng tiếng rù rì của gió vẫn vang vẳng ngoài cửa sổ, nghe như lời ru buồn giữa khuya. Tôi bật dậy, mở laptop, phóng to bức ảnh thêm lần nữa.

Cô gái đứng ở mép vực, ngay chỗ lan can gãy. Ánh sáng trong ảnh thật lạ.  Xanh nhạt và lạnh như ánh trăng, dù tôi nhớ rõ lúc ấy là khoảng vào giữa trưa với sương mù la đà trong cơn mưa bụi lấm tấm. Cô gái có mái tóc đen buông xõa, tà váy lụa Chăm trắng lẫn vào sương. Nhưng điều khiến tôi rùng mình chính là đôi mắt: sâu thẳm, buồn bã, và… đang nhìn thẳng vào tôi.

Tôi phóng to thêm góc ảnh. Sau lưng cô, trên nền đá, hiện lên một hình vẽ kỳ dị.  Ba vòng tròn giao nhau, ở giữa khắc một bàn tay ngửa.

Tôi giật mình, tim đập thình thịch. Ký hiệu ấy… tôi đã từng thấy rồi, ở tháp Bà Ponagar. Hồi tôi chừng 13-14 tuổi tôi cùng mấy anh em chú bác họ ở khu Xóm Bóng thường lén vào trong tháp chơi trốn tìm, đôi khi còn vụng trộm lấy bánh trái người ta cúng. Trên một phiến đá rêu phong phía sau tháp, tôi nhớ có khắc chính biểu tượng này.  Đó là Pa-yang, “Người Giữ Cổng.” 

Tôi chụp lại phần ký hiệu trong ảnh, rồi tra thử trên Google. Một đoạn văn hiện ra, khiến tôi lạnh sống lưng:

“Ðây là ký hiệu của Người Giữ Cổng trong tín ngưỡng Chăm cổ. Người Chăm tin rằng mỗi linh hồn chết oan đều phải đi qua bảy cổng trước khi được siêu thoát. Nếu linh hồn nào bị trấn ở cổng thứ tư, Cổng Rù Rì, thì sẽ mãi mãi mắc kẹt giữa nhân gian và thần giới.”

Cả đêm hôm đó tôi không ngủ cứ mong chờ trời sáng để gọi anh Trung, tài xế taxi, chở đến làng Ba Ngòi.

Sáng hôm sau, anh Trung chở tôi đến làng Ba Ngòi, cách Nha Trang chừng hơn hai chục cây số. Đó là nơi ông Long bảo tôi tìm cụ Sa Ly, người Chăm cuối cùng biết về lời nguyền và những cái lọ chôn ở chân đèo Rù Rì.

-oOo-

Làng Ba Ngòi nằm lọt giữa những triền cát và rặng dừa cằn cỗi. Nhà cụ Sa Ly ở cuối làng.  Ðó là một căn nhà nhỏ với tường đất, mái rơm.  Trước sân có cây nêu treo chuỗi vỏ ốc. Tôi gọi khẽ. Một bà cụ bước ra, dáng nhỏ, tóc bạc trắng, đôi mắt mờ đục nhưng sâu thẳm.

— Cậu là người của ông Long Chì chỉ tới? 

Giọng bà run run nhưng rõ ràng.

Tôi gật đầu, chào cụ và kể qua chuyện mình thấy ở đèo. Nghe đến đoạn cô gái trong ảnh, cụ Sa Ly bỗng nắm chặt tay tôi, thì thào:

— Cô ấy… trở lại rồi?

Tôi ngạc nhiên:

— Cụ biết cô ấy?

Bà cụ lặng đi một lúc, mắt hướng về phía núi xa. Gió từ biển thổi qua, làm chuỗi vỏ ốc leng keng như tiếng khóc. 

— Tui nghe già làng kể lại từ đời này sang đời khác rằng người con gái đó tên Na M’ra. Con gái của tộc trưởng Chăm cổ sống ở vùng Rù Rì xưa. Nhiều trăm năm trước, khi người Pháp chưa đến, bộ tộc của chúng tui ở đó. Rồi chiến tranh đến, lính triều đình tràn tới. Họ giết người, đốt làng, bắt phụ nữ đi. Cha cô, tộc trưởng, bị chặt đầu.

Bà ngừng lại, thở dài, giọng nghẹn:

— Trước khi bị chặt đầu, ông sai pháp sư lập nghi thức phong ấn, chôn hai tấm da dê ghi lời cầu an và lời nguyền, cùng tro cốt mười ba chiến binh. Na M’ra được chọn làm người giữ cửa “Hồn Giữ Đèo”.

Tôi nghe mà gai ốc nổi khắp người:

— Tức là… cô ấy bị chôn sống sao?

Cụ khẽ gật.

— Phong ấn chỉ hoàn thành khi người giữ cửa tự nguyện hiến mạng. Họ tin, nếu linh hồn cô ở lại, tộc sẽ yên bình, kẻ xâm lấn không qua được. Nhưng rồi… người Pháp đến. Họ đào lên, phá phong ấn. Lời nguyền mất cân bằng, khiến vùng đèo thành nơi chết chóc.

Tôi im lặng rất lâu.

— Vậy còn cô ấy bây giờ? Linh hồn Na M’ra… vẫn ở đó sao?

Cụ Sa Ly nhắm mắt, giọng như gió:

— Cô ấy không đi được nữa. Hồn bị mắc giữa hai thế giới. Họ nói, nếu có ai vô tình gọi tên cô, hay mở lại phong ấn, cô sẽ hiện về… tìm người thay thế.

Tôi bàng hoàng. Hình ảnh cô gái trong ảnh hiện rõ trong đầu.

— Cụ… có biết cách giải không?

Cụ nhìn tôi, ánh mắt mờ đục:

— Không phải ai cũng có thể chạm vào lời nguyền đó. Muốn giải, phải đưa tấm da dê về đúng nơi chôn xưa, làm lễ tiễn hồn dưới ánh trăng tròn. Nhưng tấm da… đã mất rồi.

Tôi khựng lại:

— Mất?

Cụ Sa Ly gật đầu:

 — Mấy chục năm trước, có người mang đi. Một người tên Bình.

Câu nói khiến tôi lạnh sống lưng. Bình chính là người mà ông Long từng kể, kẻ đã biến mất sau khi mang tấm da dê về nhà.

Sau một hồi trò chuyện, tôi tặng cụ Sa Ly một trăm đô trước khi rời làng Ba Ngòi. Khi cụ trao tôi một túi vải kèm vài vỏ ốc sà cừ làm quà lưu niệm, cụ nói:

 — Tui biết cậu ở xa tới. Không có gì quý, tặng cậu ít vật của biển.

Trời đã xế chiều. Con đường cát trắng vắng lặng, chỉ còn tiếng sóng vọng lại từ xa, buồn như hơi thở của biển. Trong đầu tôi hỗn loạn: Cô gái tên Na M’ra… lời nguyền… tấm da dê… những cái chết nối tiếp nhau… tất cả quẩn quanh như cơn gió lạnh chưa tìm được lối thoát.

Về đến khách sạn, tôi thảy chiếc túi vải lên giường và định bụng tắm rửa sạch sẽ trước khi đi dạo phố biển và ăn tối, nhưng trong túi vải ngoài những vỏ ốc rơi ra còn có một cuốn sổ tay nhỏ.  Tò mò, tôi cầm lên, mở ra.  Trang đầu chỉ ghi vài dòng chữ:

 "Nếu biết về Na M'ra, con tộc trưởng, đêm trăng tròn, đúng 12 giờ, đến chân đèo sẽ rõ."

Cả đêm tôi không ngủ. Trong giấc mơ chập chờn, tôi thấy mình đứng giữa đèo Rù Rì, sương trắng phủ kín, nghe một giọng nữ vọng từ xa:

 "12 giờ, đến chân đèo sẽ rõ."

Những ngày sau, tôi đi du lịch Nha Trang và thăm những người thân để chờ đến ngày rằm. Tôi không rõ từ khi nào mình lại bị cuốn vào câu chuyện này.

Đúng đêm rằm, anh Trung, tài xế taxi, đưa tôi đến chân đèo Rù Rì. Chúng tôi lên đèo khi đồng hồ gần 12 giờ đêm. Đường vắng, không khí đặc quánh hơi ẩm. Tôi mang theo máy ảnh, đèn pin và bó nhang.

Chân đèo tối om. Đến khúc cua thứ ba, tôi thoáng thấy một bóng người đứng sẵn giữa đường. Theo phản xạ, anh Trung đạp phanh gấp. Chiếc xe xoay vòng, trượt đi rồi lao mạnh vào lan can chắn.

Trong cơn choáng váng, tôi cố gắng mở mắt… 

Trong mơ màng, tôi thấy trước mặt mình là một cô gái mặc áo khoác đen, đội mũ trùm đầu. Ánh trăng hắt lên nửa khuôn mặt cô.  Cô gái nhìn rất trẻ độ chừng mười chín hai mươi tuổi, nhưng đôi mắt sâu thâm quầng. Tôi nghe tiếng cô gái khẽ hỏi, giọng như vọng từ xa:

 — Hai người muốn tìm Na M’ra?

Tôi đáp, giọng run run:

 — Dạ… đúng vậy. Sao cô biết?

Cô khẽ cười, gật đầu:

 — Tôi biết anh sẽ đến. Người như anh… sẽ không bỏ giữa chừng. Hãy đi theo tôi.

Tôi thấy mình lặng lẽ bước theo cô. Con đường lên đèo phủ đầy đá vụn và rêu trơn, mỗi bước chân như dội lại tiếng thở dài của núi. Khi đến gần miếu, cô dừng lại và nói nhỏ:

 — Đừng nói gì cả. 

Tôi nín thở. Từ sâu trong rừng, tiếng rù rì vang lên dày đặc, nhịp nhàng, như hàng trăm linh hồn đang thì thầm cùng một điệu.

Cô gái rút từ trong áo ra một vật được gói bằng vải đen. Khi mở ra, tôi thấy một mảnh da cũ nát, viền cháy xém, trên mặt khắc đầy những dòng chữ ngoằn ngoèo và một hình bàn tay đỏ.

Tôi nghẹn giọng:

 — Trời ơi… tấm da này…

Cô gật đầu:

 — Phải. Tôi tìm thấy nó trong ngôi nhà cũ của người họ Bình. Giờ thì anh hiểu vì sao tôi ở đây rồi chứ?

Tôi hỏi khẽ:

 — Cô muốn… chôn lại nó về chỗ cũ phải không?

Cô không trả lời. 

Gió bỗng nổi lên. Cô quay lại, nụ cười mỏng tang và buồn đến nhói tim.

 — Tôi là Na M’ra.

Một luồng gió mạnh quất qua. Tôi che mặt theo phản xạ. Khi mở mắt, cô đã đứng giữa làn sương trắng.  Tóc tung bay, tà váy lụa trắng lộ ra dưới áo khoác đen. Tiếng rù rì quanh đèo dâng cao, hòa thành tiếng hát ai oán.

Cô đưa tấm da dê cho tôi, giọng thì thầm:

 — Hãy đưa ta về lại nơi cũ. Đưa tất cả về đất. Chỉ khi đó… đèo này mới được yên.

Tôi vội bước tới, định giữ lấy cô, nhưng chỉ chạm vào khoảng không lạnh buốt. Mảnh da rơi xuống, xoay tròn trong gió rồi bốc cháy bằng ngọn lửa xanh nhạt.

Trong ánh sáng mờ ảo, hàng chục bóng người hiện ra quanh đèo; nam có, nữ có, tất cả trong trang phục Chăm cổ. Họ đứng lặng, mắt trống rỗng, tay chắp trước ngực, nhìn tôi.

Tôi khuỵu xuống. Cô Na M’ra bước lại, đặt tay lên vai tôi, khẽ nói:

 — Đừng sợ. Họ chỉ muốn đi.

Một cơn gió cuối cùng thổi qua. Tất cả tan vào sương…

-oOo-


Tôi cố gắng mở mắt, rồi nhìn quanh. Chung quanh chỉ là những bức tường trắng lạnh lẽo, ánh đèn mờ hắt xuống sàn gạch nhạt màu. Tiếng nước nhỏ từng giọt từ đâu đó vang lên đều đặn, như nhịp thời gian chậm rãi trôi. Cô y tá đứng bên, giọng khẽ run khi kể: người tài xế tên Trung… đã chết tại chỗ. Chỉ có tôi là may mắn sống sót. Tôi lặng đi, trong đầu vang lên tiếng phanh gấp, tiếng kim loại va chạm, rồi tất cả chìm vào im lặng. 

Sau khi xuất viện, tôi ở lại Nha Trang vài hôm. Tôi mua mâm quả, rước sư từ chùa Áo Vàng ra đèo tụng kinh cầu siêu cho những linh hồn đã mất. Ngay chỗ người ta cứu tôi, đất vẫn còn đen xém. Tôi hốt lại, nhờ bác Long đưa đến nơi từng tìm thấy tấm da dê và chôn nó xuống.

Sáng hôm ấy, mặt trời mọc từ biển. Tiếng rù rì biến mất. Đèo Rù Rì lặng như chưa từng chứa lời nguyền nào.

-oOo-


Tôi ở lại Nha Trang thêm ba ngày sau khi chôn tấm da dê hay nói đúng hơn là chôn mớ đất cháy đen được tôi hốt bỏ vào lọ sành và chôn lại nơi cửa đèo.  

Trước khi rời Nha Trang, tôi ghé lại quán cà phê của bác Long. Ông vẫn ngồi đó, dáng điềm nhiên như chưa từng rời chỗ. Khi tôi kể lại tất cả, ông chỉ im lặng rất lâu, rồi thở dài:

 — Cậu… thật sự gặp cô ấy?

Tôi gật.

 Ông châm điếu thuốc, mắt nhìn xa xăm:

 — Vậy là cô ta đã được yên. Mà cũng có thể… chưa.

Tôi khựng lại:

 — Ý bác là sao?

Ông Long nói chậm rãi, giọng khàn khàn:

 — “Giữ cửa” không chỉ là trông coi phong ấn. Mỗi khi lời nguyền được giải, linh hồn giữ cửa phải trao lại vị trí cho một người sống.  Người đã chạm vào giới hạn đó. Cậu là người cuối cùng thấy cô ta, đúng không?

Tôi chết lặng. Trong khoảnh khắc, dường như tôi nghe tiếng rù rì mơ hồ vọng lên từ xa, dù trời đang sáng.

Tối ấy, tôi ngồi trước gương. Dưới ánh đèn mờ, trên vai phải hiện một vết mờ nhạt.  Hình bàn tay đỏ, nhỏ, lạnh buốt. Tôi sờ vào, nó như đang thở.

Đêm ấy, tôi mơ thấy mình quay lại đèo Rù Rì. Sương trắng giăng đặc, mặt đất nứt toác, từ những khe nứt ấy bốc lên những luồng sáng xanh, rồi hóa thành những bóng người mờ ảo không rõ mặt. Giữa làn sương, cô gái bước ra, nhưng không còn như trước. Cổ cô đeo vòng bạc Chăm, trên trán khắc dấu trăng lưỡi liềm.

Cô nhìn tôi, giọng vang lên trầm và xa như từ một thế giới khác:

 — Anh đã mở cửa cho tôi. Giờ chỉ còn một việc cuối cùng.

 — Việc gì?

 — Giữ nó.

Tôi lùi lại:

 — Không! Tôi không thể! Tôi chỉ muốn giúp cô đi, không muốn thay chỗ...

Cô khẽ mỉm cười, ánh mắt dịu lại:

 — Một cánh cửa chỉ mở được bằng linh hồn của người biết thương xót. Tôi không thể rời đi nếu không có người thay.

Gió lạnh tràn đến. Cơ thể tôi nhẹ dần, tan trong sương. Chỉ còn thấy cô quay đi, tóc bay trong ánh trăng bạc.

Tôi choàng tỉnh, tim đập thình thịch. Vết bàn tay đỏ trên vai đậm lên, như đang sống.

Sáng sớm, tôi quyết định quay lại đèo Rù Rì lần cuối. Con đường giờ đã khô, cỏ xanh mọc kín. Khi đến miếu, tôi gặp một người đàn ông trẻ, dáng gầy, đội nón cối, đang quét dọn. Anh nói là nhân viên bảo tồn.

Tôi hỏi:

 — Mấy hôm nay anh có thấy gì lạ không?

Anh cười:

 — Có chứ. Đêm nào cũng thấy một cô gái áo trắng đứng trên đỉnh dốc. Khi đến gần thì không thấy đâu. Chỗ cô ấy đứng mọc một loài hoa trắng lạ, thơm mà buồn lắm.

Tôi sững người.

 — Hoa trắng…?

Anh gật:

 — Người ta gọi là hoa Na M’ra. Nghe đâu chỉ nở khi linh hồn được giải thoát.

Tôi quay đi, không nói thêm. 

Gió thổi qua, mang theo hương hoa thoang thoảng.  Mùi hương buồn như lời tạ lỗi. Trên triền dốc, giữa bãi đá nơi từng có lan can gãy, một khóm hoa trắng nở rộ.  Tôi quỳ xuống, khẽ nói:

 — Xin chào cô Na M’ra…

Phía sau vai tôi, dường như có một luồng gió nhẹ chạm vào, dịu dàng như bàn tay ai. Tôi quay lại, chỉ thấy mây đang tan dần giữa khoảng trời xanh nhạt. Ánh nắng rơi lấp lánh trên cánh hoa, phản chiếu thành những hạt sáng nhỏ, như nụ cười ai đó còn vương lại.

Tôi cúi đầu, lòng khẽ dậy lên một niềm biết ơn khó tả. Mọi thứ đã qua, nhưng sự sống vẫn tiếp tục…. Và trong từng hơi thở, tôi biết mình đang sống thay cho cả những điều dang dở của người đi trước. Gió lại thổi, mùi hoa lan tỏa, nhẹ như một lời chào tiễn biệt, cũng là một khởi đầu mới.

Một tuần sau, tôi rời Nha Trang. Thành phố vẫn trong xanh và yên bình như chưa từng chứng kiến điều gì khác thường. Nhưng với tôi, mọi thứ đã đổi khác. Đèo Rù Rì trong ký ức không còn là con đường quanh co hun hút sương, mà là cánh cổng mỏng manh giữa hai thế giới.

Đêm trước khi đi, tôi mở laptop, định lưu lại những bức ảnh cuối cùng tôi chụp những đóa hoa trắng cùng với những tấm ảnh trước kia. Nhưng khi thẻ nhớ được gắn vào, màn hình chỉ hiện duy nhất “IMG_0925.” Tôi mở ra. Không còn hình cô gái trong sương, chỉ là một khung sáng mờ nhòe, trắng đến lạnh người, như ai đó đã dùng ánh trăng xóa đi mọi dấu vết.

Tôi ngồi lặng thật lâu. Tôi nhắm mắt. Trong tiếng gió rì rào ngoài khung cửa, tôi lại nghe thấy âm thanh quen thuộc trầm, xa, nhưng dịu dàng như lời ru:

“Rù rì.... Rù rì.... “

Tôi nghe vang vọng như ai nói với tôi rằng:

- Cánh cửa đèo Rù Rì đã khép lại.  Giờ hãy sống một cuộc đời vui vẻ mãi về sau thay cho những người trong bộ tộc....

Tôi mỉm cười, thì thầm đáp lại, giọng run mà nhẹ nhõm như vừa được giải thoát:

— Tôi hứa… tôi sẽ sống.

Tôi nhìn ra lang cang cửa sổ.  Bên ngoài gió và sóng biển vẫn rì rào… Những đám mây dần tan, một vệt nắng mỏng len qua khung cửa, chạm khẽ vào bàn tay tôi. Gió mang theo hương cỏ mới, như một lời chào của ngày vừa bắt đầu.


Y Thy Võ Phú