Nối nghiệp nhà xưa học một kinh,
Chẳng ngờ lạc đến áng công danh.
Thân xưa đã có duyên hương lửa,
Lộc nặng ơn nhờ đức thánh minh.
Lỗi bước, già nên chịu dại,
Hay cơ, trẻ khá làm thinh?
Phúc nho hoạ trong đời trị, (*)
No ấm cũng nhờ phúc thái bình.
Khi đọc bài thơ này, có lẽ sẽ không ít người ngạc nhiên cùng những thắc mắc tuần tự hiện ra. Đây là thơ thuộc thể loại nào, sao lại có đến 3 câu 6 chữ? Có phải do viết thiếu chăng? Hay là thơ Đường Luật phá cách?
(*) Những câu có chữ viết đứng trong các bài thơ của bài viết này là những câu 6 chữ.
Năm 1407 vua nhà Minh bên Tàu sai tướng Trương Phụ sang thôn tính nước ta. Lúc bấy giờ, nước ta đang vào triều đại Hồ Quý Ly quốc hiệu Đại Ngu. Cuộc chống giặc ngoại xâm thất bại, vua tôi nhà Hồ bị bắt gần hết. Trong số các quan lại thoát được có Nguyễn Trãi. Nơi ông trốn lánh lâu nhất là Côn Sơn. Trong khoảng thời gian này, ngoài việc lên kế sách để đuổi giặc xâm lăng, ông còn thay đổi dạng thơ Đường luật thành một dạng riêng cho mình. Không những thế, các vua, quan từ đó về sau cũng sáng tác Thơ Đường Luật dạng này. Đó là dạng thơ mà ngày nay gọi tên là " Đường Luật Thất Ngôn Xen Lục Ngôn".
Ức Trai Lão Tiên Sinh đã đan xen bao nhiêu câu 6 vào? ở vị trí nào? như thế luật Bằng Trắc và Niêm, Đối có thay đổi không?
Để giải đáp những câu hỏi trên, chúng ta cùng tìm hiểu qua thơ của Nguyễn Trãi trong quyển "Quốc Âm Thi Tập".
Quốc Âm Thi Tập gồm hơn 250 bài thơ Nôm, không có tựa đề, chỉ đánh số thứ tự. Để tiện cho việc tìm kiếm, có nơi đã tuỳ theo nội dụng đặt cho tựa đề. Những bài thí dụ bên dưới hầu hết tôi lấy từ Thivien.net.
- Chỉ có 1 câu 6 chữ, như "Ngôn Chí 2". Đó là câu thứ 8:
Vừa sáu mươi dư tám chín thu,
Lưng gầy da xí tướng lù khù.
Lâm tuyền thanh vắng bạn Sào Hứa,
Lễ nhạc nhàn chơi đạo Khổng Chu.
Bát cơm xoa nhờ ơn xã tắc,
Gian lều cỏ đội đức Ðường Ngu.
Tơ hào chẳng có đền ơn chúa
Dạy láng giềng mấy sĩ nhu
Bài thơ trên làm theo luật Trắc. Tác giả đã bốt đi chữ dầu của câu 8
- Bài "Tự Thán 15", có 2 câu 6 chữ nhưng không đi liền nhau.1 câu nằm trên cặp Đề, 1 câu nằm ở cặp Kết:
Lòng người man xúc nhọc đua hơi,
Chẳng cóc nhân sinh gửi chơi.
Thoi nhật nguyệt đưa qua mấy phút,
Áng phồn hoa họp mấy trăm đời.
Hoa càng khoe tốt, tốt thì rữa,
Nước chớ cho đầy, đầy ắt vơi.
Mới biết doanh hư đà có số,
Ai từng cải được lòng trời.
Đây là bài thơ Luật Bằng, Tác giả có thể đã bỏ chữ thứ nhất hoặc chữ thứ 5 ( nếu không áp dụng Nhất Tam Ngũ Bất Luận, thì tác giả bỏ bớt chữ thứ 5) trong các câu 6 chữ
- Bài Thơ có 2 câu Đề là 6 chữ như bài "Mạn Thuật 4" dưới đây:
Giũ bao nhiêu bụi, bụi lầm,
Giơ tay áo đến tùng lâm.
Rừng nhiều cây rợp hoa chầy động,
Đường ít người đi cỏ kíp xâm.
Thơ đới tục hiềm câu đới tục,
Chủ vô tâm ỷ khách vô tâm.
Trúc thông hiên vắng trong khi ấy,
Năng mỗ sơn tăng làm bạn ngâm.
Chúng ta thấy bài thơ này đều đúng theo Đường Luật Thi luật Trắc, Tác giả chỉ bỏ bớt chữ thứ nhất ở hai câu Đề
- Bài "Thuật Hứng 24" dưới đây có cặp Thực 6 chữ
Công danh đã được hợp về nhàn
Lành dữ âu chi thế nghị khen
Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then
Bui có một lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.
Đây là bài thơ Luật Bằng, như thế ở hai câu Thưc, Tác giả đã bỏ bớt chữ thứ 5
- Một của câu Đề và Cặp Thực là 3 câu 6 chữ như bài" Tự Thán 10"
Tơ tóc chưa hề báo sở sinh,
Già hoà lủ, tủi nhiều hành.
Chông gai nhẹ đường danh lợi,
Mặn lạt no mùi phế tình.
Sách một hai phiên làm bậu bạn,
Rượu năm ba chén đổi công danh.
Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa,
Cầu một ngồi coi đời thái bình.
Đây là bài thơ có Luật Trắc, Như vậy Tác giả đã bỏ chữ thứ nhất ở 3 câu 6 chữ.
- Ở bài "Ngôn Chí 2" có 4 câu 6 chữ ở các cặp Luận và Kết
Lểu thểu chưa nên tiết trượng phu,
Miễn là phỏng dáng đạo tiên nho.
Chà mai đêm nguyệt dậy xem bóng,
Phiến sách ngày xuân ngồi chấm câu.
Dưới công danh đeo khổ nhục,
Trong dại dột có phong lưu.
Mấy người ngày nọ thi đỗ,
Lá ngô đồng thuở mạt thu.
Bài Thơ Luật Trắc, Như vậy các chữ thứ nhất của 4 câu cuối đã được Tác giả bỏ
- Đặc biệt bài "Mạn Thuật Kỳ 4" có đến 6 câu 6 chữ, chỉ còn 2 câu kết là 7 chữ
Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay,
Trong thế giới phút chim bay.
Non cao non thấp mây thuộc,
Cây cứng cây mềm gió hay.
Nước mấy trăm thu còn vậy,
Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn nay.
Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết,
Bui một lòng người cực hiểm thay.
Với bài thơ này, cũng là bài thơ Luật Trắc, thế nhưng tác giả không chỉ loại bỏ chữ đầu câu 1, mà còn có chữ thứ 5 các câu 1, 3, 4. Riêng hai câu 5 và 6, có thể Tác giả đã bỏ các chữ thứ 6 trong câu cho đúng với Luật Thơ Đường.
Tóm lại, Qua các thí dụ và nhận xét trên, ta có thể rút ra những nguyên tắc trong thơ Đường Luật Thất Ngôn Xen Lục Ngôn như sau:
- Vẫn giữ đúng Luật của Đường Luật Thi.
- Số câu 6 chữ có thể nằm trong giới hạn từ 1 đến 6 câu (sở dĩ tôi dùng chữ có thể vì tôi đã được đọc một bài thơ Lục Ngôn lại viết theo Đường Luật Thi, nhưng quên ghi chép lại, giờ tìm chưa ra).
- Các câu 6 chữ nằm bất cứ vị trí nào trong bài thơ.
- Để theo đúng Luật Đường Thi và khi ngâm nga nghe cho êm, nên Tác giả đã tuỳ nghi mà bỏ các chữ ở các vị trí khác nhau. Nhưng thông thường, các chữ thứ nhất và thứ 5 được bò nhiều nhất.
Trải dài suốt triều Hậu Lê cho đến thế kỷ 19, dạng thơ này được khá nhiều nhà thơ sử dụng:
1/Lê Thánh Tôn
Người Ăn Mày
Góp giang sơn xách một quai,
Lượng bằng sông biển chẳng từ ai!
Vườn đào ngõ mận từng len lỏi,
Gác tía lầu son mặc nghỉ ngơi.
No biết thế tình mùi mặn nhạt,
Quản bao nhật nguyệt (ngày tháng) bữa đầy vơi!
Vương tôn thuở trước làm sao tá?
Bái tướng phong hầu, ấy những ai?
2/ Hội Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú
Đêm Trung Thu Không Trăng
Lượt là vằng vặc rạng tơ hào,
Phải mịt mù nay vì cớ nao? Nhân bởi hắc vân ngất phủ,
Há rằng ngọc thỏ hay lao.
Hằng Nga lấy đấy làm rông vát,
Thục Đế tuồng ni kẻo ước ao.
Mựa đắng đêm nay chăng thấy nguyệt,
Thu qua đông đến quế càng cao.
3/ Tác giả Khuyết Danh Thời Hậu Lê
Mẫu Đơn
Dưỡng cẩn vườn tiên của hạ thường
Trăm hoa tươi tốt đã khiêm nhường
Thức tươi chiếm được xuân thiên hạ
Giá trọng kham khoe đất Lạc Dương
Khắp trong đời khen quốc sắc
Hơn chúng bạn khải hoa vương
Dầu thêm hay thốt hay cười nữa
Thấy mặt trong lòng những đoạn trường
4/ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Cương Thường
Trời phú tính ở mình ta,
Đạo cả cương thường năm mấy ba.
Tôi hết ngay, chầu chức chúa,
Con hằng thảo, kính thờ cha.
Anh em mựa nỡ điều hơn thiệt,
Bầu bạn cho hay nết thực nhà.
Nghĩa vợ chồng xem rất trọng.
Ở đầu phong hoá phép chưng nhà.
5/ Nguyễn Hữu Chỉnh
Ngôn Ẩn Thi Tập Bài 1
Trên đầu đã rối tóc hoa râm
Lẩn thẩn còn chơi đám cát lầm
Nẻo lợi danh tuy dở bước
Lòng trung hiếu hãy bền cầm
Khôn chửa đủ mùi kim cổ
Dại nào lường máy thiển thâm
Miễn trọn cho cùng nhân sự chửa
Thôi thôi rất lẽ thuận thiên tâm
Ngoài ra Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng có bài thơ thuộc dạng này:
Cùng Quan Tế Tửu Họ Phạm
Kìa ai tỉnh, kìa ai say (*)
Kìa ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Khoan khoan xin hãy dừng tay lại
Chớ mó hang hùm nữa mất tay
(*) có bản viết:
Ông đồ tỉnh ông đồ say
Sao ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày...
hay là:
Say hay tỉnh tỉnh hay say
Trêu hoa ghẹo nguyệt giữa ban ngày...
Tính đến nay, đã tìm được gần 1000 bài thơ Thất Ngôn Xen Lục Ngôn cho hậu thế. Nhìn chung, có 4 nhà thơ làm dạng này nhiều nhất. Đó là Nguyễn Trãi với Quốc Âm Thi Tập, vua Lê Thánh Tôn và Hội Tao Đàn với Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập, Nguyễn Bỉnh Khiêm với Bạch Vân Quốc Ngữ Thi Tập và Nguyễn Hữu Chỉnh với Ngọc Ẩn Thi Tập.
Là một người yêu nước, có tinh thần tự chủ mạnh mẽ, Nguyễn Trãi muốn thoát ra khỏi sự lệ thuộc quá nhiều vào Thơ của Tàu, Ông đã tự mở cho mình một lối đi riêng bằng cách sửa đổi số chữ trong bài Đường Luật Thi. Con đường được vạch ra, ông đi trước, các thế hệ sau nhất là những thi nhân Triều Hậu Lê đã hưởng ứng mạnh mẽ, tỏ rỏ sự độc lập của đất nước .
Trong ý nghĩ cá nhân, tôi thường hỏi: tại sao thế hệ chúng ta không hưởng ứng và phổ biến sự bất khuất của Nguyễn Trãi nói riêng và dân tộc Việt nói chung, qua dạng Thơ Đường Luật Thất Ngôn Xen Lục Ngôn này.
Huỳnh Hữu Đức biên soạn