Nhạc &Tiếng Hát: Diệu Hương
tiêu đề Nhãn
- BIÊN KHẢO
- CÂU ĐỐI
- CỔ THI
- GIA CHÁNH
- GIẢI TRÍ
- HÌNH ẢNH HỘI NGỘ
- HÌNH ẢNH NAY
- HÌNH ẢNH XƯA
- HỘI HỌA
- KHOA HỌC
- LỊCH SỬ
- LỜI HAY Ý ĐẸP
- LƯU NIỆM
- NHẠC
- SỨC KHOẺ
- SƯU TẦM
- THƠ
- THƠ CẢM TÁC
- THƠ DỊCH
- THƠ DIỄN NGÂM
- THƠ NHẠC
- THƠ PHỔ NHẠC
- THƠ SƯU TẦM
- THƠ TRANH
- THƠ TRANH NGHỆ SĨ
- TIN BUỒN
- TIN VUI
- VĂN
- VŨ HỐI THƯ HỌA
- VƯỜN THƠ VIÊN NGOẠI
- XƯỚNG HỌA
- YOUTUBE
Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024
Mùa Cũ
Biết ai có nhớ về ngôi trường cũ
Biết bao mùa thường hội đủ buồn vui
Biết lòng ngập ngừng e ấp bờ môi
Biết bối rối ánh mắt yêu thầm nói
Biết ai có nhớ về con đường cũ
Biết bao lệ sầu dâng lũ trùng vây
Biết cuộn sóng tình tràn nhớ nhung đầy
Biết định mệnh lưu đày lênh đênh ly xứ
Biết có ai trở về căn nhà cũ
Biết nỗi đau vần vũ phá tâm can
Biết ngoài tươi thay dạ tiếng thở than
Biết tim vừa hoang mang vừa thổn thức
Biết cảm nhận hồi sinh từ bờ vực
Biết ánh trăng soi thức bóng đêm đen
Biết mùi quen hương xưa thoáng qua rèm
Biết hạnh phúc êm đềm ... len mùa cũ...
Kim Oanh
31.7.2024
Chỉ Còn Tình Yêu
Có tình yêu nào không nhớ mong
Là say đắm nhau giấc mơ hồng.
Đừng sầu em nhé tình bay mất,
Ngơ ngẩn tìm nhau giữa phố đông.
Em vẫn như ngàn hoa bên đời,
Cười lên để dáng hoa lả lơi,
Chớ buồn làm úa màu trăng biếc,
Tình thoáng bờ môi cũng ngát đời.
Em bước trong nắng chiều
Có nghe tháng ngày vàng theo mùa xưa?
Thôi, đừng hẹn thời gian
Biển tình mênh mông nẻo về hư không.
Ôi, mùa thu mắt em
Buồn vương thiết tha thắm phương trời mộng.
Gần em ngày tháng không tên,
Mộng đời phai, mộng đời phai,
Tình Thu
Tình Thu
Khi chiếc lá dường ngại nắng soi
Là nàng thu đến với muôn loài
Từng cơn gió động buồn đơn chiếc
Những trận mưa về lạnh lẻ đôi
Có lẻ úa vàng luôn thế đấy
Nên đành cam phận chỉ riêng thôi
Bao mùa thu đến tình thu nhắc
Chuyện cũ dần xa mãi mãi rồi
Quên Đi
***
Họa:
Hồ Thu
Hồ thu bàng bạc ánh trăng soi
Gợn sóng lung linh ảnh mọi loài
Nặng gánh tương tư hoài bóng chiếc
Tim đau khao khát chẳng duyên đôi
Mặt hồ yên ả dường xao động
Giấc mộng vô thường chỉ thế thôi
Đêm tận trăng tàn ôi nguyệt lão
Tơ hồng se mối đã quên rồi
Kim Phượng
Chrome, Safari, Edge, Firefox Báo Động Cẩn Thận Đừng Vào Các Web Page Giả Danh
Các Browser như Chrome, Safari, Edge, Firefox báo động rằng các bạn cẩn thận đừng vào các web page giả danh
Nguồn tin và chi tiết:
HCD tóm tắt bản tin:
Các Browser như Chrome, Safari, Edge, Firefox báo động rằng các bạn đừng vào các web page thế nầy... thế nầy
Các nhà nghiên cứu Satori của Human Security báo động rằng hiện có những website đưa đến các cửa hàng web giả mạo các trang web hợp pháp, gạt người dùng với download những thứ “độc hại”. Các trang web giả nầy đưa ra danh sách sản phẩm giả mạo đặt các danh sách sản phẩm giả mạo này nằm đầu khi chúng ta tìm kiếm các mặt hàng. Khi người tiêu thụ nhấp vào các mặt hàng giả nầy, họ sẽ được chuyển hướng đến một trang web khác, trang web này được kẻ gia làm ra.
Google đã xóa các trang web đã biết khỏi kết quả tìm kiếm, nhưng điều đó sẽ không xóa được hết các liên kết (link) ở nơi khác, như trên “mạng” truyền thông xã hội và các “nền tảng” nhắn tin, email.... Điều quan trọng là tất cả người dùng đều biết những gì cần tìm. Nói một cách đơn giản—bạn không được sử dụng các trang web này. Đã có "hàng trăm ngàn" người dùng web giả bị lấy cắp "hàng chục triệu đô la"
Người dùng được chuyển đến một webpage thanh toán hợp pháp để trả tiền mua sản phẩm kẻ gian đăng trên trang web giả danh. Sản phẩm đó sẽ không bao giờ đến, tất nhiên, nhưng tiền đã trả chắc sẽ bị kẻ gian lấy. Mặc dù nhiều người mua có thể được bảo vệ thông qua các khoản bồi hoàn thẻ tín dụng, nhưng điều đó không bao giờ được đảm bảo cho đến khi khiếu nại được điều tra.
Trong chiến dịch gần đây nhất, những kẻ xấu đã "lây nhiễm hơn 1.000 trang web để tạo và quảng bá danh sách sản phẩm giả mạo và xây dựng 121 cửa hàng web giả mạo để lừa người mua sắm... ước tính thiệt hại hàng chục triệu đô la trong năm năm qua, với hàng trăm nghìn người tiêu thụ là nạn nhân.
HCD:
Đại khái là hiện có những webpage giả danh những webpage của các hãng thương mai lớn. Thí dụ là hiện đang có những wepage giả danh Target, Walmart, Home Depot, Amazone... (thí dụ cho dễ thấy thôi nghe bà con).
Khi các bạn search món hàng hóa nào đó... các Search engine (thí dụ Google) sẽ show những món hàng hóa bạn đang tìm lên hàng đầu với giá rẻ chưa từng thấy.
Khi các bạn click vào món hàng đó, nó sẽ đưa vào webpage giả mạo. Webpage giả (giống y như webpage chánh thức) bán cho bạn qua kiếu mail order, lấy tiển thật, hàng hóa thì không bao giờ gởi tới các bạn.
Huỳnh Chiêu Đẳng
-----===o0o===----
Bún Riêu Và Các Món Riêu
“Mò cua bắt ốc” có lẽ là cụm từ hay ngạn ngữ có từ thời nước Việt Nam chỉ có từ biên giới Trung Hoa đến giữa tỉnh Quảng Bình.
Người dân miền biển có thể đánh bắt hải sản hằng ngày để ăn hay làm kế sinh nhai. Làng chài xuất hiện rải rác theo duyên hải. Thời xa xưa, ngư dân chỉ có khả năng đóng những tàu buồm nhỏ nên không đi xa được, chỉ quẩn quanh gần bờ nhưng số lượng tôm, cua, cá, mực, ốc, sò đánh được mỗi ngày cũng đủ cho dân số quanh vùng biển tiêu dùng. Ngày xưa, dân số còn ít, dân cư còn thưa thớt.
Vì không có phương tiện giao thông bằng đường bộ nên hải sản không chuyên chở được đến vùng sâu, vùng xa biển. Vì thế, dân chúng những vùng này thâu nhặt chất đạm qua cua đồng, ốc ruộng, hay đậu phụ (đậu hũ). Tuy thịt gà, lợn, trâu, bò cung cấp nhiều chất đạm hơn, nhưng không phài ngày nào cũng có tiền để mua.
Dân chúng thời xưa đa phần sống nhờ nông nghiệp, vì chưa có thuốc rầy và phân bón hóa học, thêm phần rủi ro thiên tai, lũ lụt, mỗi năm thâu hoạch một hay hai mùa. Đến mùa thâu hoạch có đủ lúa gạo để ăn quanh năm đã là may mắn, có dư chút đỉnh thì đem trao đổi hàng hóa, lấy những thứ cần thiết như muối, đường, vải vóc, nồi niêu, lu vại, chén bát.
Mỗi năm, hình như chỉ vài lần người dân trong làng được ăn thịt. Đó là tết Nguyên Đán, giỗ chạp, nhà có đám cưới hay đám tang. Tết thì vài nhà xúm nhau lại giết chung 1 con lợn rồi chia nhau để làm thịt kho, bánh chưng, giò thủ, giò lụa, chả quế, mọc, nem chua. Nhà có tiệc cưới hay đám tang thì chủ nhà phải mua lợn hay bò rồi cả làng xúm lại làm giúp. Nhà có giỗ lớn thì cả họ xúm nhau góp phần, rồi mời những người quen thân đến dự, không phải mời cả làng.
Bởi thế, khi những con cua đồng sinh sôi đầy trong ruộng, những con ốc đầy ngoài đồng, các mẹ, các chị, hoặc trẻ con tự nảy ra ý kiến bắt chúng về ăn. Nhưng ăn như thế nào khi con cua đồng bé tí, cái mai to bằng ngón chân cái, thịt thà chẳng có? Con ốc bưu to đen trông thấy sợ?
Đói thì phải nghĩ ra cách chế biến chúng thành món có thể ăn được. Thế là con cua đồng được các mẹ, các chị giã nát ra, rồi cho vào thau hay nồi, đổ nhiều nước vào khuấy lên rồi cho vào rá lọc lại, bỏ xác cua đi, nước cua được cho vào nồi, bắc lên bếp đun lửa vừa cho đến khi nổi một lớp váng dầy trên mặt, gọi là Riêu Cua. Ban đầu, họ dùng riêu cua này để nấu canh khoai sọ, rau muồng, rau rút (rau nhút), hay canh cua rau đay (loại rau nhiều nhớt hơn đậu bắp), hay canh cua nấu với mồng tơi và mướp. Cả ba loại canh này chan với cơm ăn không biết no. Cả ba là món canh thường ngày trong các gia đình miền Bắc.
Khi người ta biết xay gạo làm bột, nghĩ ra cách làm sợi bún to, sợi bún nhỏ, bánh phở, bánh đa, thì các món bún có riêu cua ra đời. Trong đó có bún riêu, canh bún, bánh đa cua.
Bánh đa cua, dùng riêu cua nấu với rau muống, rau rút, sau cùng bỏ vào bánh đa (loại bánh phở khô, sợi to gấp ba lần bánh phở. Món này trước tiên là món trong nhà. Sau này cũng mon men ra đến chợ bán cho người ta ăn quà.
Món canh “Riêu Cá”, canh “Riêu Hến” tuy có chữ “Riêu” nhưng chẳng có riêu cua. Món Riêu Cá có vị chua chua của mẻ và cà chua. Cá phải chiên vàng trước khi nấu canh, cho thêm cà chua thái miếng vào. Khi chín, rắc hành lá và thìa là rồi múc vào tô. Canh Riêu Hến không có mẻ, chỉ có cà chua, hành lá, thìa là. Cả hai loại canh này đều là canh chan lên cơm để ăn. Là món ăn trong nhà, không phải hàng quà rong. Như thế, có thể xem chữ “Riêu” trong các thứ canh này đồng nghĩa với “chua” vì nó có vị chua chua.
Canh bầu nấu Riêu Tôm cũng là món có chữ Riêu, dùng đầu tôm giã ra lọc lấy nước bỏ xác. Nước tôm nấu sôi sẽ nổi váng thành “Riêu Tôm”. Nhưng riêu tôm không dầy đặc như riêu cua. Cho bầu đã thái lát mỏng vào nấu chung. Khi chín rắc hành lá, ngò rí lên, múc ra tô, ăn với cơm.
Tục ngữ có câu: “Đầu tôm nấu với ruột bầu, chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”
Ngày trước ờ Đài Loan có hai vợ chồng bác Quang người Nam Định bảo rằng các bà bán hàng ở chợ quê ngoài Bắc hay bỏ đầu tôm và ruột bầu. Vì thế người nghèo hay đi xin về nấu canh nên mới có câu tục ngữ đấy. Nhưng dù nó xuất thân là món ăn của người nghèo, nó đã “leo” lên mâm cơm của mọi gia đình người Bắc dù nghèo hay giầu. Người ta mua nguyên quả bầu về nấu riêu tôm, và “Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”.
Canh “Riêu Trứng” không có riêu cua hoặc riêu tôm, nhưng vì có trứng đánh lên thả vào nồi canh có tôm khô, cà chua, đôi khi có cả đậu hũ thái miếng. Khi trứng chín nổi lều bều lên mặt canh nên gọi là riêu trứng. Khi canh chín, múc ra tô, thả hành lá và ngò rí lên. Canh này cũng là món ăn trong gia đình người Bắc, không phải hàng rong.
Có lẽ vì kế sinh nhai, các bà mẹ lại nghĩ ra món canh bún đem ra chợ bán cho người ta ăn quà. “Canh Bún” tuy không có chữ “Riêu” nhưng cũng dùng cua đồng giã ra lấy nước nấu cho nổi riêu lên, thả rau muống, rau rút vào luộc sơ rồi vớt ra. Sau đó bỏ vào loại bún to sợi. Phi hành, xào gạch cua thả lên mặt cho có màu đẹp, đa số, các bà hàng xào thêm màu điều thả lên cho có màu đỏ. Khi múc canh bún ra tô, bà hàng gắp ít rau muống và rau rút lên mặt tô rồi đưa cho khách. Khác tự ý múc thêm ớt vào tô. Canh bún không ăn ghém với rau sống, mắm tôm hay chanh. Khi nấu, bà hàng đã bỏ mắm tôm vào nồi canh rồi. Canh Bún có vị mằn mặn, không có vị chua như Bún Riêu.
Sau này, các bà mẹ lại chế ra món Bún Riêu để bán hầu có thể nuôi đàn con. Bún Riêu cũng dùng riêu cua để nấu, nhưng có thêm cà chua, không có rau muống và vau rút luộc chín. Nhưng Bún Riêu phải ăn ghém với các thứ rau sống như rau kinh giới, rau diếp (loại sà lách dài, cọng láng), rau chuối (lõi cây chuối non) bào mỏng, rau muống chẻ, chanh, ớt, múc vào tô một thìa mắm tôm Bắc là tuyệt vời.
Ốc Bưu có con to bằng ½ cái bát cơm, màu đen đúa, thấy ghê thật, nhưng đói thì phải bắt về ăn. Có lẽ ban đầu chỉ luộc ăn ở nhà. Sau này, có mẹ nghĩ ra cách nấu Bún Ốc đem bán ngoài chợ. Người ta ăn thấy ngon thì các bà khác học theo để bán. Bún Ốc có hai cách nấu; cách đơn giản thì luộc ốc vớt ra rổ. Nấu nồi nước luộc ốc với cà chua, nêm nếm cho vừa. Khi múc bún ra tô, để lên vài con ốc, múc 1 thìa dấm bỗng có gừng giã nát (loại dấm làm bằng bã rượu, rất thơm), một chút ớt xào. Không ăn ghém với rau sống và chanh tươi.
(Bún riêu ốc)
Nhưng cách thừ hai nấu cầu kỳ hơn là ốc nấu xong gỡ ra bỏ vào nồi nước ốc, ít nước thôi nêm nếm vừa ăn. Khi bán cho khách, bà hàng lấy 1 cái trẹt đan bằng tre ra, bầy lên 1 đĩa bún tươi, 1 chén canh có ốc, một chén dấm bỗng gừng, một ít ớt xào. Khi ăn, khách tự chế nước dấm bỗng và ớt xào vào tô canh, rồi gắp bún lên chấm với nước canh ốc.
Những người Hà Nội vào Nam năm 1954 hay nhắc đến món Bún Ốc kiểu này. Họ tiếc là không thấy các bà Bún Ốc di cư nấu kiểu này nữa.
Canh Bún, Bún Riêu, và Bún Ốc xuất hiện trong các chơ quê miền Bắc và ngay cả các chợ ở Hà Nội từ xa xưa lâu lắm rồi. Có lẽ từ khi người Việt Nam biết làm bún tươi.
Khi cả triệu người miền Bắc di cư vào Nam năm 1954, thì nhiều món Bắc đã theo đoàn người di cư này vào Nam. Người ta hay nói món Phở Bắc di cư vào Nam năm 1954. Nhưng ít khi nào nhắc đến món Canh Bún, Bún Riêu, Bún Ốc, Bún Măng Vịt, bún Chả Hà Nội cũng theo chân đoàn người di cư vào Nam năm 1954.
Các chợ trong Sài Gòn, Gia Định và các tỉnh có người Bắc di cư đến lập nghiệp đã xuất hiện món Bún Riêu, Canh Bún, Bún Ốc, Bún Măng Vịt, bún Chả.
Nhưng vào Nam thì Phở Bắc có thêm giá sống, rau quế ăn kèm. Ngoài Bắc, trước 1954 không ăn kèm với hai thứ này, nhưng ăn với hành và ngò rí để trên mặt tô phở, còn rau răm và ngò gai thì tùy khách bỏ thêm vào.
Sau 1975, món Phở lại từ Nam lội ngược về Bắc, đem theo cọng giá sống. Nhưng ở miền Bắc sau 1954 do chế độ nhà nước cộng sản chi phối thực phẩm cho dân theo tiêu chuẩn ăn để sống, không cần dinh dưỡng, không cần ngon nên Phở Bắc và các món Bún nước của miền Bắc có thêm Quẩy (dầu cháo quẩy) thay cho thịt. Đĩa quẩy bầy trên bàn cho khách tự lấy, cái quẩy nhỏ bằng 2 ngón tay, dài khoảng 17-18 cm. Ăn bao nhiêu cái quẩy thì trả tiền bấy nhiêu.
Món Bún Riêu khi vào Nam thì có thêm giá sống. Giá sống đồng hành cùng các thứ rau sống có sẵn trong đĩa rau ghém cũng hợp lắm. Món Bún Riêu xem ra đắt hàng còn hơn phở vì giá rẻ hơn, lại hợp khẩu với đại chúng bình dân. Nó khiêm nhường nắm ở một góc chợ, hay lê la trên các hè phố, các con hẻm, không trườn ra mặt đường vào cửa tiệm có bàn ghết lịch sự. Dân miền Nam thích ăn mắm, họ có nhiều thứ mắm, nhưng mắm tôm Bắc thì chưa có, tuy nó nặng mùi hơn mắm ruốc Vũng Tàu, Phan Thiết, Huế, nhưng nhờ cái mùi đặc trưng của mắm Tôm Bắc đi vào tô Bún Riêu, thêm miếng chánh, ớt xay và rau ghém thì ăn không biết chán.
Bún Riêu được các bà mẹ Bắc di cư 1954 gánh gồng qua các phố, các hẽm trong Sài Gòn bán quà sáng. Hay bán ở chợ chiều cho người ta ăn quà chiều. Học trò tan học hay ghé ăn, các bà đi ăn quà chiều cũng ghé ăn.
Trước năm 1975, chợ Phú Nhuận vào mỗi buổi chiều sau 2 giờ, có bà hàng Bún Riêu bán đắt khách đến nỗi người ta phải xếp hàng, chờ người kia ăn xong đứng lên thì mới có ghế ngồi. Bà vẫn nhuộm răng đen, ăn trầu, quấn khăn vòng dây lối Bắc, mặc cái quần đen, áo cánh tay mầu trắng. Chiều nào con gái bà cũng đẩy chiếc xe ba bánh trên để 2 nồi bún Riêu to tướng vài vài bao nylon to đùng đựng các thứ rau sống, đồ phụ gia chanh, ớt, mắm tôm đến. Con bà chỉ khoảng 15 hay 16 tuổi. Sau khi đem nồi bún riêu lên cái bếp dầu hôi to tướng, thì bà hàng sẽ bật bếp lên. Không biết bếp loại gì mà thỉnh thoảng bà phải bơm bằng cái bơm xe đạp cho lửa bùng to lên, nước trong nồi phải sôi đều, không được nóng âm ấm. Hàng của bà chỉ có 1 cái bàn thấp dài khoảng 1.5 mét, ngang 1 mét. Hai bên bàn là hai cái ghế dài để dọc theo bàn. Mỗi bên chỉ ngồi được 4 người. 2 đầu bàn thêm 2 người. Bộ bàn ghế được kê trên một cái bục gỗ cao khoảng 3 tấc. Có lẽ để tránh những ngày mưa nước lên cả tấc. Cái nồi bún được kê cuối dãy, ghế của bà kê ngay trước cái nồi để tiện múc và tiện đưa cho khách. Con gái bà có nhiệm vụ rửa tô, đĩa tới tấp. Đến khoảng 6 giờ chiều thì bà bán sạch 2 nồi bún riêu. Mẹ con quét dọn xong đẩy cái xe ba bánh về. Nghe nói bà bán bún riêu nuôi cả nhà, chồng con bà ở nhà lo mua cua, giã cua, bắc nồi lên bếp. Bà lo nêm nếm và bán hàng.
Cũng có bà bán bún Riêu ở chợ khác trong khu Sài Gòn mà nuôi 3 đứa con lên đại học.
Khu Phú Nhuận khoảng những năm 1960-1965 có 1 bà Bắc gánh bún Riêu đi bán mỗi sáng, bà gánh nặng cho đến khi gần sanh mới ở nhà. May là gánh bún của bà được tiêu thụ nhanh chóng. Khi có 1 người gọi đến, bà chỉ ngồi một chỗ là nhiều người trong xóm bu lại mua. Cứ thế, bà bán dạo hết xóm này đến xóm kia.
Có một thanh niên trong trại Gia Binh ở Gò Công, bố mẹ anh là người Bắc di cư 1954. Bố làm Trung Sĩ nên đồng lương ít ỏi. Mẹ anh phải bán bún Riêu ở chợ để có thêm tiền nuôi đàn con 6 đứa. Vì là con trai lớn nên từ khi 10 tuổi anh đã phải giã cua đồng cho mẹ nấu bún Riêu. Và khi 12 tuổi, mỗi buổi sáng anh phải gánh hàng ra chợ cho mẹ trước khi đến trường. Anh biết mẹ gánh nặng không nổi nên ráng giúp mẹ. Sau này khi được học bổng du học Đài Loan anh hay kể lại với bạn bè: “Vì phải gánh nặng từ nhỏ nên cái lưng của tôi bị khòm, thành lưng tôm”.
Ở chơ Ga, gần nhà thờ Phú Nhuận, khoảng sau 2 giờ chiều có bà bán Bún Ốc ngồi ở một góc ngoài hẽm chợ, gần khu họp chợ. Bà đặt gánh bún dưới đất, một bên là nồi bún ốc đặt trên cái lò than, một bên là rổ bún, tô và thau nước. Bà ngồi trên cái ghế thấp kê giữa nồi và thau, bầy thêm vài cái ghế con trước mặt cho khách ngồi.
Bà hiền lành ít nói, dáng người tròn trịa. Bà luôn mặc bộ quần đen áo nâu, vấn khăn vòng dây đen, răng còn nhuộm đen. Cái nồi bún ốc của bà bằng đất nung to tròn, miệng nồi hơi túm lại, bị mẻ một miếng nhỏ gọn như chữ V. Có lần tôi hỏi bà là bà có cái nồi từ bao giờ? Bà bảo rằng khi di cư vào Nam bà đem nó theo vì nồi to như thế rất quý đối với bà. Bà sợ vào Nam không kiếm ra loại nồi như thế. Nhưng có lần vô ý, bà làm mẻ cái miệng, nhưng vần còn dùng được nên bà không muốn bỏ nó. Tôi bảo: “Nhưng nhìn cái nồi đất này, cháu thấy hình như ăn ngon hơn”. Một thời gian sau, có lẽ bà kiếm được tiền mua cái nồi nhôm nên bỏ cái nồi đất mẻ. Nhưng nhiều khách hàng phàn nàn trông cái nồi nhôm sáng choang không hấp dẫn bằng cái nồi đất đã sậm màu nâu bóng nên bà bỏ nồi nhôm, dùng lại cái nồi đất mẻ.
Sau 1954, trong khu quà bánh của chợ Tân Định có một hàng Bún Măng Vịt đắt khách vô cùng. Bà hàng bún Măng cũng là 1 người Bắc di cư 1954. Hàng của bà bán vào buổi sáng cho người ta ăn sáng và ăn trưa là xong. Khách được ngồi trên các ghế đẩu cao bầy xung quanh hàng bún, phải chờ người kia đứng lên người nọ mới có ghế nguồi xuống. Đa phần khách hay gọi một tô bún măng hay 1 tô miến măng thêm một đĩa thịt vịt chấm nước mắm gừng. Có khi chờ lâu quá mới có ghế ngồi nên khách phải mua mang về. Bà có mẹ và em ra phụ bán. Mẹ bà còn quấn khăn vòng dây, nhuộm răng đen.
Măng thì miền nào cũng có, nhưng có lẽ ở miền Bắc rừng núi trùng diệp nên có nhiều loại măng ngon. Vì thế người Bắc ăn măng khô thường xuyên trong những ngày đông giá khi rau tươi hiếm hoi. Món vịt hầm măng ăn trong nhà. Nhưng có các bà phải gồng gánh nuôi chồng, nuôi con nghĩ ra món bún măng đem rao bán ở chợ từ thời xưa, cho nên món Bún Măng còn truyền đến ngày nay.
Sau khi Bún Măng di cư vào Nam năm 1954, người Nam chế biến thêm món gỏi Vịt bắp chuối để ăn với bún Măng. Có thêm rau càng ngon chứ sao!
Ở Hà Nội, sau những năm 1985, khi nhà nước cộng sản cho mở hàng ăn trở lại. Món Bún Ngan được phục hồi. Họ không gọi Bún Măng nhưng phài hiểu là Bún Măng nấu với Ngan, vì thịt con ngan ngon hơn thịt con vịt. Tuy cũng chung một họ hàng nhà vịt, nhưng ngan nhỏ hơn, ít mỡ hơn, thịt ngọt hơn. Lông con ngan đen như vịt Xiêm trong Nam nhưng không phải vịt Xiêm. Tuy nhiên, ở hàng bún Ngan cũng bầy mấy đĩa quẩy cho khách tùy ý ăn thêm vì trong những năm bị nhà nước cộng sản quản chế thực phẩm, nhân dân thiếu thịt ăn, món gì cũng phải ăn dặm thêm quẩy cho có thêm chất béo vào thức ăn. Bây giờ, có đủ thịt ngan ăn với bún, người dân phía miền Bắc vẫn không bỏ được thói quen ăn dặm thêm quẩy trong tô bún hay tô phở. Ngoải Bắc, người ta vẫn ăn bún ngan hay bún măng vịt mà không kèm theo gỏi ngan hay gỏi vịt với bắp chuối như trong Nam hay các nhà hàng Việt Nam tại Mỹ, Canada.
Ngày nay, những năm 2000, món bún Riêu đã hiện diện trên toàn miền Nam và nhiều tỉnh miền Trung. Đến các con hẽm ở Cà Mau cũng có hàng bún riêu bán quà sáng. Lên Ban Mê Thuật cũng có tiệm bán bún Riêu. Ra Nha Trang, Bình Định cũng có tiệm bán bún Riêu.
Bún Riêu, bún Ốc, Canh Bún, Bún Măng cũng theo chân dân tị nạn Việt Nam vào Mỹ, Canada và các nước Âu Châu, hiện diện trên các tờ thực đơn của các nhà hàng Việt Nam.
Riêng món Bún Riêu sau 1975 được người bán cho thêm huyết heo, đậu hũ chiên.
Riêng trong các gia đình người Việt tị nan từ Mỹ sang Âu, Á. Món bún Riêu được chế biến hoàn toàn không có riêu cua, mà làm bằng trứng gà, thít xay, tôm khô giã, và 1 lọ gạch cua của Thái Lan trộn chung. Khi nước sôi, múc từng muỗng lớn cho vào nồi sẽ nổi lều bều lên như riêu, cho thêm đậu hũ vào nồi khi riêu đã chín. Ăn cũng ngon lắm chứ!
Các chàng YouTuber đi săn các tiệm ăn ở các tỉnh nhỏ để quay cho dân chúng xem, họ giới thiệu tiệm này bán bún riêu, tiệm kia bán bún riêu; họ hỏi thăm chủ tiệm cách nấu hay mua cua ở đâu vân vân. Nhưng các chàng này còn nhỏ quá, chừng trên dưới 30 tuổi nên không biết đến nguồn gốc xuất xứ của Bún Riêu, Bún Ốc hay Bún Măng Vịt. Đã không biết, còn không tìm hiểu thì quá thiếu sót khi giới thiệu về một món ăn.
Thời buổi Youtuber tràn ngập trên mạng, ai cũng có thể làm Youtuber. Nhiều người chẳng có kiến thức phổ thông mà giới thiệu chuyện này chuyện nọ khiến người xem lạc hướng. Lạc hướng chuyện ăn uống là nhỏ, lạc hướng về y học thường thức thì tai hại lớn.
Chưa bao giờ hết, người xem trên các trang mạng phải ý thức cao, tự giác cao. Nghĩa là phải có một trình độ hiểu biết căn bản để khỏi bị dẫn sai. Tốt hơn là đừng vào những trang vớ vẩn, có tính cách hù dọa, dạy đời, dạy khôn nhảm nhí.
“Riêu” là từ ngữ của miền Bắc. Hễ món nào có chữ “Riêu” thì một là có riêu cua đồng, hai là riêu tôm, ba là không có riêu nhưng có vị chua chua như canh riêu cá, canh riêu hến (canh riêu hến không chua như riêu cá, nhưng có cà chua). Canh Riêu Trứng thì có trứng làm riêu.
Tóm lại, các món quà Bún Riêu, Ốc, Canh Bún, Bún Măng Vịt, bún Chả đã theo các bà mẹ di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 mà lan tràn và đến ngày nay trên toàn lãnh thổ miền Nam và nhiều tỉnh miền Trung. Trong Nam, ngoài Trung, các bà mẹ, các chị học cách làm bún Riêu, bún Măng rồi chế biến, nêm nếm theo sở thích dân địa phương mà tồn tại.
Hình như các bà mẹ ở thôn quê Việt Nam là chủ lực kinh tế của gia đình. Từ Bắc đến Trung, vào Nam, đâu đâu cũng thấy các bà mẹ quê gánh gồng lam lũ để nuôi chồng, nuôi con.
TT-Thái An
5/4/2023
Thứ Hai, 11 tháng 11, 2024
Màu Trắng Tôi Yêu
Chị Sương Lam thương mến. Mừng sinh nhật chị, em có món quà nhỏ Chúc chị luôn khoẻ, vui sáng tác và hạnh phúc bên gia đình thương yêu chị nhé!
Thơ: Sương Lam
Thơ Tranh: Kim Oanh
Veterans Day Nov.11.22
Hàng triệu người ngã xuống
Hàng hàng lớp lớp bia mộ trong nghĩa trang
Bức tường đen dài khắc đầy tên tử sĩ
Và những tượng đài chiến sĩ vô danh
(Kỷ Niệm Memorial Day, ChinhNguyen/H.N.T.,May 2013-16)
Bên hình ảnh những nghĩa trang tử sĩ
Là hình ảnh những cựu quân nhân
Vẫn còn khà năng làm việc
Hay mang thuơng tích nặng nề
Riêng những người tàn phế đang hiện diện
Tại nhà riêng, Khu Thương Phế Binh, Quân Y Viện
Và ngay cả ngoài trời...
Những cựu chiến binh ơi!
Với thương tích oai hùng còn đó
Trên thân thể các Người
Sẽ không bao giờ biến mất
Trước mắt
Trên giòng lịch sử
Trong lòng toàn dân
Ngày Lễ Veterans
Nhớ ơn những cựu chiến binh
Đã bền gan chiến đấu
Không quản ngại thân mình
Giữ vững tay súng trước làn tên mũi đạn
Quyết bảo vệ an ninh,tự do và hoà bình
Cho đến khi ngả xuống
Trong thời gian hàn gắn vết thương đau
Vẫn mong mỏi ngày trở về cùng chiến hữu
Nhưng thương tích nặng nề cản ngăn niềm ao ước
Đành giã từ vũ khí và đồng đội yêu thương
Người cựu chiến binh phải xa lánh chiến trường
Tâm trạng thường ngổn ngang giăng mắc
Xin chia xẻ nỗi buồn sâu sắc
Cùng cựu chiến binh nhân kỷ niệm Veterans Day.
ChinhNguyen/H.N.T.
Nov.2022
Phiến Đá Biển Buồn
(Thương mến gửi tặng chị Hồng Thủy)
Năm phiến đá nằm yên
Trên bãi biển nắng hồng
Sóng vô tình vỗ nhẹ
Lên đá đầy rêu phong
Có chú chim hải âu
Đậu trên đá xanh màu
Dường như mang tâm sự
Cùng đá nhìn biển sâu
Em hướng về nơi ấy
Đại dương dài mênh mông
Tìm bóng anh đâu thấy
Thấy sương mù vây quanh
Hỏi đá, chẳng gặp anh
Hỏi chim, cũng chưa từng
Anh hòa trong sóng nước,
Hay nơi nào hư không?
Hạ đi trời vào thu
Mây nhuộm thêm sắc màu
Bao giờ anh trở lại,
Hay mãi là thiên thu?
Dương Việt-Chỉnh
Mùa Thu 2024
Thương
Anh đã thấy nhà mình trống vắng
Em buồn so chỉ một mình ên
Chiếc sofa gói trọn nỗi cô đơn
Em cong queo như con mèo ướt.
Trời Cali mấy ngày mưa sướt mướt
Mưa dầm dề lạnh lắm phải không em?
Em co ro trằn trọc suốt thâu đêm
Chiếc mền dày không bằng hơi anh ấm.
Em tới lui bước chân buồn xa vắng
Gót kiêu sa đằm thắm của ngày xưa
Giờ bao bọc đôi vớ màu đen sậm,
Như tim em đông lạnh suốt bốn mùa.
Bữa ăn hôm nay buồn hiu nguội ngắt
Ly mì tôm em ghét lắm chẳng ưa
Em ngồi đó thẫn thờ lùa từng sợi
Vắng vẻ một mình cô độc sớm trưa.
Anh lại nhớ những bữa cơm em đợi
Chờ anh về rạng rỡ những nụ cười
Cơm nóng hổi thức ăn còn bốc khói
Cả nhà mình rộn rã những niềm vui.
Thật đau xót, vợ ơi thương em quá
Tiếng "Yêu em!" chẳng thể thành lời
Khi em đứng trước hình anh em nói:
"Hãy yên bình siêu thoát nhé Mình Ơi!"
Có ai biết chia ly đau biết mấy
Người mất đi người ở lại ngậm ngùi
Anh muốn nói:-" Xin lỗi em: Bà xã
Đã vì anh cực khổ những năm qua."
Là lính chiến anh ra đi biền biệt
Em tảo tần làm dâu thảo vợ hiền
Khi tiếng súng trên quê hương im tiếng
Lặn lội nuôi tù chẳng ngại đường xa.
Em có biết lần thăm nuôi năm đó
Anh muốn chết cho xong khỏi khổ vợ con
Nhưng em nói: "Hãy vì em cố sống
Em sẽ chờ, dù thân xác héo mòn."
Được thả ra, anh về tâm tàn phế
Người lính oai hùng đã chết trong tù
Anh mang nặng những vết thương thân thể
Và tâm hồn khủng hoảng bởi chán chê.
Vì bất mãn khiến em nhiều đau khổ
Vất vả chăm chồng nhịn nhục mỗi ngày
Những uất hờn, những ân oán trả vay
Anh lại trút lên vai em chịu đựng.
Giờ đã trễ anh thương em nhiều lắm
Tha thứ cho anh. Má nó: Mình ơi
Anh bây giờ nơi yên tịnh chơi vơi
Đang nhìn xuống muôn vàn thương cảm.
Đứng lên đi ngoài kia trời quang đãng
Hít thở khí trời, tu chỉnh lại dung nhan
Cho anh đi không lưu luyến lo toan
Em mạnh khỏe bình an và vui sống.
.....
Người góa phụ ngồi im bên mộ vắng
Khói hương buồn bay quấn quít nghĩa trang
Mùa thu Cali lá thay chiếc áo vàng
Tóc nàng đã bạc màu theo năm tháng.
Nguyễn thị Thêm.
20/10/2024
Tâm Sự Mùa Thu - Whispers Of Autumn(Y Thy Võ Phú)
Khi sương mù giăng phủ
trong ánh nắng lờ mờ
dường như đang nhắn nhủ
trời đã vào mùa thu
Tôi đứng bên cánh đồng
mắt nhìn những gốc rạ
một khoảng trời mênh mông
của rừng cây cỏ lá…
Một con sâu ngọng nghịu
cuộn mình trong lá khô
nó nói với tôi rằng
mùa thu về rồi đó…
Cơn gió nhẹ thổi qua
rơi đi từng chiếc lá
con sâu nhìn lặng lẽ
nó bảo thấy nhớ nhà
Mùa hè đã đi qua
cây cà đang héo khô
không còn chiếc lá tươi
sâu cong người khóc nghẹn…
***
Whispers Of Autumn
When the fog envelops,
In the dim sunlight’s glow,
It seems to whisper softly,
Autumn has arrived, you know.
I stand by the field,
My eyes on the stubble rows,
A vast sky unfolds,
Amidst the trees and grasses it grows…
A little lisp caterpillar,
Curled up in the dry leaves,
Tells me with its quiet stir,
That autumn now weaves.
A gentle breeze blows through,
Carrying each leaf away,
The caterpillar watches silently,
Saying it misses home today.
Summer has passed us by,
Whispers Of Autumn
When the fog envelops,
In the dim sunlight’s glow,
It seems to whisper softly,
Autumn has arrived, you know.
I stand by the field,
My eyes on the stubble rows,
A vast sky unfolds,
Amidst the trees and grasses it grows…
A little lisp caterpillar,
Curled up in the dry leaves,
Tells me with its quiet stir,
That autumn now weaves.
A gentle breeze blows through,
Carrying each leaf away,
The caterpillar watches silently,
Saying it misses home today.
Summer has passed us by,
The eggplant plants wither slow,
No more fresh leaves to thrive,
The caterpillar weeps in woe…
Y Thy Võ Phú
Bạn Muốn iPhone Ngừng Nghe Lén Cuộc Trò Chuyện Của Bạn?
Bạn muốn iPhone ngừng nghe lén cuộc trò chuyện của bạn? Đây là những việc cần thay đổi ngay để được 'An toàn'
Nguồn tin và chi tiết:
HCD tóm tắt bản tin:
Bạn muốn iPhone ngừng nghe lén cuộc trò chuyện của bạn? Đây là những việc cần thay đổi ngay để được 'An toàn'
Nếu bạn Dùng iPhone thì sự riêng tư của bạn không còn nữa. Chúng ta đã nghi ngờ từ lâu rằng điện thoại của mình đang nghe lén các cuộc trò chuyện của chúng ta — Nếu không thì còn cách nào khác để giải thích tại sao đột nhiên chúng ta nhận được hàng triệu quảng cáo về đôi giày mà chúng ta vừa nói chuyện với một người bạn (về nhãn hiệu chúng ta yêu thích) ? —
Giờ đây chúng ta đã hiểu rõ hơn về lý do tại sao điều này lại xảy ra.
May là chúng ta có thể điều chỉnh để cell phone không xâm phạm quyền riêng tư của mình nữa.
Một chuyên gia đưa ra một số mẹo về iPhone để "giữ an toàn" sự riêng tư của bạn . Chúng chỉ mất vài phút để thay đổi các setting để ngăn điện thoại nghe lén các cuộc trò chuyện để gời đến các nhà quảng cáo...
1. Tắt Micrô
iPhone của bạn được trang bị micrô có thể ghi lại giọng nói của bạn. Để tắt quyền iPhone tự mở micrô cho các Apps, hãy làm các việc sau:
Cài đặt > Quyền riêng tư & Bảo mật > Micrô. (Settings > Privacy & Security > Microphone.)
Tại đây, bạn sẽ thấy danh sách các Apps đã yêu cầu và được cho quyền sử dụng micrô của iPhone. Tắt những ứng dụng này để giữ cho các cuộc trò chuyện của bạn được riêng tư.
2. Tắt theo dõi
Một số Apps có thể theo dõi mọi hành động của bạn, ngay cả khi bạn không sử dụng chúng. Để ngăn chặn các Apps làm điều này, hãy vào setting và làm như sau:
Cài đặt > Quyền riêng tư & Bảo mật > Theo dõi. Tắt công tắc cho phép Ứng dụng yêu cầu theo dõi.
Settings > Privacy & Security > Tracking. Toggle off the switch for Allow Apps to
3. Tắt quảng cáo được cá nhân hóa
Quảng cáo được cá nhân hóa hiện trên iPhone là những quảng cáo được gởi riêng cho bạn (chúng biết như cầu và sở thích của bạn nhờ nghe lén qua microphone) . Chúng sử dụng thông tin như nhu cầu và sở thích cá nhân của bạn để phân phối quảng cáo thể phù hợp đến bạn. Nhưng có một cách để tắt cài đặt này hãy vào setting và làm như sau :
Cài đặt > Quyền riêng tư & Bảo mật > Quảng cáo Apple > tắt Quảng cáo được cá nhân hóa.
Go to Settings > Privacy & Security > Apple Advertising > toggle off Personalized Ads.
HCD:
Thấy thì gởi các bạn xem chơi. Cẩn thận khi các bạn nói chuyện với nhân viên ngân hàng hay bàn bạc những chuyện quan trọng liên quan tới chi tiết cá nhân mà iPhone nó nghe lén gởi về cho “chủ” nó thì cũng nguy hiểm. Chủ nó có thể là những tác giả những cái Apps các bạn install từ Apple Store.
Huỳnh Chiêu Đẳng
-----===o0o===-----
Mùa Thu Uống Trà Nhìn Lá Rơi Bên Song Cửa
Đây là bài số bảy trăm ba mươi sáu (736) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ ORTB.
Tôi vẫn nghĩ thú uống trà là một thú vui tao nhã của những bậc thi nhân ẩn sĩ. Nhiều tài liệu đã nói về cái thú tao nhã này. Xin hãy đọc những dòng chữ giới thiệu về thú uống trà của ông Nguyễn Duy Chính qua Lời Mở Đầu trong bài viết “Trà Tàu và Ấm Nghi Hưng” của ông dưới đây:
“Uống trà tàu vốn dĩ phổ thông thời trước, đến nay đã trở thành hiếm hoi trong xã hội Việt nam. Thanh niên ngày nay chỉ mường tượng được cái hình ảnh đó qua truyện ngắn của Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời, Những chiếc ấm đất, Chén trà trong sương sớm).
Sách vở viết về trà lại càng ít ỏi. Tại Việt năm thời trước, ngoài cuốn Vang bóng một thời chỉ lác đác một vài ba cuốn khác. Trà đạo kiểu Nhật thì có bản dịch cuốn Trà Thư (The Book of Tea) của Okakura Kakuzo của Bảo Sơn
Một tiểu thuyết cũng viết nhiều về thú uống trà là cuốn Trà Thất của Minh Đức Hoài Trinh.
Ở hải ngoại, cuốn Trà Kinh của Vũ Thế Ngọc là một biên khảo tương đối công phu. Ngoài ra, thỉnh thoảng có một đoản thiên nghiên cứu về trà Tầu hay ấm trà đang rải rác trong tạp chí. Mới đây tôi được đọc bài của Phan Quốc Sơn về ấm Nghi Hưng rất thú vị.
Trong tác phẩm Sống Đẹp, Lâm Ngữ Đường cho rằng uống trà là một phát minh quan trọng nhất trong đời sống. Trà là một phần và cũng là một biểu tượng của sự nhàn nhã, Ông để hẳn một mục để bàn về Trà và Tình Bạn.
Viết về cách uống trà, thưởng thức trà thì Tây Phương có hằng trăm cuốn nhưng phần lớn viết theo cách nghiên cứu một loại thực phẩm. Người Trung Hoa cũng có nhiều sách viết về trà, nghệ thuật uống trà, còn người Nhật thì đưa hẳn lên thành một đạo sống(Trà Đạo).
Riêng Việt nam mặc dầu uống trà rất thịnh hành nhưng lại ít ai để tâm nghiên cứu. Vũ Thế Ngọc, tác giả cuốn Trà Kinh đã ngậm ngùi mà than rằng: “viết về trà thì gần như chưa có ai viết” hoặc “viết vô cùng sơ lược”. Nhận xét đó có lẻ không sai. Và vì thế ông tự cho rằng cuốn sách ông soạn “là quyển sách đầu tiên về nghệ thuật uống trà bằng Việt ngữ tương đối đầy đủ hơn cả” thì cũng không ngoa”.
( Nguồn: Trà Tầu Và ấm Nghi Hưng của Nguyễn Duy Chính)
Tác giả Nguyễn Duy Chính là bạn học đồng môn QGHC với người viết. Ông là một nhà nghiên cứu, dịch giả và tác giả của nhiều bài viết rất có giá trị như Nhân sâm, Linh Chi, Cà phê, Bảo kiếm, Thư họa, v..v…. Tính tình giản dị, hiền hòa, học rộng hiểu nhiều, ông là một “sư đệ” mà tôi rất quý phục. Xin có lời thăm hỏi và cám ơn tác giả Nguyễn Duy Chính về những bài viết rất có giá trị của NDC mà tôi đã đọc.
Tôi còn nhớ năm 2003 tôi có đến thăm “hàn nho phong vị phú gia trang” của NDC và tôi đã tâm tình như sau về gia đình của người sư đệ quý mến này:
“Nhìn tủ kiếng đựng những ấm trà sưu tập và nhìn NDC pha trà đãi khách, tôi thấy cả một “khung trời nghệ thuật uống trà” trong gian nhà nhỏ này. Bà xã KT còn tặng cho tôi một bọc hoa thiên lý mà bây giờ “khi nấu canh rau, chồng vợ húp”, tôi đã “phải nhớ đời” bởi câu hát của người miền Trung mà đại huynh BV từ Miền Đông gửi đến:
“Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh thiên lý, nấu chè hạt sen »
(Nguồn : Một Chuyến du Cali 2003 của SL)
Tản mạn dông dài về thú uống trà, người viết lại nhớ đến tách trà Triệu Châu dưới đây:
Trà Triệu Châu
Tăng đến tham bái, Triệu Châu hỏi:
Ông đã từng đến đây chưa ?
Tăng đáp :
Dạ đến rối.
Vào trong uống trà đi.
Lại hỏi một Tăng khác:
Ông đã từng đến đây chưa?
Thưa con mới đến.
Vào trong uống trà đi.
Viện chủ thấy vậy thắc mắc:
Quái! Đến rồi cũng uống trà đi, chưa đến rồi cũng uống trà đi. Tại sao vậy cà?
Triệu Châu gọi:
Viện chủ.
Thưa vâng.
Vào trong uống trà đi.
Bình: Trà Triệu Châu bình đẳng, đối với kẻ cũ người mới đều thể hiện tâm bình thường.
Viện chủ không bình thường mới thắc mắc nên cũng cần uống trà đi.
(Nguồn: Thiền là gì ? Giác Nguyên)
Chúng ta là người tầm thường, chắc chắn sẽ cùng một ý nghĩ như vị viện chủ nói trên vì chúng ta còn cái tâm phân biệt kẻ trước người sau, kẻ lớn người nhỏ. Nhưng với Triệu Châu, một bậc thiền sư chân chính, Ngài đã dùng với cái tâm bình đẳng đối đãi mọi người như nhau, nên với ai Ngài cũng mời ai uống trà là thế đó!
Cũng nhân việc uống trà, người viết xin mời Bạn đọc tiếp một chuyện uống trà khác nữa nhé.
Chén trà Thiền lý
Có một học giả đến hỏi thiền nơi Thiền sư Nam Ẩn.
Sư mang trà ra rót vào chén để đãi khách. Trà tràn đầy ra ngoài mà sư vẫn cứ rót.
Học giả bèn thưa:
Sư phụ, trà đầy rồi xin dừng tay lại.
Nam Ẩn đáp:
Ông có khác chi chén trà này, trong lòng đầy ấp những tri giải, định kiến. Nếu ông không cạn chén trà tri giải nơi mình trước. Ta biết làm sao nói Thiền cho ông nghe.
Bình: Hãy cạn chén trà
Hôm nay, nhân ngày mùa Thu lạnh, người viết pha trà uống cho ấm lòng và chia sẻ với bạn về thú uống trà. Hy vọng bạn cũng có thú uống trà như người viết và đã đọc nhiều tài liệu về trà nên chắc chắn Bạn sẽ cảm thông dễ dàng với tâm tình của người viết hôm nay.
Có thể Bạn cũng nghe nhiều người còn nói rằng uống trà xanh có thể phòng chống bệnh ung thư nhờ các hoá chất gọi là Polyphenols, tannins, catechins trong trà, tuy rằng y học chưa khẳng định tác dụng rõ rệt của trà xanh đối với bệnh ung thư. Như vậy uống trà cũng tốt lắm nhỉ?
Riêng đối với người viết, ngồi trong căn phòng ấm cúng uống một tách trà nóng, ngắm nhìn lá rơi bên song cửa có cái thi vị của nó. Trong cái không gian yên lặng này, tôi thấy tâm hồn mình cũng được an tĩnh. Khi tâm hồn được an tĩnh thì đấy là hạnh phúc vì đối với tôi hạnh phúc là những phút giây hiện tại bình an, nếu ta cảm nhận đấy là hạnh phúc. Bạn đồng ý chứ?
“Đừng tìm mãi nơi đâu là hạnh phúc
Có thể gần, cũng có thể thật xa
Xa hay gần là ở tại Tâm ta
Ta cảm nhận thế nào là thế đó
(Thơ Hạnh Phúc ở Nơi Đâu của SL)
Mời xem Youtube Trà Thiền do Sương Lam thực hiện
Chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.
Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn
Sương Lam
Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2024
Saigon Xưa Không Còn - Nhạc Và Lời: Phạm Anh Dũng&Nguyên Bích - Ca Sĩ: Kim Oanh
Ca Sĩ: Kim Oanh
Sài Gòn Đẹp Lắm
Mưa Sài Gòn, mưa rào qua Gia Định
Sài Gòn lụt lội để em quên về
Sài Gòn đẹp, đêm mưa trên cao ốc
Ngân hà sao sáng, long lanh Sài Gòn
Sài Gòn, thành phố thức trắng đêm thâu
Sài Gòn đêm vũ trường phím đàn ca
Vũ khúc du dương theo làn tóc rối
Môi ngoan chờ đợi nụ hôn nồng cháy
Sài Gòn nỗi nhớ tiếc mãi khôn nguôi
Nhà Thờ Đức Bà, xưa Nhà Hát lớn
Chợ Bến Thành, Dinh Độc Lập uy nghi
Sài Gòn thương ơi, ta đã về đây
Sài Gòn nắng sớm, chiều mưa chóng tạnh
Bạch Đằng bến mộng ven sông Sài Gòn
Chiều Tao Đàn mây xanh gió heo may
Sài Gòn, quán nhậu, cà phê, hàng rong
Sài Gòn, Ba Lê, "Hòn ngọc Viễn Đông"
Sài Gòn phố phường vừa số vừa tên
Đường hẻm chồng chéo, dễ quên dễ lầm
Sài Gòn ồn ào, khói xe, chen chúc
Đường Duy Tân xanh bóng mát, chung đường
Phượng vỹ, me già, Văn khoa, Luật Khoa
Trưng Vương, Gia Long, theo gót chân ai
Sài Gòn lụt lội để em quên về
Sài Gòn đẹp, đêm mưa trên cao ốc
Ngân hà sao sáng, long lanh Sài Gòn
Sài Gòn, thành phố thức trắng đêm thâu
Sài Gòn đêm vũ trường phím đàn ca
Vũ khúc du dương theo làn tóc rối
Môi ngoan chờ đợi nụ hôn nồng cháy
Sài Gòn nỗi nhớ tiếc mãi khôn nguôi
Nhà Thờ Đức Bà, xưa Nhà Hát lớn
Chợ Bến Thành, Dinh Độc Lập uy nghi
Sài Gòn thương ơi, ta đã về đây
Sài Gòn nắng sớm, chiều mưa chóng tạnh
Bạch Đằng bến mộng ven sông Sài Gòn
Chiều Tao Đàn mây xanh gió heo may
Sài Gòn, quán nhậu, cà phê, hàng rong
Sài Gòn, Ba Lê, "Hòn ngọc Viễn Đông"
Sài Gòn phố phường vừa số vừa tên
Đường hẻm chồng chéo, dễ quên dễ lầm
Sài Gòn ồn ào, khói xe, chen chúc
Đường Duy Tân xanh bóng mát, chung đường
Phượng vỹ, me già, Văn khoa, Luật Khoa
Trưng Vương, Gia Long, theo gót chân ai
Sài Gòn tuyệt đẹp, Sài Gòn yêu ơi
Lê Huy Trứ
Lê Huy Trứ
You can't react with an emoji to this message |
Nghe Tiếng Đời
Nhịp sống bên đời cỏ vẫn xanh
Ngoài kia hoa nở thắm trên cành
Bốn mùa rộn rã ngày thêm mới
Mái tóc tơ trời sợi bạc nhanh.
Phảng phất hồn xuân má đỏ hây
Phấn son điểm dáng nét thơ ngây
Hồn xanh lá mạ tình mong đợi
Thơm ngát hương xuân lộc rót đầy.
Tế Luân
Thu Vàng
Chen màu đỏ thắm lá vàng điểm nâu
Trời thu nỗi nhớ về đâu ...?
Chất chồng xác lá... ve sầu nỉ non
Thu mang tâm sự gợi buồn
Lạnh lòng xa xứ vấn vương tháng ngày
Nửa đời lang bạc chân mây
Năm chờ tháng đợi vai gầy tóc sương
Gây chi bao cảnh đoạn trường
Chia ly nghịch cảnh... bước đường tha phương
Thời gian biền biệt cố hương
Nỗi lòng lá úa bên đường xác xơ
Gió thu hiu hắt ru hờ
Tiếng ve khắc khoãi đợi chờ tháng năm
Đường đời biền biệt xa xăm....
Tình thu nỗi nhớ tơ tằm ly tan
Trời thu bàng bạc lá vàng
Đời gây chi cảnh lỡ làng ly tan.....
Ngư Sĩ
Phiếm Về Tri Âm, Tri Kỷ
Có rất nhiều người thắc mắc và hỏi tôi :"Hiểu và phân biệt như thế nào cho đúng về hai từ TRI ÂM và TRI KỶ ?". Sau khi tra cứu và hỏi "Ông Google", xin được thưa rằng :"TRI ÂM là người đồng điệu, có chung một thị hiếu và sở thích với ta và cùng cảm thông nhau một cách sâu sắc về thị hiếu đó . Còn TRI KỶ là người bạn thân thiết hiểu ta một cách thấu đáo triệt đễ đến có thể đồng cam cộng khổ, sống chết có nhau". Mời xem giải thích cụ thể và minh chứng qua các câu truyện trong lịch sử và văn học sau đây:
TRI ÂM 知音 : TRI là Hiểu, là Biết; ÂM là Âm luật, Âm nhạc. Nên TRI ÂM là người hiểu biết về âm luật âm nhạc. Bạn TRI ÂM là người bạn có cùng thị hiếu với nhau về âm nhạc, thông qua âm nhạc có thể hiểu rõ được lòng dạ của nhau một cách sâu sắc, như câu truyện của Du Bá Nha và Chung Tử Kỳ sau đây:
Theo Chiến Quốc Liệt Ngự Khấu Trứ 战国列御寇著 ghi về chuyện Bá Nha Tử Kỳ như sau:
Du Bá Nha 俞伯牙 phụng mệnh vua Tấn đi sứ sang nước Sở. Đêm rằm tháng tám, thuyền vừa vào đến Hán Dương, gặp lúc mưa to gió lớn, nên ghé vào một mé núi nhỏ để tránh gió. Đêm xuống, gió lặng mây tan, vầng trăng rằm sáng vành vạnh trên sông nước, cảnh sắc thật hữu tình. Bá Nha bèn lấy cây dao cầm ra nắn nót phím dây và đàn một khúc. Đang lúc thả hồn vào cung đàn phím nhạc, mơ hồ như thấy có bóng người trên bến nên phân tâm, tay bấm mạnh vào phím đàn đánh "chát" một tiếng, đàn đứt mất một dây và tiếng đàn im bặt. Bỗng nghe tiếng người trên bờ nói vọng xuống rằng :"Xin tiên sinh chớ ngại, tôi là người đốn củi về muộn, đi đến đây nghe được tiếng đàn tuyệt diệu của tiên sinh, nên nán lại chưa nở rời đi".
Nương theo bóng trăng, Bá Nha nhìn kỹ người trên bến, quả nhiên là một tiều phu với gánh củi còn để một bên, thầm nghĩ : Chỉ là một người đốn củi, làm sao nghe hiểu được tiếng đàn của ta chứ ?. Bèn cất tiếng hỏi rằng :"Các hạ nghe hiểu tiếng đàn của ta, thì có thể nói thử xem khi nảy ta đang đàn khúc gì không ?". Người tiều phu bèn đáp rằng :"Thưa tiên sinh, lúc nảy ông đang đàn khúc Khổng Tử tán thán đệ tử Nhan Hồi. Rất tiếc là tiên sinh mới đàn đến câu thứ tư thì dây đàn bị đứt ".
Nghe người tiều phu đối đáp trôi chảy, Bá Nha rất ngạc nhiên và cũng vô cùng mừng rỡ. Bèn mời tiều phu lên thuyền để đàm đạo. Người tiều phu vừa trông thấy cây đàn của Bá Nha, bèn khen rằng :"Đây là cây dao cầm, tương truyền là của vua Phục Hi chế tạo ra". Bèn kể lại lai lịch, quá trình chế tạo và xuất xứ của cây đàn. Bá Nha nghe xong càng khâm phục cho kiến thức của người tiều phu hơn. Đoạn mời người tiều phu nghe thêm vài khúc đàn nữa. Khi Bá Nha cất cao tiếng đàn lên thật hùng tráng, thì người tiều phu khen :"Vòi vọi thay núi cao hùng vĩ, chí tại cao sơn". Khi Bá Nha hạ tiếng đàn xuống cho thanh thoát trôi chảy, thì tiều phu lại cất tiếng khen rằng :"Cuồn cuộn thay như nước trường giang, ý tại lưu thủy ".
Bá Nha nghe xong rất lấy làm vui dạ, trước đây chưa từng có người hiểu được tâm sự của ông gởi gấm qua tiếng đàn, mà trước mắt, người tiều phu nầy lại làm được việc đó. Không ngờ ở chốn thâm sơn cùng cốc nầy lại có được một TRI ÂM (người hiểu được tiếng lòng của người khác qua âm nhạc) mà bấy lâu nay ông cố tìm vẫn không gặp được. Bèn đứng dậy thi lễ, rót chén rượu mời và cùng xưng tên họ với nhau. Thì ra người tiều phu tên là Chung Tử Kỳ 鍾子期, làm nghề đốn củi độ nhựt. Hai người càng đàm đạo càng hợp ý hơn. Cuối cùng dưới vầng trăng thu sáng vằng vặc họ đã cùng nhau kết nghĩa đệ huynh. Bá Nha lớn hơn nên làm anh, hỏi Tử Kỳ rằng :"Với tài năng và học thức của hiền đệ sao không ra kiếm chút công danh mà lại cam nghề đốn củi ?" Tử Kỳ cho biết là vì mình còn phải phụng dưỡng cha già, nên mới ẩn nhẫn đợi thời. Vì công vụ chưa xong, nên Bá Nha không có thời gian lên bái kiến cha của Tử Kỳ. Trước khi chia tay, hai người bạn cùng hẹn nhau rằm Trung Thu sang năm lại gặp nhau trên bến sông nầy.
Trung Thu năm sau, Bá Nha y hẹn, ghé thuyền lại bến Hán Dương chờ bạn. Nhưng chờ hoài chờ mãi vẫn không thấy tăm hơi, bèn đem đàn ra mà đàn một bản, ý muốn kêu gọi bạn tri âm, nhưng tri âm vẫn bằng bặt bóng hình. Sáng hôm sau, Bá Nha lên bờ, lần mò vào thôn để hỏi thăm về tin tức của Tử Kỳ. Một ông già nghe hỏi, bèn khóc òa lên, cho biết mình chính là cha của Tử Kỳ đây. Sau Trung Thu năm rồi, Tử Kỳ đã nhuốm bệnh và qua đời, trước phút lâm chung, còn trối lại là hãy chôn mình ở bờ sông để Trung Thu năm tới còn nghe được tiếng đàn của Bá Nha như đã ước hẹn.
Nghe lời nói của Chung Lão, Bá Nha đau buồn vô hạn, tìm đến bên mộ của Tử Kỳ, trịnh trọng đặt cây dao cầm trước mộ, rồi ngồi xếp bằng mà đàn lại khúc " Cao sơn lưu thủy" năm xưa. Đàn xong bèn gạt đứt hết dây đàn, đứng dậy nâng cây dao cầm lên cao đập mạnh xuống tảng đá xanh trước mộ. Cây đàn "bùng" lên một tiếng bể tan tành ! Ba Nha bèn khóc mà ngâm rằng :
摔碎瑶琴鳳尾寒, Suất toái dao cầm phụng vĩ hàn,
子期不在向誰彈? Tử Kỳ bất tại hướng thùy đàn ?
春風满面皆朋友, Xuân phong mãn diện giai bằng hữu,
欲覓知音難上難。 Dục mịch TRI ÂM nan thượng nan!
Có nghĩa
Dao cầm đập nát đau lòng phượng,
Đàn vắng Tử Kỳ đàn với ai ?
Mát mặt gió xuân đều bạn hữu,
TRI ÂM đâu dễ gặp lần hai !
Quả là "Dục mịch tri âm nan thượng nan": Muốn tìm được một người tri âm là "khó trên khó". Có nghĩa là Khó vô cùng ! Hiểu nhau đã khó, hiểu cả tiếng đàn của nhau càng khó hơn nữa. Nên sau nầy dùng rộng ra, TRI ÂM là chỉ những người bạn rất thân thiết, hiểu rõ cả ruột gan lòng dạ của nhau thông qua một sở thích hay thị hiếu nào đó. Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du còn dùng để chỉ những cặp đôi yêu nhau nữa, như lời của Thúy Kiều nói với Kim Trọng :
Nàng rằng: Gió bắt mưa cầm,
Đã cam tệ với TRI ÂM bấy chầy!
Còn trong truyện Nôm khuyết danh TRINH THỬ cũng có câu :
Bá Nha đã gặp Tử Kỳ,
Bảo sơn ai nở trở về tay không ?!
Và trong Tăng Quảng Hiền Văn cũng có câu :
知音說與知音聽, Tri âm thuyết dữ tri âm thính,
不是知音莫與彈. Bất thị tri âm mạc dữ đàn.
Có nghĩa:
Là TRI ÂM với nhau mới nói cho nhau nghe,
Không phải là TRI ÂM với nhau thì đừng có đàn (cho nhau nghe, vì đối phương có biết nghe đâu mà đàn chi cho uổng công !).
Tiến thêm một bước, sâu sắc hơn, thắm thiết hơn TRI ÂM là TRI KỶ 知己. KỶ là TỰ KỶ 自己, là chính bản thân mình. Người mà thông hiểu được chính bản thân mình như là mình, thì người đó chính là TRI KỶ của mình đó. Ta hãy lượt qua các câu truyện sau đây thì sẽ rõ...
Đôi bạn TRI KỶ đầu tiên hiểu rõ nhau nhất là Quản Trọng 管仲 và Bào Thúc Nha 鮑叔牙 thời Chiến Quốc, theo sách Sử Ký ghi lại như sau:
Quản Trọng tên là Di Ngô, hiệu là Kính Trọng, người thôn Quản Cốc huyện Dĩnh Thượng. Ông là Tể Tướng nổi tiếng của nước Tề, phò tá và giúp Tề Hoàn Công trở thành một trong Ngũ Bá thời Chiến Quốc. Bào Thúc Nha cũng là một Đại Phu của nước Tề, là bạn tri kỷ của Quản Trọng. Truyện Kể...
Thuở nhỏ, Bào Thúc Nha và Quản Trọng là hai người bạn thân. Bào Thúc Nha rất hiểu về tài hoa của bạn mình. Quản Trọng nhà nghèo nhưng luôn luôn lấn lướt Bào Thúc Nha về mọi mặt, nhưng Bào lại luôn luôn đối sử tốt với bạn mà không một tiếng oán than trách móc.
Lớn lên, hai người cùng làm quan cho nước Tề. Quản Trọng theo phò Công Tử Củ, còn Bào Thúc Nha theo phò người em là Công Tử Tiểu Bạch.
Năm 686 trước Công Nguyên, Tề Tương Công mất, cháu là Công Tôn Vô Tri soán ngôi. Mùa xuân năm 685 trước CN, Đại Phu nước Tề là Ung Lẫm giết Công Tôn Vô Tri. Lúc đó Công Tử Củ đang ở nước Lổ, còn Công Tử Tiểu Bạch đang ở nước Lữ. Triều thần quyết định đón hai Công Tử về nước, ai về trước sẽ được nối ngôi.
Nước Lổ phái người đưa Công Tử Củ về nước; còn nước Lữ thì phái người đưa Công Tử Tiểu Bạch về nước. Quản Trọng sợ Công Tử Tiểu Bạch về trước, nên phi ngựa rượt theo bắn một mũi tên, Công Tử Tiểu Bạch giả vờ trúng tên té xuống xe ngựa. Sau đó cùng Bào Thúc Nha rẻ đường tắt về nước trước, lên ngôi nước Tề, chính là Tề Hoàn Công đó.
Lổ Trang Công nghe Công Tử Tiểu Bạch đã lên ngôi nước Tề, vô cùng tức giận, cử binh sang đánh nước Tề. Tề đã có chuẩn bị sẵn nên binh Lổ đại bại mà về. Dưới áp lực của nước Tề, Lổ bắt buộc phải giết Công Tử Củ và bắt Quản Trọng trả về cho nước Tề xử tội.
Tề Hoàn Công sau khi lên ngôi, bèn triệu Bào Thúc Nha đến để phong làm Tể Tướng. Nhưng Bào lại từ chối mà còn tiến cử cho người đang ở trong tù là Quản Trọng làm Tể Tướng vì cho rằng Quản Trọng giỏi hơn mình rất nhiều. Trước đây bắn Tề Hoàn Công là vì đang theo phò Công Tử Củ, chỉ là ai vì chúa nấy mà thôi. Tề Hoàn Công nghe theo lời Bào Thúc Nha phong Quản Trọng là Tể Tướng. Nên sau nầy nhờ các sách lược của Quản Trọng mà Tề Hoàn Công mới xưng bá chư hầu.
Về phần Quản Trọng, ông luôn nói với người khác rằng :" Lúc nhỏ nhà nghèo, thường đi buôn với Bào Thúc Nha, tôi ra vốn ít, nhưng chia lời nhiều. Thúc Nha không cho là tôi tham, vì biết tôi nghèo. Tôi bày cách làm ăn cho Thúc Nha bị thất bại. Thúc Nha không cho là tôi ngu xuẩn, mà biết là làm ăn phải có lúc vầy lúc khác. Tôi ra làm quan ba lần đều bị đuổi về ba lần, Thúc Nha không cho là tôi bất tài, mà biết là tôi chưa gặp được thời cơ. Tôi đi đánh trận ba lần, ba lần đều thua chạy trước, Thúc Nha không cho là tôi nhát gan, vì biết tôi còn phải phụng dưỡng mẹ già. Công Tử Củ thất bại bị giết, tôi bị bắt mà không dám hi sinh vì chủ, Thúc Nha không cho tôi là kẻ vô sỉ, vì biết rằng tôi còn đợi dịp để thi thố tài năng. Ôi, Sanh ra tôi là cha mẹ tôi, nhưng hiểu được tôi thì chỉ có Bào Thúc Nha mà thôi !"(Câu nói nầy của Quản Trọng được mọi người tán thưởng và còn truyền tụng mãi cho đến hiện nay).
Khi Quản Trọng sắp chết. Tề Hoàn Công hỏi : Bào Thúc Nha có thể thay thế làm Tể Tướng không ? Quản Trọng đáp : Không được ! Bào Thúc Nha là người thiện ác phân minh, không thể bao dung cho kẻ xấu được. Nếu giao cho quyền bính trong tay, chẳng những có hại cho chúa công mà còn có hại cho chính bản thân Thúc Nha nữa ! Bào Thúc Nha nghe biết chuyện nầy, chẳng những không trách Quản Trọng không tiến cử mình, mà còn rất cảm kích vì biết bạn rất hiểu mình nên không muốn hại mình phải mang họa vào thân.
Quả là hai người bạn TRI KỶ với nhau : Người nầy hiểu rõ người kia và người kia cũng rất hiểu rõ người nầy một cách sâu sắc. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã ca ngợi tài của Quản Tử (Quản Trọng) như sau :
Lượng gã Bạch sinh nào có mấy,
Tài người Quản Tử có đâu nhiều!
Sau QUẢN BÀO CHI GIAO 管鲍之交, là sự kết giao giữa Quản Trọng và Bào Thúc Nha. Người ta cũng thường hay nhắc đến tình bạn kết giao sinh tử giữa TẢ BÁ ĐÀO 左伯桃 và DƯƠNG GIỐC AI 羊角哀 như sau:
Theo "Quyển thứ 7 của Dụ Thế Minh Ngôn 喻世明言•第七卷" truyện "Dương Giốc Ai xả mệnh toàn giao 羊角哀捨命全交" của Phùng Mộng Long 馮夢龍 đời Minh.
Truyện kể...
Vua nước Sở là Sở Nguyên Vương 楚元王 rất sùng Nho trọng Đạo, chiêu hiền đãi sĩ. Người trong thiên hạ nghe tiếng tìm đến rất đông.
Thuở ấy, tại núi Tích Thạch xứ Tây Khương có một hiền sĩ họ Tả 左 tên Bá Đào 伯桃, cha mẹ đều mất sớm, nhưng có chí học hành, sớm trở thành người có tài an bang tế thế. Nghe tiếng Sở Vương cầu hiền bèn khăn gói từ biệt hương thân lên đường tìm đến nước Sở.
Một hôm vừa đến đất Ung Châu khi trời đã vào đông, gió bấc mưa phùng trời mây u ám gió lạnh căm căm. Tả Bá Đào đội mưa đi suốt một ngày, khi thấy trời đã hoàng hôn, định tìm nơi nghỉ trọ qua đêm. Nhìn ra phía trước mặt trong rừng trúc xa xa thấy có ánh đèn nhấp nháy, bèn lần mò tìm đến căn nhà cỏ sau hàng rào tre xiêu vẹo. Một người thanh niên cường tráng, mày thanh mắt sáng, ra mở cửa mời vào. Sau khi hàn huyên tâm sự thì biết người thanh niên đó họ Dương 羊 tên Giốc Ai 角哀 cũng mồ côi từ nhỏ. Thấy bàn tủ trong nhà chứa toàn là sách, cả trên giường ngủ cũng đều có sách vở ngổn ngang. Đồng thanh tương ứng hai người cùng đàm đạo trao đổi nhau càng thấy tâm đầu ý hợp. Vốn định chỉ ở trọ qua đêm không ngờ nấn ná đến ba ngày. Vì mến tài nhau nên cùng nhau kết nghĩa kim bằng. Tả lớn hơn Dương 5 tuổi nên làm anh, Dương kính Tả như là một huynh trưởng, Đoạn 2 anh em rủ nhau cùng lên kinh đô nước Sở để tìm chữ công danh.
Dọc đường, đang lúc trọng đông, gặp lúc thời tiết khắc nghiệt, mưa tuyết bảo bùng mà phải băng rừng vượt núi. Tả Bá Đào càng ngày càng kiệt sức, tự biết sức mình khó lòng vượt qua được đoạn đường dài gian nan hiễm trở nầy, hơn nữa cũng tự biết rằng tài học vấn của mình không sao bằng được Dương Giốc Ai và điều quan trọng nhất là lương thực mang theo chỉ còn đủ dùng cho một người khỏe mạnh cố gắng vượt qua đoạn đường hiễm trở lạnh lẽo nầy, nếu nấn ná cho cả 2 người thì có nguy cơ cả 2 đều phải chết lạnh chết đói trong vùng rừng núi mịt mùng gió tuyết nầy. Nên, Tả quyết định hi sinh bản thân mình mà thành toàn cho người em kết nghĩa hoàn thành tâm nguyện thi thố tài năng để cầu chút công danh.
Thừa lúc Dương đi tìm củi sưởi ấm trong cơn bão tuyết, Tả bèn cởi hết quần áo ra, nhường áo để Dương mặc thêm cho đủ ấm. Khi Dương về đến thì Tả mới thều thào nói cho người em kết nghĩa biết Ý định của mình và khuyên Dương hãy tranh thủ lên đường, khi nào cầu được công danh hãy trở lại an táng cho mình, nói xong thì tắt thở. Dương đành phải gạt lệ lên đường. Người đời sau có thơ khen Tả Bá Đào như sau:
寒來雪三尺, Hàn lai tuyết tam xích,
人去途千里。 Nhân khứ đồ thiên lý.
長途苦雪寒, Trường đồ khổ tuyết hàn,
何況囊無米? Hà huống nang vô mễ ?
並糧一人生, Tịnh lương nhất nhân sinh,
同行兩人死; Đồng hành lưỡng nhân tử.
兩死誠何益? Lưỡng tử thành hà ích ?
一生尚有恃。 Nhất sinh thượng hữu thị.
賢哉左伯桃! Hiền tai Tả Bá Đào !
隕命成人美。 Vẫn mệnh thành nhân mỹ.
Có nghĩa:
Trời đông ba thước tuyết rơi,
Người đi ngàn dặm ngược xuôi chập chùng.
Đường dài trước mặt mông lung,
Trong nang gạo chỉ đủ dùng một thôi.
Huống chi mình đến hai người,
Cùng đi thì chết cả đôi ích gì ?
Một người sống còn có khi...
Bá Đào hiền sĩ chết vì bạn thân,
Thương thay lặng lẽ âm thầm,
Chết vì tri kỷ muôn phần đẹp thay!
Khi đến nước Sở nhờ có Thượng Đại Phu Bùi Trọng 裴仲 tiến cử, sau khi đã thử tài của Dương Giốc Ai, nên mới sớm được yết kiến Sở Vương và sau khi ứng đối lưu loát những vấn đề của Sở Vương nêu ra, Dương còn dâng lên 10 sách lược rất thiết thực để làm cho nước Sở phú cường. Nhà vua tỏ ra rất vui mừng, bày ngự yến thết đãi rồi phong Dương Giốc Ai làm chức Trung Đại Phu. Dương khóc và kể lại chuyện Tả Bá Đào đã hy sinh ở giữa đường để cho mình đi lập công danh. Sở Vương nghe xong rất cảm động và thương tình cũng truy phong cho Tả Bá Đào làm Trung Đại Phu và cho Dương Giốc Ai dắt đoàn tùy tùng đi cải táng cho Tả Bá Đào.
Truyện được kết thúc bằng cách cho Dương Giốc Ai tự sát sau khi nằm chiêm bao thấy Tả Bá Đào về cho biết là mình bị Kinh Kha của ngôi mộ kế bên đến ức hiếp. Dương Giốc Ai chết để cùng với Tả Bá Đào chống lại Kinh Kha và Cao Tiệm Ly. Truyện có vẻ hoang đường, nhưng kết thúc như thế cho trọn nghĩa kim bằng của tình anh em TRI KỶ : Sống chết đều có nhau !
Tùy tùng về báo lại với Sở Nguyên Vương, Vương thương cho cái nghĩa khí của tình anh em kết bái mà truy phong cho cả hai thành Thượng Đại Phu và cho lập miếu tế tự với sắc ban bốn chữ "TRUNG NGHĨA CHI TỪ 忠義之祠", là Từ miếu thờ người Trung Nghĩa.
Sau Quản Trọng và Bào Thúc Nha thì đây cũng là một cặp TRI KỶ nổi tiếng trong văn học dân gian Trung Hoa xưa. Người đời sau có thơ tán dương như sau:
古來仁義包天地, Cổ lai nhân nghĩa bao thiên địa,
只在人心方寸間。 Chỉ tại nhân tâm phương thốn gian.
二士廟前秋日淨, Nhị sĩ miếu tiền thu nhật tịnh,
英魂常伴月光寒。 Anh hồn thường bạn nguyệt quang hàn.
Có nghĩa
Xưa nay nhân nghĩa trùm trời đất,
Chỉ tại lòng người tấc dạ thôi.
Nghĩa sĩ đệ huynh còn trước miếu,
Hương hồn còn mãi ánh trăng trôi!
Trong Truyện Kiều khi nghe Thúy Kiều nói lên cái ý định xưng bá đồ vương của mình, thì Từ Hải tỏ ra rất hài lòng:
Nghe lời vừa ý gật đầu,
Cười rằng: TRI KỶ trước sau mấy người?!
Khen cho con mắt tinh đời,
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già.
Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!
... và Từ Hải đã xem Thúy Kiều như là một "Hồng Nhan Tri Kỷ", đã giúp cho nàng trả ơn trả oán. Rồi khi Thúy Kiều lạy tạ cám ơn thì Từ Hải lại...
... Cười rằng :"Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người TRI KỶ một ngày được chăng.
Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha ?!
Nhưng rồi vì qúa nghe lời của "Hồng Nhan Tri Kỷ Thúy Kiều", Từ Hải mới mắc mưu Hồ Tôn Hiến và chết đứng giữa trận tiền. Thúy Kiều đến nơi cũng đã...
Khóc rằng: “Trí dũng có thừa,
Bởi nghe lời thiếp, đến cơ hội này!
Mặt nào trông thấy nhau đây?
Thà liều sống chết một ngày với nhau!”
Dòng thu như xối cơn sầu,
Dứt lời, nàng cũng gieo đầu một bên.
Nàng Thúy Kiều của cụ Nguyễn Du lắm tài hoa và cũng lắm nhân cách. Đối với Từ Hải, thì Từ Hải và Thúy Kiều là một đôi TRI KỶ, hiểu rõ lòng dạ của nhau, và dám sống chết có nhau; Còn đối với Kim Trọng thì KIM KIỀU là một cặp TRI ÂM, khi lần tiên nghe Thúy Kiều đàn, Kim Trọng đã :
... Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày.
Rằng hay thì thật là hay,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào !
Lựa chi những khúc tiêu tao,
Thiệt lòng mình cũng nao nao lóng người !...
Bản thân Thúy Kiều cũng đã xác nhận mình và chàng Kim là một cặp TRI ÂM, nên sau bao ngày mới được gặp gỡ, Thúy Kiều đã phân bua:
Nàng rằng: gió bắt mưa cầm,
Đã cam tệ với TRI ÂM bấy chầy.
Vắng nhà được buổi hôm nay,
Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng !...
Từ đồng điệu cảm thông qua tiếng đàn của nhau, tiến thêm một bước yêu nhau và hiểu rõ nhau hơn; Nên từ TRI ÂM lại thấm đậm thành TRI KỶ. Tình TRI KỶ và TRI ÂM hòa quyện lấy nhau trong tình yêu đôi lứa, nên khi biết Thúy Kiều bán mình rồi lưu lạc bặc vô âm tín, chẳng tỏ âm hao, Kim Trọng cũng đã vật vả thuê người đi tìm Thúy Kiều khắp nơi, kể cả...
Rắp mong treo ấn từ quan,
Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha.
Dấn mình trong án can qua,
Vào sinh ra tử họa là thấy nhau !...
Qủa là tình sâu nghĩa nặng, chẳng màng hiễm nguy gian khổ, sống chết cận kề vẫn quyết lòng tìm đến với nhau. Khi đã được đoàn viên thì lại nhớ đến những giây phút TRI ÂM của ngày tháng cũ :"Tình xưa lai láng khôn hàn, Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa". Sau khi nghe lại khúc đàn xôn xao vui vẻ, chàng mới ngạc nhiên hỏi :"... Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy. Tẻ vui bởi tại lòng này, Hay là khổ tận đến ngày cam lai ?". Thúy Kiều mới đáp :
Nàng rằng :"Vì chút nghề chơi,
Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu.
Một phen TRI KỶ cùng nhau,
Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa !"
Nói tóm lại, TRI ÂM là những người bạn cùng am hiểu sở trường của nhau, cùng có chung một thị hiếu như nhau, là những người đồng điệu trong một bộ môn nghệ thuật nào đó, mà tiêu biểu nhất là Âm Nhạc như là Du Bá Nha và Chung Tử Kỳ vậy. Người nầy nghe được tiếng lòng của người kia. Còn TRI KỶ là những người bạn thấu hiểu nhau một cách sâu sắc về các mặt tài năng tính tình, tâm lý tình cảm, hoàn cảnh vui buồn trong cuộc sống như Quản Trọng và Bào Thúc Nha; và có thể cùng đồng cam cộng khổ, sống chết có nhau như Dương Giốc Ai và Tả Bá Đào vậy. Nhưng trong cuộc sống giao tiếp hằng ngày của chúng ta mà muốn tìm được một TRI ÂM hay một TRI KỶ là chuyện không dễ dàng chút nào cả!
Trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu:
Tương thức mãn thiên hạ, 相識滿天下,
TRI KỶ năng kỷ nhân ? 知己能幾人?
Có nghĩa:
Dù có quen biết hết cả người trong thiên hạ nầy, thì...
TRI KỶ (là người bạn thân hiểu ta nhất) có được mấy người đâu ?!
Nên tục ngữ lại có câu :
人生得一知己,死而無憾。
Nhân sinh đắc nhất TRI KỶ, tử nhi vô hám !
Có nghĩa :
Trong đời sống con người, nếu có được một người là TRI KỶ, thì có chết cũng không còn hối tiếc gì nữa cả!
Vâng, "Đắc nhất TRI KỶ, khả dĩ tử hĩ 得一知己,可以死矣!" Có được một TRI KỶ trong đời thì chết cũng được rồi !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)