Thứ Bảy, 20 tháng 3, 2021

Nhìn Những Mùa Thu Đi - Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn -Tiếng Hát Hà Thanh

 
Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn
Tiếng Hát Hà Thanh

Mùa Thu Trong Tôi



Em không mang Thu đến
Em không tiễn Thu đi
Em ra đi mùa Thu
Cây sau vườn đổ lá
Vườn rau cũng úa màu

Thu ấy đến Thu nay
Hơn mười Thu rồi nhỉ
Anh đã thành tu sĩ
Vui trong ánh đạo vàng
Thân Tâm thường an lạc

Hoàng Long


Cứ Ngỡ Mơ - Chỉ Là Mơ


            Ảnh: Kim Phượng

Xướng:

Cứ Ngỡ Mơ


Chợt tỉnh sao lòng cứ ngỡ mơ
Ve than phượng rũ bấy mong chờ!
Như say giấc bướm lâng lâng mộng
Lại ngẩn chân rèm động động tơ…
Chữ hẹn thôi đành trao cánh gió
Câu tình vẫn cố gởi vần thơ
Hè xưa dáng lụa .... giờ xa quá!
Quạnh quẽ trăng gầy bóng vất vơ…

dovaden2010 (DVD)
***
Họa:

Chỉ Là Mơ


Đã quên rồi suối mộng đồi mơ
Đã mấy mùa ve mỏi mắt chờ
Đã trót thân tằm đành trọn kiếp
Đã là lòng kén ắt buông tơ
“Mộng vàng” xem đấy là huyền thoại
Trải nốt tâm tình thỏa ý thơ
Phượng rũ ve than càng quạnh quẽ
Mình ta đối bóng với bơ vơ

Kim Phượng

***

Cứ Ngỡ Mơ

Có gì mà tỉnh tỉnh mơ mơ
Đừng phí thời gian để đợi chờ
Đàng ấy nghĩ hoa còn mở cánh
Bên này tưởng nhện hết giăng tơ
Dù thư xanh biếc đầy tin nhạn
Dù giọng ngọt ngào đậm ý thơ
Nhưng tiếc tình ta xa cách quá
Xin chào vĩnh biệt kẻ bơ vơ

Chinh Nguyên-HNT, Jan.20.21


Một Giai Thoại Văn Chương

 
                                 

Một giai thoại văn chương vô vùng thú vị. Người đời sau, khi đọc giai thoại nầy ắt phải thầm phục một người có một tài năng hiếm có và một sở học uyên thâm, đã làm rạng danh nền văn học Việt Nam trước một cử toạ gồm toàn người ngoại quốc. Thế hệ sau ắt sẽ tỏ lòng biết ơn và hãnh diện về giá trị của nền văn hoá của ông cha lưu truyền lại cho con cháu. 

Câu chuyện xảy ra trong bối cảnh một buổi sinh hoạt của hội truyền bá thơ Tanka của Nhật bản tại Paris năm 1964. Buổi họp gồm toàn là người Nhựt và người Pháp. Chỉ một người Việt duy nhứt được mời là giáo sư Tiến sĩ Trần văn Khê. Diễn giả là một ngưởi Pháp. Bước lên diễn đàn, diễn giả mở đầu buổi nói chuyện:

“Thưa quý vị,

Tôi là Thuỷ sư đề đốc đã sống ở Việt Nam 20 năm mà không thấy một áng văn nào đáng kể. Nhưng khi sang nước Nhật, chỉ trong vòng một, hai năm mà tôi đã thấy cả một rừng văn học. Và trong khu rừng ấy, Tanka là một đoá hoa tuyệt đẹp. Trong thơ Tanka, chỉ cần nói  một ngọn núi, một con sông mà tả được bao nhiêu tình cảm. Chỉ 31 âm tiết mà nói bao nhiêu chuyện sâu sắc, đậm đà. Nội hai điều đó thôi đã thấy các nước khác không dễ có được."

Phân tích bài phát biểu của ông Đề đốc trên, người ta nhận thấy những điểm sau : 

 1.- "Sống ở Việt Nam 20 năm mà không thấy một áng văn nào đáng kể": Không thấy, giả định rằng ông đã đọc nhiều văn chương Việt Nam mà không thấy một áng văn nào đáng kể ? Điều nầy không đúng vì nếu ông đọc nhiều văn chương Viêt Nam, nhứt định ông sẽ thấy được một hay nhiều áng văn đáng kể. ( Thí dụ như truyên Kiều, Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc v.v…) Hoặc không thấy vì ông không hề tìm hiểu hay giao du với giới văn học, nên dốt đặc về văn chương Viêt Nam. "Không thấy một áng văn nào đáng kể” là một câu nói hồ đồ để lấy lòng một cách vụng về, nhóm truyền bá thơ Tanka Nhựt Bổn và làm tổn thương đến danh dự của nền văn học Việt Nam và cả đến người Việt Nam. Thật đáng tiếc cho một sĩ quan cao cấp mà ăn nói khoác lác, hàm hồ, tự làm giảm danh dự mình trước một cử toạ trí thức.                                                                            

2.- "Trong thơ Tanka, chỉ cần nói một ngọn núi, một con sông mà tả được bao nhiêu tình cảm." Mặc áo thụng vái thơ Tanka nhưng lại gián tiếp chê văn chương Việt Nam trong khi mù tịt về thi ca Việt Nam. Quả thật ông nầy là người « dốt hay nói chữ ». Văn học Trung Quốc có câu : Tri chi vi tri chi. Bất tri vi bất tri. Thị tri giả. »( Biết thì nói là biết. Không biết thì nói là không biết, Ấy là biết vậy). Ông Đề Đốc nấy quả thật là «  người điếc không sợ súng ». Đáng tiếc !    

3.- "Chỉ 31 âm tiết mà nói bao nhiêu chuyện sâu sắc đậm đà." : Vì thiếu hiểu biết về văn chương Việt Nam mà chỉ nhìn vào thơ Tanka, nên ông nầy mới ca tụng thơ Tanka như thể không có thơ nào đặc sắc như vậy. Thi ca Việt Nam có hàng ngàn, hàng chục ngàn câu thơ nói về một ngọn núi hay một dòng sông mà chứa đựng bao nhiêu tình cảm sâu sắc đậm đà. Lấy một thí dụ:"Dáng chàng theo lớp mây đưa, Thiếp nhìn ngọn núi ngẩn ngơ nỗi nhà"

4.- "Nội hai điều đó thôi đã thấy các nước khác không dễ có được" Chỉ biết thơ Tanka thôi mà dám đại ngôn cho rằng các nước khác không dễ có được. Các nhà bình luận lừng danh thề giới khi bình luận thơ Apolinaire, thơ Verlaine, Lamartine cũng không bao giờ dám buông lời ngông cuồng như thế. Điều nầy chứng tỏ ông đề Đốc nầy là cái thùng rổng kêu to. 

Giáo sư Trần văn Khê là một trí thức, có một sở học uyên thâm, ông chứng minh từng điểm cho ông Đề Đốc thấy cái dốt và cái « dốt hay nói chữ » của mình đồng thời trình bày với quan khách vè nền văn học kiệt tác của Việt Nam.             

 1. Giáo sư Khê hỏi ông Đề Đốc" Việt Nam ngài chơi với ai mà hỏi không thấy một áng văn nào đáng kể?" Để mắng xéo ông Đề Đốc, giáo sư Khê tự trả lời luôn câu hỏi: "Có lẽ ngài chỉ chơi với những người quan tâm đến sự ăn uống, chơi bời, hút xách… (Ý nói ngài chỉ ăn chơi, trác táng, truỵ lạc thì làm sao thấy được cái gì gọi là văn chương nghệ thuật. )       

Phải chi ngài chơi với giáo sư Émile Gaspardone thì ngài sẽ biết đến một thư mục gồm trên 1500 sách báo về văn chương Việt Nam, in trên Tạp chí Viễn Đông bác cổ của Pháp số 1 năm 1934. Hay nếu ngài gặp ông Maurice Durant thì ngài sẽ có dịp đọc qua hàng ngàn câu ca dao Việt Nam mà ông Durant đã cất công sưu tập…Ông Durant còn cho biết thêm về hát chầu văn, và xuất bản sách ghi lại các sinh hoạt văn hoá của người Việt. Nếu ngài làm bạn với những người như thế, ngài sẽ biết rằng nước tôi sẽ có đến hàng ngàn, hàng chục ngàn áng văn kiệt tác.( Chữ ngài viết không hoa là ý của tác giả Trần văn Khê.)                                                                       

Mặt khác, giáo sư Khê còn gián tiếp phê phán ông nầy "phách lối ":" Tôi không biết ngài đối xử với người Việt Nam thế nào, nhưng người nước tôi thường rất hiếu khách, sẵn sàng nói cái hay của văn hoá mình cho người khác nghe. Nhưng họ cũng chọn mặt gửi vàng, với những người PHÁCH LỐI, có khi chúng tôi không tiếp chuyện.                       

Việc ngài không biết một áng văn nào của Việt Nam cho thấy ngài giao du với những người Pháp như thế nào, đối xử với người Việt Nam ra sao. Tôi rất tiếc về điều đó."   

2.- Ngài nói về thơ Tanka:"Chỉ cần một ngọn núi, một con sông mà tả được bao nhiêu  tình cảm."    Thi ca Việt Nam chúng tôi cũng có nhiều ca dao, hò vè của giới bình dân, nói về ngọn núi, một con sông, hay dùng hoa lá nói thay tâm sự của mình như:                    

"Núi cao chi lắm núi ơi!                                                   
Núi che mặt trời không thấy người yêu"                               

Hoặc:                                                   

"Đêm qua mận mới hỏi đào ;                                         
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa"( Ca dao)                                       

Thật ra, giáo sư Khê chỉ dùng những câu thơ ngắn để so sánh với thơ Tanka vốn là một thể loại thơ ngắn của Nhật. Tanka là «  Đoản ca » và chõka  là Trường ca. Còn văn chương của ta không thiếu những câu thơ dùng núi và sông, suối còn mang nhiều ý nghĩa sâu sắc hơn nữa. Thí dụ:    

"Dấu chàng theo lớp mây đưa                                         
Thiếp nhìn ngọn núi ngẩn ngơ nỗi nhà."                              

Về  sông :                                            

"Chàng ở đầu sông Tương                                         
Thiếp ở cuối sông Tương                                             
Nhớ nhau mà không gặp                                             
Cùng uống nước sông Tương"                         

Nguyên bản:                                                       

Quân tại Tương giang đầu                                       
Thiếp tại Tương giang vĩ                                            
Tương cố bất tương kiến                                           
Đồng ẩm Tương giang thuỷ. ( Trường tương tư – Lương ý Nương )   

 3.- Về 31 âm tiết trong thơ Tanka: Giáo sư Khê kể lại một câu chuyện vô cùng lý thú:         

Đời nhà Trần nước Việt Nam chúng tôi vào thế kỷ 13. Nhân lúc một bà phi của vua nhà Nguyên qua đời. Vua nhà Trần sai Trạng Nguyên Mạc đỉnh Chi đi sứ sang Tàu để chia buồn với vua nhà Nguyên. Bà phi nầy rất được sũng ái, nên vua nhà Nguyên vô cùng thương tiếc. Trong một buổi đại trào gồm bá quan văn võ, các văn nhân, học giả, sứ thần các nước, vua nhà Nguyên muốn có một kỷ niệm với bà phi tần yêu dấu, nên đưa ra một đề tài cho tất cả quan viên và sứ thần có mặt làm một bài ai điếu. Quan Lễ bộ Thượng Thơ bước lên diễn đàn, cầm một bao thơ  niêm kín có chứa đề tài của vua, xé ra đọc:                                            

Đề tài chỉ có: Bốn chữ Nhứt.                                                                              

Các quan viên văn võ, các sứ thần đều hoảng sợ vì đề tài khó quá. Chỉ 4 chữ nhứt làm sao sáng tác nổi bài ai điếu.    Trạng nguyên Mạc đỉnh Chi, sứ thần của Việt Nam, không chút sợ sệt, ung dung bước lên diễn đàn sang sảng đọc bài ai điếu có 4 chữ Nhứt:                    

"Thanh thiên NHỨT đoá vân
Hồng lô NHỨT điểm tuyết
Thượng uyển NHỨT chi hoa
Dao trì NHỨT phiến nguyệt.
Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết."                                                                                      

Dịch nghĩa:                                                                                                                        

"MỘT  đám mây giữa trời xanh                                         
MỘT bông tuyết trong lò lửa                                              
MỘT  đoá hoa trong vườn Thượng Uyển                                 
MỘT vầng trăng trên mặt nước ao hồ                                     
Ô hô! Mây tán, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết."                 

Tất cả có 29 âm tiết, chứ không cần 31 âm tiết như ông Đề Đốc dẫn thơ Tanka.   

 Khi Giáo sư Trần văn Khê giải nghĩa những cân thơ nầy thì khán giả vỗ tay hoan nghinh nhiệt liệt  Ông Thuỷ sư đề đốc đỏ mặt, nói: Tôi chỉ biết ông là một nhà âm nhạc nhưng khi nghe ông dẫn giải, tôi biết mình sai khi vô tình vô tình làm tổn thương giá trị văn chương của dân tộc Việt Nam.Tôi thành thật xin lỗi ông và cả dân tộc Việt Nam.

Kết thúc buổi nói chuyện, ông Thuỷ sư đề đốc gặp riêng Giáo sư và ngỏ ý mời ông đến nhà dùng cơm tối. Giáo sư Khê tê nhị từ chối. Ông Thuỷ sư đề đốc nói : « Vậy là ông chưa tha thứ cho tôi »   Giáo sư đáp lời : « Có một câu mà tôi không thể dùng tiếng Pháp mà phải dùng tiếng Anh. Đó là : « I forgive, but I cannot yet forget ( Tạm dịch : Tôi tha thứ, nhưng tôi chưa thể quên được.)   

Mạc đỉnh Chi là một nhà khoa bảng,  học vấn uyên thâm, có tài ứng đối nhanh nhẹn, thông minh hơn người. Năm 1308 Mạc đỉnh Chi đi sứ sang Tàu, đối đáp thông tuệ, học vấn uyên thâm. Trong một phiên chầu, sứ giả nước ngoài dâng vua một cây quạt quý.Vua nhà Nguyên sai các sứ thần làm một bài thơ vịnh cây quạt. Mạc đỉnh Chi nhanh chóng làm một bài thơ thật hay, có khí phách lớn, chữ nghĩa đối nhau rất tài tình. Hoàng Đế nhà Nguyên xem thơ xong hết mực ngợi khen  và phê ngay vào bài thơ 4 chữ “ Lưỡng Quốc Trạng Nguyên” rồi tự tay trao cho Mạc đỉnh Chi.

Thật là một vinh dự tột đỉnh cho ông và cho cả nước Việt Nam có được một nhân tài xuất chúng.           

Lê Quốc
Viết theo Hồi ký Trần văn Khê do Quang Minh tổng hợp.
Mùa Đông Canada, ngày 11- tháng 12- 2020


Hành Phương Bắc



Họa:

Bài Hành Phương Nam của Nguyễn Bính

Chúng ta lưu lạc đến chốn này
Quá nửa đời người , tuyết lạnh bay
Xuân đến mà không mai vàng nở
Rượu bánh ê hề - chẳng thể thay!

Độc ẩm một mình lưng ly rượu
Bạn hiền vắng bóng, chẳng hề say.
Nhớ lại bẩy lăm, người qua Mỹ
Ta thì kẹt lại, phận không may!

Từ đó quẩn quanh vòng cơm áo
Thừa phút giây nào, vơ vẩn mây.
Người đã ra đi từ buổi trước
Có nhớ tình ta trong phút giây

Nợ ta - ai vẫn còn một món´.
Tình - tiền - ta trắng cả hai tay!
Quê người xa lắc xa lơ đó ,
Còn nhớ chăng người, áo trắng bay

Thế rồi di tản qua phương Bắc
Nhìn lại quê xưa , khổ thế này!
Nhiều đêm ta muốn ôm mặt khóc
Mà lệ không đong đủ giọt đầy

Đi không trở lại - thôi là hết!
Mẹ già, em dại, phận nào hay
Ngoảnh lại, chỉ thấy hờn non nước
Biệt ly - xa cách - từ buổi nay!

Áo cơm , đèn sách, quên son phấn
Muốn ngã, nhưng rồi đứng dậy ngay
Gió đông se lạnh , tê cả mặt
Bão tuyết, bão đời, vẫn tòan thây

Nam nhi vơi nỗi sầu, cạn chén
Còn ta - ai là kẻ dìu tay
Bạn cùng sách vở - kinh vô tự
Hữu với thiên nhiên , dạo đó đây

Quê nhà - nên trở về thăm chứ
… Sầu hận dâng lên .. ngút tận trời!
Bạn ta – có kẻ ngồi giữa chợ
Gõ bồn mà gọi: Việt nam ơi!

Nhưng tiền vẫn trắng như ngân nhũ
Gái , rượu , ăn chơi, rộn tiếng cười
Việt Nam ơi ! Hỡi - Việt nam ơi!
Xứ nóng nhưng tình sao lại lạnh
Ta đứng trông về - lạnh mấy mươi!


Sao Khuê
15-10-2004


Mâm Bánh Bèo Chén Cuối Cùng

Mâm Bánh Bèo Chén Cuối Cùng
46 Năm Rồi Vẫn Còn Mãi Trong Ký Ức...

...Tôi nhớ mãi trước khi rời Đà Nẵng mấy ngày Mẹ Tôi xay bột làm một bữa bánh bèo chén cho con cháu cùng ăn ...vì những ngày cuối tháng Ba loạn lạc con cháu khắp nơi kéo nhau trở về dưới mái nhà Cha Mẹ ...mặc dù không có mặt các Anh của mình...Mẹ vẫn cố gắng vui với bầy con cháu đầy nhà ...Để che dấu nỗi lo âu đang xé nát lòng MẸ. Những chén bánh bèo xoáy đồng tiền nóng hổi ... với chút nhưn ướt tôm thịt ...vài miếng tóp mở hành lá xanh ...thêm chút tôm chấy hồng hồng ... Chan thêm muỗng nước mắm tỏi ớt chanh mằn mặn ngòn ngọt ...Chu chao ơi ...nhắm mắt vẫn nghe hương vị đậm đà lòng Mẹ, ngọt ngào tình Quê Hương lan tỏa khắp châu thân ...Những cảm nhận này, mãi mãi là dấu ấn tuyệt vời, nồng ấm ... nằm im trong huyết mạch của Tôi cho đến bây giờ ...
Ôi Thiên Đường tuổi thơ tràn ngập yêu thương của tôi xa lắc xa lơ ...nay đang từng bước một âm thầm réo gọi...những giọt nước mắt chứa chan nỗi niềm riêng mang cứ thế rủ nhau chạy đua mãi hoài không đến đích...
Hôm chủ nhật đã cuối Đông rồi ... mà trời vẫn còn lạnh...cái lạnh kéo theo nỗi quạnh vắng ... hình như NGƯỜI BUỒN ĐỘNG LÒNGTRỜI....nên mưa rủ nhau về ngập sân nhà...tiếng mưa rì rào thì thầm to nhỏ như kéo gần cái nhớ, cái thèm món bánh bèo chén lần cuối rời Đà Nẵng MẸ đỗ cho ăn ...

Thế là tôi pha bột pha cả nỗi nhớ vào...Và làm lại món Bánh Bèo chén của 46 năm. Trước khi rời xa con phố Đà thân yêu vài ngày sau đó... Để tưởng niệm những điều quý báu mà tôi đã bị mất...

Vừa ăn Tôi vừa khóc thầm...

Bốn mươi Sáu năm qua rồi
Mà sao tôi mãi bồi hồi cõi tâm
Xứ xa nỗi nhớ âm thầm
Bao giờ trở lại phố Đà yêu thươ?!

Tuyết Phan
Belgique một ngày tháng Ba nhớ về quê nhà.

Thứ Sáu, 19 tháng 3, 2021

Thu Về Đâu - Thơ: Tưởng Dung - Nhạc: Phạm Trung - Trình Bày: Ngọc Thúy


Thơ: Tưởng Dung 
Nhạc: Phạm Trung 
Trình bày: Ngọc Thúy

Mùa Xuân, Hoa Xuân


(Ảnh: Thanh Dương)

Cơn bão tuyết vừa mới đi qua
Tuyết đầy xa lộ đường thêm xa
Tôi đóng băng trong thời tiết lạnh,
Những ngày bão tuyết ở trong nhà.

Texas mùa xuân đã trở về
Trắng cành hoa mận với hoa lê
Trả mùa đông về cho quá khứ
Tôi rộn ràng đi theo mùa hoa.

Tôi ra vườn nắng mới tháng ba
Một chút se lạnh nắng hanh khô
Níu cành hoa trắng, trời mây trắng
Tôi gởi lòng tôi theo gio đưa.

Mây trắng bay đi những buồn đau
Gió sẽ đi qua mấy nhánh sầu
Hôm nay tôi đón mùa xuân mới
Cỏ hoa ơi mình còn có nhau.

Xin chào mùa xuân, chào hoa xuân
Ong bướm rủ nhau sẽ về gần
Cùng tôi ngây ngất hương xuân nhé
Mật ngọt này làm sao tôi quên.

Tôi biết mùa hoa ngắn ngủi thôi
Mai này tôi sẽ tiếc hoa rơi
Trời còn mấy trắng nhưng hoa trắng
Theo gió về đâu mấy nẻo trời?


Nguyễn Thị Thanh Dương
(Cảm xúc hoa lê nở trắng sau vườn. 
Thanh đã chụp hình và ghi bài thơ làm kỷ niệm. Chủ Nhật March 14, 2021).


Một Khung Trời


(Tiếng Vọng Rừng Phong)


Mấy ai không có một Khung Trời
Ôm ấp trong lòng mãn kiếp thôi
Ngàn trùng xa cách không phai lạt
Bất chấp dòng đời cứ chảy trôi.

Khung Trời ai đó: bến sông xưa
Bên gốc cây đa khách gọi đò
Còn vang vọng mãi trong tiềm thức
Cùng tiếng mẹ hiền đưa võng ru.

Khung Trời ai đó vườn xanh ngắt
Đua nở trăm hoa đón bướm ong
Chim hót liu lo lời tình tự
Má môi bỗng ửng sắc thắm hồng

Khung Trời ai đó chiều bát phố
La cà Nguyễn Huệ tới Tự Do
Tà áo bay bay, ngắm đã mắt
Đêm còn phấp phới trong giấc mơ
Khung Trời ai đó ngôi trường cũ
Phượng báo mùa thi đã tới rồi
Mùa thi buồn quá: mùa ly biệt
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.

Khung Trời ai đó đời bay nhẩy
Đường công danh lắm bước gian truân
Lên xe, xuống ngựa niềm cay đắng
Vợ đẹp, con khôn nỗi khổ tâm.

Khung Trời ai đó, thời chinh chiến
Lăn lóc dọc ngang cát bụi đời
Sống chết kề bên trong gang tấc
Trăng sáng một vầng mãi xẻ đôi.

Khung Trời ai đó, đi shopping
Ôm về một đống chất chình ình
Hớn hở hàng sale lời hiếm có
Mặc ai bill trả, ráng cầy thêm.

Khung Trời ai đó, tưng bừng qúa
Bè bạn gặp nhau nơi xứ người
Anh rượu, tôi bia, người nhả khói
Hàn huyên chuyện dưới đất, trên trời

Khung Trời ai đó may có Em
Nên sáng tươi hơn hết mọi miền
Ân ái nồng nàn trong Hạnh Phúc
Và lòng thương cảm cứ triền miên...

***
Covid Vũ Hán! Ta hận ngươi!
Khung trời cuả mi đen tối thui
Mau trả lại ta Khung Trời cũ
Trần gian rộn rã tiếng cười vui.


Hoàng Xuân Thảo