Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2024

Bức Họa Vào Đông -Sáng Tác: Nguyễn Tâm Hàn - Tiếng Hát: Cao Hoàng


Sáng Tác: Nguyễn Tâm Hàn
Tiếng Hát: Cao Hoàng
Thực Hiện: Đặng Hùng

Ngẫu Nhiên

 

Ngẫu nhiên ta viết thơ tình
Bất ngờ mang họa buộc mình vào thơ
Trời mưa ngồi nghĩ vu vơ
Nắng lên lòng lại ngẩn ngơ nhìn trời
Thơ ai khéo léo lựa lời
Trải lên con chữ gọi mời thiết tha
Mỗi bài như một đóa hoa
Ngẫu nhiên rớt xuống hồn ta bất ngờ
Thế là thơ hết ơ hờ
Biết tìm rung cảm từng giờ cùng ai
Biết nhìn từng giọt sương mai
Thả hồn lên cõi thiên thai mơ màng
Đưa ai đến động hoa vàng
Bước chân lên cỏ địa đàng mê say
Bàn tay cầm lấy bàn tay
Đội chung bóng mát gió bay mây hồng
Tình thơ từ đó bềnh bồng
Trôi theo ngọn gió lướt dòng sông xanh
Tuyệt vời như một bức tranh
Lung linh như ánh trăng thanh ngọc ngà
Thơ mang dáng vẻ mượt mà
Ta lồng thêm nét lụa là vào thơ
Trời mưa lòng nghĩ ngẩn ngơ
Nắng lên lại nhớ bâng quơ nụ cười
Để mơ thêm giấc ngủ lười
Để tìm trong mộng giữ người tình thơ

Tue Nov 01, 2011
Đỗ Hữu Tài

Cảm Thu

 

Thu Về trời đất hẹp hơn ra
Mây xám bay ngang vẫy mọi nhà
Cây lá bên đường rưng rưng khóc
Cỏ mềm đeo nặng giọt sương pha
Ngày ngắn đêm dài nghe dế rét
Nhớ bàn tay ngọc tựa dao thoa
Thu Về phố vắng người qua lại
Môi má ta đong giọt lệ nhoà

Thư Khanh

Trả Lại Cho Đời

 

Tặng người bạn cùng lớp năm xưa
"học chung một lớp cứ chê tôi nghèo"

Sau hành quân về phố thăm người
Người nhìn ta như kẻ chưa quen
Bước vào quán ngồi một mình uống rượu
Đốt cuộc đời hơn một gói Pallmall

Quán đóng cửa lúc nào ta chẳng rõ
Giật mình tỉnh dậy đã quá khuya
Nầy cô bé lần sau tính tiền nhé
Thiếu úy ơi Thiếu úy hết tiền sao
Lần sau đâu biết được nào

Ba tháng sau ta được về phố
Thăm người xưa người nhìn ta xa lạ
Bước vào quán cô chủ mừng rỡ đón chào
Răng lâu quá không về lo bắt chết
Giọng Huế thân thương xao xuyến đến lạ thường

Kể từ đó ta thương cô chủ quán
Bạn hiền xưa.Xin trả lại cho đời

Ta dong ruổi khắp mọi miền đất nước
Mang hành trang một khối tình buồn
Ta có hỏi vài ba chị bạn cũ
Có chị trả lời:"Sự đời đôi lúc vậy"

Hoàng Long
tháng 5/1969

Không Bao Giờ Ngăn Cách (Trần Thiện Thanh) -

 

Nguyên tác: Không Bao Giờ Ngăn Cách

Anh về với em rồi mai lại đi
Đường xa mang theo bao nhiêu tình ý
Viết tên người yêu lên ba lô nặng trĩu
Đêm quân hành dừng chân đồi hoa tím
Nhớ xưa đôi mình hẹn nhau mà sao sáng
Đâu bằng đôi mắt em

Chúng mình cách xa mà vẫn gần nhau
Tình yêu không mau phai như màu áo
Dẫu cho thời gian đem tâm tư vào nhớ
Lá rơi gọi mùa thu về sân úa
Vẫn không bao giờ
Không bao giờ ngăn cách đâu em

Không bao giờ
Không bao giờ ân tình lại vỡ đôi
Một người đi nghe thương sao thương nhiều quá
Dáng một người em xinh sao quá xinh màu má

Không bao giờ
Không bao giờ giữa mùa hè tuyết rơi
Một đời hoa không khi nào hai lần nở
Trái mộng còn trinh nguyên khi đón anh trở về

Với em với em rồi anh lại đi
Thì đôi tim non không xa vạn lý
Áo anh nhuộm phong sương nhưng quê hương đẹp ý
Lối trăng đầy tình em còn soi sáng
Sẽ không bao giờ
Không bao giờ ngăn cách đâu em

Sẽ không bao giờ
Không bao giờ ngăn cách trong tim
Sẽ không bao giờ
Không bao giờ ngăn cách trong tim
Sẽ không bao giờ
Không bao giờ ngăn cách trong tim"

Tác giả: Trần Thiện Thanh
***
Bài Cảm Tác:

Mùa Hè Không Có Tuyết Rơi


Mùa hè không có tuyết rơi
Đừng buồn ngăn cách hỡi người tôi yêu
Gần nhau chẳng được bao nhiêu
Về thăm em sáng rồi chiều lại đi
Ôi, mang theo được những gì
Bao nhiêu tình ý khắc ghi trong lòng
Ba lô nặng trĩu lưng còng
Tên người yêu viết cho tròn nét môi
Đêm hành quân tới chân đồi
Đồi hoa sim tím đây rồi nhớ xưa
Một đêm sao sáng năm xưa
Hẹn nhau ta đến bên bờ Sông Ngân
mơ hồ ánh mắt giai nhân
Sao khuya tắt lịm trong quầng mắt em
Âm thầm lặng thức thâu đêm
Sương đêm buốt lạnh vai mềm xuyến xao....
Rõ ràng không phải chiêm bao
Chúng mình mãi mãi gần nhau trong đời
Không gian dẫu có xa vời
Tình yêu kia vẫn rạng ngời màu hoa
Dẫu thời gian khiến cho ta
Tâm tư khắc khoải nhớ ra nhớ vào
Mùa thu lá rụng mưa gào
Về sân úa biết khi nào ta mơ
Không bao giờ chẳng bao giờ
Chúng minh ngăn cách đôi bờ đâu em!
Không bao giờ hãy cứ xem
Mùa hè nắng cháy ai đem tuyết về!
Ân tình ta vẹn đôi bề
Vỡ đôi là chuyện không hề sảy ra
Sao nghe thương quá tình ta
Dáng em xinh quá xinh màu da mặn mòi
Giữa mùa hè tuyết không rơi
Không hai lần nở một đời hoa xinh
Giữ cho trái mộng nguyên trinh ... Anh về
Với em rồi lại ra đi
Đôi tim non ấy không hề chia xa
Áo anh nhuộm dẫu nhuộm phong ba
Quê hương đẹp ý tình ta vẹn toàn
Lối trăng thanh vẫn mơ màng
Sẽ không bao ngăn cách đôi đàng đâu em
Không bao giờ cản được anh
Yêu em trọn trái tim xanh nồng nàn

Mường So Đèo Văn Trấn

 

Tản Mạn Về Viện Đại Học Cao Đài Tây Ninh Và Chuyện “Địa Linh Nhân Kiệt”

Đại Học Cao Đài Tây Ninh - Ảnh trên trang nhà của Viện Sử Đạo Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh.

Tôi không phải người gốc Tây Ninh. Nhưng tôi là một tín hữu Cao Đài, cho nên có thể nói tôi cũng có chút “dây mơ rễ má” với vùng đất Thánh. Những tản mạn trong bài viết này khởi nguồn khi tôi tình cờ đọc được bài viết “Viện Đại Học Cao Đài Và Chúng Tôi, Một Duyên Tình Dang Dở,” của cố Giáo sư Nguyễn Văn Trường và Giáo sư Tiến sĩ Mai Thanh Truyết trên trang nhà của Viện Sử Đạo Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh.

Nói Tây Ninh nổi tiếng là vùng đất “Địa Linh” quả không ngoa chút nào, vì Tây Ninh có quá nhiều đồi núi cùng những danh lam thắng cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ. Tự ngàn xưa, núi Bà Đen thuộc tỉnh Tây Ninh, ngọn núi cao nhất Nam Việt Nam với chiều cao non nghìn mét, đã nổi tiếng vì sự trang nghiêm, huyền bí, và linh thiêng với chùa Bà Đen và nhiều ngôi Cổ Tự khác. Chùa Phật, chùa Hang, chùa Vân Sơn.... cùng rất nhiều hang động, như động Thanh Long, Ông Hổ, Ba Cô, động Thiên Thai... tất cả đều có những câu chuyện, những truyền thuyết đầy huyền bí. Ngày trước, nhiều bà con trong gia đình tôi thường lên tận Tây Ninh thăm núi Bà Đen, vào chùa Bà để cầu nguyện, khấn xin may mắn, mỗi khi gia đình có việc cần nhờ đến “Bà,” và hình như họ đều được toại nguyện. Từ đó, càng thêm những câu chuyện linh thiêng được loan truyền.

Đặc biệt, Thung lũng Ma Thiên Lãnh được quây quần bởi núi Bà, núi Phụng, và núi Heo, cũng nằm trong quần thể núi Bà Đen. Vùng Ma Thiên Lãnh có nhiều cảnh đẹp thiên nhiên, bao gồm suối Vàng, hầm Đá, hang Ông Hổ và nhiều hang động tự nhiên hoang dã, huyền bí, bao phủ với cây cối xanh tươi, tạo nên vẻ đẹp thiên nhiên không khác gì cảnh tiên trong những bộ phim thần thoại. Tôi chưa may mắn đến đây, nhưng tôi từng được bạn đồng đạo Tây Ninh gửi cho xem rất nhiều hình ảnh, và kể lại cho nghe nhiều câu chuyện sau mỗi lần họ lên thăm núi Bà, nên cũng kể như tôi biết khá nhiều về miền đất đầy thú vị này.

Đó chỉ là vài, trong thật nhiều tuyệt tác của thiên nhiên ở miền đất Tây Ninh. Còn một tuyệt tác nhân tạo đẹp và nổi danh khắp thế giới là Tòa Thánh Tây Ninh của tôn giáo Cao Đài, ngự trị cách trung tâm thành phố chừng vài ba cây số. Đó là một công trình quy mô và độc đáo của đạo Cao Đài, một tôn giáo khá lớn được khai mở tại Việt Nam. Chưa hết, ngôi Thiền Lâm Cổ Tự, còn gọi là chùa Gò Kén, Tây Ninh, được xây dựng trên 100 năm với lối kiến trúc cổ kính độc đáo. Cổ Tự này cũng thu hút rất nhiều khách thập phương đến cúng bái vì những lời truyền về sự linh thiêng của ngôi chùa.

Người xưa có câu, “Địa Linh sinh Nhân Kiệt,” thật đúng lắm với miền đất Tây Ninh. Chỉ nói riêng về đạo Cao Đài, nhờ miền đất “Địa Linh” nên Tây Ninh đã được Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, Giáo Chủ đạo Cao Đài chọn làm nơi khai đạo. Tòa Thánh Tây Ninh ngày đó đã quy tụ được hàng hà sa số Nhân Kiệt về đây để chung tay xây dựng miền đất Thánh. Chỉ điểm sơ qua vài vị trong số chức sắc của đạo Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh vào thời điểm Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tay Bắc Việt, người ta đã thấy toàn là những người kiệt xuất:

*Ngài Phối Sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh) là cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng VNCH.
*Ngài Chánh Phối Sư Thượng Nhã Thanh là cựu Tỉnh Trưởng Hậu Nghĩa.
*Ngài Bảo Học Quân Nguyễn Văn Lộc, Viện Trưởng Viện Đại Học Cao Đài, là cựu Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hoà, và cũng từng là Luật sư của Toà Thượng Thẩm Sài Gòn.
*Ngài Bảo Y Quân Trương Kế An là Bác sĩ, v.v…(Trích trong Mười Năm Khảo Đảo)

Còn nhiều, nhiều lắm. Nhưng trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ muốn đề cập đến những Nhân Kiệt đã có công trong việc thành lập Viện Đại Học Cao Đài, một trường đại học thuộc Tòa Thánh Tây Ninh mà tôi đã đọc trong bài viết nói trên.

Ở Mỹ, tôi cũng từng làm nghề gõ đầu trẻ. Tuy chỉ là một cô giáo thuộc loại “chí mén” dạy đám con nít, nhưng lúc nào tôi cũng đau đáu quan tâm về việc bảo tồn Việt Ngữ và Văn Hoá Việt nơi hải ngoại để giữ lại cho các thế hệ sau này. Cho nên tôi đã tận dụng số kiến thức ít ỏi “mỏng dính mỏng tăng” của mình mà cố gắng viết để chuyển tải đến bạn đọc những gương hiếu học, vinh danh sự thành công của con em người Việt nơi hải ngoại, và những câu chuyện về Văn Hóa Việt, về tinh thần đạo đức Việt Nam. Mỗi lần đọc những tin tức tồi tệ đăng trên báo chí bên nhà, như chuyện học sinh mua điểm để vào đại học, hoặc chuyện “Tiếng Việt Bùi Hiền” cách viết tréo ngoe “cắt đầu đứt đuôi” đọc âm thanh nghe như… “tiếng ông Tập” thì tôi buồn lắm. Tôi hồi tưởng và nhớ đến nền giáo dục tuyệt vời thời Việt Nam Cộng Hoà mà tiếc, mà đau cho dân tộc mình. Thế nên khi đọc được mấy bài viết thuộc dạng... “đốt lò hương cũ” của hai vị cựu Giáo sư Đại Học Cao Đài, thì những “khói hương” về đạo, về đời, ngày xưa như thức dậy, như lan tỏa, như quyện vào hồn tôi, làm dâng lên một nỗi xúc động vô bờ.

Thời Việt Nam Cộng Hoà, dưới chính thể Tự Do, chuyện các tôn giáo mở trường đại học tư là rất dễ dàng. Điển hình là Viện Đại Học Vạn Hạnh của Giáo Hội Phật Giáo ở Sài Gòn, hay ở tỉnh như Viện Đại Học Đà Lạt của Giáo Hội Công Giáo Đà Lạt, và còn rất nhiều đại học tư khác.

Nhưng đối với Đạo Cao Đài của chúng tôi, một tôn giáo mới hình thành khi đó chỉ hơn bốn chục năm, còn rất non trẻ, tài chính khó khăn, mà Toà Thánh Tây Ninh lại nằm ở một tỉnh lẻ hẻo lánh, nơi mà cuộc sống của dân chúng còn nghèo khó thì chuyện mở một trường đại học cho “bài bản” thật không dễ dàng gì.

Vậy mà vùng đất “Địa Linh” này đã quy tụ được rất nhiều nhân kiệt trong việc giúp xây dựng Viện Đại Học Cao Đài cho Tòa Thánh Tây Ninh. Theo bài viết, thì số nhân kiệt chủ yếu này gồm có ngài Viện Trưởng Nguyễn Văn Lộc, cựu Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa; Phó Viện Trưởng Tiến Sĩ Mã Thành Công; và ba vị nữa đã định cư ở Hoa Kỳ sau ngày mất nước, mà những người này tôi cũng có biết vì sự nổi danh của họ và tôi rất tôn kính quý trọng.

Người thứ nhất là một trong hai tác giả bài viết “Viện Đại Học Cao Đài...,” cố GS Nguyễn Văn Trường. Ngài từng là cựu Bộ Trưởng Giáo Dục thời VNCH, và là quyền Viện Trưởng Đại Học Cao Đài ngày ấy. Tôi thật xúc động khi đọc “Lời bộc bạch” của GS Nguyễn Văn Trường, “Dân tộc, nhân bản, và khai phóng là phương châm chỉ hướng cho nền giáo dục của chúng ta thời bấy giờ. Nói khác hơn là trong một chừng mực nào đó, ta muốn cột giữ học sinh sinh viên ta trong lòng dân tộc, trong những giá trị ngàn đời của cha ông, mà ta thiết tha kính giữ. Con người mà chúng ta đào tạo cũng phải thấm nhuần tính người, tình người…” (trích: Viện Đại Học Cao Đài...)

Quả đúng như vậy. Người Việt chúng ta những ai đã từng đến trường ngày ấy đều biết,

nền giáo dục của thời Việt Nam Cộng Hòa, trước nhất là phải vì “dân tộc,” tôn trọng giá trị, bảo tồn và phát huy những truyền thống văn hóa hay, đẹp của đất nước, hầu lưu truyền cho các thế hệ tiếp nối, cho khỏi bị mai một và thay thế bằng các văn hóa ngoại quốc. Kế đến là “nhân bản.” Nền giáo dục VNCH luôn tôn trọng quyền tự do và quyền con người, không có sự kỳ thị, phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, hay chủng tộc. Mọi người dân đều có giá trị như nhau, đều có quyền được hưởng sự giáo dục công bình. Sau cùng là giáo dục “khai phóng.” Dù tinh thần dân tộc là trên hết, văn hóa dân tộc phải được bảo tồn, nhưng không bảo thủ, mà phải mở cửa đón tiếp và học hỏi những sự phát triển về khoa học kỹ thuật của các nền văn minh trên thế giới.

Cho nên, khi đọc GS Nguyễn Văn Trường, “Cột vào nhân bản, chưa đủ, cột thêm vào dân tộc,” và “Con người mà chúng ta đào tạo cũng phải thấm nhuần tính người, tình người…” thì tôi bỗng nhớ lại thuở xưa da diết. Phải nói rằng học sinh sinh viên thời VNCH đã được hưởng một nền giáo dục không thua gì Tây Phương như Hoa Kỳ và các nước văn minh trên thế giới. Họ được dạy về “nhân bản, về tình dân tộc, và về tính người, tình người” nên học sinh luôn tôn sư trọng đạo, với lòng yêu nước thiết tha. Ai học hành theo đuổi nghiệp văn chương cho... tới bến, thì làm thầy, dạy dỗ lớp trẻ hết lòng. Nếu theo đuổi nghiệp võ, họ đều là những vị anh hùng, những dũng tướng yêu nước, một lòng chiến đấu bảo vệ quốc gia, dầu chết cũng cam. Thời VNCH đâu có chuyện học trò đánh thày giáo, con đánh cha, cháu hành hạ bà... Tệ hơn nữa, là thanh niên ngày nay chỉ lo ăn chơi đàn đúm mà bỏ mặc, không cần để ý đến tình hình nước nhà nghiêng ngửa ra sao, như những tin tức chúng ta thường thấy nhan nhản trên báo chí bên nhà ngày nay. Cụ GS Nguyễn Văn Trường đã quy tiên năm 2018 tại Texas, Hoa Kỳ, nhưng công đức vô lượng và những lời vàng ngọc của người sẽ được mãi mãi lưu lại cho hậu thế.

Một người nữa mà tôi gọi là nhân kiệt vì ông cũng có công trong việc thành lập Viện Đại Học Cao Đài, là GS Nguyễn Văn Sâm. GS NV Sâm người Sài Gòn, đã từng dạy rất nhiều trường đại học thời VNCH, như Ðại Học Văn Khoa Sàigòn, Ðại Học Vạn Hạnh, Đại Học Hoà Hảo, Đại Học Cần Thơ... GS Sâm là nhà văn tiền bối tôi kính trọng, và vì có quen biết với Giáo Sư, nên tôi không ngạc nhiên chút nào về việc ông từng tận tình giúp xây dựng Đại Học Cao Đài. GS Sâm là người yêu Văn Hóa Việt, nhất là những bộ sách cổ chữ Nôm. Sang Mỹ ông vẫn tiếp tục làm nghề giáo, kiêm nhà văn và đã xuất bản rất nhiều sách, đặc biệt là nhiều sách phiên âm chữ Nôm ra Việt Ngữ cùng rất nhiều tác phẩm giá trị khác. Một lần, tôi hỏi “GS có lời khuyên gì cho những cây viết non trẻ của các thế hệ sau” Thì GS Sâm trả lời thật khiêm nhường, nhưng là những lời khuyên vàng ngọc rất hữu ích cho người mới tập viết văn:

“Tôi không dám có lời khuyên đến thế hệ đi sau, nhưng nguyên tắc cầm bút của tôi là tìm vui trong việc viết lách và nghiên cứu, cũng như sử dụng tối đa giờ giấc cho việc nầy. Cố đi với văn chương của mình suốt đời, không nửa chừng bỏ ngang vì bất cứ lý do gì, kể cả sự nghèo khổ bịnh tật, hay sự đánh phá của người khác. Quan trọng nhất, là tìm hướng viết đứng đắn, viết lách cẩn trọng, không viết vì tiền, vì thị hiếu của người nào, hay vì muốn có tiếng tăm, và sự đặt hàng mà mình thấy không hợp.”(Trích: Những Người Giữ Lửa –Phương Hoa, Việt Báo,09/2018)

Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm hiện là Trưởng Ban Văn Chương Viện Việt-Học Nam California, Hoa Kỳ. Với lòng yêu chữ nghĩa và văn hóa nước nhà ngút ngàn như thế, ngày đó GS NV Sâm đã “vượt núi trèo đèo” lặn lội từ Sài Gòn - Tây Ninh giúp cho Đại Học Cao Đài dù trong thời điểm thường xảy ra giao tranh, di chuyển nguy hiểm như lời của GS TS Mai Thanh Truyết trong bài viết, “Sự an ninh trên con đường Sàigòn Tây Ninh, chỉ 99 cây số, mà nghe đâu nó xuyên ngang chiến khu của VC.” Tấm lòng của các vị Giáo Sư này thật là xứng đáng được cảm kích và trân trọng.

Vị nhân kiệt sau cùng, hình như là nhân vật bận rộn và vất vả nhất cho Đại Học Cao Đài ngày ấy, theo như bài viết, là Giáo sư Tiến sĩ Mai Thanh Truyết. GS MT Truyết hiện sống ở Hoa kỳ, là một khoa học gia lỗi lạc, nhà môi trường, nhà diễn giả nổi tiếng khắp năm châu. Tôi đã đọc rất nhiều tác phẩm, theo dõi nhiều YouTube phỏng vấn, các bài báo, trên TV... rất giá trị của GS Truyết về môi trường, về nghệ thuật sống, đạo đức, làm thế nào để giữ cái tâm con người trong sáng, giáo dục con người bảo vệ hành tinh xanh của chúng ta. Có một bài viết của GS MT Truyết viết trong “Ban Nghiên Cứu Khảo Cứu Vụ” của đạo Cao Đài mà tôi rất tâm đắc, trong đó GS đã nhận chân ra cái, “Giá trị độc đáo của Đạo Cao Đài là nhận ra điểm chung chính yếu của mọi tôn giáo. Một khi đã nhìn thấy điểm chung đó rồi ta vượt khỏi mọi dị biệt của các tôn giáo khác nhau là “thấy Đạo.”(Trích: Nét Độc Đáo Của Giáo Lý Cao Đài). Ngoài ra, còn phải nói đến lòng yêu nước. Xuyên suốt qua các tác phẩm của GS TS Mai Thanh Truyết, ngoài những vấn đề về môi trường, GS luôn tỏ ra lo lắng, tìm giải pháp cho một Việt Nam Tự Do Độc Lập nơi quê nhà...

Ngày đó, GS TS MT Truyết làm Giám Đốc Học Vụ của Đại Học Cao Đài. Mới du học từ Pháp về, được nhận dạy ở Viện Đại Học Sài Gòn với mức lương cao, mà GS vẫn bỏ nhiều thời gian trong những ngày nghỉ để lên Tây Ninh giúp cho Đại Học Cao Đài và chỉ nhận mức lương tượng trưng “bằng lương của một binh nhì” trong khi làm việc cật lực, vì GS thấy đại học khi ấy mới hình thành nên còn rất nghèo và thiếu thốn.

Bàn tay của những nhân kiệt Tây Ninh này quả thật là chứa đầy sức mạnh, và tinh thần vì dân vì nước vì lương tâm của những nhà giáo dục. Hãy đọc những gì GS TS Truyết viết để thấy những việc làm của quý vị Giáo Sư ngày ấy khó nhọc đến cỡ nào, “Chương trình học, quy chế sinh viên, giáo sư, thời khóa biểu, thi cử trong niên học và cuối niên học, mời thầy, phòng thí nghiệm, tất tất đều phải xây dựng từ zero...” Sau sáu tháng “ăn chay nằm đất” (lời GS Truyết) làm việc với hàng nghìn công nhân, những tín đồ thiện nguyện với những buổi ăn trưa đạm bạc, thì một Viện Đại Học có thể gọi là đầy đủ “với Phân Khoa Nông Lâm Súc, Phân Khoa Thần Học, và Phân Khoa Sư Phạm, trong một dãy lầu ba tầng, kiêm thêm bốn Phòng thí nghiệm, Hóa, Lý, Sinh Vật gồm Động vật và Thực vật, và Địa chất, cùng một giảng đường lớn sừng sững toạ lạc trên mảnh đất cằn cỗi Tây Ninh.” GS Truyết kể lại. Điều giá trị là, chương trình giảng dạy của hệ hai năm (Cao Đẳng) và hệ bốn năm (Cử Nhân) đều được soạn thảo dựa trên tiêu chuẩn Quốc Gia với cả nghìn sinh viên theo học.

Một câu khiêm nhường trong bài viết của TS Mai Thanh Truyết mà tôi đã học được thật nhiều từ ý nghĩa của nó, “Đây là một bài học quý giá cho người viết vì đã nhận thức được rằng cần phải có Chánh Kiến, Chánh Tâm, Chánh Định và một tâm hồn Vô Ngã mới có thể thực hiện những việc làm nho nhỏ trên...” khi nói về những việc thật to lớn GS đã làm cho ĐH Cao Đài. Đây là thuyết dạy đạo của nhà Phật, của các bậc chân tu, mà một Giáo Sư đã thấm nhuần được “Chánh kiến, chánh tâm, chánh định, và có tâm hồn vô ngã” thì có thể nói đó là người sống dưới chính thể Tự Do, đầy nhân bản, và sống gần “những nhà tu hành, phẩm hạnh cao,” như lời GS Mai Thanh Truyết.

Tóm lại, chuyện hình thành Viện Đại Học Cao Đài Tây Ninh như một kỳ tích, đã khiến tôi tin tưởng rằng vùng đất Tây Ninh linh thiêng đã quy tụ nhiều bậc kỳ tài về giúp cho đồng bào và đồng đạo. Tuy Viện Đại Học Cao Đài chỉ tồn tại có mấy năm (1971-1975) nhưng nó rất xứng đáng được đứng chung hàng ngũ các Viện Đại Học thời Việt Nam Cộng Hòa.

Xin kính cám ơn nhị vị cựu Giáo Sư: Hương linh cố GS Nguyễn Văn Trường, và GS TS Mai Thanh Truyết đã cho kẻ hậu bối này cơ hội viết dăm điều tản mạn về Đại Học Cao Đài và về vùng Thánh Địa Tây Ninh, dù hiện tại Viện Đại Học Cao Đài đã “đi vào lịch sử.” Không biết giờ đây sau cuộc bể dâu, vùng đất Tây Ninh có còn được gọi là “Địa Linh” như ngày trước? Và nếu có, thì liệu miền Đất Thánh còn quy tụ được những vị chức sắc Chơn tu và những Nhân Kiệt yêu nước thương dân hết lòng như các vị trước đây?

Mong thay...

Phương Hoa

Tài liệu tham khảo:

Mười Năm Khảo Đảo:
Viện Đại Học Cao Đài Và Chúng Tôi…
Đại Học Cao Đài Và Tôi:

Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2024

Vì Ai Đây Duyên Nợ?

 
 
Thơ & Thơ Tranh: Ý Nga

Vầng Trăng Thu Chia Nửa

Tôi có một mùa thu
Mùa êm đềm nỗi nhớ
Đèn trung thu rực rỡ
Sáng khung trời ước mơ.

Tôi chia nửa vầng trăng
Một bên là chốn cũ
Bên kia vào giấc ngủ
Tìm lại chốn xa xưa.

Tôi cắt nửa cái bánh
Nửa giấu trong nỗi nhớ
Nửa cất vào tuổi thơ
Đã mất từ bao giờ.

Tôi chia ánh trăng rằm
Hai khung trời vời vợi
Em và tôi vẫn đợi
Ánh trăng đêm gọi mời.

Cắt xén cả áng mây
Làm thuyền đưa em đến
Bến sông buồn xa vắng
Dòng sông trôi êm đềm.

Tôi chia hai vần thơ
Vần đầu theo nỗi nhớ
Vần sau cho tình cũ
Hoài niệm đêm trung thu.

Tế Luân

Thu Sóc Trăng

Gần 25 mùa thu ở xứ Người
Biết bao kỷ niệm bồi hồi trong tim!
Sóc trăng thành-phố diệu êm,
Đã từng nuôi dưỡng lòng tin một thời.

Giờ đây huyện Mỹ-tú xa xôi,
Mùa thu lại đến, đất trời hớ hênh!
Sông bà Luôi con nước bập bềnh,
Khi lên khi xuống rỉ rên đêm ngày!

Thu ơi, cõi đời như trở bàn tay,
Nhưng thu muôn thuở, có hay chăng tình!
Nắng thu sưởi ấm lòng mình
Hơi thu tắm gội tâm tình nghĩa nhân!

Quê nghèo, xóm nhỏ ái ân,
Giúp ta yên tỉnh gội trong tình đời!
Bao mùa thu rèn luyện, gọt trui,
Hồn ta sảng khoái, làn hơi xuân về.

Sóc trăng ơi,ruộng mùa, bụi chuối, bờ tre
Tình thu lai láng, nắng về thênh thang.
Trung thu, trăng thủ thỉ ánh vàng,
Cho ta cất giấu kho tàng vào tim!!

Tô Đình Đài


Giới Thiệu Tuyển Tập Nhà Văn Việt Hải: Văn Chương - Vang Bóng Một Thời


Trước năm 2005, tôi đọc vài bài viết ký tên Vương Thư Sinh, Hoàng Tiểu Ca với lối hành văn nhẹ nhàng, trong sáng nên rất thích. Khi hỏi người bạn đồng khóa, nhà văn Dương Viết Điền cùng ở Los Angeles, cho biết đó là nhà văn Trần Việt Hải. Hè năm 2005, tôi ra tờ Cali Weekly, mời người bạn thân Nguyễn Ngọc Chấn làm chủ bút, và ngỏ ý với Việt Hải làm tổng thư ký, anh vui vẻ nhận lời. Năm 2008, tôi phụ trách Section B của nhật báo Saigon Nhỏ, mỗi ngày với chủ đề riêng, Thứ Bảy là Văn Học Nghệ Thuật, tôi cần bài gì và Việt Hải gợi ý cho tôi viết bài gì đều đáp ứng suốt 7 năm.

Việt Hải viết nhanh, ngoài văn chương, khi yêu cầu viết thêm mục gì, hôm sau có ngay. Từ đó tình bạn văn giữa hai chúng tôi cùng góp mặt trên văn đàn từ Texas sang California. Nếu tính trung bình mỗi năm Việt Hải viết khoảng hai chục bài (ngắn, dài) thì trong hai thập niên qua với số lượng rất nhiều. Nhưng bạn tôi không chịu in sách mà là một trong những người bạn thân “xúi’ tôi thực hiện tác phẩm.

Việt Hải là “con chim đầu đàn” trong nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian vì vậy trong nhóm nầy có hai bạn văn (Phạm Thái & Khánh Lan) tự nguyện thực hiện Tuyển Tập Văn Chương - Vang Bóng Một Thời làm món quà kỷ niệm nhân ngày sinh nhật Việt Hải bước sang tuổi thất thập sau 28 năm bị stroke (1996), “Tri ân và tuyên dương nhà văn Việt Hải” (Phạm Thái). Với Khánh Lan, “Đây là một tác phẩm đòi hỏi người viết một công trình nghiên cứu kỹ lưỡng, đòi hỏi nhiều thời gian và sự kiên tâm”. Nểu “xúi” Việt Hải thực hiện có lẽ chờ đến… “Tết Công Gô” (trước năm 1975 thường nói đùa đợi mòn con mắt).

Tuyển Tập Văn Chương - Vang Bóng Một Thời của Việt Hải dày 418 trang, gồm ba mươi hai bài viết, Trang Thơ Việt Hải và hình ảnh lưu niệm. Hình thức: trình bày trang nhã, đẹp, giấy trắng, hình màu trông bắt mắt. Nội dung với nhiều thể loại biên khảo văn chương, điện ảnh, khoa học, sáng tác, đa dạng.

Trong tuyển tập có các bài viết của Kiều My, Dương Viết Điền, Bích Phượng Paris, Nguyễn Thị Phương Hiền, Ngô Thiện Đức, Cảnh Thiên… và Khánh Lan nên tôi cảm thấy đầy đủ, không có gì viết thêm về Việt Hải. Tựa như ngày xưa đời nhà Đường, nhà thơ Lý Bạch đến Hoàng Hạc Lâu đọc bài thơ Thôi Hiệu viết trên vách đá đã thốt lên: “Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc. Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu...”.

Trần Việt Hải sinh năm Quý Tỵ (1953) tại Gò Dầu, Tây Ninh (trong bài viết gần đây của tôi: Tiểu Tử, Nhà Văn Gìn Giữ Hồn Quê Tây Ninh) mang lại niềm hãnh diện trên mảnh đất nầy. Song thân có 8 người con (3 trai, 5 gái).

Nơi chốn nầy: Tây Ninh Quê Tôi của Việt Hải “Tây Ninh là quê hương tôi, vì tôi ra đời tại đó, dù không sống tại đó lâu, nhưng những năm tháng về nơi này nghỉ hè cũng đủ cho tôi cái tình thân ái của những năm tháng thiếu thời.

Tây Ninh, quê tôi đó, nơi mà người dân làm lụng cần cù lại mang đặc tính hiền hòa để tôi mãi mãi nhung nhớ về Gò Dầu, về Tây Ninh và vui sướng được nhìn nhận như một người con của vùng đất quê tôi. Mỗi con người được sinh ra ở miền nào đó, dù phì nhiêu hay nghèo khổ, dù được thiên nhiên đãi ngộ hay không thì nó vẫn là quê hương.

Nếu Việt Nam của tôi là một đất nước thiêng liêng luân lưu trong dòng huyết quản, đẹp đẽ về địa lý và văn hóa, thì Tây Ninh của tôi cũng trong sáng trong hai yếu tố đặc trưng đó: Chỉ vì Việt Nam và Tây Ninh đều là quê hương tôi, và tôi đã gắn bó bằng từng thớ thịt, bằng khối óc, bằng con tim hay bằng với cả hai yếu tố đặc trưng đã nêu từ tiềm thức xa xưa của thuở thiếu thời và của hoài niệm đã qua sẽ mãi mãi ngự trị trong tâm hồn tôi, cho nỗi niềm ấp ủ mang theo trong lòng người lưu lạc của quê hương đã thật sự xa xôi cách trở vì địa lý, để Tây Ninh quê tôi vĩnh viễn trong nỗi nhớ nhung hay trong niềm nhớ thương vô biên”.

Việt Hải theo học tại trường trung học Pétrus Ký, đại học Luật và đại học Kinh Thương Sài Gòn. Thân phụ là Hải Quân Đại Tá phục vụ tại Vùng I Duyên Hải, vì chu toàn trách nhiệm nên bị kẹt lại, bì tù 13 năm.

Sau biến cố tang thương tháng Tư năm 1975, hầu hết gia đình Quân Dân Cán Chính bị kẹt lại ở miền Nam Việt Nam phải cam chịu bao thảm họa, nghịch cảnh!

Trong thời gian phụ trách các tờ báo, tôi đã đăng tải và giới thiệu hồi ký qua các bài viết, sách của nhiều tác giả về thảm cảnh vượt biên. Can đảm, liều mình mạng sống để bỏ nước ra đi tìm cuộc sống mới trên mảnh đất tự do nơi xứ người với cái giá phải trả quá đắt! Trong đó rất nhiều hồi ký về vượt biển, ít bài viết về vượt biên đường bộ… Trong bài viết Chuyện Xưa Cầu Cá của Việt Hải, với tựa đề tưởng chừng nhắc lại thú vui nhưng là câu chuyện kể lại hành trình vượt biên cam go, nguy hiểm từ Tây Ninh sang Miên, Thái Lan năm 1982:

“Ngày bi thảm 30-4 đến, gia đình hai chúng tôi đều chia chung số phần hoạn nạn chia ly, đồng khổ như nhau. Cha tôi đi tù ngoài bắc Việt… Mẹ tôi thấy tình trạng Sài Gòn khó sống nên bà quyết định dọn về quê Tây Ninh…

Mẹ tôi có ý định như vượt biên tìm tự do hay sao đó mà bà muốn đem con cái về đây. Là con trai lớn tôi phụ mẹ nhảy ra đi làm kiếm tiền lo cho gia đình... Đời sống ở quận lỵ nhỏ rất dễ thương vì mọi người như quen biết nhau, thân nhau, tình cảm đậm đà hơn, không như ở đô thị lớn vốn đông đúc, xô bồ.

Thạch Sung, người trung gian đưa tôi sang Miên, rồi từ đó người ta đưa tôi sang đất Thái, ông khuyên tôi nên ngâm nắng cho sạm da, càng đen càng tốt vì tôi sẽ đóng vai thương buôn. Sáng sớm 5 giờ tinh sương Thạch Sung chở tôi và 2 cô gái người Việt gốc Hoa kiều Chợ Lớn từ Sài Gòn lên đây, chúng tôi sẽ cùng vượt biên giới sang tỉnh Svay Rieng của Miên, chúng tôi nghỉ ngơi, hôm sau hừng đông sang Prey Veng rồi tới thủ đô Phnom Penh…”.

Việt Hải ghi lại cuộc hành trình đường bộ quá bất trắc, nguy hiểm khi đến Miên vào lúc “Thời điểm 82 là chế độ Heng Samrin được Hà Nội dựng lên làm bù nhìn, trong khi đó phe đối kháng là 3 phe của Khmer đỏ của Pol Pot, Khmer xanh của Son San và phe tự do của cựu Hoàng Norodom Sihanouk… Chúng tôi bị tốp người mặc đồ bà ba đen quấn khăn rằn ngang cổ trang bị súng ống chận đường khi vào thị trấn Pailin. Tôi nghe nói nơi đây các phe phái Khmer đỏ, xanh hay phe Ông Hoàng thường va chạm kình chống nhau để tranh giành ảnh hưởng lên nhau”.

Chàng thanh niên cũng gan dạ khi gặp phải bọn Pol Pot bắt “Hỏi cung chúng tôi, sau đó họ bắt đầu lục xét trên thân thể từng người. Một tên bỗng giở trò bỉ ổi chĩa súng lột quần áo của 2 chị em Hồng Anh (vượt biên cùng Việt Hải) và nhăn răng cười trông thật đểu giả. Hai tên đệ tử giữ tay chân tay Lan Anh cười thật nham nhỡ, tên đầu đảng cởi bỏ xiêm y của y, ngực trần của y xăm hình chiếc đầu lâu và kế đó là hình đầu rắn hổ mang khè lửa đỏ, y lườm Lan Anh như chuẩn bị trò tồi bại, tên thứ 4 cầm cây AK-47 canh chừng tôi. Lan Anh khóc la dữ dội, trong khi Hồng Anh ôm mặt khóc xoay hướng khác.

Trong cơn vui say bọn chúng xao lãng tôi, tôi chụp nhanh lấy cái ghế gỗ bên cạnh giáng vào đầu tên lính canh tôi, y xiểng niểng, tôi chụp giật lấy khẩu súng vật lộn với hắn, hai tên cận vệ còn lại ôm súng lại nện vào người tôi túi bụi đến khi tôi ngất xỉu. Thế là chúng thỏa mãn khi hiếp hai chị em Hồng Anh, xong chúng bỏ đi…”.

Tai qua nạn khỏi, cuối cùng may mắn gặp được những người tốt bụng (Rin và vợ y là Neary) giúp đỡ “Ông cho biết ông theo phe chính phủ liên hiệp kháng chiến, y thuộc phe Son San, được Thái Lan và Mỹ giúp đỡ. Tôi nói tôi có cha bị người CS cầm tù. Ông gật đầu tỏ ý ông hiểu tôi” và “Tạm tá túc đến khi chúng tôi có dịp vượt sang Thái gặp phái đoàn Cao Ủy Liên Hiệp Quốc”… “… Khi phái đoàn Cao Ủy Tị Nạn đến, ba người chúng tôi là Hồng Anh, Lan Anh và tôi vì biết Anh ngữ nên được ông trại trưởng người Thái tuyển dụng làm liên lạc viên cho làng cầu cá Rinsons”. Để đáp ân tình của người cứu mạng “Tôi xin phái đoàn Cao Ủy ưu tiên cho 4 người trong gia đình ông Rin, 4 người trong gia đình ông Shou và chúng tôi cứu xét đơn chúng tôi xin đi Mỹ… Chúng tôi đậu phỏng vấn dễ dàng…

Ngày bay sang Mỹ, cả nhóm chúng tôi 11 người đi chung trên chuyến phi cơ về hướng San Francisco, nơi có mẹ Hồng Anh cư ngụ. Gia đình ông Shou được Hội Cứu Trợ Người Hmong bảo trợ về Fresno, gia đình ông Rin được Hội Thân Hữu Người Cao Miên bảo trợ về Stockton. Nghiã là chúng tôi sẽ định cư tại những vùng đất không xa nhau theo phạm vi thật bao la của xứ Hoa Kỳ…”.

Khi Việt Hải tị nạn tại Mỹ, thân phụ anh còn ở trong lao tù, anh theo đuổi việc hành và tốt nghiệp kỹ sư, lập gia đình với Lệ Hoa. Anh làm việc trong công ty, ông boss có hai bằng tiến sĩ và điều hành hai công ty, thấy anh có khả năng nên khuyên tiếp tục lấy MS sẽ giao cho cho công việc mới, thay ông. Vì vừa đi làm vừa tiếp tục học hành, có lẽ quá phí sức nên năm 1996 anh bị stroke và đến năm 1998 hai lần bị cerebral hemorrhage stroke bị liệt đôi chân phải ngồi xe lăn (wheelchair)! Trong khi đó vợ chồng anh có hai con trai (3 tuổi và 1 tuổi), quá bất hạnh!

Nhà thơ Phùng Quán hai bài thơ Chống Tham Ô Lãng Phí và Lời Mẹ dặn viết năm 1956. Trong vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, ông đã phải đánh đổi gần như cả cuộc đời mình với 15 năm lao động cải tạo và 32 năm treo bút. Ông viết hai câu thơ để đời: “Có những phút ngã lòng. Tôi vịn câu thơ và đứng dậy…” thì Việt Hải đã vịn vào viết lách để tồn tại trong cuộc sống, không những vậy mà đã đóng góp cho nên Văn Học Nghệ Thuật hải ngoại. Gần đây vợ tôi phải mỗ võng mạc và bị vấp ngã nứt xương đầu gối phải ngồi xe lăn, tôi làm Mr. Mom từ mọi việc trong nhà, di chuyển… Tôi nghĩ đến công việc của chị Lệ Hoa, rất cảm phục. Có lần tôi chia sẻ điều nầy với chị và chị nói đùa “nghiệp mà anh”, và chưa bao giờ nghe chị than vãn. Nhớ nhé, sau nầy có đầu thai và nên duyên vợ chồng, bạn phải trả “cái nghiệp” nầy suốt cả cuộc đời.

Trở lại với tuyển tập Văn Chương - Vang Bóng Một Thời của Việt Hải, với tôi chỉ là phần nhỏ trong hằng trăm sáng tác của anh nhưng đã tổng quát trong nhiều lãnh vực sáng tác.

Tôi có “món nợ ân tình” văn chương với Việt Hải nhưng không đáp lễ khi viết về anh vì ngại cho rằng “áo thụng vái nhau” mà thật ra vì đam mê trong nghiệp dĩ và cũng là thú vui tao nhã giữa anh em chúng tôi cùng sở thích và lý tưởng quốc gia nên chẳng có “áo thụng” gì cả mà là “áo tơi” vì đã trải qua quãng đời tơi tả nên “vịn vào viết lách” góp mặt cho đời.

Ngày 4/10 vừa qua, nhận được email của Việt Hải nhờ tôi trình bày poster ra mắt tuyển tập. Gớm, bạn tôi thật kín tiếng đến giờ phút cuối mới cho biết ngày ra mắt tuyển tập vào dịp sinh nhật anh 8/12/2024 tại Việt Life Club, 15609 Beach Blvd. Westminster vào trưa Chủ Nhật, 8/12 với các vị diễn giả uy tín.

Little Saigon, 11/11/2024
Vương Trùng Dương

Thứ Năm, 14 tháng 11, 2024

Xin Còn Gọi Tên Nhau - Nhạc Sĩ: Trường Sa - Trình Bày: Kim Trúc


Nhạc Sĩ: Trường Sa
Trình Bày: Kim Trúc

Thu Hương

 

Mùa thu tàn tạ tiếc thu hương
Qua đến lập đông đã tận tường
Sắc đẹp hoa xuân tuy vẫn nhớ
Tình nồng nắng hạ hết còn vương
Tử sinh từng trải đời vô ngã
Lão bệnh cưu mang cảnh đoạn trường
Man mác trong ta bao kỷ niệm
Cùng nhau chia sẻ một niềm thương.

Phan Thượng Hải
 (4/27/15)

Tâm Sự Bạn Già


Chớ than “khổ”! - Tuổi nào mà chẳng khổ?
Quan niệm “vui”. Thì Trưởng Lão vẫn vui!
Già khòm lưng, vì gánh nặng tình đời,
Đầu cúi thấp, tựa hồ bông lúa chín.

Tự biết mình cổ lỗ, nên nhường nhịn,
Tránh một bên, cho hậu duệ tiến lên.
Tre già măng mọc, thuận lẽ tự nhiên.
Con hơn cha, ấy là nhà đại phúc!

Mình đã tận hưởng, cuộc đời trần tục,
Giờ buông lơi, cho khỏe cái thân già!
Coi lợi danh bù trớt, kể như pha!
Qúi nhất đời người, ấy là "Tích Đức".

Xe bọc thép, cũng có ngày rỉ mục,
Huống chi người, tám chín chục xuân qua!
Chuyện đương nhiên, tai nghễnh ngãng, mắt nhòa,
Gối mỏi lưng đau, quên sau quên trước.

Hãy chấp nhận, miễn cứ “vui” là được!
Chống gậy phiêu phiêu, vui bước thong dong,
Ly cà phê sáng, ngắm mặt trời hồng,
Chung trà trưa, đậm hương sen hảo hạng!

Đêm say sưa, mơ theo ngàn sao sáng,
Bóng trăng ngà, lờ lững cánh mây bay.
Ngày ngâm nga, thú vị áng thơ hay,
Gió hiu hắt lắt lay cành liễu rũ.

Tri nhàn đãi nhàn tiện nhàn, là đủ,
Tâm an hòa - Chớ ủ rũ thiệt thân!
Chuyện tử sinh; ai cũng có căn phần…
Được sống ngày nào, cứ vui ngày nấy!

Trần Quốc Bảo

Richmond, Virginia

Hoa Xứ Cũ



Hoa xứ cũ thôi cài trên mái tóc
Nỗi niền đau ai khóc buổi chia tay
Gió thu đông thấm lạnh nỗi u hoài
Tình đã chết sao lần trao trọn vẹn!

Tưởng tình ta bao la như biển hẹn
Còn đời mình là thuyền nhỏ mong manh
Vui hạnh phúc thuyền yêu về bến mộng
Nhưng phũ phàng sống dữ dậy mênh mông!

Thuyền xa bến em ơi xa mãi mãi
Không bao giờ ta có buổi trùng lai
Hồn bơ vơ ôm trọn nỗi u hoài
Đời xa vắng trong nỗi sầu khắc khoải!

Không oán nhau hồn sầu khi ly biệt
Thuyền yêu thương sẽ lặng lẽ về xa
Là cố nhân mai nầy ta luyến tiếc:
- Đã một thời ta sống trọn tình ta!

28-5-2024
Hàn Thiên Lương
 

 Phát Hiện Đáng Kinh Ngạc:Tình Yêu, Thuốc Tiên Chữa Bệnh


Có thể bạn chưa tin nhưng nghiên cứu mới tại Mỹ cho thấy điều mà tế bào ung thư sợ nhất không phải là hóa trị hay bất kỳ loại thuốc trị ung thư nào.

Sau khoảng thời gian tiếp xúc với nhiều bệnh nhân từ nhiều quốc gia trên thế giới, Tiến sĩ David Hawkins - một bác sĩ rất nổi tiếng tại Mỹ cho biết, chỉ cần nhìn thấy bệnh nhân là ông biết người đó vì sao bị bệnh. Bởi trên cơ thể người bệnh không xuất hiện chữ “yêu”, thay vào đó là “khổ, hận, phiền muộn”.

Điều này có thể khiến nhiều người trong chúng ta không tin nhưng đây là kết luận hoàn toàn dựa trên cơ sở khoa học. Sau 20 năm nghiên cứu về cơ và vận động học, tiến sĩ Hawkins đã phát hiện ra “ý nghĩa của thang bậc chỉ số rung động trong cơ thể con người từ 1 đến 1000”. Tần số rung động chính là từ trường mà mọi người thường hay nói.

Theo đó, những người có suy nghĩ tiêu cực thường rất hay bị bệnh. Đó là những người có chỉ số rung động dưới 200.
Rất nhiều người bị bệnh vì không được yêu, ở họ chỉ thấy nỗi khổ và phiền muộn.

Phát hiện mới tại Mỹ cho thấy điều mà tế bào ung thư sợ nhất chính là "tình yêu".
Từ góc độ y học ông cho rằng, ý niệm có ảnh hưởng vô cùng lớn đến sức khỏe con người. TS Hawkins đã từng làm bệnh án cho hàng triệu người, các chủng loại người khác nhau trên toàn thế giới, tất cả đều cho một đáp án giống nhau.

Chỉ cần tần số rung động thấp hơn 200 là người đó sẽ bị bệnh. Trên 200 sẽ không bị bệnh, những suy nghĩ có tần số rung động trên 200 gồm có:

- Quan tâm đến người khác,
- Giàu lòng từ bi, nhân ái, hướng thiện,
- Bao dung, độ lượng, v.v.
Đây đều là những đức tính có tần số rung động rất cao, đạt đến mức 400 – 500.

- Mặt khác, người có tính căm ghét, phẫn nộ, hay chỉ trích, trách móc, đố kị, đòi hỏi người khác, luôn tư lợi cá nhân, ích kỷ, không màng đến cảm nhận của người khác sẽ có tần số rung động rất thấp. Tần số rung động thấp là nguyên nhân dẫn đến các bệnh như ung thư, tim v.v.

Lý giải cho điều này, tiến sĩ Hawkin cho biết những người hay oán giận, chỉ trích, hận thù người khác, tần số của họ chỉ là 30, 40. Trong quá trình trách móc người khác sẽ làm tiêu hao rất nhiều năng lượng của họ vì thế tần số rung động sẽ giảm thấp hơn 200, những người này có nguy cơ bị mắc rất nhiều loại bệnh.

Chỉ số rung động cao nhất là 1000, thấp nhất là 1. Tiến sĩ Hawkins cho biết trong cuộc đời của mình, ông chưa gặp ai có tần số rung động đạt ở mức cao nhất, 1000. Những người mà ông ấn tượng nhất cũng chỉ đạt mức 700. Năng lượng trong cơ thể họ rất dồi dào. Khi những người này xuất hiện, họ sẽ làm ảnh hưởng đến từ trường của cả khu vực xung quanh.

Nghiên cứu về chỉ số rung động của tiến sĩ David R.Hawkins.

Lấy ví dụ, như khi bà tu sĩ Teresa lên nhận giải thưởng Nobel Hòa bình, không khí cả hội trường rất tốt, tần số rung động rất cao, từ trường của bà làm cho cả hội trường đều cảm nhận được năng lượng tràn ngập sự tốt đẹp và cảm động từ bà.
Khi người có năng lượng cao xuất hiện, từ trường của họ sẽ làm cho vạn vật trở lên tốt đẹp hơn. Còn với người có suy nghĩ tiêu cực, không chỉ làm tổn hại chính họ mà còn làm cho từ trường xung quanh cũng bị xấu đi.

Một trường hợp cụ thể nhất về tác động của tình yêu với các tế bào ung thư chính là nghệ sỹ chơi đàn Violoncelle Sean của Nhật Bản. Khi bị bệnh ung thư, ông đã không ngừng chiến đấu với bệnh tật nhưng xem ra tình trạng ngày một nặng hơn.

Cuối cùng, ông quyết định thay đổi tâm trạng và chuyển sang yêu từng tế bào ung thư trong cơ thể mình. Ông lạc quan với cuộc sống, mọi việc ông đều luôn thấy vui vẻ và biết ơn các tế bào ung thư. Ông thấy cảm giác này rất tuyệt. Sau đó, ông đã quyết định yêu mọi thứ trong cuộc sống, bao gồm cả mỗi con người và mỗi sự việc.

Kết quả hết sức bất ngờ và nằm ngoài sức tưởng tượng của tất cả mọi người, toàn bộ các tế bào ung thư đã không còn nữa. Sau này, ông trở thành bác sĩ trị liệu nổi tiếng tại Nhật Bản. Đây chính là bản chất của cuộc sống: Tình Yêu.

Các nhà khoa học cho biết, căn nguyên của bệnh tật là do trong cơ thể người bệnh thiếu tình yêu thương. Bệnh tật bị đẩy lùi một cách vô điều kiện là nhờ ‘yêu và được yêu’.

Nhật Mỹ sưu tầm
(Nguyễn Tích Lai chuyển)

Thứ Tư, 13 tháng 11, 2024

Tiếng Thơ Hoa Vàng - Đinh Hùng: Nhà Thơ Của Siêu Thực Và Huyền Ảo - Diễn Ngâm&Trình Bày: Lê Diễm Chi Huệ


Diễn Ngâm& Trình Bày: Lê Diễm Chi Huệ 

Lời Chúc Mùa Thu

 

CHÚC mừng tất cả - Chào Thu
CHÚC vui, vui mãi, vi vu cùng đời
CHÚC ngày ngày cứ thắm tươi
CHÚC nhau tháng tháng vẫn ngời sắc Xuân
CHÚC văn sáng tác không ngừng
CHÚC thơ lồng lộng như rừng lá xanh
CHÚC tình đẹp mãi như tranh
CHÚC gia đình thảy hoàn thành ước mơ
CHÚC VĂN BÚT dệt đan tơ
CHÚC cùng bốn biển năm bờ chung tay
CHÚC nhau chờ đến một ngày
CHÚC ta trở lại sum vầy đoàn viên.

Phương Hoa
Nov 2024

Mưa Thu

 

Ngoài hiên tí tách tiếng mưa đêm
Những giọt thu loang ướt mạn thềm
Khơi nhớ những ngày xưa dấu ái
Gợi thuơng bao buổi cũ êm đềm
Không ai đồng điệu trao tâm sự
Chẳng bạn tri âm gửi nỗi niềm
Nhắm mắt trốn buồn tìm giấc điệp
Mà buồn nào vợi cứ buồn thêm

Nhất Hùng

Hai Lần Mồ Côi

 

Con chào đời không biết mặt cha
mười lăm năm -mẹ nuôi con khôn lớn
mười lăm năm-con chẳng biết cha mình!!

Bạn bè hỏi:"Sao mầy buồn thế?"
các bạn có mẹ có cha
còn tôi có mẹ không cha
làm sao vui được!!

Hôm nay mẹ lên xe hoa
ngày vui của mẹ-con tan nát lòng
Ông bà ngoại đưa mẹ về bên ấy
con vào phòng khóa cửa -khóc thương thân!!
Trong tiệc cưới bà con đông đủ
giới thiệu họ hàng-Sao chẳng có tên con??!!

Mẹ ơi
mẹ bỏ con rồi
con uống nước ngọt
mà môi con bầm!!

Mẹ ơi
trong đời -ai khổ hơn con?-
còn cha còn mẹ-HAI LẦN MỒ CÔI!!

Hoàng Long


Tây Giang Nguyệt 西江月– Chu Đôn Nho

 

西江月 - 朱敦儒 Tây Giang Nguyệt – Chu Đôn Nho

世事短如春夢, Thế sự đoản như xuân mộng,
人情薄似秋雲。 Nhân tình bạc tự thu vân.
不須計較苦勞心。 Bất tu kế giảo khổ lao tâm.
萬事原来有命。 Vạn sự nguyên lai hữu mệnh.

幸過三杯酒好, Hạnh quá tam bôi tửu hảo,
況逢一朵花新。 Huống phùng nhất đóa hoa tân.
片時歡笑且相親。 Phiến thời hoan tiếu thả tương thân.
明日陰晴未定。 Minh nhật âm tình vị định.

Chú Thích

1 Tây giang nguyệt 西江月: nguyên là bài hát của Đường giáo phường 唐教坊, sau này mới đổi thành từ điệu. Tên khác là “Bạch bình hương 白苹香”, “Bộ hư từ 步虚詞”, “Vãn hương thời hậu 晚香時候”, “Ngọc lô tam giản tuyết 玉爐三澗雪”, “Giang nguyệt lệnh 江月令”. Bài từ này có 50 chữ, đoạn trên và đoạn dưới đều có 2 bình vận và 1 diệp vận 葉韻 (diệp vận sẽ có cùng vận với vận bằng chính nhưng mang thanh trắc).

X T X B X T cú
X B X T B B vận
X B X T T B B vận
X T X B X T diệp vận

X T X B X T cú
X B X T B B vận
X B X T T B B vận
X T X B X T diệp vận

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

2 Thế sự 世事: việc đời.
3 Xuân mộng 春夢: giấc mộng mùa xuân.
4 Nhân tình 人情: tình người.
5 Bạc 薄: mỏng.
6 Thu vân 秋雲: mây mùa thu.
7 Bất tu 不須: không nên.
8 Kế giảo 計較: tính toán.
9 Khổ lao 苦勞: cay đắng nhọc nhằn.
10 Hữu mệnh 有命: có vận mệnh do trời định.
11 Hạnh 幸: may.
12 Huống 況: thêm nữa, phương chi.
13 Hoa tân 花新 = tân hoa 新花: hoa mới nở.
14 Phiến thời 片時: chốc lát.
15 Thả 且:tạm như thế.
16 Tương thân 相亲: thân thiết với nhau.
17 Âm tình 陰晴: tối tăm hay sáng sủa, ám chỉ đắc ý hay thất ý.

Dịch Nghĩa

Việc đời ngắn ngủi tạm bợ như một giấc mộng xuân,
Tình người bạc bẽo như đám mây mỏng mùa thu.
Không cần phải suy tính nghĩ ngợi mình gian lao khổ sở,
Vạn sự trong đời đều do số mệnh cả.

Ngày hôm nay gặp may uống ba chén rượu ngon,
Lại gặp được một bông hoa mới nở.
Trong chốc lát vui cười tạm thân thiết như thế,
Ngày mai mưa hay tạnh thì chưa biết được.

Phỏng Dịch

1/ Tây Giang Nguyệt - Đời Ngắn Ngủi

Thế sự ngắn như xuân mộng,
Mây thu mỏng tựa tình người.
Chẳng nên kể lể khổ trong đời.
Muôn việc đều là số vậy.

May uống ba ly rượu quý,
Lại thêm một đóa hoa tươi.
Tạm thân chốc lát mải vui cười.
Mưa tạnh ngày mai chưa thấy.

2/ Đời Ngắn Ngủi

Ngắn ngủi mộng xuân ngán việc đời,
Tình người mỏng tựa áng mây trôi.
Cần chi kể lể lao cùng khổ,
Vạn sự trong đời vận mệnh thôi.

May mắn uống ba chén rượu nồng,
Lại thêm gặp được đóa hoa hồng.
Vui cười chốc lát tạm thân thiết,
Mưa, tạnh ngày mai ai biết không?

HHD 
9-2019
***
Tây Giang Nguyệt

1/
Việc đời ngắn như xuân mộng
Tình người mỏng tựa phù vân
Nhọc lòng suy tính có đâu cần
Mọi sự đều do số mệnh

May được ba ly rượu quý
Gặp thêm một đóa hoa xuân
Thoáng vui cười, như thể tương thân
Chưa biết mai mưa hay tạnh

2/ Thương Thân

Việc đời ngắn ngủi mộng dư
Tình người mỏng tựa mây thu chuyển vần
Lao tâm suy tính đâu cần
Thảy do số mệnh quỷ thần khắc ghi

Gặp may rượu quý ba ly
Lại thêm một đóa tường vi nở gần
Thoáng vui cười tạm thiết thân
Mặc mai mưa/tạnh định phần ra sao!

Lộc Bắc
Oct24

Những Sự Kiện Và Nhân Vật Lịch Sử Tháng 11(Biên Soạn & Dịch: Thái Lan)

01/11

- Lễ Các Thánh (còn gọi là Lễ Các Thánh Nam Nữ hoặc Lễ Chư Thánh) là một lễ được tổ chức trọng đại vào ngày 1 tháng 11 hằng năm trong Kitô giáo Tây phương hoặc Chủ nhật đầu tiên sau Lễ Ngũ Tuần trong Kitô giáo Đông phương, nhằm tôn vinh toàn thể các vị Thánh Kitô giáo đang hưởng phúc trên thiên đàng, gồm tất cả những người có tên tuổi và những người không được lưu danh.


02/11/1963

- Ngày mất của Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1901 – 1963)
Ngô Đình Diệm là nhà chính trị Việt Nam Cộng hòa. Ông từng làm quan nhà Nguyễn thời vua Bảo Đại, sau đó làm Thủ tướng cuối cùng của Quốc gia Việt Nam, rồi trở thành Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa (Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam) sau một cuộc trưng cầu dân ý -từ 26/10/1955 sau khi thành công trong việc phế truất Bảo Đại.

Là một lãnh đạo theo Công giáo La Mã, ông bị những người theo Phật giáo phản đối vì cáo buộc thực hiện chính sách thiên vị Công giáo. Tháng 11 năm 1963, sau một loạt các vụ biểu tình bất bạo động để phản đối của Phật giáo gây ra những bất ổn nghiêm trọng, Ngô Đình Diệm cùng em trai của mình là Ngô Đình Nhu bị giết trong một cuộc đảo chính năm 1963 do các tướng lĩnh dưới quyền thực hiện, với sự hỗ trợ của tình báo Hoa Kỳ (theo wiki)

-1997 -Bão Linda tiến vào vịnh Thái Lan, khiến hàng nghìn người Việt Nam thiệt mạng, đa số là ngư dân Cà Mau ngư dân Cà Mau.

03/11/1957

- Liên Xô phóng tàu vũ trụ Sputnik 2, mang theo chó Laika, sinh vật sống đầu tiên từ Trái Đất được đưa lên vũ trụ.

04/11:

-1991- Cựu Đệ nhất phu nhân Philippines Imelda Marcos được Tổng thống Corazon Aquino ân xá và cho phép về nước.Tổng thống Marcos bị buộc tội ám sát Benigno Aquino, Jr., dẫn đến các cuộc cách mạng quyền lực dân buộc Marcos từ chức và phải sống lưu vong ở Hawaii. Sau cái chết của Ferdinand, Imelda và gia đình đã được Corazon Aquino ra lệnh ân xá. Bà trở lại Philippines và được cho phép trở lại diễn đàn chính trị. Bà được bầu vào Hạ viện năm 2005 đại diện cho Leyte và được bầu lại năm 2010 đại diện cho Illocos Norte. Mặc dù phải đối mặt với nhiều trường hợp liên quan đến cáo buộc tham nhũng, bà đã không bị giam giữ và tiếp tục sử dụng quyền lực. Khả năng sinh tồn qua những thăng trầm trong cuộc sống của bà đã khiến bà được gọi là “Bướm thép”.

-1995 – Thủ tướng Israel Yitzhak Rabin bị ám sát khi tham dự một cuộc vận động quần chúng tại Tel Aviv.

-2008 – Barack Obama giành thắng lợi trong kỳ Bầu cử tổng thống, trở thành người Mỹ gốc Phi đầu tiên thắng cử chức vụ này.

05/11:

- 1138 – Hoàng thái tử Thiên Tộ mới hai tuổi khi lên ngôi hoàng đế triều Lý, tức Lý Anh Tông, Đỗ Anh Vũ là người nhiếp chính.

- 2007 – Liên minh thiết bị cầm tay mở được thành lập do Google dẫn đầu, và ra mắt sản phẩm đầu tiên là hệ điều hành Android (hình).

06/11/1860

 Abraham Lincoln Được bầu làm Tổng Thống

07/11:

-1426 – Quân Lam Sơn giành thắng lợi trước quân Minh trong trận Tốt Động–Chúc Động diễn ra tại Đông Quan, nay thuộc Hà Nội, Việt Nam.

-1659 – Pháp và Tây Ban Nha ký kết Hiệp định Pyrénées, kết thúc chiến tranh kéo dài hơn 20 năm giữa hai bên.

-1867: Ngày sinh của Nhà hóa học người Ba Lan Marie Curie (1867-1934) sinh ra tại Warsaw, Ba Lan. Năm 1903, bà và chồng Pierre Curie đã nhận được Giải Nobel Vật lý vì phát hiện ra nguyên tố Radium.

- 1917 – Lenin lãnh đạo phe Bolshevik nổi dậy chống lại chính phủ lâm thời của Kerenskii, khởi đầu Cách mạng Tháng Mười.

-1944 – Franklin D. Roosevelt đắc cử nhiệm kỳ Tổng thống Hoa Kỳ thứ tư, tuy nhiên ông từ trần vào năm sau đó.

08/11:

-1278 – Trần Thánh Tông nhường ngôi Hoàng đế triều Trần cho Thái tử Trần Khâm, và trở thành Thái thượng hoàng.

-1656- Nhà thiên văn học và toán học Edmund Halley (1656-1742) sinh ra tại London. Ông đã nhìn thấy Sao chổi lớn năm 1682 (bây giờ được gọi là Sao chổi Halley) và dự đoán sự tái xuất hiện của nó vào năm 1758. Sao chổi Halley xuất hiện một lần mỗi thế hệ với thời gian trung bình giữa các lần xuất hiện là 76 năm. Người ta dự kiến nó sẽ xuất hiện trở lại vào năm 2061.

-1847-Tác giả Dracula Bram Stoker (1847-1912) sinh ra tại Dublin, Ireland.

-1889- Tiểu bang Montana được nhập vào Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ

- 1895 - Tia X (tia điện từ) được Wilhelm Roentgen phát hiện tại Đại học Wurzburg ở Đức.

-1900-Tác giả của Cuốn theo chiều gió Margaret Mitchell (1900-1949) sinh ra tại Atlanta, Georgia. Tiểu thuyết lãng mạn của bà về Nội chiến Hoa Kỳ đã bán được hơn 10 triệu bản, được dịch sang 30 thứ tiếng và được chuyển thể thành một trong những bộ phim ăn khách nhất mọi thời đại. Bà đã giành được Giải thưởng Pulitzer năm 1937 cho cuốn tiểu thuyết này, cuốn sách duy nhất của bà. Bà qua đời sau khi bị một chiếc ô tô đâm ở Atlanta.

-1927- Ngày sinh của tướng Nguyễn Khánh (1927-2013) nguyên là một cựu tướng lĩnh gốc Binh chủng Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị Liên quân Viễn Đông do Quân đội Thuộc địa Pháp mở ra tại Cao nguyên Trung phần Việt Nam. . Ông cũng là một chính khách, từng giữ chức vụ Quốc trưởng và Thủ tướng của Việt Nam Cộng hòa và kiêm luôn các chức Tổng tư lệnh và Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn 1964-1965, nhưng chỉ ít lâu thì chính ông bị các tướng khác đảo chính hạ bệ. Theo lệnh của Đại tướng Maxwell D. Taylor (người soạn thảo kế hoạch chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt Nam trong thời kỳ này), ông phải rời khỏi Việt Nam để lưu vong ở nước ngoài.

Đại tướng Nguyễn Khánh năm 1964

09/11

-1989 – Cộng hòa Dân chủ Đức tuyên bố mở cửa khẩu tại Bức tường Berlin, cho phép công dân của mình được sang Tây Berlin.

-1927- Những chú gấu Pandas khổng lồ được tìm thấy ở Trung Quốc

10/11:

-1775- Hải quân Hoa Kỳ được thành lập , là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ. Đây là một trong số 7 lực lượng đồng phục của Hoa Kỳ. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2008, Hải quân Hoa Kỳ có khoảng 331.682 người hiện dịch và 124.000 người trong lực lượng hải quân dự bị. Hải quân Hoa Kỳ có 284 tàu đang hoạt động và hơn 3.700 phi cơ. Hải quân Hoa Kỳ là lực lượng hải quân lớn nhất thế giới; tổng trọng tải hạm đội tác chiến của nó lớn hơn tổng trọng tải hạm đội tác chiến của 13 lực lượng hải quân lớn kế tiếp trên thế giới cộng lại. Hải quân Hoa Kỳ cũng có một đội ngũ hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới, với 10 chiếc đang phục vụ và một chiếc (USS Gerald R. Ford (CVN-78) đã được đóng và sẽ gia nhập lực lượng Hải quân vào năm 2019. Hải quân có lịch sử từ Hải quân Lục địa được thành lập trong thời Chiến tranh Cách mạng Mỹ (1775–1783) và bị giải thể từ từ và hoàn toàn sau chiến tranh. Hiến pháp Hoa Kỳ tạo cơ sở pháp lý để thành lập một lực lượng quân sự bằng cách giao cho Quốc hội Hoa Kỳ quyền lực “tạo ra và duy trì một lực lượng hải quân”.

-1975- Tàu SS Edmund Fitzgerald và toàn bộ thủy thủ đoàn bị chìm sau trận bão tuyết ở Hồ Thượng ( Lake Superior)Hồ Superior , kề cận với tỉnh Ontario (Canada) và tiểu bang Mỹ Minnesota về phía bắc và với hai tiểu bang Wisconsin và Michigan về phía nam, là hồ lớn và sâu nhất của Ngũ Đại Hồ ở Bắc Mỹ và lớn thứ ba thế giới (sau biển Caspi và hồ Baikal).

11/11:

- 1938 - Bài hát God Bless America của Irving Berlin được trình diễn lần đầu tiên. Ông đã viết bài hát này dành riêng cho nghệ sĩ giải trí phát thanh Kate Smith, người đã hát bài hát này trong chương trình phát thanh thường kỳ của cô. Bài hát này nhanh chóng trở thành bài hát yêu thích của người Mỹ và là một trong những bài hát được yêu cầu nhiều nhất của Smith.

1960 – Cuộc đảo chính quân sự do tướng Nguyễn Chánh Thi cầm đầu nhằm chống lại Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm bị dập tắt.

12/11:

-1942 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Bắt đầu Hải chiến Guadalcanal tại quần đảo Solomon giữa quân Đồng Minh và quân Nhật Bản.

- 1970 – Xoáy thuận Bhola đổ bộ tại bờ biển của Đông Pakistan, trở thành xoáy thuận nhiệt đới gây thiệt hại nhân mạng cao nhất trong lịch sử. (500,000)

-1972 - Hoa Kỳ đã chuyển giao căn cứ quân sự của mình tại Long Bình cho Nam Việt Nam, tượng trưng cho sự kết thúc của sự tham gia trực tiếp của quân đội Hoa Kỳ vào Chiến tranh Việt Nam.

- 1990 – Hoàng thái tử Akihito tiến hành lễ tức vị tại Hoàng Cư ở Tokyo, chính thức trở thành Thiên hoàng thứ 125 của Nhật Bản.

13/11:

-1832- Tàu điện đầu tiên đi vào hoạt động. Tàu điện hay xe điện mặt đất là một loại phương tiện chở khách công cộng chạy bằng điện trên các đường ray trên đường phố.

-1840: Họa sĩ người Pháp Claude Monet (1840-1926) sinh ra ở Paris. Ông là người tiên phong cho phong cách ấn tượng trong các bức tranh phong cảnh của mình, bao gồm loạt tác phẩm Haystacks, Poplars và Rouen Cathedral.
Jawaharlal Nehru (1889-1964) sinh ra ở Allahabad, Ấn Độ. Ông đã dành hơn 20 năm làm việc với Mahatma Gandhi để giải phóng Ấn Độ khỏi sự cai trị của Anh. Sau khi giành được độc lập vào năm 1947, Nehru trở thành thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ, phục vụ cho đến khi qua đời vào

- 1851 – Đội Denny đổ bộ tại Alki Point, sau đó chuyển đến một địa điểm nay trở thành thành phố Seattle, Washington, Hoa Kỳ.

-1889: Jawaharlal Nehru (1889-1964) sinh ra ở Allahabad, Ấn Độ. Ông đã dành hơn 20 năm làm việc với Mahatma Gandhi để giải phóng Ấn Độ khỏi sự cai trị của Anh. Sau khi giành được độc lập vào năm 1947, Nehru trở thành thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ, phục vụ cho đến khi qua đời vào

-1927- Đường hầm Holland bên dưới sông Hudson được khánh thành, nối liền Thành phố New Yor và New Jersey.

-1945: - Tướng Charles De Gaulle được bổ nhiệm làm tổng thống chính phủ lâm thời Pháp.

-2015 – Một loạt vụ tấn công có phối hợp xảy ra tại thủ đô Paris và khu ngoại ô Saint-Denis của Pháp, khiến 137 người thiệt mạng.

-1994 - Những hành khách trả tiền đầu tiên đã đi trên tuyến đường sắt mới qua Đường hầm eo biển Manche nối liền Anh và Pháp.

Năm 1964.

14/11:

-1965 – Chiến tranh Việt Nam: Mở màn Trận Ia Đrăng tại Pleiku, một trong những trận đánh lớn đầu tiên giữa quân đội Hoa Kỳ và miền Bắc Việt Nam

-1968-Đại Học Yale nhận sinh viên nam -nữ học chung.

-16/11/1988 – Chính trị gia Pakistan Benazir Bhutto là người phụ nữ đầu tiên được bầu chọn tự do trở thành người lãnh đạo chính phủ của một nhà nước Hồi giáo.

17/11:

-1869 – Kênh đào Suez kết nối Địa Trung Hải và Biển Đỏ chính thức được hoàn thành sau gần 11 năm xây dựng.

-1950 – Đạt Lai Lạt Ma đời 14 là Tenzin Gyatso chính thức thân chính tại Tây Tạng ở tuổi 15, xử lý sự vụ chính trị và tôn giáo.

-1970 – Nhà phát minh người Mỹ Douglas Engelbart nhận bằng sáng chế đối với chuột máy tính đầu tiên.

-18/11/1928- Phim hoạt họa Tàu hơi nước Willie của Walt Disney – ChuộtMickey& Minnie được “sinh ra”.

19/11:

-1863- Diễn văn Gettysburg huyền thoại của Abraham Lincoln

“Lincoln đã làm cách mạng cuộc Cách mạng, đem lại cho nhân dân một quá khứ mới để sống trong đó, và quá khứ này sẽ thay đổi tương lai một cách vĩnh cửu” như nhà sử học Garry Wills viết. Bài diễn văn có sức tái tạo lại đất nước sau cuộc nội chiến tàn phá nhất trong lịch sử Mỹ. Nó toát lên tinh thần trách nhiệm cao cả nhất của tất cả những người còn sống đối với sự nghiệp tự do của dân tộc mà vì nó biết bao chiến sĩ đã ngã xuống. Nó khẳng định lại lý tưởng Tự do, Bình đẳng đã được khắc ghi trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ, của tinh thần Jefferson, như những chân lý bất di bất dịch, và khẳng định tinh thần Trách nhiệm của mọi công dân bảo vệ và vun đắp lý tưởng đó.

-1493 – Cristoforo Colombo đổ bộ lên hòn đảo mà ông đặt tên là San Juan Bautista, ngày nay là Puerto Rico.

- 1969 - Những bản tin đầu tiên xuất hiện rằng quân đội Mỹ ở Việt Nam đã thảm sát thường dân ở Làng Mỹ Lai vào tháng 3 năm

20/11:

-1902 – Nhà báo thể thao Géo Lefèvre đề xuất tổ chức một giải đua xe đạp mà sau này mang tên Tour de France .

-1926- Ngày sinh của tướng Tôn Thất Đính (1926-2013), nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị do Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra ở miền Trung Việt Nam, được sự cố vấn và hỗ trợ huấn luyện của Quân đội Pháp. Ông cũng là một Nghị sĩ giữ chức vụ cao trong Quốc hội Việt Nam Cộng hòa. Là một trong số ít các sĩ quan được ưu ái và thăng cấp tướng trong thời kỳ Đệ Nhất Cộng hòa. Tuy nhiên, ông lại là một trong những nhân vật chủ chốt trong cuộc Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963 và có liên quan đến cái chết của Ngô Đình Diệm, Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa, và người em ruột là Cố vấn Ngô Đình Nhu.

-Ngày 20 tháng 11 năm 1945 - Phiên tòa xét xử tội ác chiến tranh Nuremberg bắt đầu, trong đó 24 cựu lãnh đạo của Đức Quốc xã bị buộc tội âm mưu tiến hành chiến tranh xâm lược, tội ác chống lại hòa bình, tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người.

- Nhà thiên văn học người Mỹ Edwin Hubble (1889-1953) sinh ra tại Marshfield, Missouri. Ông là người tiên phong trong khái niệm về vũ trụ đang mở rộng. Kính viễn vọng không gian Hubble được đặt theo tên ông để vinh danh ông. Kính viễn vọng này được triển khai từ tàu con thoi Discovery vào năm 1990, cho phép các nhà thiên văn học nhìn xa hơn vào không gian so với những gì họ từng thấy từ kính viễn vọng trên Trái Đất.

- Robert F. Kennedy (1925-1968) sinh ra tại Brookline, Massachusetts. Ông là em trai của Tổng thống John F. Kennedy và từng là tổng chưởng lý của ông. Sau vụ ám sát Tổng thống Kennedy, Robert Kennedy trở thành Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ từ New York. Năm 1968, ông tìm kiếm sự đề cử của đảng Dân chủ cho chức tổng thống và dường như đang hướng đến chiến thắng, nhưng đã bị một sát thủ bắn chết ở Los Angeles, ngay sau khi giành chiến thắng trong cuộc bầu cử sơ bộ ở California.

-1985 – Microsoft phát hành hệ điều hành máy tính cá nhân Windows 1.0, là phiên bản đầu tiên của dòng Microsoft Windows.

-1998 – Nga phóng mô đun Zarya từ Sân bay vũ trụ Baikonur ở Kazakhstan, là mô đun đầu tiên của Trạm vũ trụ Quốc tế được phóng.

21/11:

-1009 – Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế Đại Cồ Việt, lập ra triều Lý, tức Lý Thái Tổ.

- 1694: Nhà văn và triết gia người Pháp Voltaire (1694-1778) sinh ra tại Paris (tên thật là Francois-Marie Arouet). Ông là người ủng hộ nhân quyền và đã xuất bản tác phẩm Philosophical Letters mang tính bước ngoặt vào năm 1734. Các tác phẩm khác bao gồm; Zadig, The Century of Louis XIV, The Russian Empire under Peter the Great, The Philosophical Dictionary và Essay on Morals.

-1970 – Chiến tranh Việt Nam: Hoa Kỳ tiến hành tập kích một trại giam ở Sơn Tây nhằm giải thoát các tù binh chiến tranh người Mỹ.

22/11:

-1497 - Nhà hàng hải người Bồ Đào Nha Vasco Da Gama, chỉ huy một hạm đội gồm bốn con tàu, trở thành người đầu tiên đi thuyền vòng qua Mũi Hảo Vọng trong khi tìm kiếm tuyến đường biển đến Ấn Độ

-1963- Tổng thống John F Kennedy bị ám sát o Dallas, Texas khi đoàn xe ô tô hộ tống đi ngang thành phố.

John Fitzgerald Kennedy (1917 –1963), thường được gọi là Jack Kennedy hay JFK, là tổng thống thứ 35 của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, tại nhiệm từ năm 1961 đến năm 1963. Sự kiện Kennedy bị ám sát vào ngày 22 tháng 11 năm 1963 là một bước ngoặt trong dòng lịch sử Hoa Kỳ vào thập niên 1960, khi khắp thế giới thương tiếc ông và các nhà lãnh đạo củanhiều quốc gia đã đi theo quan tài đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng.

Là chính khách trẻ tuổi nhất từng đắc cử tổng thống Hoa Kỳ , Kennedy cũng là tổng thống trẻ tuổi nhất đã qua đời.

Các sự kiện chính trong nhiệm kỳ tổng thống của Kennedy gồm có: vụ khủng hoảng hỏa tiễn Cuba, xây dựng Bức tường Berlin, cuộc chạy đua thám hiểm không gian, giai đoạn đầu của Chiến tranh Việt Nam và Phong trào Dân quyền.

-2005 – Angela Merkel trở thành nữ thủ tướng đầu tiên của Đức.

-2010 – 347 người thiệt mạng trong sự kiện hỗn loạn trên một cầu tại Phnôm Pênh, Campuchia trong dịp Lễ hội Bon Om Touk.

23/11:

-1940 – Tại Liên bang Đông Dương, Nam Kỳ khởi nghĩa bùng nổ tại Nam Kỳ nhằm chống lại Pháp.

24 /11:

- Diễn viên phim kinh dị Boris Karloff (1887-1969) sinh ra tại London (vai William Henry Pratt). Nổi tiếng nhất với vai diễn trong phim Frankenstein và The Bride of Frankenstein.

Lễ Các Thánh tử đạo Việt Nam (Công giáo Rôma).

-1859 – Nguồn gốc các loài của nhà tự nhiên học Charles Darwin được xuất bản lần đầu tiên.

-1894 – Tôn Trung Sơn thành lập “Hưng Trung hội” tại Honolulu, Hawaii, tiền thân của Trung Quốc Quốc dân Đảng.

-1992 – Hoa Kỳ hạ quốc kỳ và rút các binh sĩ cuối cùng khỏi Căn cứ Hải quân vịnh Subic tại Philippines.

25/11/1915 – Albert Einstein công bố bài báo hoàn thiện về phương trình trường của thuyết tương đối rộng.

26/11:

-1607: John Harvard (1607-1638) Người sáng lập trường Đại học Harvard sinh ra tại London.

-1703 - Một "Cơn bão lớn" kéo dài hai ngày tấn công miền nam nước Anh, gây ngập lụt sông Thames và sông Severn, giết chết ít nhất 8.000 người.

-1701 - Anders Celsius (1701-1744) sinh ra tại Thụy Điển. Ông đã phát minh ra thang nhiệt độ Celsius (Celsius) thường được sử dụng ở châu Âu.

27/11:

- 1607: John Harvard (1607-1638) Người sáng lập trường Đại học Harvard sinh ra tại London.

-1895 – Tại Paris, Alfred Nobel ký bản di chúc cuối cùng, trong đó dành tài sản của mình để lập ra giải Nobel sau khi qua đời. 1895 – Tại Paris, Alfred Nobel ký bản di chúc cuối cùng, trong đó dành tài sản của mình để lập ra giải Nobel sau khi qua đời.

- 1789 - Ngày lễ đầu tiên của người Mỹ diễn ra, được Tổng thống George Washington tuyên bố là Ngày Lễ Tạ ơn, một ngày cầu nguyện và tạ ơn công khai để bày tỏ lòng biết ơn đối với sự thành lập thành công của nền cộng hòa Mỹ mới.

-1940- Ngày sinh của Lý Tiểu Long Bruce Lee (1940-1973)

-1942- Ngày sinh của James Marshall “Jimi” Hendrix (tên khai sinh Johnny Allen Hendrix)- 1942 –1970 là một nghệ sĩ ghi ta người Mỹ gốc Phi. Hendrix được đánh giá là một trong những nghệ sĩ âm nhạc có ảnh hưởng nhất trong lịch sử nhạc rock and roll.

Hendrix trình diễn trên chương trình truyền hình Hà Lan Hoepla vào năm 1967

28/11/1470 – Lê Thánh Tông ban chiếu lệnh xuất quân đánh Chiêm Thành, chuẩn bị tiến hành Chiến dịch đánh Chiêm.

-29/11/1864- 1864 - Quân đội Hoa Kỳ do Đại tá John Chivington chỉ huy đã tấn công và giết chết ít nhất 400 người da đỏ Cheyenne và Arapahoe tại Sand Creek, Colorado sau khi họ đã đầu hàng

- Nhà văn người Mỹ Samuel Clemens (1835-1910) sinh ra tại Florida, Missouri. Ông đã viết sách dưới bút danh Mark Twain bao gồm The Adventures of Tom Sawyer, The Adventures of Huckleberry Finn và The Prince and the Pauper.

-/1899 – Joan Gamper thành lập FC Barcelona, nay là một trong những câu lạc bộ thành công nhất của bóng đá Tây Ban Nha.

30/11:

-Winston Churchill (1874-1965) sinh ra tại Cung điện Blenheim, Oxfordshire, Anh. Trước Thế chiến II, ông đã giữ một số chức vụ chính trị cấp cao tại Anh, bao gồm cả Đệ nhất Chúa tể của Đô đốc. Vào tháng 5 năm 1940, ông trở thành Thủ tướng, tuyên bố, "Tôi không có gì để cống hiến ngoài máu, nước mắt, công sức và mồ hôi." Những bài phát biểu đầy cảm hứng của ông, kết hợp với các kỹ năng chính trị và chiến lược quân sự của ông đã đưa nước Anh vượt qua cuộc chiến và giúp quân Đồng minh vượt qua cuộc tấn công của Đức Quốc xã và đánh bại Hitler.

-1999 – ExxonMobil chính thức được hình thành từ Exxon và Mobil, sau một thỏa thuận sáp nhập trị giá 73,7 tỷ USD được ký từ một năm trước đó.

Biên Soạn và Dịch: Thái Lan

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

Chút Nắng Hoàng Hôn - Nhạc &Tiếng Hát: Diệu Hương

 

Nhạc &Tiếng Hát: Diệu Hương

Mùa Cũ

  

Biết ai có nhớ về ngôi trường cũ
Biết bao mùa thường hội đủ buồn vui
Biết lòng ngập ngừng e ấp bờ môi
Biết bối rối ánh mắt yêu thầm nói

Biết ai có nhớ về con đường cũ
Biết bao lệ sầu dâng lũ trùng vây
Biết cuộn sóng tình tràn nhớ nhung đầy
Biết định mệnh lưu đày lênh đênh ly xứ

Biết có ai trở về căn nhà cũ
Biết nỗi đau vần vũ phá tâm can
Biết ngoài tươi thay dạ tiếng thở than
Biết tim vừa hoang mang vừa thổn thức

Biết cảm nhận hồi sinh từ bờ vực
Biết ánh trăng soi thức bóng đêm đen
Biết mùi quen hương xưa thoáng qua rèm
Biết hạnh phúc êm đềm ... len mùa cũ...

Kim Oanh

31.7.2024

Chỉ Còn Tình Yêu


 

Có tình yêu nào không nhớ mong
Là say đắm nhau giấc mơ hồng.
Đừng sầu em nhé tình bay mất,
Ngơ ngẩn tìm nhau giữa phố đông.
Em vẫn như ngàn hoa bên đời,
Cười lên để dáng hoa lả lơi,
Chớ buồn làm úa màu trăng biếc,
Tình thoáng bờ môi cũng ngát đời.
Em bước trong nắng chiều
Có nghe tháng ngày vàng theo mùa xưa?
Thôi, đừng hẹn thời gian
Biển tình mênh mông nẻo về hư không.
Ôi, mùa thu mắt em
Buồn vương thiết tha thắm phương trời mộng.
Gần em ngày tháng không tên,
Mộng đời phai, mộng đời phai,
 

Đỗ Bình