Thơ Tranh: Kim Oanh
tiêu đề Nhãn
- BIÊN KHẢO
- CÂU ĐỐI
- CỔ THI
- GIA CHÁNH
- GIẢI TRÍ
- HÌNH ẢNH HỘI NGỘ
- HÌNH ẢNH NAY
- HÌNH ẢNH XƯA
- HỘI HỌA
- KHOA HỌC
- LỊCH SỬ
- LỜI HAY Ý ĐẸP
- LƯU NIỆM
- NHẠC
- SỨC KHOẺ
- SƯU TẦM
- THƠ
- THƠ CẢM TÁC
- THƠ DỊCH
- THƠ DIỄN NGÂM
- THƠ NHẠC
- THƠ PHỔ NHẠC
- THƠ SƯU TẦM
- THƠ TRANH
- THƠ TRANH NGHỆ SĨ
- TIN BUỒN
- TIN VUI
- VĂN
- VŨ HỐI THƯ HỌA
- VƯỜN THƠ VIÊN NGOẠI
- XƯỚNG HỌA
- YOUTUBE
Thứ Bảy, 5 tháng 11, 2016
Xa Xứ
Cây đa. Ngàn rễ đâm lòng đất
Như tấm lòng người với Bồng Sơn
Đa bám làng, tôi đi bám đất
Đất và làng, thương quá quê hương
Trần Hoài Thư
Xướng Họa: Giọt Sầu Rơi
Bài xướng:
Giọt buồn đọng ướt bờ mi
Mưa chiều xuân nhớ người đi chưa về
Bờ sông con nước làng quê
Biết anh còn giữ câu thề năm xưa.
Biện Công Danh
***
Các Bài Họa:
Giọt thương giọt nhớ tràn mi
Giọt sầu giọt đắng ai đi quên về
Giọt đầy giọt cạn sông quê
Giọt trong giọt đục bội thề người xưa
Kim Oanh
***
Ai lau lệ ướt hoen mi
Còn đâu chung bước đường đi lối về
Ôm lòng phận gái chân quê
Hỡi người năm cũ vẹn thề hương xưa
Kim Phượng
*Cựu Học Sinh Tống Phước Hiệp Vĩnh Long các niên khoá 1969 và 1976
Giọt thương giọt nhớ tràn mi
Giọt sầu giọt đắng ai đi quên về
Giọt đầy giọt cạn sông quê
Giọt trong giọt đục bội thề người xưa
Kim Oanh
***
Ai lau lệ ướt hoen mi
Còn đâu chung bước đường đi lối về
Ôm lòng phận gái chân quê
Hỡi người năm cũ vẹn thề hương xưa
Kim Phượng
*Cựu Học Sinh Tống Phước Hiệp Vĩnh Long các niên khoá 1969 và 1976
Phố Chiều
Cứ chiều xuống sầu về không dứt
Khiến tơ lòng bức rức từng dây
Buồn dâng theo gió cùng mây
Lang thang phố vắng, lòng đầy nhớ thương!.
Chiều thứ bảy phố phường im ắng
Lá chết nằm hóng nắng trên mui
Đêm qua mưa gió sụt sùi
Một màu ảm đạm ai xuôi lạnh về
Mây chiều xám lê thê xuống thấp
Suơng trong ngần phủ khắp đồi thông
Những con đường nhỏ song song
Bóng chiều lãng đãng, xa trông mơ hồ
Chiều hoang lạnh bơ phờ hoa lá
Mấy nóc nhà lạnh giá mờ sương
Chút gì nhớ nhớ thương thương
Cánh chim bạt gió dặm trường quan san
Hoàng hôn xuống một làn sương mỏng
Từng bước thầm lạc lỏng hồn ai
Thì thầm tiếng gió bên tai
Bóng chiều như giục, u hoài không vơi
Trông chiếc lá vàng rơi trên cỏ
Lòng bùi ngùi biết tỏ cùng ai
Có gì xanh mãi không phai?
Vô thường, vô ngã mệt nhoài trần gian
MaiLoc
***
Chiều Thu Cali
Âm u xám ngắt mưa vừa tạnh,
Gió nhẹ lay cành, nhánh vướng dây.
Trông vời non nước chân mây,
Dòng xe xuôi ngược chốn này mến thương.
Đọc báo đài xe đường chạy suốt,
Lá rơi vàng rớt tuột xe mui.
Thức đêm nấu nước sôi sùi,
Pha trà quạnh quẽ trời xuôi rét về.
Chiều xế bóng đồng quê ẩm ướt,
Chạnh hơi thu rét mướt rừng thông.
Tha hương gặp bạn đồng song,
Thân nhau đất khách mộng mong hải hồ.
Anh em rãnh đánh cờ khuây khỏa,
Kẻo bơ vơ vàng đá lạnh sương.
Định cư cảnh ngộ phi thường,
Quê hương cách trở đoạn trường quan san.
Chiều xuống chậm bàng hoàng tuổi hạc,
Quãng ngày xanh năm, tháng đợi ai.
Chuông chùa nghe vẳng bên tai,
Hoàng hôn thoáng chốc đêm dài đầy vơi.
Lá rơi lả tả vàng bờ cỏ,
Lòng bâng khuâng ôn cố thương ai.
Tuổi xuân rồi cũng mờ phai,
Vô thường, buông bỏ, cảm hoài thế gian.
Mai Xuân Thanh
Ngày 25 tháng 10 năm 2016
Đất Phương Nam I - Vương Quốc Phù Nam
(Vương Quốc Phù Nam)
Tổng Quan Về Sự Thành Hình Của Vùng Đông Nam Á:
Trong suốt quá trình thành hình lục địa và biển của địa cầu thì mực nước biển toàn cầu đã nhiều lần dâng lên rồi hạ xuống với sự sai biệt lên tới 150 mét. Vùng lãnh thổ của vương quốc Phù Nam tại miền Nam Việt Nam ngày nay, tức là vùng Thủy Chân Lạp, nằm ở hạ lưu sông Mékong, có quá trình thành hình với 3 thời kỳ chính, đó là Cổ Sinh Muộn, Trung Sinh, và Tân Sinh.
Đây là các thời kỳ Late Paleozoi, Mesozoi và Kainozoi. Vào cuối thời Tân Sinh, do hoạt động kiến tạo mới, vỏ trái đất trong khu vực nầy bị nứt nẻ nhiều chỗ đã gây ra sự sụt lún, làm chênh lệch các lớp đá. Hậu quả là hai khối được nâng lên. Riêng tại Việt Nam, có khối nâng Nam Trung Phần; ở Campuchia có khối nâng ở phía Đông; và ngay giữa hai khối nâng nầy là một khối lún sụt, gồm những vùng trũng lớn, mà sông Mékong và những phụ lưu của nó chảy ngang qua đây với vô số những bùn, đất sét, và cát... lấp đầy các vùng trũng nầy để hoàn thành lớp trầm tích Plio-Pleistoxen cách nay khoảng 700.000 năm.
Riêng tại vùng Biển Đông, mà các bản đồ hàng hải quốc tế gọi là South China Sea(1), cách nay khoảng trên dưới 20.000 năm thì diện tích của vùng biển nầy chỉ bằng phân nửa diện tích hiện tại. Lúc ấy vùng Đông Nam Á bây giờ nối liền với Nam Dương và Úc Châu qua vùng lục địa Sunda, và các vùng vịnh Bắc Việt và vịnh Thái Lan là những cánh đồng trũng nước. Khi các khối băng thạch ở hai cực Bắc Nam của địa cầu tan rã thì mực nước biển dâng lên thật nhanh, khiến phần lớn vùng thềm lục địa Việt Nam hiện tại bị chìm dưới mặt nước biển.
Riêng tại vùng mà bây giờ là Nam Phần Việt Nam trở thành một vùng trũng ngập nước quanh năm tại các vùng Cần Giờ, Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng và Cà Mau. Nếu không nhờ sự bồi đắp của dòng Mekong thì có lẽ giờ nầy các vùng nầy hãy còn chìm dưới mực nước biển. Ngay khi mực nước biển dâng cao, các bộ tộc sống rải rác trong vùng lục địa Sunda đang bị ngập nước phải chạy về các vùng cao hơn ở hướng Tây, hoặc chạy xuống các hải đảo phía Nam.
Riêng những bộ tộc chạy về phía Tây thì co cụm lại để thành lập những vương quốc trong vùng. Theo William Meacham, khi nghiên cứu bản đồ địa hình đấy biển cho biết, lúc xưa bờ biển Đông tương đối bằng phẳng. Khoảng 18.000 năm trước diện tích biển Đông chỉ bằng phân nửa ngày nay(2).
Khi băng đá hai cực địa cầu tan rả thì nước biển dâng lên nhanh. Vào khoảng 14.000 năm trước đây, nước biển cứ cao dần. Khi mực nước biển đạt đến gần mức độ hiện nay, chừng 25 mét, lúc nầy là lúc biển tiến, bờ biển đã lùi sâu vào lục địa. Rồi cách nay khoảng trên 10.000 năm, vùng đất nầy đã xảy ra các giai đoạn biển tiến và biển lùi. Cho đến khoảng năm 4000 trước tây lịch, hàng trăm ngàn dặm vuông lục địa đã bị chìm ngập dưới Biển Đông. Thế rồi từ đó đến nay với nhiều đợt biển tiến, làm cô lập các giồng đất cao(3). Hiện vẫn còn các di tích tại các giồng trong huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, nhất là Giồng Tân Hiệp. Sau đó, cách nay khoảng 5.000 năm, lại xảy ra hiện tượng biển lùi, mực nước biển rút dần. Trong khoảng từ 4.000 đến 2.700 năm trở lại đây, những dao động biển khá rõ rệt, những cồn cát miền duyên hải hạ lưu sông Mékong lại hiện ra, lộ hẳn lên khỏi mặt nước biển.
Tiếp theo đó là sự xuất hiện của các thảm thực vật, cũng như thế giới động vật đa dạng. Do tác động của sóng biển và dòng hải lưu, các đống sò điệp tụ lại tại các cồn mới nổi lên. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện tại vùng Cai Lậy các dĩa sò điệp, dấu vết của bờ biển xưa(4). Từ khoảng 2.700 năm trở lại đây, vùng đất miền Nam Việt Nam đi dần vào thế ổn định và định hình. Tuy nhiên, toàn vùng mà ngày nay là miền Tây vẫn còn chìm dưới mực nước biển, khoảng 0,4 mét, nên cư dân miền Đồng Nai không thể di cư xuống đây được, chính vì thế mà hồi nầy miền Tây Nam Phần vẫn chưa có người sinh sống. Chỉ đến khoảng đầu Tây lịch, khi nước đã rút xuống thì vùng nầy mới bắt đầu có cư dân. Cách nay khoảng 2.000 năm, người Malayopolynesia từ các đảo ngoài biển tràn vào tạo dựng văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam.
Trong khi đó, bờ biển miền Trung từ Thuận Hóa vào đến Bình Thuận (Phan Thiết) đã được định hình rõ ràng và gần giống như ngày nay. Tuy nhiên, bờ biển Nam Kỳ vẫn còn đang trong thời kỳ bồi đắp. Lúc đó chưa có bờ biển chạy từ Chân Bồ(5) đến Cà Mau và từ Cà Mau đến Hà Tiên, mà gần như là một đường thẳng chạy từ Chân Bồ đến Hà Tiên, phần còn lại chỉ là một cái biển thật cạn, một vùng trũng ngập nước quanh năm. Thời đó hải cảng lớn nhất của Phù Nam là Óc Eo chỉ cách bờ biển khoảng vài ba cây số, và các núi trong dãy Thất Sơn hiện nay là những núi nằm sát bờ biển, bằng chứng là người ta đã tìm thấy rất nhiều những vỏ sò biển trong vùng chân núi Núi Sập và chân núi Thất Sơn. Tuy nhiên, đến khoảng năm 350 sau Tây lịch, nước biển lại bắt đầu dâng lên từ từ, người Phù Nam đã phải tìm cách sống chung với lũ bằng cách đào thêm kinh rạch xả nước, đồng thời cất nhà sàn tránh lũ.
Đến năm 650, đột nhiên nước lũ dâng lên cao hơn 1 mét với tốc độ quá nhanh, khiến người Óc Eo không thể tiếp tục ở lại vùng châu thổ miền Tây được nữa, một phần đã dong buồm trở ra các hải đảo phía Nam, phần khác ở vùng tiếp giáp với miền Đông Nam Phần đã bỏ chạy lên phía Nam dãy Trường Sơn. Theo nhà địa chất học người Pháp tên H. Fontaine, do sự nóng dần của địa cầu, từ khoảng 7.000 năm trở lại đây, vùng Đông Nam Châu Á đã bị ảnh hưởng bởi quá nhiều đợt ‘Biển Tiến’ và ‘Biển Lùi’. Cuối Đại Pleistoxen đầu Holoxen có một đợt biển thoái, mực nước biển hạ thấp từ 100 đến 120 mét so với mực nước biển ngày nay, khiến cho toàn vùng Biển Đông chỉ còn là những vũng nước nhỏ. Tiếp đó là thời kỳ băng hà Wum cách nay từ 60 đến 11 ngàn năm. Tiếp theo là trên 500 năm băng tan, từ khoảng 11.000 đến 10.250 năm trước, khiến nước biển bắt đầu dâng cao lại. Đến khoảng 4850 năm trước Tây lịch, nước biển tiếp tục dâng lên bằng với mực nước biển ngày nay.
Sau thời kỳ nầy là bốn đợt hải xâm và hải thoái:
Đợt ‘Hải Xâm Holoxen I, từ năm 4850 đến 1650 trước Tây lịch, kéo dài 3.200 năm với 3 giai đoạn đỉnh cao 4 mét năm 3900 trước Tây lịch, 3 mét năm 2950 trước Tây lịch, và 2 mét vào năm 2350 trước Tây lịch’. Tiếp theo đó là đợt hải thoái Holoxen 1, trong khoảng thời gian 500 năm, từ khoảng 1650 đến 1150 năm trước Tây lịch. Mực nước biển hạ thấp nhất là 0,8 mét vào năm 1400 trước Tây lịch. Đợt hải thoái ở miền Nam bán đảo Đông Dương cách nay 3.350 năm tương đương với đợt hải thoái 2 mét ở Crane Key cách nay 3.300 năm.
Đợt Hải Xâm Holoxen II trong thời gian 300 năm, từ 1150 đến 850 trước Tây lịch. Đỉnh cao nhất xảy ra vào năm 950 trước Tây lịch. Tiếp theo đó là đợt hải thoái Holoxen 2, từ năm 850 đến năm 200 trước Tây lịch, với điểm cực tiểu xảy ra vào năm 550. Đợt Hải Xâm Holoxen III trong thời gian 150 năm, từ 200 đến 50 trước Tây lịch, mực nước cao nhất khoảng 0,4 mét vào năm 50 trước Tây lịch. Rồi đến đợt hải thoái Holoxen 3 trong thời gian 500 năm, với mực nước thấp nhất là 0,5 mét vào năm 200. Điều đáng chú ý là đợt hải thoái ở miền Nam bán đảo Đông Dương cách nay 1.750 năm tương đương với đợt hải thoái 3 mét ở Florida cách nay 2.000 năm. Đợt Hải Xâm Holoxen IV trong thời gian 800 năm, từ 350 đến 1150 sau Tây lịch, với mực nước cao trung bình khoảng 0,8 mét vào năm 650. Từ năm 1150 đến năm 1950, nước biển dao động 1 mét, được coi như là ổn định hơn các thời kỳ trước đó.
Đại Cương Lịch Sử Của Các Vùng Đất Mà Bây Giờ Là Nam Kỳ:
Trước khi tìm hiểu sâu hơn về vương quốc Phù Nam, tưởng cũng nên nhắc lại một điều rất quan trọng về ngọn nguồn nhân chủng của các dân tộc Phù Nam, Chân Lạp, Lâm Ấp, Nam Chiếu, Chà Và (Java) và Việt Nam. Các thư tịch cổ đời nhà Hán đã không nói gì nhiều về vương quốc Phù Nam, vì cho rằng Phù Nam nằm quá xa lãnh địa của người Hán, nên không cần phải chiếm cứ mà chỉ cần vương quốc nầy chịu đời đời thần phục là đủ. Cũng theo Hán Thư, vào khoảng những năm 144, 157, và 178 đã có nhiều cuộc khởi nghĩa của người Man Di ở huyện Tượng Lâm, huyện nằm về cực Nam của một trong 5 huyện của quận Nhật Nam.
Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa ấy đều bị dẹp yên. Nhưng theo sách Thủy Kinh Chú của người Trung Hoa thời nhà Ngụy chép rằng: “Đến những năm từ năm 190 đến năm 193, viên công tào huyện Tượng Lâm tên là Khu Liên đã nổi lên đánh phá huyện đường và giết chết quan huyện lệnh mà thành lập nước Lâm Ấp. Lúc ấy huyện Tượng Lâm về phía Nam có núi Đại Lãnh, và về phía Bắc có núi Ải Vân. Như vậy có lẽ Khu Liên nổi lên từ huyện Tượng Lâm, nhưng đã mở rộng bờ cõi về phía Bắc bằng cách đánh chiếm một số đồn trú nằm về phía Nam của Giao Chỉ, nên biên giới của Lâm Ấp mới chạy lên đến các vùng phía Nam của Thanh Hóa bây giờ. Thời Đông Hán (25-220 A.D.), Dương Phù đã viết quyển sách đầu tiên đề cập đến Phù Nam là “Dị Vật Chí”. Đến thời nhà Ngô (220-280 A.D.), theo Ngô Thư thời Tam Quốc, vào tháng chạp năm 243, vua Phù Nam là Phạm Chiên có sai sứ đến dâng nhạc công và phương vật cho vua Ngô Tôn Quyền (182-252 A.D.).
Đến khi nhà Ngô đánh chiếm Giao Châu và Cửu Chân, vua Ngô cũng đã sai người đến các nước ở phương Nam gồm Lâm Ấp và Phù Nam. Theo sách Lương Thư, Ngô Tôn Quyền sai Cu Ứng (Chou Ying) và Khang Thái (Kang Tai) đi sứ các nước phía Nam, trong số đó có Phù Nam. Sau khi đi sứ về, Khang Thái có viết quyển “Phù Nam Thổ Tục”, còn gọi là “Phù Nam Truyện”.
Cũng theo Thủy Kinh Chú thì vào năm 280 sau Tây lịch, thái thú Giao Chỉ là Đào Hoàng đã gửi sớ về triều xin đừng rút bớt quân đồn trú tại Giao Chỉ vì sợ rằng sẽ bị người Lâm Ấp tấn công. Trong thư có nói rõ là về phía Nam Giao Chỉ có 2 nước Lâm Ấp và Phù Nam tiếp giáp với nhau. Theo sử Nam Tề, người Phù Nam thường buôn vàng bạc, tơ lụa. Con cái nhà quí tộc thường mặc xà rông bằng lụa the. Đàn bà thì mặc một thứ áo vải luồn qua đầu. Người nghèo thì quấn một mảnh vải thô quanh mình. Họ làm nhẫn và vòn đeo tay bằng vàng, làm chén bát bằng ngọc. Họ đốn cây lấy gỗ làm nhà và rào vườn tược xung quanh nhà. Nhà vua ở trong nhà lầu có tầng gác. Dọc bờ biển người ta trồng cây thốt nốt, lá dài dùng để lợp nhà. Người ta đóng những chiếc thuyền dài từ 8 đến 9 trượng(6), rộng 6 đến 7 phần mười trượng. Mũi thuyền và lái thuyền giống như đầu và đuôi cá. Nhà vua ngự trên mình voi.
Đàn bà có thể cỡi voi. Họ thích chơi đá gà. Họ không có nhà tù. Khi có kiện cáo hay tranh chấp, họ ném nhẫn vàng hoặc trứng vào nước sôi. Ai dúng tay vào nước sôi đó lấy ra mà không bị phỏng thì người ấy được thắng kiện. Theo Lương sử, nước Phù Nam ở về phía nam quận Nhật Nam, trong một vịnh lớn ở phía tây biển. Nước nầy cách Nhật Nam chừng 7 ngàn lý và cách Lâm Ấp chừng 3 ngàn lý về phía tây nam. Đô thành của Phù Nam cách biển 500 lý(6). Một con sông lớn từ tây bắc chảy về phía đông và đổ ra biển. Khí hậu đại để giống như xứ Lâm Ấp.
Họ không đào giếng, nhưng mấy chục gia đình thường chung nhau xây một cái hồ nước để dùng chung. Họ có tập tục sùng bái các vị thần trên trời. Họ đúc tượng thần để thờ, tượng có một mặt bốn tay hay tám tay, mỗi tay cầm một vật gì đó, hoặc một đứa trẻ, hoặc một con chim, hay một con thú nào đó, hoặc hình mặt trời hay mặt trăng.
Nhà vua thường ngự giá trên mình voi, đình thần cũng vậy. Khi vua ngồi thì đầu gối chân phải gấp thẳng đứng, đầu gối chân trái gấp bằng sát đất, tư thế nầy thường thấy nơi các tượng thờ của Ấn Độ giáo. Trước mặt vua người ta thường trải một tấm vải và đặt trên đó những lọ bằng vàng và những lư hương. Khi nhà có tang, người ta có tục cạo râu và cạo đầu. Người Phù Nam có bốn cách mai táng: bỏ xác xuống biển hay dòng sông, hỏa táng, địa táng, hoặc bỏ xác ngoài đồng cho chim quạ mổ xẻ. Theo Tấn Thư, đất Phù Nam rộng 3 ngàn lý, có những thành phố xây tường, có lâu đài và nhà ở.
Đàn ông Phù Nam xấu và đen, quấn tóc, ở truồng và đi chân không. Tánh tình họ rất đơn giản và không hề trộm cắp. Họ thích trang trí bằng điêu khắc, chạm trổ, nộp thuế bằng vàng, bạc, châu báu, hương liệu. Họ có sách vở, thư viện và nhiều vật khác.
Chữ viết của họ giống thứ chữ Hồ. Ma chay cưới hỏi đại để giống như Lâm Ấp. Theo các nhà sử học Tây phương thì có lẽ thuộc quốc của vương quốc Phù Nam vương ra đến tỉnh Khánh Hòa của Việt Nam ngày nay. Theo “Journal Asiatique” vào tháng giêng năm 1927, L. Finot đã khẳng định rằng bia Võ Canh tại tỉnh Khánh Hòa cho thấy vùng nầy đã từng là một thuộc quốc của Phù Nam vào thế kỷ thứ III. Như vậy chúng ta có thể đoán được là vào thế kỷ thứ III, lãnh thổ phía Bắc của vương quốc Phù Nam với Chiêm Thành là núi Đại Lãnh, và lãnh địa của Chiêm Thành có thể từ phía Nam Thanh Hóa đến tận miền Đại Lãnh.
Còn theo các thự tịch cổ thì các dân tộc vừa kể trên đều có chung gốc tích Nam Á. Chính vì vậy mà trong quá khứ họ đã nhiều lần chung lưng đấu cật, cùng đứng lên đánh đuổi quân Hán xâm lược và hiếu chiến. Thuở đó cộng đồng cư dân Nam Á (Protoviets) trong vùng mà bây giờ là bán đảo Đông Dương gồm các dân tộc Việt ở Giao Châu, Lâm Ấp ở Trung Việt, Phù Nam ở Nam Việt, và Kambuja ở Nam Lào và Cao Miên ngày nay luôn luôn liên kết để chống lại ách thống trị của Hán tộc. Bằng chứng là theo Biên Niên Sử Việt Nam, năm 722, Mai Thúc Loan, một nông dân nghèo ở Hà Tỉnh, thuộc Châu Hoan đứng lên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân nhà Đường, đã được sự ủng hộ rộng rãi của các nước đồng chủng như Lâm Ấp và Chân Lạp. Các nước nầy đã tiếp trợ hơn 20 vạn quân hợp cùng với 20 vạn nghĩa quân của Mai Thúc Loan ào ạt tấn công 20 vạn quân thiện chiến nhà Đường, khiến cho quan An Nam Đô hộ Phủ là Quang Sở Khách phải cùng tàn quân tháo chạy về nước. Mai Thúc Loan lên ngôi lấy hiệu là Mai Hắc Đế. Lúc ấy mối giao hảo giữa Đại Việt, Lâm Ấp và Chân Lạp hết sức tốt đẹp.
Khi người Pháp đánh chiếm Chân Lạp vào năm 1864 thì vương quốc nầy không có một tài liệu lịch sử nào được ghi chép lại từ trước, nên họ chỉ biết có những bản văn được ghi lại trên lá thốt nốt chép lại những chuyện xảy ra cách đó khoảng 150 năm mà thôi, vì lá thốt nốt không tồn tại trên 150 năm. Đến khi các nhà khảo cổ học khám phá ra vùng Đế Thiên Đế Thích (Angkor) thì họ mới biết được những diễn tiến trong vương quốc Chân Lạp qua nhiều thế kỷ về trước qua các chữ Phạn khắc trên bia đá. Tuy nhiên, khi soạn bộ sử ký Chân Lạp, người Pháp lại lầm tưởng vương quốc Phù Nam và vương quốc Chân Lạp là một. Kỳ thật, hai vương quốc nầy có hai nguồn gốc hoàn toàn khác nhau. Có lẽ lúc đó người Pháp không có đủ tư liệu lịch sử nói về vương quốc Phù Nam, chính vì thế mà trong bộ L’histoire du Cambodge (Lịch Sử Cao Miên), người Pháp ghi từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ VI là vương triều Phù Nam. Đến thế kỷ thứ 6 mới thấy xuất hiện vị quốc vương đầu tiên của Chân Lạp.
Cổ Sử Vùng Nam Phần Thời Kỳ Tiền Phù Nam: Khi nói về Nam Phần Việt Nam, người ta thường liên tưởng đến một vùng đất mới với chiều dài lịch sử chỉ trên dưới 300 nay mà thôi. Tuy nhiên, theo những kết quả khảo cổ được khai quật, thì vùng đất nầy đã có lịch sử tương đối khá lâu đời, nghĩa là ngay từ trước khi vương quốc Phù Nam được thành lập cách nay khoảng 2.000 năm. Ngay từ 4 hoặc 5 ngàn năm về trước, thì vùng đất mà bây giờ chúng ta gọi là Miền Đông Nam Phần, đã có cư dân cổ cư ngụ và tạo nên nền “Văn Hóa Đồng Nai”. Vào năm 1976, qua cuộc khai quật ở Cầu Sắt, thuộc Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, kết quả cho thấy nền văn hóa “Đá Mới” của vùng Đồng Nai đã tồn tại tại vùng nầy cách nay khoảng trên dưới 5 ngàn năm. Vào thời Pháp Thuộc (1944), các nhà khảo cổ đã tìm thấy những dụng cụ bằng đồng có niên đại cách đây từ 3 đến 4 ngàn năm tại những khu di chỉ “Mộ Cổ Hàng Gòn”(7), khu Núi Gốm(8), và khu Dốc Chùa(9).
Điều nầy chứng tỏ nền văn hóa đồ đồng đã xuất hiện tại đây vào khoảng trên dưới 1.000 năm sau nền văn hóa đồ đá mới. Đi xa về miền Tây, nơi mà dưới thời vương quốc Phù Nam gần như phân nửa diện tích hãy còn chìm ngập trong sình lầy, nhưng người ta vẫn tìm thấy được rất nhiều những di chỉ thuộc văn hóa Tiền Óc Eo và Óc Eo, có niên đại từ 1.500 năm đến 2.500 năm trước. Từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ VII sau Tây lịch, nền văn hóa Óc Eo đã phát triển rực rỡ tại vùng An Giang bây giờ. Các nhà khảo cổ học lấy tên theo địa danh Óc Eo tại chân núi Ba Thê, thuộc tỉnh An Giang. Căn cứ theo những không ảnh chụp được từ thập niên 1930s, với hệ thống kinh đào cổ, có hình nan hoa, tỏa khắp miền Tây, mà tụ điểm của nó nằm tại vùng Đá Nổi(10), có những con kinh cổ dài đến 80 cây số, các nhà khảo cổ học cho rằng tại vùng nầy đã từng có những sinh hoạt nông nghiệp và giao thông bằng đường thủy rất phát triển. Mặc dầu công cuộc khai quật khảo cổ vẫn còn đang tiếp diễn, và các di chỉ đã được khai quật vẫn còn đang trong vòng nghiên cứu, nhưng kết quả cho thấy rõ rệt hình ảnh một dân tộc có một nền văn hóa thật rực rỡ đang từ từ được phơi bày ra ánh sáng: dân tộc Phù Nam với nền văn hóa Óc Eo.
Cổ Sử Về Sự Thành Lập Và Lãnh Thổ Của Vương Quốc Phù Nam:
Riêng về phần lịch sử vùng Nam Phần thời kỳ vương quốc Phù Nam cho tới bây giờ hãy còn rất mù mờ không những đối với thế giới, mà còn ngay cả với các lân quốc trong vùng Đông Nam Á nữa. Hiện tại trong các thư tịch cổ của các quốc gia trên thế giới, nhất là các nước có lịch sử lâu đời như Ấn Độ và Trung Hoa, lại không có nhiều ghi chép về vương quốc Phù Nam một cách rõ rệt, vì vương quốc này đã bị triệt tiêu cách nay gần 15 thế kỷ rồi còn gì. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ thứ 19, lịch sử thế giới cận đại đã có những ghi chép lại về một vương quốc mang tên Phù Nam. Phù Nam là tên của một vương quốc cổ đầu tiên trong lịch sử Đông Nam Á.
Theo các thư tịch cổ được viết bởi các quan hoặc các sứ giả Trung Hoa, hoặc nhựt ký của các thương thuyền Âu châu thời cổ, cũng như những di tích khai quật được thì vương quốc nầy trải dài trên một vùng đất rộng lớn, chạy dài từ Trung Lào qua Nam Thái Lan đến bán đảo Malacca về phía Tây; và về phía Đông chạy dọc theo bờ biển từ phía Nam Champa đến tận vùng Hà Tiên. Nghĩa là vùng đất trù phú miền Nam Việt Nam ngày nay, khu vực Đồng Nai đến Hà Tiên đã từng là lãnh địa của vương quốc nầy.
Theo các thư tịch cổ của Trung Hoa thì vương quốc Phù Nam hay còn gọi là ‘Diệu Nghiêm Quốc’ xuất hiện khoảng đầu thiên niên kỷ Tây lịch và tồn tại khoảng trên dưới bảy thế kỷ. Các nhà khảo cổ đã và đang tiếp tục khai quật các di chỉ rải rác khắp vùng Nam Kỳ từ di chỉ Gò Chùa, Gò Tháp, Gò Rộc Chanh, Gò Sao, Gò Cây Thị, và Cạnh Đền, vân vân. Tuy công việc chưa hoàn tất, nhưng qua những kết quả gặt hái được từ những mẫu đất nung, những mảnh gốm sứ, và rất nhiều di vật khác có thể giúp chúng ta có những nhận định tương đối ít mù mờ hơn về hình ảnh của một vương quốc mang tên Phù Nam xưa. Hơn thế nữa, những kết quả gặt hái được còn giúp cho chúng ta thấy được những lấp lánh sắc màu của nền văn hóa Óc Eo một thời rực rỡ trong suốt từ đầu thế kỷ thứ nhất đến cuối thế kỷ thứ sáu. Sau một số khai quật về khảo cổ học tại vùng Óc Eo, các nhà khảo cổ đều đồng ý rằng ngay từ những năm đầu thiên niên kỷ thứ nhất, một vương quốc rộng lớn được thành hình tại vùng Đông Nam châu Á, phía Đông giáp với biển Đông, chạy dài từ Vũng Tàu đến Hà Tiên.
Thời đó các vùng ven biển Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu Cà Mau và Rạch Giá đều còn là những vùng trũng thấp nằm dưới mặt biển, hoặc giả khi hải triều xuống thì một dãy đất ven biển xuất hiện mà khi hải triều lên thì dãy đất ấy lập tức bị chìm vào biển nước.
Phía Bắc lên tận miền Trung Lào và Bắc Thái bây giờ. Phía Tây trải dài đến các miền trung tâm Thái Lan tại vùng thung lũng sông Mê Nam, và phía Nam đến tận vùng Malacca của Mã Lai. Nhờ những khai quật khảo cổ học trong giữa thế kỷ thứ XX, mà các nhà khảo cổ học và sử học đã xác định được vị trí cũng như lãnh thổ của một vương quốc mang tên Phù Nam và một nền văn hóa khá mạnh mang tên văn hóa Óc Eo. Thời đó vương quốc Phù Nam có một một thương cảng rất lớn nhất, nằm trong vùng đất mà bây giờ thuộc vùng Núi Sập(11), thuộc tỉnh An Giang. Không ai biết ngày đó thương cảng ấy có tên gì, chỉ biết nó có nhiều di chỉ thuộc văn minh Óc Eo, nên người ta gọi nó là cảng Óc Eo, thế thôi.
Qua những di chỉ khai quật được người ta thấy thương cảng nầy đã đóng một vai trò rất quan trọng trong sinh hoạt kinh tế của vương quốc Phù Nam. Tuy nhiên, mãi đến hôm nay chúng ta có quá ít sử liệu nói về vương quốc Phù Nam. Hiện tại chỉ còn một số rất ít ghi chép hoặc ký sự viết về vương quốc Phù Nam của các học giả Trung Hoa.
Danh hiệu của vương quốc Phù Nam hãy còn rất mù mờ với nhiều nhà sử học trên thế giới. Thậm chí nhiều nhà cổ sử vẫn tưởng vương quốc Chân Lạp chính là hậu thân của vương quốc Phù Nam, hay dân tộc Phù Nam và Chân Lạp chỉ là một chứ không sai khác.
Mãi đến ngày nay, đa số những dữ kiện liên quan đến vương quốc cổ nhất tại vùng Đông Nam Châu Á đều lấy từ sử liệu Trung Hoa hoặc từ kết quả tìm được từ các di vật khai quật được quanh vùng Óc Eo. Phù Nam(12) là tên phiên âm theo tiếng Hán của từ “Phnom”, có nghĩa là núi hoặc đồi. Các vua Phù Nam đều lấy vương hiệu là “Sailaraja” hoặc “Kurung Bonam”, có nghĩa là “Vua Núi”.
Theo sách Lĩnh Nam Trích Quái thì người Trung Hoa cổ gọi vương quốc nầy là Diệu Nghiêm. Đây là vương quốc được thành lập trước nhất tại vùng Đông Nam châu Á. Nó tồn tại từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ sáu sau Tây lịch. Theo những khai quật khảo cổ mới đây trong vùng cho thấy đã có nhiều xã hội hay nhiều cộng đồng cư dân cổ sinh sống trên vùng đất nầy trước khi người Phù Nam thành lập vương quốc của họ.
Theo tài liệu của Viện Bảo Tàng Bắc Kinh thì vào khoảng giữa thế kỷ thứ III, sứ giả Trung Hoa có đến đây và có ghi chép lại một vài điều về địa lý và phong tục tập quán của vương quốc nầy, nhưng không được chi tiết. Chỉ biết dân Phù Nam thời đó thuộc văn hóa Ấn Độ với một nền văn minh rất cao. Về ngoại thương thì Phù Nam đã có sự giao dịch với Trung Hoa, Ấn Độ, và ngay cả với các xứ Ba Tư, Hy Lạp và La Mã nữa(13).
Theo tài liệu nầy thì tại vùng Óc Eo, dưới chân núi Ba Thê, vào những thế kỷ thứ II và thứ III có nhiều ngôi đền bằng gạch bên cạnh những khu nhà sàn liền nhau trên một khu đất rộng lớn. Điều nầy trùng hợp với những khai quật khảo cổ tại đây vào những thập niên 1930s và 1940s. Căn cứ vào những bông tai, nhẫn, cà rá, và chuỗi hột đào được, người ta đoán những khu nhà sàn nầy có lẽ là những khu buôn bán sầm uất của người Phù Nam.
Điều nầy cũng trùng hợp với những ghi chép từ phía Ấn Độ là vào những thế kỷ từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ VII, rất nhiều thương gia Ấn Độ đến khu mà bây giờ chúng ta gọi là Đồng Bằng Sông Cửu Long để mua bán. Họ bán vải và mua về gia vị và những thổ sản. Không thấy bất cứ tài liệu nào ghi chép lại về việc sản xuất lúa gạo của vùng nầy vào thời vương quốc Phù Nam, nhưng theo các nhà khảo cổ Louis Malleret và B. Groslier thì thuở ấy vùng phía Bắc và Đông Bắc của cảng Óc Eo đã có những cánh đồng, nhất là khu vực từ chân núi Ba Thê đến bờ sông Hậu Giang, và dân chúng ở đây đã biết cách đào kinh dẫn thủy nhập điền, qua không ảnh chụp được người ta tìm thấy cả một hệ thống kinh đào thẳng tắp theo hướng Đông Bắc-Tây Nam chạy từ Óc Eo đến tận vùng Banam(14), nghĩa là đem nước trũng phèn từ những cánh đồng ngập mặn chảy thẳng ra vịnh Thái Lan.
Có lẽ ngày đó dân Phù Nam chỉ làm lúa sạ, nghĩa là chỉ dọn đất rồi sạ lúa, cây lúa lớn lên theo con nước lũ, rồi đến mùa nước rút là họ gặt hái. Có người cho rằng việc dân Phù Nam biết làm ruộng lúa sạ tại vùng nầy hồi thế kỷ thứ nhất là vô lý, nhưng họ quên rằng các dân tộc tại vùng Đông Á, từ Trung Hoa, xuống Việt Nam, Chăm Pa, kể cả Phù Nam, vân vân, đã biết làm ruộng lúa nước từ lâu lắm rồi. Thật ra thì tất cả những lý luận trên đều là những suy đoán, dựa theo kết quả của những khai quật khảo cổ mà thôi, chứ không có lấy cái gì làm bằng chứng chính xác.
Các nhà khảo cổ học cũng đoán rằng ngày đó nhiều thương thuyền đã theo các kinh đào đi tận vào vùng Đồng Tháp để mua bán trao đổi với dân bản địa, hồi nầy vẫn còn là một vùng duyên hải ngập mặn, vì người ta khai quật được trong trung tâm vùng Đồng Tháp rất nhiều xác tàu và cột buồm xưa. Ngày nay các sử gia trên thế giới đều nhìn nhận rằng vương quốc Phù Nam là vương quốc đầu tiên trong vùng Đông Nam Á, một vương quốc cổ đại ở hạ lưu sông Cửu Long, được khai sáng từ đầu Tây lịch. Và theo cổ thư Trung Hoa cũng như những di tích còn ghi lại trên những bia đá tìm thấy tại miền Nam Việt Nam, không có một dấu vết nào chứng minh sự có mặt cũng như sự liên hệ về vương triều chính thống giữa Phù Nam và Chân Lạp (Kambuja), mà mãi đến năm 598 sau Tây lịch mới thấy xuất hiện vị quốc vương đầu tiên của Kambuja là Bhavavarman I dựng lên vương quốc Chân Lạp, đóng đô ở Kompong Thom, cách Nam Vang khoảng 200 cây số về hướng tây bắc. Mãi cho đến ngày nay người ta vẫn chưa biết rõ vì lý do gì mà vương quốc Phù Nam sụp đổ. Có thuyết cho rằng vương quốc Phù Nam bị nước chư hầu là Kambuja tiêu diệt, nhưng lại có thuyết cho rằng vương quốc Phù Nam bị một trận đại hồng thủy khiến đa số đất đai của họ tại vùng Óc Eo bị chìm trong biển nước và cư dân của họ phải sơ tán đến các vùng cao.
Vương Quốc Phù Nam Theo Cổ Thư Và Nhật Ký Của Các Nhà Hành Hương:
Theo Nghĩa Tịnh, một nhà hành hương Trung Quốc vào thế kỷ thứ VII, Phù Nam là một vương quốc hùng cường nằm về phía Nam của vương quốc Lâm Ấp (Champa), nhưng đã bị Chân Lạp tiêu diệt vào thế kỷ thứ VI. Nghĩa Tịnh chỉ ghi lại vỏn vẹn có như vậy về vương quốc Phù Nam. Trong khi đó, theo nhật ký của các nhà hành hương Tây phương cũng như những thương nhân thời cổ, vương quốc và dân tộc Phù Nam có một nền văn minh rực rỡ đáng phục.
Theo họ, giới quí tộc Phù Nam ăn mặc lòe loẹt và ở trong những cung điện nguy nga bật nhất của nước Phù Nam, với đầy đủ phương tiện vật chất và ngọc ngà châu báu. Nhưng chính vì thiếu sử liệu ngay tại các vương quốc đã bị suy tàn như Phù Nam và Chiêm Thành (Lâm Ấp), nên nhật ký của các nhà hành hương cũng như các cổ thư Trung Hoa có liên hệ đến vùng Đông Nam Á thật là quí báu vô cùng, vì nếu không có những tài liệu nầy, chúng ta không tài nào phác họa lại được hình ảnh của những vương quốc đã bị suy tàn từ nhiều thế kỷ trước như Phù Nam và Chiêm Thành.
Trong số những cổ thư nầy phải kể đến Thủy Kinh Chú, quyển sách ghi lại những con sông xưa ở Trung Hoa và các vùng Nam Trung Hoa cũng như những biến cố xảy ra vào lúc bộ sách được sáng tác. Cuốn Niên Giám Đời Nhà Tiền Hán (Ts’ien Han Shu) ghi lại các biến cố về những cuộc bang giao với quần đảo Nam Dương từ năm 206 trước Tây lịch đến năm 24 sau Tây lịch. Bên cạnh đó, những cổ thư khác của Trung Hoa ghi lại lịch sử Trung Hoa qua các thời đại từ đời nhà Ngô, qua Hậu Hán, Nam Tề, Lương, nhà Tùy, rồi đến đời nhà Đường, khoảng từ năm 222 đến 916, đều có những ghi chép về vương quốc Phù Nam. Dựa theo những sự kiện lịch sử ngoại giao của Trung Hoa, chúng ta có thể khẳng quyết rằng vương quốc Phù Nam đã được khai sanh trước vương quốc Chân Lạp, vì vào thế kỷ thứ 3 là lúc thịnh thời của vương quốc Phù Nam thì Chân Lạp chỉ là một chư hầu phụ thuộc vương quốc Phù Nam có tên là Kambuj. Từ đầu kỷ nguyên Tây lịch, vương quốc Phù Nam là một trong những vương quốc hùng mạnh nhất trong vùng Đông Nam Châu Á, nằm về phía Nam nước Lâm Ấp (Champa).
Hán sử có ghi chép nhiều về tình trạng bang giao giữa Trung Quốc với một vương quốc phía Nam mang tên Phù Nam. Theo truyền thuyết, Phù Nam là một vương quốc được thành lập trước vương quốc Cao Miên khoảng 5 hay 6 thế kỷ. Trước khi Phù Nam được thành lập thì trên những vùng đất mà bây giờ là Cao Miên và vùng Nam Kỳ bây giờ đã từng có nhiều sắc dân có nguồn gốc từ Môn Khmer sinh sống. Cổ sử Trung Hoa gọi họ là tộc Tây Khương (Khel). Họ có một nền văn hóa khá cao thời tiền sử. Trong khi Hán tộc còn là một bộ tộc du mục thì họ đã biết canh tác, dù hãy còn là du canh, họ biết canh tác lúa nước, biết sản xuất dụng cụ đồ đồng. Họ chịu ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ. Tuy nhiên, trước áp lực lấn chiếm một cách thô bạo của những người du mục thuộc Hán tộc, những người thuộc chi Môn-Khmer phải thiên cư xuống phương Nam, nhất là sau năm 314 sau Tây lịch khi quân đội nhà Tần tiêu diệt nước Thục, thì đa phần cư dân bản địa phải rời bỏ địa bàn sinh sống để thiên di về miền Trung Lào, đánh đuổi những người đồng chủng đã thiên di xuống đây trước họ để thành lập nước Chân Lạp ở vùng Trung Lào. Đây chính là phiên quốc Kambuja đã từng thần phục vương quốc Phù Nam trong nhiều thế kỷ.
Lãnh Thổ Của Vương Quốc Phù Nam:
Lãnh thổ của vương quốc Phù Nam có nhiều sông rạch nên người Trung Hoa có thể chạy buồm đi xuyên qua đất Phù Nam, trên đường đi đến bán đảo Mã Lai. Vào hậu bán thế kỷ thứ XX khi kỹ thuật không ảnh đã được áp dụng trong nghiên cứu lịch sử và địa chất, người ta tiến hành khai quật khu vực Óc Eo, nay thuộc quận Ba Thê (Núi Sập), thuộc tỉnh Long Xuyên. Các nhà nghiên cứu cổ sử Hervley de Saint Denys (1883), De Rosny (1886), và G. Schlegel (1896) đã nói về một vương quốc cổ mang tên Phù Nam, nhưng vào thời đó ngành hàng hải chưa phát triển nên người ta không định vị được một cách chính xác vị trí của vương quốc Phù Nam.
Trong khi đó, nhà khảo cổ học người Pháp tên Giteau, tác giả quyển “Lịch Sử Cao Miên” (Histoire du Cambodge), cho rằng vào hậu bán thế kỷ thứ II, một biến cố chánh trị lớn đã xảy ra tại Ấn Độ: dòng họ Kushana sụp đổ, dòng họ Gupta hưng khởi. Sau biến cố nầy, nhiều người Ấn Độ, nhứt là những hoàng thân quốc thích thuộc dòng họ Kushana đã dong buồm đi về bán đảo Nam Đông Dương, họ định cư lại tại vùng nầy và xây dựng nên vương quốc Phù Nam. Vương quốc nầy cường thịnh trong suốt gần 6 thế kỷ, nhưng sau đó vào thế kỷ thứ 6, họ chạm trán với vương quốc Champa, và bị vương quốc Champa lấn dần về phía Nam(15).
Những di tích nầy vẫn còn được ghi lại trong một tấm bia đá của Phù Nam tại vùng Võ Cạnh. Nội dung về nguồn gốc của vương quốc Phù nam được ghi trên bia đá tại Võ Cạnh phù hợp với các cổ thư Trung Hoa như sau: “Một vị hoàng thân Ấn Độ theo đạo Hồi, tên Kaundinya, sau khi cưới công chúa Thủy tề là Thần Rắn 7 đầu tên Soma, liền phóng ngọn giáo xuống đất chọn địa điểm dựng nước Phù Nam.” Như vậy, qua những chứng cứ khảo cổ, lãnh thổ của vương quốc Phù Nam chạy dài từ Mã Lai, Thái Lan, Nam Miến Điện, Cao Miên, Nam Lào và toàn thể vùng đất mà bây giờ là Nam Phần Việt Nam(16). Đây là vùng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi nền văn hóa Ấn Độ. Tuy nhiên, điều trớ trêu là không có một tài liệu nào của Ấn Độ đề cập đến vùng đất phía đông của Ấn Độ nầy. Mà ngược lại, tất cả những ghi chép còn sót lại về vùng đất nầy đều nằm trong những thư tịch cổ của Trung Hoa.
Lịch Sử Vương Quốc Phù Nam:
Ngày nay ai trong chúng cũng đều biết lịch sử của vùng đất mà bây giờ chúng ta gọi là Nam Bộ bắt đầu từ khoảng những năm đầu thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch với sự thành lập của một vương quốc cổ nhất mang tên Phù Nam. Theo thự tịch cổ đời nhà Lương thì Hỗn Điền (Kaundinya) truyền ngôi cho con trai là Hỗn Bàn Huống (Hun P’ang Huang), vị vua nầy từ trần lúc 90 tuổi; Hỗn Bàn Huống truyền ngôi cho con là Bàn Bàn (P’an P’an); Bàn Bàn truyền ngôi lại cho một vị bộ tướng là Phạm Nam (Fan Man). Theo thư tịch cổ đời nhà Tề (Nam Triều), Phạm Nam tức là Phạm Sử Nam (Fan Shi Man). Trong khi theo thư tịch cổ đời nhà Hán, thì ngày xưa có một vị giáo sĩ người Ấn Độ tên là Kaundinya (Hỗn Điền), thuộc dòng dõi Bà La Môn (Brahman), được thần linh chỉ đường nên dong buồm về phía đông nam vùng biển Ấn Độ Dương. Sau một cuộc hành trình đầy gian truân, qua hàng tháng trời dong ruổi trên biển cả mênh mông, thuyền của Hỗn Điền đổ bộ lên đất liền, vùng đất mà bây giờ là đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, đoàn quân của Hỗn Điền bị nữ vương tên Soma (Liễu Diệp) của thổ dân tại đây chặn đánh không cho họ đổ bộ lên bờ. Sau một trận thư hùng, quân của Liễu Diệp bị quân Hỗn Điền đánh bại.
Nữ vương Liễu Diệp cầu hòa, rồi Liễu Diệp và Hỗn Điền kết hôn để cùng nhau cai trị vùng đất nầy. Dòng dõi Hỗn Điền và Liễu Diệp truyền ngôi cho nhau được trên 200 năm. Hỗn Điền truyền ngôi cho con trai là Hỗn Bàn Huống, Hỗn Bàn Huống truyền ngôi cho con là Bàn Bàn... Lúc đó khi vị hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn lên ngôi, quan Thứ Sử Trung Hoa ở Giao Châu có đệ sớ tâu lên nhà vua rằng quốc vương Lâm Ấp, với sự trợ lực của vương quốc Phù Nam đã khởi quân tấn công Nhật Nam. Dầu thế nào đi nữa thì những thư tịch cổ của Trung Hoa cũng cho chúng ta một khái niệm sơ lược về vương quốc Phù Nam. Từ ngày thành lập đến khi tàn lụn vương quốc nầy đã truyền được 13 đời vua. Qua đến những thế kỷ thứ II và thứ III thì vương quốc Phù Nam đã phát triển mạnh mẽ và hoàn chỉnh một triều đại lớn, đó là triều đại Sri Mara (Sư Man), trị vì vương quốc nầy trong khoảng từ năm 225 đến 230 sau Tây lịch(17). Đây cũng là thời kỳ hưng thịnh nhất của dân tộc Phù Nam, vị vua nầy đã chinh phục các lân quốc và mở rộng lãnh thổ của Phù Nam.
Chỉ trong vòng 5 năm (225-230) mà vua Sri Mara đã cho đóng nhiều chiến thuyền để vượt biển đánh chiếm các nước nhỏ ngoài hải đảo.
Đến năm 230 sau Tây lịch thì biên cương của vương quốc Phù Nam đã trải rộng từ đồng bằng sông Cửu Long đến tận Ménam về phía Tây(18), và về phía Nam và Đông Nam xuống tận đến các hải đảo thuộc Nam Dương và Mã Lai ngày nay, về phía tây bắc lên đến Trung Lào, về phía đông bắc kiểm soát các trục lộ giao thông đến tận vùng Khánh Hòa(19). Nghĩa là 300 năm sau ngày lập quốc vương quốc nầy đã hoàn chỉnh hệ thống hành chánh và thương mãi, đã có một hạm đội chiến thuyền và quân lực hùng mạnh.
Thời nầy vương quốc nầy đã chinh phục được hầu hết các nước quanh vùng, từ Mã Lai, Thái Lan, Cao Miên, Nam Lào và Nam Miến Điện. Từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ VI, coi như vương quốc Phù Nam đã kiểm soát hoàn toàn đường hàng hải của các thương thuyền đi từ Trung Hoa qua Ấn Độ và Âu châu. Kinh đô Vyadhapura (Mục Đặc) của vương quốc Phù Nam hồi nầy rất phồn thịnh, với sự hiện diện của sứ thần cũng như thương nhân của nhiều quốc gia khác từ Âu châu qua Ấn Độ, và Trung Hoa...
Căn cứ theo các sử liệu của Trung Hoa, từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ VI, Phù Nam đã phát triển thành một đế chế lớn mạnh nhất tại vùng Đông Nam châu Á. Thư tịch cổ đời nhà Lương ghi rất rõ: “Sau khi vị vua cuối cùng của dòng họ Hỗn Điền băng hà, một bộ tướng tên là Phạm Sử Nam (Fan-Che-Nan), được dân chúng tôn lên làm vua, trị vì khoảng từ năm 205 đến năm 225 sau Tây lịch. Phạm Sử Nam là một vị quốc vương tài giỏi và tiếng tăm lừng lẫy. Chính vị hoàng đế nầy đã liên tục thôn tính hơn 10 thuộc quốc lân cận nằm trên bán đảo Mã Lai và vùng thung lũng sông Mê Nam như các xứ Đô Côn, Cửu Trì, Đốn Tốn, Xích Thổ, Bàn Bàn, Đan Đan, Cát Miệt (Chân Lạp), vân vân.” Tuy nhiên, trên bản đồ thế giới ngày nay, chúng ta không còn thấy tên của bất cứ vương quốc nào vừa kể trên nữa, nhưng chắc chắn những vương quốc nầy phải nằm trong vùng thung lũng sông Cửu Long, chạy dài từ vùng Tonlé Sap xuống miền Nam Việt Nam ngày nay kể cả vùng từ Đồng Nai đến Cam Ranh, Phan Rang và Nha Trang, nơi mà sau nầy người ta tìm thấy tấm bia đá tại vùng Võ Cạnh; hoặc vùng đất chạy dài từ thung lũng Mé Nam đến tận vùng bán đảo Malacca của Mã Lai Á ngày nay.
Như vậy, vào giữa thế kỷ thứ III vương quốc Phù Nam đã kiểm soát hầu hết các yếu điểm trên bán đảo Đông Dương lên đến vùng Khánh Hòa ngày nay, và bán đảo Mã Lai xuống tới Malacca. Vào thời đó vương quốc nầy đã khống chế tất cả các hải trình từ Ấn Độ Dương qua Thái Bình Dương và ngược lại. Thư tịch cổ đời nhà Lương đã quả quyết rằng Phạm Sử Nam (Fan Shih Man) tử trận giữa những năm 205-210, trong lúc ông đang chỉ huy tướng sĩ đi chinh phục vùng Chin Lin(20). Trong khi thư tịch cổ nhà Nam Tề lại ghi: “Vua Phạm Sử Nam là một vì vua quả cảm và có tài.
Ông đã từng chinh phục các nước láng giềng và bắt các nước nầy phải thần phục Phù Nam và tôn xưng ông là Phù Nam đại vương. Năm 225, Phạm Sử Nam tử trận trong một cuộc viễn chinh tại miền Bắc bán đảo Mã Lai.” Theo Finct, một nhà khảo cổ học người Pháp, thì Sri Mara là một chư hầu thuộc vương quốc Phù Nam. Riêng giáo sư G.E. Hall đã ghi lại trong quyển ‘Đông Nam Á Sử Lược’ như sau: “Dù sao chúng ta cũng rất khó xác định được niên đại liên hệ của các quốc vương hay các biến chuyển trong thời sơ khai của lịch sử Phù Nam.” Trong khi đó, theo nhà khảo cổ học người Pháp khác tên Coedès, thì Phạm Sử Nam (Fan Shih Man) chính là vua Sri Mara, được ghi trên bia đá bằng Phạn ngữ, được tìm thấy tại vùng Võ Cạnh, thuộc vùng Nha Trang, nguyên là đất của vương quốc Champa. Bia đá ghi rằng Sri Mara là chúa tể đạo Phật và dùng Phạn ngữ trong triều. Coedès còn cho rằng truyền thuyết về Hỗn Điền (Kaundinya) xảy ra sau thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch, vì trong thời kỳ Phạm Chiêu (Fan-Tchao), người nối ngôi vua Phạm Sử Nam (Fan Shih Man), nhờ sự liên lạc giữa Phù Nam, Ấn Độ và Trung Hoa, nên những niên đại được ghi lại rất đáng tin cậy. Theo Coedès thì Phạm Chiêu bị một người cháu tên Phạm Chấn(21) giết chết để đoạt ngôi, rồi trị vì ở ngôi được 20 năm, cho đến khi bị em trai vua Phạm Chiêu (Fan Tchao) giết chết để trả thù cho anh mình. Theo Coedès thì chính Phạm Chấn, chứ không phải Phạm Chiêu, người đã tiếp đãi một du khách Ấn Độ và được vị du khách nầy tường thuật về đất Ấn, khiến nhà vua mê say về những huyền bí sông Hằng đến đỗi khoảng những năm từ 240 đến 245 sau Tây lịch, ông đã cử một sứ đoàn đi từ hải cảng Takola ở bán đảo Mã Lai, theo đường biển đi ngược dòng sông Hằng, đến triều đình Ấn Độ, mà theo nhà khảo cổ Sylvain Lévi, đó là triều đình vua Marunda. Sau khi Phạm Sử Nam băng hà, con trai là Phạm Chiêu (Fan-Tchao) lên ngôi và trị vì đến năm 245.
Theo học giả người Pháp tên P. Pelliot, dưới thời vua Phạm Chiêu nhà vua đã phái sứ thần sang Ấn Độ và được vua Murunda tiếp đón rất nồng hậu. Trong khi theo Ngô Thư của Trung Hoa thời Tam Quốc, thì vào năm 243, Phạm Chiêu sai sứ sang cống nhạc công và phẩm vật quý cho vua nhà Ngô. Sau khi Phạm Chiêu băng hà, một tùy tướng tên Phạm Tần (Fan-Tsan) lên nối ngôi và trị vì từ năm 245 đến năm 287. Dưới thời vua Phạm Tần, hoàng đế nhà Ngô của Trung Hoa cũng đã sai sứ sang Phù Nam và đã được quốc vương của xứ nầy tiếp đón hết sức long trọng.
Ông Khương Thái trong sứ đoàn Trung Hoa đã kể lại chuyện gặp gỡ với sứ giả của vua Marunda của Ấn Độ đang lưu lại kinh đô của Phù Nam. Trong khoảng thời gian từ năm 268 đến năm 287, có nhiều sứ đoàn của Phù Nam được phái sang Trung Hoa. Nhờ có các sứ đoàn lui tới Phù Nam nên mối giao hảo giữa vương quốc Phù Nam với các nước lớn trong vùng rất tốt đẹp, nhất là với các nước Trung Hoa và Ấn Độ. Tuy nhiên, kể từ năm 270 sau Tây lịch trở về sau nầy thì mối bang giao giữa Phù Nam với Trung Hoa không còn tốt đẹp như trước nữa, vì vào năm 270 sau Tây lịch, vua Phạm Tần (Fan-Tsan) của Phù Nam liên kết và yểm trợ vị vua của nước Lâm Ấp để gây chiến tranh với đất Giao Châu trong suốt mười năm, từ năm 270 đến năm 280 sau Tây lịch.
Vào đời nhà Tấn bên Trung Hoa, về phía Nam quận Nhật Nam, có một vị thượng quan địa phương tên Khu Liên, lợi dụng trong lúc suy yếu của nhà Hán trong khoảng những năm từ 206 đến 221 sau Tây lịch, đã ly khai với quận Nhật Nam và lập nên xứ Tượng Lâm(22). Về sau người ta gọi vương quốc nầy là vương quốc Champa, kinh đô được đặt tại vùng Mỹ Sơn, Trà Kiệu, thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay. Theo thư tịch cổ đời nhà Tấn, vị hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn lên ngôi, quan thứ sử Trung Hoa ở đất Giao Châu có đệ sớ tâu lên nhà vua rằng với sự trợ giúp của vương quốc Phù Nam, quốc vương xứ Lâm Ấp đã khởi binh tấn công quận Nhật Nam.
Nhưng sử ký nhà Tiền Tống chép về những tài liệu lịch sử khác vào những năm 434, 435 và 438 thì lại ghi rằng vua Phù Nam không thuận giúp vua Lâm Ấp cất quân đi đánh đất Giao Châu. Như vậy, dầu ngày nay chúng ta không còn nhiều tài liệu lịch sử của riêng vương quốc Phù Nam, nhưng hầu như tất cả những thư tịch cổ của Trung Hoa kể từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ VI đều có nói về vương quốc nầy.
Sau đó từ khoảng năm 287 đến 375(23), không thấy nói gì đến vương quốc Phù Nam nữa. Như vậy, nếu căn cứ theo các sử liệu Trung Hoa, thì khoảng hơn một thế kỷ nầy vương quốc Phù Nam phải trải qua nhiều lủng củng nội bộ, mặc dầu vương quốc nầy vẫn tiếp tục phát triển và lớn mạnh. Mãi đến đời nhà Lương mới đề cập đến phái bộ Phù Nam do quốc vương Chan Tan hay Chiên Đàn (Chandana) hướng dẫn đến triều cống Lương triều.
Các sử gia nhà Lương ghi chép Chan Tan như một người Ấn Độ, và chữ Chan Tan theo Phạn ngữ là Chandana, tước vương của triều đại Kanishka. Vị vua nầy trị vị ở ngôi từ năm 375 đến 470. Điều đặc biệt là nền văn minh Ấn Độ đã từng lan tràn qua vùng Đông Nam châu Á nầy từ hơn 20 thế kỷ nay, nhưng trải qua hơn 2 ngàn năm chưa có một triều vua nào của Ấn Độ hoặc sử sách của Ấn Độ ghi chép lại về sự việc nầy. Mãi đến giữa thế kỷ thứ 20, sau khi lấy lại nền độc lập từ tay của người Anh, chánh phủ và nhân dân Ấn Độ mới bắt đầu quan tâm đến vùng đất mà nền văn minh Ấn Độ đã có mặt từ lâu. Ngược lại với người Ấn, người Trung Hoa luôn cho rằng các quốc gia xung quanh Trung Hoa đều thuộc vùng ảnh hưởng của Thiên Triều Trung Quốc, bằng chứng là khi viết bộ “Thủy Kinh Chú” vào những năm đầu kỷ nguyên Tây lịch, người Hoa đã mặc nhiên xem các vùng phía Nam Trung Hoa là của họ. Họ cử sứ giả đi kinh lý và điều tra những con sông, những điều mắt thấy tai nghe, những phong tục tập quán, và những nền văn hóa phương Nam.
Nghĩa là từ hơn 2.000 năm nay, người Trung Hoa luôn xem vùng biển và lãnh địa phương Nam thuộc ảnh hưởng của họ. Ngay từ nhiều thế kỷ trước Tây lịch, các vương quốc trong vùng Đông Nam Á đều phải có liên hệ ngoại giao với Trung Hoa qua những hình thức triều cống và cầu phong. Đối với Trung Hoa, họ cho rằng họ là thiên triều và mặc nhiên có quyền can thiệp vào nội bộ của các vương quốc trong vùng nếu cần. Tuy nhiên, nhờ vậy mà ngày nay chúng ta còn có những sử liệu quí giá về các vương quốc cổ trong vùng. Giữa thế kỷ thứ III đến đầu thế kỷ thứ VI, Phù Nam đã có mối quan hệ ngoại giao với các nước lớn thời bấy giờ như Trung Hoa, Ấn Độ và La Mã.
Dù cho tới bây giờ người ta vẫn chưa phác họa được diện mạo của người Phù Nam, nhưng qua sử liệu của các xứ Ấn Độ và Trung Hoa, phải nói Phù Nam là một cường quốc đầu tiên xuất hiện trong lịch sử vùng Đông Nam Á. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ III, các triều vua thời nhà Hán bên Trung Hoa đã nhiều lần sai sứ đi kinh lý vương quốc Phù Nam. Dưới thời Chan Tan, từ năm 375 đến 470 từ năm 375 đến 470 mối giao hảo với nhà Lương bên Trung Hoa rất tốt, điều nầy phù hợp với những điều được ghi trong Lương Thư: “Những năm 431 và 432, nước Lâm Ấp muốn cất quân sang đánh Giao Châu nên có yêu cầu vua Phù Nam giúp sức, nhưng đã bị vua Phù Nam là Chan Tan từ chối.” Thời vua Chan Tan, chẳng những Phù Nam có mối giao hảo rất tốt với Trung Hoa mà với cả Ấn Độ nữa. Thời vua Chan Tan là gia đoạn đánh dấu sự phục hồi của ảnh hưởng Ấn Độ tại xứ sở nầy, vì vào thế kỷ thứ ba sau Tây lịch, Phù Nam có liên hệ mật thiết với triều đại Ca Nị Sắc Ca ở Ấn Độ, nghĩa là vào lúc cực thịnh, khoảng thế kỷ thứ 3, lúc bấy giờ lãnh thổ vương quốc Phù Nam bao gồm vùng phía Nam nước Cao Miên, toàn bộ vùng Nam Kỳ lục tỉnh, và có lẽ chạy dài đến tận bán đảo Malacca, thuộc Mã Lai. Họ là giống dân Úc Á, đến định cư tại bán đảo Đông Dương vài mươi thế kỷ trước Tây lịch. Người Phù Nam chịu ảnh hưởng bởi nền văn hóa Ấn Độ thời cổ, dùng chữ Bắc Phạn (Sanskrit), theo luật pháp Ấn Độ. Đa số cư dân theo đạo Bà La Môn và đạo Phật, có lẽ hai tôn giáo nầy được du nhập vào vương quốcPhù Nam cùng lúc vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch.
Các nhà khảo cổ học đã khai quật và tìm thấy rất nhiều những biểu tượng của Bà La Môn như những ‘linga’ bằng đá, tượng thần Vishnu có kích cỡ như người thật. Bên cạnh đó, họ cũng tìm thấy rất nhiều tượng Phật bằng gỗ, đá và đồng tại các vùng Rạch Giá, Đồng Tháp Mười, Cần Thơ, Vũng Tàu. Vào khoảng thế kỷ thứ II, vương quốc Phù Nam phát triển rất cao trên địa bàn miền Tây Hậu Giang và được mở rộng qua khỏi bờ Tiền Giang. Theo những khám phá mới về những đường kinh từ núi Sập qua Đồng Tháp Mười, chứng tỏ thời đó nền canh nông của người Phù Nam đã phát triển khá cao. Ngoài canh nông, họ còn làm thương mại và buôn bán với các dân tộc ở vùng Đông và Nam Á, cũng như các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Mã Lai, và có lẽ ngay cả với những quốc gia ở Âu châu nữa. Từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VI, bờ biển của vùng Nam Kỳ bây giờ là vùng Óc Eo.
Theo các sứ thần của Trung Quốc thì vào thế kỷ thứ III, Óc Eo đã là một hải cảng lớn trong vùng. Vào khoảng thế kỷ thứ III đã có những nhà ngoại giao Trung Hoa thời nhà Ngô đến đây và được vua xứ Phù Nam tiếp kiến. Đây là một trong những sự kiện lịch sử xác đáng và được ghi nhận trong thư tịch cổ Trung Hoa như một sự kiện lịch sử về ngoại giao giữa hai nước Trung Hoa và Phù Nam. Cũng theo các nhà ngoại giao Trung Hoa thời nhà Ngô thì thời kỳ huy hoàng nhất của vương quốc Phù Nam là vào khoảng thế kỷ thứ III này, lúc ấy toàn bộ các lãnh thổ vùng phía Đông của nước Xiêm, bán đảo Malacca(24), một phần đất của Miến Điện, Chân Lạp, Nam Lào và Nam Kỳ đều nằm trong lãnh địa Phù Nam. Chính vào thời kỳ này, vương quốc Phù Nam hùng mạnh và kiểm soát toàn bộ hải trình buôn bán Đông Tây từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương. Cũng theo các thư tịch cổ của Trung Hoa thì một trong những vị vua đã đưa vương quốc Phù Nam đến chỗ mạnh nhất vào thế kỷ thứ V là vua Xà Da Bạt Na(25).
Năm 484 vua Phù Nam cất quân đánh Chiêm Thành, đồng thời cho sứ giả sang giao thương với Trung Hoa (nhà Tống) và yêu cầu nước này yểm trợ. Ngài được xem là vị vua mạnh nhất trong những năm cuối thế kỷ thứ V. Ngài theo đạo Phật, mặc dù đạo Bà La Môn đang có ảnh hưởng rất lớn trong vương quốc Phù Nam. Đặc biệt, ngài rất tôn sùng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát vì ngài tin rằng nhờ sự che chở của vị Bồ Tát này mà toàn cõi thần dân trong vương quốc của ngài luôn được an cư thịnh vượng. Về ngoại giao, vương quốc Phù Nam dưới thời vua Jayavarman giao hảo rất thân thiện với các nước Âu châu, Ấn Độ và Trung Hoa.
Khoảng năm 480, vua Jayavarman phái nhiều thương gia sang buôn bán ở Quảng Châu, thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Trên đường về, đoàn tàu chở theo một vị thiền sư người Ấn Độ tên Cakya Nagasena(26). Năm 484, vua Jayavarman phái vị thiền sư ấy trở lại Trung Hoa dâng sớ, nói rõ về hiện tình của vương quốc Phù Nam và sư mong muốn giữ được mối giao hảo bền vững với Trung Hoa, lúc đó nhà Tề đang cai trị. Vị thiền sư ấy cũng đạo đạt lời thỉnh cầu của vua Xà Da Bạt Na(25) xin Trung Hoa gửi quân tiếp viện Phù Nam đánh Lâm Ấp, nhưng vua Trung Hoa từ chối. Theo lá sớ của vua Xà Da Bạt Na trình lên triều đình Bắc Kinh thì tôn giáo thịnh hành ở Phù Nam thời bấy giờ là Phật giáo Tiểu Thừa. Khoảng cuối thế kỷ thứ V, nhà Tề gửi quốc thư yêu cầu vương quốc Phù Nam phái 2 nhà sư gốc người Phù Nam tên Mandrasena(27) và Sanghapala(28) sang Trung Quốc phiên dịch kinh điển từ Phạn ngữ và văn tự Phù Nam ra Hoa ngữ. Tuy nhiên, khi 2 nhà sư này đến Trung Quốc thì nhà Tề đã bị nhà Lương tiêu diệt. Dầu triều đình Bắc Kinh từ chối không gửi viện quân sang giúp Phù Nam, nhưng vào năm 503, theo Lương Thư, vua Lương Võ Đế đã ban chiếu khen vua Phù Nam: “Vua Xà Da Bạt Na đệ nhất và các đời vua trước trị vì ở phương Nam xa xăm, tuy ở xa nhưng họ vẫn tỏ rõ lòng trung thực và tính hòa hiếu, nhiều lần họ đã sai sứ mang lễ vật sang tặng. Bởi vậy, cần phải tưởng lệ bằng cách phong cho danh hiệu: Bình Nam Tướng Quân, Phù Nam Đại Vương.”
Đến năm 506, vua Lương Võ Đế chính thức yêu cầu 2 sư phiên dịch kinh điển. Trong thời kỳ nầy, Xà Da Bạt Na đệ nhất cho dựng lên đền thờ Thần Vishnu tại khu vực Đồng Tháp Mười ngày nay, gọi là Đền Chakratirthasvamin. Tuy nhiên, mãi đến ngày nay người ta không tìm được bia đá nào nói về vua Xà Da Bạt Na đệ nhất và triều đại của ông ta, chỉ có hai tấm bia khắc chữ Phạn, ghi lại việc hoàng hậu hạ sanh thái tử Gunavarman và việc khai khẩn vùng đất sình lầy nầy mà thôi.
Năm 514, vua Xà Da Bạt Na đệ nhất băng hà để lại cho dân tộc Phù Nam một vương quốc hùng mạnh với nhiều công trình thủy lợi trong khu vực ven vùng biển cạn Tháp Mười và Óc Eo ngày nay, biến những vùng trũng ngập mặn thành những cánh đồng phì nhiêu trù phú. Theo thư tịch cổ của nhà Lương, thì vua Lưu Bà Bạt Ma (Rudravarman) là con của một bà thứ phi của vua Xà Da Bạt Na đệ nhất. Lưu Bà Bạt Ma đã giết chết người con trưởng thuộc dòng chánh là thái tử Gunavarman để cướp ngôi và trị vì Phù Nam từ năm 514 đến năm 550.
Cũng theo cổ thư Trung Hoa thì đây là vị vua cuối cùng của vương quốc Phù Nam còn quan hệ với Trung Hoa. Vua Lưu Bà Bạt Ma (Rudravarman) cũng muốn nối chí vua cha củng cố mối giao hảo với Trung Hoa, bằng chứng là vào năm 517, vua Rudravarman phái một đoàn sứ giả dưới sự hướng dẫn của một vị tu sĩ Bà La Môn sang Nam Kinh dâng sớ và cống lễ lên hoàng đế nhà Lương.
Rồi đến năm 518, vua Rudravarman (514-539) lại phái một đoàn sứ giả khác sang dâng một tượng Phật bằng gỗ bạch đàn ở Ấn Độ và nhiều lá bồ đề được mang về từ nơi cây Bồ Đề nơi Đức Phật thành đạo. Phái bộ Phù Nam còn cho triều đình nhà Lương biết là hiện còn lưu giữ một lọn tóc xá lợi của Đức Phật tại vương quốc Phù Nam. Cũng chính trong khoảng thời gian nầy các vị cao tăng Phật giáo người Phù Nam đã phiên dịch bộ Vimutti Magga(29) sang Hán văn.
Hiện bộ kinh nầy chỉ còn lại bản chữ Hán, trong khi bản chữ Phạn đã bị thất lạc. Năm 535, sử nhà Lương còn ghi lại về việc một phái đoàn sứ giả Trung Hoa được gửi sang Phù Nam để thỉnh kinh Phật, đồng thời yêu cầu vua Rudravarman của vương quốc Phù Nam cho dời các sư sãi sang Trung Hoa. Vua Rudravarman liền cử thiền sư người Ấn tên Gunaratna, đang hành đạo tại đây, mang 240 bộ kinh sang Trung Hoa. Sư Gunaratna đến Nam Kinh vào năm 546, nhưng sử Trung Hoa không nói rõ sư lưu lại đây bao lâu và dịch được những bộ kinh nào nữa.
Tuy nhiên, lúc đó uy tín và thế lực của Phù Nam đã hết nên sau đó vương quốc Phù Nam bị tiêu diệt. Có lẽ chính việc soán ngôi của vua Lưu Bà Bạt Ma (Rudravarman) mà các quan lại và thần dân không phục, nên vào khoảng năm 550, một số người còn tưởng nhớ đến người con trưởng vua Xà Da Bạt Na nổi lên đánh chiếm kinh thành Đặc Mục. Cũng theo thư tịch cổ thời nhà Lương, khi vua Lưu Bà Bạt Ma (Rudravarman) băng hà, vào năm 550, tại vương quốc Phù Nam đã xảy ra một cuộc nội loạn, có lẽ do một người cháu vua Rudravarman tên là Bhavavarman lãnh đạo(30) đánh chiếm kinh đô Đặc Mục, đã lật đổ được vương triều Phù Nam thời bấy giờ, và cuối cùng đã hợp nhất lãnh thổ Phù Nam với Chân Lạp làm một. Quốc vương đương thời của Phù Nam phải bỏ chạy và lập triều đình lưu vong tại vùng Na Phất Na Khái(31). Như vậy sau một thời vàng son rực rỡ, vương quốc Phù Nam trở nên suy sụp vào giữa thế kỷ thứ VI. Thấy thế mới biết vào thời mà Việt Nam chúng ta chỉ là một quận huyện của Trung Hoa thì vương quốc Phù Nam đã là một vương quốc rất lớn và rất mạnh ở phương Nam.
Kinh Đô Đặc Mục (Vyadhapura) Của Vương Quốc Phù Nam:
Các nhà cổ sử đều đồng ý rằng kinh đô Phù Nam đặt tại thành Đặc Mục, tiếng Phạn là Vyadhapura, có nghĩa là thành phố của những thợ săn(32). Theo các nhà nghiên cứu cổ sử kinh đô nầy nằm gần gần thị trấn Banam, gần ngọn núi Ba Phnom ngày nay, thuộc tỉnh Prey Veng của Cao Miên ngày nay. Theo các nhà cổ sử thì đây là một trong những đô thị trù phú vào bật nhất trên thế giới, vì nó tọa lạc trên một vùng núi không xa đồng bằng mà cũng không xa biển, rất thuận tiện cho việc giao thương và nông nghiệp. Theo Hán sử của người Trung Hoa thì đô thị nầy cách bờ biển khoảng 120 lý(33), nằm trên tuyến hải hành giữa Trung Hoa và Ấn Độ.
Kinh đô Vyadhapura được xây dựng bằng gạch và đá rất kiên cố, chung quanh có hệ thống kinh đào vừa được dùng để dẫn thủy nhập điền, vừa được dùng để thuyền bè có thể đi xuyên qua lãnh thổ của của vương quốc. Hải quân của Phù Nam rất hùng mạnh, vào khoảng giữa thế kỷ thứ ba sau Tây lịch, vương quốc nầy đã có một đội chiến thuyền và quân lực hùng mạnh nhất trong vùng. Họ đã kiểm soát cả trên bộ lẫn dưới biển trên một tuyến đường hàng hải của các thương thuyền giữa Trung Hoa và Ấn Độ. Chính vì vậy mà khoảng 300 năm sau ngày thành lập họ đã chinh phục hầu hết các bộ tộc trên một phạm vi rất lớn từ Mã Lai, Malacca, Thái Lan, Miến Điện, Kambuja, và Lão Qua. Lãnh địa của vương quốc nầy trải rộng từ phía Nam Trung Việt hiện nay và toàn vùng Nam Phần, ở phía tây sang tận đến thung lũng sông Menam thuộc Thái Lan, phía Bắc đến tận vùng Trung Lào, và phía Nam đến tận bán đảo Malacca (Mã Lai). Ngày đó hầu như các tiểu quốc nằm trên bán đảo Malacca và quần đảo Nam Dương ngày nay như Sri Vijaya ở Palembang, Sailendra ở Java... đều nằm dưới quyền kiểm soát của Phù Nam. Để có thể khắc phục những vùng nê địa chạy từ vùng cảng Óc Eo đến kinh đô Đặc Mục (Vyadhapura). Đây có thể nói là một trong những vùng nê địa khắc nghiệt nhất, vì hàng năm cứ đến mùa mưa là bị lũ lụt, còn vào mùa nắng là đồng khô cỏ cháy, không còn lấy một giọt nước. Vì thế, người Phù Nam đã đào rất nhiều kinh chạy từ Angkor Borei ra Vịnh Thái Lan, vừa làm đường giao thông thủy, mà cũng vừa làm hệ thống thoát nước và dẫn thủy nhập điền(34). Đến khi vương quốc Phù Nam sụp đổ, người Chân Lạp cũng tiếp tục đào kinh thoát nước, như kinh Cái Bác từ ngọn Cái Bác đến sông Vàm Cỏ Tây. Bên cạnh đó, để khắc phục việc thiếu nước về mùa khô, người Chân Lạp đã cho đào nhiều hồ nước lớn ở rải rác khắp nơi, như ao Bà Om ở Trà Vinh, hồ Tịnh Tâm ở Sóc Trăng, và những hồ nước lớn ở vùng Tịnh Biên (Châu Đốc). Theo các nhà khảo cổ và nhân chủng học nghiên cứu về Phù Nam, thì Óc Eo là hải cảng quan trọng nhất của Phù Nam từ khi mới lập quốc(35) cho mãi đến thế kỷ thứ VI sau Tây lịch. Nền kinh tế nghiêng về thương mãi của Phù Nam đã phát triển mạnh nhờ vị trí thuận tiện của Phù Nam. Trong lúc kỹ thuật hàng hải chưa tiến bộ, các nước đi từ Ấn Độ Dương qua Biển Đông, đến Nhật Bản và Trung Hoa đều phải ghé lại hải cảng Óc Eo của Phù Nam. Chính nhờ vậy mà ngành thương mãi của Phù Nam phát triển rất nhanh. Tuy nhiên, từ sau khi thế giới có những tiến bộ về kỹ thuật hàng hải, thuyền buôn có thể đi xa bờ và không cần phải ghé lại những hải cảng không cần thiết nữa, nên nhu cầu ghé lại cảng Óc Eo của các tàu buôn đi từ các xứ Ấn-Âu đến Trung Hoa không còn nữa, vì vậy mà nền thương mãi của Phù Nam suy sụp một cách nhanh chóng.
Hải Cảng Óc Eo Của Vương Quốc Phù Nam: Từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1942, nhà khảo cổ học người Pháp tên Louis Malleret đã tiến hành khai quật nhiều địa điểm khác nhau quanh khu vực Núi Sập(36). Đồng thời, người Pháp cũng cho chụp nhiều không ảnh từ phía Campuchia xuống tận các vùng duyên hải của miền Nam Việt Nam. Sau khi hoàn tất một số khai quật trên cánh đồng Óc Eo, nhà khảo cổ học Louis Malleret đã cho công bố kết quả những bằng chứng về vương quốc cổ Phù Nam(37). Kết quả của những cuộc khai quật nầy đã làm chấn động và thay đổi những hiểu biết về vương quốc Chenla(38), vì từ trước người ta luôn cho rằng Phù Nam là tiền thân của Chân Lạp. Theo Louis Malleret thì khu hải cảng Óc Eo nằm cách bờ biển khoảng 25 cây số, nhưng ông Malleret quả quyết rằng cách đây 20 thế kỷ, hải cảng nầy phải nằm sát bờ biển. Qua tài liệu và những không ảnh thu thập được, cũng như sự quan sát tại chỗ của ông, ông Malleret đã kết luận diện tích của thành phố nầy khoảng 450 mẫu. Toàn vùng chia thành nhiều ô nhỏ, chứng tỏ ngày xưa đô thị nầy tọa lạc gần biển với số lượng dân cư rất đông. Vùng di tích quanh núi Ba Thê có phạm vi rộng lớn, tập trung nhiều di tích thờ phụng và lăng mộ. Bên cạnh đó, di tích nầy còn cho thấy đây là vùng trung tâm, nơi qui tụ nhiều tinh hoa kỹ thuật và nghệ thuật của nền văn hóa mang tên Óc Eo. Cũng theo ông Louis Malleret, qua những gì mà đoàn khảo cổ của ông đã khai quật được cũng đủ cho thấy Óc Eo chẳng những là trung tâm kinh tế và thương mại, mà nó còn là trung tâm quyền lực chính yếu của vương quốc Phù Nam. Ngoài ra, những pháthiện nầy còn cho phép các nhà khảo cổ thời đó thấy được vai trò của thành phố cảng Óc Eo trong nền văn hóa cổ của Phù Nam. Óc Eo là hình ảnh tiêu biểu cho nền văn minh của một quốc gia cổ đã thành hình sớm nhất trong vùng Đông Nam Châu Á. Theo không ảnh chụp được vào năm 1942, phải nói Óc Eo(39) là một trong những hải cảng lớn trên thế giới thời bấy giờ. Óc Eo có hình chữ nhật, dài khoảng 3 cây số và rộng khoảng 1.5 cây số. Chung quanh cảng có 5 con đê cao và 4 hào rộng ở bốn cạnh, với diện tích bên trong cảng Óc Eo ít nhất phải trên 450 mẫu. Điều nầy chứng tỏ cách nay gần 2 ngàn năm, người Phù Nam đã có khả năng đắp những con đê chận biển giống như kiểu ‘Amsterdam’ của Hòa Lan ngày nay. Từ năm 1942 đến năm 1944, Louis Malleret tiếp tục tiến hành khai quật khu Núi Sập (Ba Thê), hy vọng tìm thêm dấu vết của vương quốc Phù Nam. Tuy nhiên, sau năm 1945, chiến tranh bùng nổ tại Đông Dương nên những cuộc khai quật của ông Louis Malleret phải bị gián đoạn. Sau năm 1975, các nhà khảo cổ học Việt Nam tiếp tục khai quật nhiều địa điểm, không chỉ quanh quẩn vùng Óc Eo, mà những cuộc khai quật sau nầy có qui mô rải khắp miền Nam Việt Nam. Ngoài những di cốt của con người được tìm thấy trong các khu lăng mộ và chum mộ, người ta còn tìm thấy dưới những hố khai quật rất nhiều di cốt của những con vật được nuôi trong nhà như chó, heo, mèo, gà, vân vân. Đặc biệt, người ta cũng tìm thấy rất nhiều hình voi được khắc trên các vật dụng, điều nầy chứng tỏ cư dân Phù Nam đã thuần dưỡng được loài voi để làm phương tiện giao thông trong sinh hoạt hằng ngày cũng như trong chiến tranh của họ. Điều nầy cũng cho thấy về mặt tâm lý học, người Phù Nam đã phát triển đến một trình độ rất cao(40). Sau nhiều cuộc khai quật, người ta thấy hình ảnh của vương quốc Phù Nam ngày càng hiện lên rõ nét, không chỉ tại Óc Eo, mà hầu quanh vùng Óc Eo và khắp cả miền Nam đâu đâu cũng có di tích hay phế tích của vương quốc cổ Phù Nam, như Cạnh Đền(41), Gò Tháp(42), Vĩnh Long, Tiền Giang, Gò Năm Tước và Gò Rộc Chanh(43), Sài Gòn, Cát Tiên (thuộc vùng Đồng Nai ngày nay), và Vũng Tàu. Đó là dấu tích của những gì mà các nhà khảo cổ đã khai quật được, nhưng chắc chắn các nhà khảo cổ sẽ không dừng lại ở đó. Trong tương lại, nếu được sự hợp tác của các nước Campuchia và Thái Lan, chắc chắn hình ảnh của vương quốc Phù Nam sẽ hiện lên ngày càng rõ nét hơn. Riêng những phát hiện phong phú hiện có về khu di chỉ Óc Eo cũng đủ chứng tỏ vai trò quan trọng của nó đối với vương quốc Phù Nam. Đây là một đô thị rộng lớn, một hải cảng có tầm cỡ thời bấy giờ với những sinh hoạt nhộn nhịp, một trung tâm kinh tế và thương mại phồn thịnh và sống động với những chứng cứ về mối quan hệ giao thương giữa Phù Nam và nhiều xứ Âu Á khác. Óc Eo là một di tích hết sức đặc biệt về vương quốc Phù Nam, vì nó chẳng những tiêu biểu cho nền văn minh của của vương quốc cổ nầy, mà nó còn gợi lại cho chúng ta hình ảnh của một nền văn minh thành hình sớm nhất trong vùng Đông Nam châu Á. Ngoài ra, theo kết quả của những cuộc khai quật sau năm 1975, người ta còn tìm thấy những mẫu lúa ở các di tích Nền Chùa, Óc Eo có dạng hạt tròn và người ta cũng tìm thấy dấu tích của những hạt lúa ma(44). Theo quyển ‘Con Đường Lúa Gạo’ của Watabe, trong những di tích gạch Óc Eo có chứa những vỏ trấu hạt dài. Đây là loại lúa có tên là lúa Tiên, thuộc hệ Bengal, được du nhập từ Ấn Độ vào khoảng những thế kỷ đầu Tây lịch. Qua những phát hiện về lúa, cộng với những phát hiện về hệ thống những kinh đào, nhà khảo cổ học Việt Nam Nguyễn Xuân Hiển đã đưa ra quan điểm về việc trồng lúa nước của vương quốc Phù Nam như sau: “Nghề trồng lúa ở Óc Eo thuộc dạng đầm lầy, đã sử dụng dạng kênh rạch để hỗ trợ cho cây lúa, và không xa nơi trồng lúa, còn bạt ngàn cả từng vạt lúa hoang dại.” Ngoài những phát hiện về nông nghiệp người ta cũng tìm thấy dấu tích thủ công nghiệp, nổi bậc nhất là những tượng Phật, tượng Thần và tượng những linh vật, cũng như những đồ thờ cúng, đồ trang sức và đồ gia dụng đủ kích cỡ, mà vật liệu xây dựng được dùng từ vãng, bạc, đồng, sắc, đá quí, gỗ quí, đất nung, và thủy tinh nhiều màu sắc. Bên cạnh những di vật nầy người ta còn phát hiện rất nhiều dụng cụ chế tác cũng như dấu vết của những lò nung, những nguyên liệu, phế liệu, những quặng nung chảy, những con lăn, bàn nghiền, cối, chày vồ, nồi nấu, khuôn đúc, bàn mài, vân vân. Có nhiều ngành nghề thủ công không phải của dân bản địa đã được thiết lập tại chỗ để sản xuất cho nhu cầu nội địa và cho cả việc xuất khẩu đi nơi khác nữa. Theo thư tịch cổ của Trung Hoa về đời nhà Lương: “Xứ Phù Nam xuất cảng vàng, đồng, thiết, trầm hương, ngà voi, công, chim thằng chài, vẹt ngũ sắc. Dân Phù Nam tìm thấy kim cương rất nhiều dưới sông và trên núi đá. Dân chúng lặn xuống nước mó kiếm rất dễ dàng.” Bên cạnh những phát hiện về công kỹ nghệ nội địa, các nhà khảo cổ học cũng tìm thấy những tấm huy chương của các vương triều La Mã, những miếng gương bằng đồng dưới thời nhà Đông Hán, những tượng Phật thời Bắc Ngụy, cùng những tượng thần Ấn Độ giáo, cho đến những đồ trang sức và vật dụng ngoại nhập... cho thấy ngành ngoại thương của vương quốc Phù Nam đã phát triển rất mạnh. Ngày nay, hầu hết các nhà khảo cổ đều đồng ý với ông Louis Malleret rằng Óc Eo chẳng những là trung tâm kinh tế và thương mại, mà nó còn là trung tâm quyền lực chính yếu của vương quốc Phù Nam. Gunarvarman – Vị Hoàng Tử Đã Khai Phá Vùng Đồng Tháp Mười: Gunarvarman là con của quốc vương Jayavarman, trị vì vương quốc Phù Nam từ năm 470 đến 514 sau tây lịch. Đáng lý chàng phải ở lại vùng kinh đô Đặc Mục hay hải cảng Óc Eo với đầy đủ những tiện nghi vật chất của hoàng gia, nhưng vì sự phát triển đất nước chàng đã vâng lệnh vua cha đi đến khai phá vùng Prasat Pram Loven, nay là vùng Đồng Tháp Mười(45). Thuở đó Tháp Mười là một vùng đầm lầy hoang vắng, không một bóng người. Theo ý phụ vương, hoàng tử Gunarvarman và đoàn tùy tùng đã khai khẩn toàn vùng và xây tại đây một ngôi đền, mà về sau nầy người ta đã tìm thấy bia văn mà vị hoàng tử đã khắc lên để ca ngợi tinh thần của vua cha. Vào đầu thế kỷ thứ XX, những nhà khoa học khảo cổ người Pháp đã tìm thấy tại ngôi tháp nầy một tấm bia, mà người đứng chủ là Gunarvarman. Bên cạnh đó, người cũng tìm thấy hai tấm bia khác trong vùng Tà Keo bên Campuchia, gần biên giới Việt Nam, một của hoàng hậu Kulaprabhavati, vợ vua Jayavarman, và một của chính vị vua Jayavarman, nói về việc xây dựng một khu đền mà người đứng chủ là ông và con của ông, vị vua kế vị có tên là Rudravarman. Dựa vào những bia văn tại những nơi nầy cũng như những thư tịch cổ của Trung Hoa, một số những nhân vật lịch sử và những biến cố chánh trị tại vương quốc nầy tuần tự được phơi bày ra ánh sáng. Theo lời kể trong bia văn, tuy còn rất trẻ nhưng Gunarvarman hội tụ cả phẩm hạnh và giá trị, đã được quyền cai quản một xứ sở gồm những người sống bằng lộc thánh trên đất khai khẩn từ bùn lầy. Họ đã dựng một ngôi đền thờ thần ở Pram Loven, ngôi đền đã được dâng cúng bởi nhiều vị thần Ấn Giáo thông hiểu kinh kệ. Họ tin rằng ngôi đền sẽ che chở cho Gunarvarman và những người đến đây qua lời văn trong đoạn cuối của bia văn: “Cầu cho con người sùng kính (vị thần nầy) của Guanarvarman đức hạnh, sùng tín, khoáng đạt. Cũng cầu cho ai đến lễ nơi đây, cũng sẽ được đến nơi ngự trị tối thượng của Visnu, tâm linh thoải mái, giải thoát khỏi xấu xa.” Khi mà những vùng đất phía đông nam và tây nam như Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau hãy còn là những vùng ngập nước quanh năm, nhờ công lao của hoàng tử Gunarvarman mà khu vực quanh ngôi đền Tháp Mười thời đó chính là nơi tập trung cư dân đầu tiên của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, nội dung của các bia văn cũng cho thấy những uẩn khúc của hoàng tộc Phù Nam trong giai đoạn cuối của vương quốc nầy. Kulaprabhavati là hoàng hậu, vợ của vua Jayavarman, phải ẩn tu nơi vùng Tà Keo hẻo lánh; trong khi đó con trai dòng chính của bà và vua Jayavarman là thái tử Gunarvarman lại phải tìm về nơi đầm lầy xa hẳn kinh đô Đặc Mục, nhưng vẫn không thoát khỏi nanh vuốt của con của một bà thứ phi là vua Rudravarman. Không bao lâu sau đó vương quốc Phù Nam cũng bị người Chân Lạp từ bình nguyên Korat tiến chiếm. Và từ thế kỷ thứ VII trở đi người ta không còn nghe nhắc đến vương quốc Phù Nam nữa.
Cư Dân Và Nếp Sống Của Người Phù Nam: Ngay từ đầu thế kỷ thứ nhất vương quốc nầy đã có thư viện với nhiều sách vở được viết bằng chữ Phạn. Ngôn ngữ và chữ viết chánh của vương quốc Phù Nam là Phạn ngữ (Sanskrit). Dù phái đoàn kinh lý không nói gì đến hệ thống hành chánh, nhưng họ mô tả hệ thống luật lệ và thuế má của Phù Nam thời bấy giờ không thua gì tại Trung Quốc. Bên cạnh đó, nông nghiệp và ngoại thương của xứ nầy rất phồn thịnh. Sứ thần Trung Hoa đã tỏ ra khinh khi người Phù Nam khi họ cho rằng dân Phù Nam là một dân tộc man di, da đen, xấu xí, tóc quăn, đa số đều ở truồng và đi chân không. Sau khi sứ thần Trung Quốc than phiền với vua Phù Nam thì nhà vua liền ra lệnh cho tất cả thần dân phải quấn vải vào thân mỗi khi có sứ thần nước khác đến. Các nhà cổ sử cho rằng có lẽ đây là tiền thân của chiếc xà rông mà các dân tộc Thái Lan, Mã Lai, Cao Miên và Lào thường mặc ngày nay. Tuy nhiên, những điều nầy ngược lại với những báo cáo của các thương nhân ngoại quốc. Họ ghi lại rằng giới quí tộc Phù Nam ăn mặc màu mè sặc sỡ với vô số đồ trang sức làm bằng ngọc ngà châu báu. Chính Khương Thái đã ghi lại như sau: “Vị vua đầu tiên của Phù Nam, có lẽ là một người thuộc dòng dõi quý tộc ở Ấn Độ hay là một Tăng lữ Bà La Môn, tên là Hỗn Điền (Kaundinya). Cũng theo Khương Thái thì vương quốc Phù Nam có nhiều đô thị, có tường cao bao quanh và bên trong có nhà ở. Người Phù Nam có nước da màu đen, tóc quăn, xấu xí và sống khỏa thân. Nếp sống của họ rất đơn giản nhưng trong xã hội của họ không có trộm cắp. Đa số làm nghề nông theo lối cổ xưa. Họ rất khéo chạm trổ trên đá và trên gỗ. Trong cung đình, đa số chén dĩa đều làm bằng vàng, bạc, trân châu. Trong khi đó đồ dùng của thường dân thì đa phần được làm bằng đất nung. Tại kinh đô, có văn khố và thư viện lớn với rất nhiều sách vở bằng chữ Phạn. Họ dùng chữ viết gần giống như loại chữ viết của các dân tộc ở vùng Trung Á, có nguồn gốc từ chữ Phạn của Ấn Độ.” Ngay từ những năm đầu Tây lịch, người Phù Nam đã biết dùng chữ viết trong công việc hành chánh và thương mãi rồi. Họ chiêm ngưỡng và sùng bái các tượng Thần làm bằng đồng, chạm hình người 2 mặt 4 tay, hoặc 4 mặt 8 tay. Về nghi thức ma chay, gia đình nào có người chết thì những người đàn ông trong gia đình đều cạo hết râu tóc. Thường thì họ thủy táng(46) người chết, hoặc hỏa táng(47). Một số cư dân khác tại các vùng ngập nước thì theo phương cách ‘điểu táng’(48). Ông Khương Thái(49) đã ghi nhận là cư dân trong vùng không sử dụng nước giếng, mà họ thường đào những cái ao lớn cho cả xóm xài chung. Tục lệ đào những cái ao lớn cho cả sóc ngày nay vẫn còn tại một số địa phương như Trà Vinh, Sóc Trăng hay Tri Tôn (Châu Đốc). Theo truyền thuyết thì chính Khương Thái là người đã thuyết phục nhà vua Phạm Tần (Fan-Tsan) ra sắc luật bắt buộc mọi người phải mặc quần áo. Từ đó dân chúng lấy tấm vải quấn tròn quanh người, giống như họ quấn xà rông (sarong) ngày nay. Theo thư tịch cổ đời nhà Lương, người Phù Nam rất thích dùng voi trong mọi công tác vận chuyển, có lẽ thời bấy giờ vùng nầy rất nhiều voi, nên chẳng những nhà vua và triều thần dùng voi, mà hầu như cung nữ và những thương gia tại kinh đô đều sử dụng voi làm phương tiện đi lại. Hầu hết những dữ kiện liên quan đến vương quốc và cư dân cổ Phù Nam đều được dựa theo cổ sử Trung Hoa và những di vật khai quật từ các nhà khảo cổ học cho thấy dân Phù Nam thờ thần 2 tay hay thần bốn tay (theo Ấn giáo), nhưng cũng thờ Phật. Họ đã có tổ chức hành chánh, quân sự và kinh tế rất vững vàng. Những dữ kiện nầy phản ảnh một thực tế lịch sử thực tế về nguồn gốc của người Khmer. Dầu theo cổ sử thì vương quốc Chân Lạp chỉ mới được thành lập vào thế kỷ thứ VII sau Tây lịch, nhưng người Cao Miên ngày nay luôn xem Hỗn Điền là vị Bành Tổ của họ, vì họ cho rằng chính Hỗn Điền là người đã sáng lập ra đất nước của họ và mang đến cho họ văn hóa Ấn Độ mà họ luôn hãnh diện. Chính vua Hỗn Điền là người đã mang lại cho họ một nền văn hóa với đỉnh cao Angkor Wat và Angkor Thom. Chính nhờ vị vua nầy mà phụ nữ biết may mặc y phục một cách kín đáo, chính nhờ vị vua nầy mà dân tộc Khmer có được ngôn ngữ riêng cho chính họ, dù họ vẫn lấy chữ Phạn làm chữ viết. Theo họ thì chính hoàng đế Hỗn Điền đã du nhập vào xứ sở của họ tôn giáo, luật pháp, cũng như chế độ chánh trị từ Ấn Độ. Cũng theo Khương Thái trong chuyến đi kinh lý vương quốc Phù Nam, đã ghi lại trong sách “Phù Nam Phong Thổ” như sau: “Vị vua đầu tiên của Phù Nam, có lẽ là một người quí tộc đến từ Ấn Độ, hay là một tăng lữ Bà La Môn tên Hỗn Điền (Kaundinya).” Theo ‘Phù Nam Phong Thổ’ thì thời đó dân Phù Nam đã biết cách luyện kim và kỹ thuật luyện kim của họ đã lên đến trình độ rất cao. Theo thư tịch cổ đời nhà Tề, vương quốc Phù Nam dưới thời vua Xà Da Bạt Na(25), dân chúng Phù Nam chuyên nghề thương mãi và rất giỏi nghề đi biển. Họ thường tổ chức những chiến thuyền đi đến cướp phá các vùng lân cận. Cung điện nhà vua thường rất uy nghi lộng lẫy, xây nóc bằng, bên trong được trang trí bằng nhiều ngọc ngà châu báu. Thường dân thì cư trú trong những ngôi nhà sàn lợp bằng lá tre, có rào cây bao quanh. Người Phù Nam rất giỏi về canh tác nông nghiệp. Mỗi khi có lễ hội hay những lúc rảnh rỗi họ thường tụ tập lại để coi đá gà, hoặc xem trâu, bò, heo cắn lộn giống như những bộ tộc man di khác. Đối với người Trung Hoa, họ luôn xem những dân tộc không phải là Hán tộc đều là những dân tộc man di, nên lời lẽ trong các nhựt ký hoặc cổ thư có vẻ khinh miệt. Nhưng theo lời kể hoặc nhựt ký của thương nhân các nơi khác, họ tỏ vẻ thán phục nền văn minh và sự cường thịnh của người Phù Nam. Theo họ, dân tộc Phù Nam phải là một dân tộc văn minh lắm mới có thể biết cách luyện kim và kỹ thuật luyện kim của họ đã lên đến trình độ rất cao. Riêng về lãnh vực thủ công đồ trang sức và kim hoàng, người Phù Nam thời đó có khả năng chế tác ra đủ loại đồ trang sức bằng châu báu, vàng bạc hay những thứ đá quí. Vương quốc Phù Nam suy yếu kể từ sau năm 539 và bị buộc phải triều cống cho vương quốc Chân Lạp, một phiên quốc của Phù Nam trước đây. Đến năm 627, vua Chân Lạp là Bhavavarman xóa tên vương quốc Phù Nam trên bản đồ Đông Nam Á. Lúc đó thần dân Phù Nam bị sáp nhập và ép buộc phải sống chung với người Chân Lạp. Những ai không chịu khuất phục phải rút sâu vào rừng núi phía đông bắc, hoặc dong buồm sang tị nạn tại các đảo Sumatra, Java, và Borneo... Theo các nhà sử học, khảo cổ học và nhân chủng học, rất có thể những hậu duệ của hoàng gia Phù Nam nầy đã dựng lên triều đại Sailendra huy hoàng trên quần đảo Nam Dương, và cũng rất có thể họ đã kết hôn với những ông hoàng bà chúa tại vùng Nam Đảo nầy, nên các giới quí tộc hiện nay tại các vùng Mã Lai, Nam Dương, Malacca... có thể đều có liên hệ huyết thống với người Phù Nam. Riêng những người Phù Nam còn ở lại vùng Nam Bộ, bị ép buộc phải cộng sinh với người Khmer, họ dần dà biến thành một dân tộc sống trong lục địa và mất dần khả năng hàng hải của cha ông ngày trước.
Tín Ngưỡng Và Tôn Giáo Chính Của Vương Quốc Phù Nam:
Theo những bia ký(50) tìm thấy ở Đồng Tháp Mười, Bati và Tà Keo (Cao Miên), Võ Cạnh (Khánh Hòa), vv... cho thấy đa số người Phù Nam theo đạo Bà La Môn và Phật Giáo. Theo tấm bia tìm thấy trong ngôi đền Prasat Pram Lovek ở Đồng Tháp, người ta tìm thấy hình tượng chạm dấu chân vị thần Vishnou, một vị thần quan trọng trong Ấn Độ giáo. Bia văn thứ hai tìm thấy trong ngôi đền Ta Prohm ở Bati (Cao Miên) ghi lại một số chi tiết về Phật pháp mà ngay cả nhà vua mặc dầu ở địa vị cao cả cũng không thể xem đức hạnh như là không có ý nghĩa. Tất cả việc thiện của của nhà vua đều rất mực trung thành với Phật pháp. Bia văn thứ ba tìm thấy trong ngôi đền ông Tà Dambang Dek trong tỉnh Tà Keo, lời văn nói về việc lập một tu viện thờ thần Vishnou có một hồ nước và một tư thất do hoàng hậu Kulaprabhavati, chánh cung của quốc vương Jayavarman coi sóc.
Bia văn thứ tư được tìm thấy ở Võ Cạnh (Khánh Hòa), lời văn nói về ý nghĩa của tình trạng bất an của thế gian, lòng trắc ẩn đối với muôn loài, sự hy sinh tài sản cho kẻ khác, tất cả những đặc tính mà vị quốc vương kế nghiệp vua Cri Mara biểu thị lòng rộng rãi của mình là một bản văn quá rõ rệt thuộc về Phật giáo, vì những nhà vua theo Bà La Môn thường hiến cúng vô số tài sản vào các đền thờ, chứ không bao giờ nghĩ đến việc giúp đỡ mọi người bằng số tài sản thặng dư. Tinh thần Asoka thể hiện trong bản văn nầy từ đầu đến cuối. Tưởng cũng nên nhắc lại, tất cả những bia ký trên đây đều được viết bằng chữ Bắc Phạn (Sanskrit). Tất cả nội dung của các bia ký vừa kể trên cho thấy đa số cư dân Phù Nam theo đạo Bà La Môn(51).
Tuy nhiên, cũng có rất nhiều di vật khai quật được cho thấy ảnh hưởng của Phật giáo trên vương quốc nầy không phải là nhỏ. Tưởng cũng nên nhắc lại, thời kỳ vương quốc Phù Nam đang cường thịnh, tức là vào khoảng thế kỷ thứ 3 sau Tây lịch, thì Phật giáo tại phương Đông chưa phát triển mạnh. Phật giáo chỉ phát triển mạnh tại đây vào cuối thế kỷ thứ sáu, nghĩa là lúc vương quốc Phù Nam suy tàn. Chính vì vậy mà bản sắc văn hóa Phù Nam đượm nét Bà La Môn hơn là Phật giáo. Điểm đặc biệt ở đây, qua những di vật khai quật được cho thấy Phật giáo Phù Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp của Phật giáo Ấn Độ chứ không qua trung gian Phật giáo Trung Hoa như Phật giáo Việt Nam. Phật giáo phát triển ra khỏi xứ Ấn Độ bằng hai con đường, đó là đường bộ, phía bắc Ấn Độ, còn gọi là ‘Con Đường Tơ Lụa’. Con đường nầy lại rẽ làm hai nhánh, một đi vào Trung Hoa, và một rẽ xuống hướng Nam đi vào Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cao Miên và Phù Nam.
Con đường thứ nhì là ‘Đường Thủy’, Phật giáo Ấn Độ theo các thương thuyền đi từ Ấn Độ qua Tích Lan, Nam Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, và Phù Nam. Ngay từ thế kỷ thứ 3, một vị sư người Ấn Độ tên Marajivaka, đã đến Phù Nam để truyền bá Phật giáo Mật Tông. Do tánh huyền bí của Phật giáo Mật Tông rất phù hợp với tín ngưỡng địa phương thời đó của người Phù Nam, nên Phật giáo Mật Tông đã phát triển song hành với Bà La Môn giáo một cách dễ dàng. Đến thế kỷ thứ VII thì vương quốc Phù Nam suy tàn và cuối cùng bị phiên quốc Kambuja tiêu diệt. Phật giáo dần dà lấn lướt sự phát triển của Bà La Môn, nhưng không phải là Mật Tông, mà là Phật giáo Nguyên Thủy xuất phát từ Tích Lan.
Vương Quốc Phù Nam Suy Tàn Và Những Cư Dân Đến Sau Học Được Gì Trong Sự Suy Tàn Của Vương Quốc Nầy ? Người Phù Nam không phải là cư dân bản địa, mà là người di tản từ nơi khác đến. Họ đã mang theo nền văn minh vốn có từ cha anh của họ từ các vùng Nam đảo, và chỉ trong vòng 600 năm họ đã khắc phục được một trong những vùng nê địa khắc nghiệt nhất trên thế giới thời đó, vì hàng năm cứ đến mùa mưa là bị lũ lụt, còn vào mùa nắng là đồng khô cỏ cháy, không còn lấy một giọt nước. Để khắc phục lũ lụt hằng năm, người Phù Nam đã cho đào rất nhiều kinh chạy từ Angkor Borei ra Vịnh Thái Lan, vừa làm đường giao thông thủy, mà cũng vừa làm hệ thống thoát nước và dẫn thủy nhập điền(52).
Đến khoảng năm 350 sau Tây lịch, nước biển lại bắt đầu dâng lên từ từ, người Phù Nam đã phải tìm cách sống chung với lũ bằng cách cho đào thêm kinh rạch xả nước, đồng thời cất nhà sàn tránh lũ. Ngày nay hầu như ai trong chúng ta cũng đều nghe nói về sự hưng thịnh của vương quốc Phù Nam, nhưng có lẽ ít ai biết rõ về sự suy tàn của nó. Gần hai ngàn năm trước đây, một nền văn hóa rực rỡ như Óc Eo mà lại đột nhiên biến mất và mãi cho đến ngày nay cũng chưa có giải thích nào được chấp nhận là hợp lý nhất cho sự đột biến nầy. Ngay cả các nhà khảo cổ học và sử học vẫn chưa đi đến sự đồng thuận nào về lý do chính khiến cho vương quốc nầy phải suy tàn. Đã có nhiều giả thuyết được đưa ra để nói về sự suy tàn của Phù Nam, nhưng mãi cho đến ngày nay sự tiêu vong của vương quốc Phù Nam vẫn còn là một bí ẩn đối với hậu thế chúng ta. Có giả thuyết cho rằng Phù Nam bị người Chân Lạp (Chenla) hay người Chà Và (Java) tiêu diệt.
Theo giả thuyết nầy có lẽ đã xảy ra một cuộc chiến tranh khốc liệt giữa Phù Nam với Chân Lạp, kết quả là người Chân Lạp từ phía Tây tràn xuống cướp bóc và tiêu diệt cư dân Phù Nam, nhưng sau năm 1945, nhà khảo cổ học người Pháp tên Louis Malleret đã chứng minh rằng cách giải thích nầy không hợp lý, bởi lẽ những cổ vật do các nhóm khảo cổ đào lên cho thấy không có vết tích của những đổ vỡ do cướp phá vì chiến tranh, nghĩa là không có dấu tích tàn sát nào do ngoại xâm được tìm thấy qua những di vật đã được khai quật. Riêng tại cảng Óc Eo, hầu như những di vật quí giá đều còn nguyên vẹn. Ông Louis Malleret đã kết luận rằng một cuộc xâm lăng trên qui mô lớn giữa vương quốc nầy nhằm tiêu diệt vương quốc khác, mà không cướp của và chiếm đất thì chiến tranh để làm gì?(53) Như vậy, giả thuyết bị ngoại xâm tàn sát đã không xảy ra và không đáng tin ở đây. Có người cho rằng có lẽ là một cơn hồng thủy, những cơn chấn động địa chất, hay một cơn đại dịch đã xóa sạch cả một cộng đồng cư dân rộng lớn như vậy vào thế kỷ thứ VII sau Tây lịch.
Theo cách lý giải nầy thì vào khoảng giữa thế kỷ thứ VII, vào khoảng năm 635, nước biển dâng cao hơn 1 mét khắp miền Nam Việt Nam ngày nay trong một khoảng thời gian dài khoảng 30 năm, khiến người Óc Eo không thể tiếp tục ở lại vùng châu thổ miền Tây được nữa, một phần đã dong buồm trở ra các hải đảo phía Nam, phần khác ở vùng tiếp giáp với miền Đông Nam Phần đã bỏ chạy lên phía Nam dãy Trường Sơn.
Đến năm 665, nước biển bắt đầu rút, nhưng trong suốt 5 thế kỷ, từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ XII, mực nước biển trong vùng không được ổn định, lúc lên lúc xuống một cách bất thường, nên không có cư dân nào có thể trụ lại đây được. Cho mãi đến thế kỷ thứ 13, vào năm 1296, khi sứ thần Trung Hoa là Châu Đạt Quan đi ngang qua đây đã mô tả nơi nầy như những khu rừng sác, rậm rạp, hoang vu, không có cư dân, những vàm con sông lớn chạy dài hàng trăm lý, bóng mát um tùm của những gốc cây cổ thụ và cây mây, tạo thành nhiều chỗ trú ẩn xum xuê. Tiếng chim hót và thú vật kêu vang dội khắp nơi... Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy dẫy.
Hàng trăm hàng ngàn trâu rừng họp lại từng bầy trong vùng. Tiếp đó là những đồi dốc đầy tre gai chạy dài hàng trăm lý. Như vậy, có lẽ chính trận hồng thủy năm 635 đã dìm chìm toàn bộ miền đất nầy dưới mặt nước, và đã khiến cho cư dân Phù Nam còn sống sót phải bỏ chạy, hoặc ra đảo, hoặc lên miền Tây Nguyên. Đến năm 1150, mực nước biển đã rút trở lại mức độ bình thường cho đến khoảng năm 1950.
Từ năm 1950 đến nay hình như toàn vùng châu thổ sông Cửu Long đang phải đối đầu với một chu trình hải xâm mới(54). Điều nầy cho thấy có thể chính hiện tượng hải xâm đã dìm cả vùng đồng bằng sông Cửu Long hàng trăm năm dưới mực nước biển và đã xóa đi nền văn hóa Óc Eo. Tuy nhiên, theo những tài liệu địa chất được nhiều nhà khoa học ngày nay chấp nhận thì kỷ tan băng lần chót đã xảy ra cách nay trên 8.000 năm. Còn những trận động đất hay những cơn sóng thần (Sunami) xảy ra ở vùng Đông Nam Á không thể nào có khả năng tiêu diệt cư dân của cả một vương quốc rộng lớn như Phù Nam. Riêng về nguyên nhân của một trận đại dịch cũng không được thuyết phục vì qua những ngôi mộ và di cốt có niên đại vào khoảng những thế kỷ thứ VI và thứ VII, đều thấy hầu hết những thi hài được an táng trong mộ một cách chỉnh tề, chứ không thấy dấu hiệu của cách mai táng vội vã vì bệnh dịch. Nếu giả thuyết ‘Hải Xâm’ đúng thì đây cũng là một bài học quí giá cho người Việt Nam trong công cuộc đương đầu với hiện tượng hải xâm và triều cường hiện nay tại vùng châu thổ sông Cửu Long. Một ngàn năm trăm năm trước đây khi người Phù Nam phải đối mặt với trận đại hồng thủy một cách bất ngờ, có thể họ chưa kịp đặt ra những biện pháp ứng phó với tình huống, nên thuở đó trên một triệu cư dân Phù Nam đã bị kẹt giữa làn nước nên một số ít vì tình thế bắt buộc phải dong buồm ra khơi để đi về các hải đảo phía Nam, chỉ một số ít chạy thoát được lên phía Nam Trường Sơn, còn đa số bị dìm trong làn nước.
Ngày nay, tuy cư dân Việt Nam ở đây có đông hơn, khoảng 17 triệu người, nhưng khoa học có tiến bộ hơn, và chúng ta có nhiều thì giờ để chuẩn bị hơn. Dù không ai trong chúng ta muốn cả vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long bị dìm dưới mặt nước biển, nhưng một khi bà mẹ thiên nhiên ra tay thì có mấy ai ngăn cản được? Như vậy, thử hỏi chúng ta có chuẩn bị gì cho một cuộc hải xâm sắp tới đây hay không? Thử hỏi những người có trách nhiệm đã đề ra những phương án khả thi khi tình huống nầy xảy đến, chẳng hạn như vùng nào sẽ bị ngập trước, vùng nào ngập sau, bao nhiêu đất đai sẽ bị ngập và bao nhiêu cư dân sẽ bị ảnh hưởng, vân vân và vân vân. Đến khi một phần đất của vùng châu thổ sông Cửu Long bị chìm dưới nước, thì cái vựa lúa miền Nam cũng không còn, như vậy vấn đề lương thực cho cả nước cũng trở nên một nan đề khó giải quyết.
Theo thiển ý, vua Rudravarman qua đời vào khoảng thế kỷ thứ VI, thì vương quốc Phù Nam bị suy tàn bởi nhiều lý do, trong đó hai lý do kinh tế và sự bất ổn chánh trị trong vương quốc đã góp phần không nhỏ khiến vương quốc nầy suy tàn. Tưởng cũng nên nhắc lại, nền kinh tế nghiêng về thương mãi của Phù Nam đã phát triển mạnh nhờ vị trí thuận tiện của Phù Nam. Trong lúc kỹ thuật hàng hải chưa tiến bộ, các nước đi từ Ấn Độ Dương qua Biển Đông, đến Nhật Bản và Trung Hoa đều phải ghé lại hải cảng Óc Eo của Phù Nam. Chính nhờ vậy mà ngành thương mãi của Phù Nam phát triển rất nhanh. Tuy nhiên, từ sau khi thế giới có những tiến bộ về kỹ thuật hàng hải, thuyền buôn có thể đi xa bờ và không cần phải ghé lại những hải cảng không cần thiết nữa, nên nhu cầu ghé lại cảng Óc Eo của các tàu buôn đi từ các xứ Ấn-Âu đến Trung Hoa không còn nữa, vì vậy mà nền thương mãi của Phù Nam suy sụp một cách nhanh chóng.
Bên cạnh đó, nội loạn và sự nổi dậy của các chư hầu như Malacca, Chân lạp, Nam Vạn Tượng và vùng phía Đông của nước Xiêm, nhất là phiên quốc Kambuja, không còn chịu thần phục nữa, họ tràn xuống từ phía Nam Lào và đánh phá vương quốc Phù Nam. Theo cổ thư Trung Hoa thì giai đoạn cuối cùng của vương quốc Phù Nam trùng hợp với sự phát triển của một nước chư hầu có tên là Kambuja (tiền thân của Chân Lạp).
Một người cháu của vua Rudravarman đang trị vì tại vùng Kambuja, phía Bắc Phù Nam, tập họp một lực lượng mới từ nội địa, vùng đất mà bây giờ chúng ta gọi là Lục Chân Lạp, rồi đem thủy quân theo dòng Cửu Long tiến đánh thủ đô Vyadhapura, sau đó lên ngôi vua lấy hiệu là Bhavavarman. Sau khi bị vua chư hầu Kambuja đánh bật ra khỏi thủ đô Vyadhapura.
Theo những bia ký tìm thấy sau nầy, vua Phù Nam lúc bấy giờ là Sailaraja chạy về phía Nam, thành lập một vương quốc nhỏ mang tên là Na Phất Na (Naravaranagara), còn gọi là nước Chí Tôn, gồm cả vùng chạy từ miền Tây sông Hậu ra đến biển Đông và vịnh Xiêm La, vùng mà bây giờ chúng ta gọi là Miền Tây. Vua Sailaraja cố thủ tại vùng này trong suốt từ cuối thế kỷ thứ VI đến giữa thế kỷ thứ VII. Theo các nhà ngoại giao thời nhà Lương vào thế kỷ thứ VI thì trong suốt gần 50 năm trị vì, vua Sailaraja đã thành lập ra 7 thành phố trên vùng đất mà bây giờ chúng ta gọi là Miền Tây.
Tuy nhiên, theo các bia ký mới đào được sau này thì người ta chỉ tìm ra được dấu tích của 4 thành phố mà thôi. Đó là các vùng Tamandarapura, Aninditapura, Baladityapura, và Samudrapura. Như vậy kể từ năm 539 đến khi hoàn toàn bị diệt vong, vương quốc Phù Nam đã bị buộc phải triều cống cho vương quốc mới là Chân Lạp(55). Đến năm 627, vương quốc Phù Nam bị vua Chân Lạp là Bhavavarman xóa hẳn tên trên bản đồ. Tuy nhiên, trong năm này sứ giả Phù Nam vẫn còn đi sứ đến triều cống nhà Đường, như vậy, Phù Nam có lẽ bị tiêu diệt sau năm 627 sau Tây lịch. Khoảng trên một thế kỷ sau đó, thư tịch cổ nhà Hậu Đường đã ghi lại rằng sứ đoàn kế đó từ vương quốc Phù Nam gửi đến không phải của dòng vua Phù Nam nữa: “Đô thị của dân săn bắn, cựu thủ đô của đất Phù Nam bị Chân Lạp cướp mất, và nhà vua trốn về miền Nam.” Những thần dân của vương quốc Phù Nam bị sáp nhập vào vương quốc Chân Lạp, trong khi các hoàng thân quốc thích Phù Nam thì chạy sang tỵ nạn bên Nam Dương. Sau đó, một trận đại hồng thủy xãy ra trên toàn bộ vùng lãnh thổ mà bây giờ là Nam Kỳ, nên dân chúng Phù Nam phải chịu cảnh sơ tán, không ai còn thiết nghĩ đến chuyện đánh Bhavavarman để lấy lại kinh đô Vyadhapura và chiếc ngai vàng cho vương quốc Phù Nam nữa.
Thế là bắt đầu từ giữa thế kỷ thứ VII vương quyền từ vương quốc Phù Nam đã hoàn toàn chuyển sang vương quyền Kambuja mà không có sự phản kháng nào. Điều nầy cũng trùng hợp với những điều được ghi lại trong cổ thư Tân Đường do Âu Dương Tu và Tống Ký biên soạn: “Đầu niên hiệu Trinh Quán nhà Đường (627-649); sứ giả Phù Nam còn đến tiến cống nhà Đường. Tuy nhiên, trong nước Phù Nam đang có sự thay đổi lớn. Nhà vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải chạy trốn về Na Phất Na.” Nhà khảo cổ học Maurice Glaize đã ghi trong quyển Les Monuments du groupe d’Angkor(56) về việc vương quốc Phù Nam bị nước Chân Lạp (Chenla) xâm chiếm và tiêu diệt như sau: “Vào thế kỷ thứ VI, trong lúc có nhiều cuộc nội loạn xảy ra, nước Chân Lạp hay Kambuja sau khi tuyên bố lập quốc, lấn dần đất đai của Phù Nam, chiếm đế đô và tiêu diệt hẳn xứ nầy sau ba phần tư thế kỷ chiến tranh do quốc vương Icanavarman I chỉ huy.
Vị quốc vương nầy lên ngôi vào năm 615, trị vì đến năm 635, dựng kinh đô mới là Icanapura, chắc chắn là Sambor-Prei Kuk, gần tỉnh lỵ Kompong Thom này nay.” Sau khi Chân Lạp đánh bại Phù Nam, các cổ thư Trung Hoa bắt đầu xuất hiện tên gọi ‘Thủy Chân Lạp’ để chỉ phần lãnh thổ Phù Nam trên vùng đất miền Nam Việt Nam ngày nay, và cũng để phân biệt với vùng đất Lục Chân Lạp, tức là vùng đất mà trước kia thuộc phiên quốc Cát Miệt(57).
Đối với người Chân Lạp, dầu đã tiêu diệt và chiếm cứ những vùng đất thuộc Phù Nam trước đây, nhưng trên thực tế, người Chân Lạp chưa từng thực sự cai quản những vùng đất nầy. Vì trước tiên, dân Cát Miệt (Khmer) đã quen sống trên những vùng đất cao với lối du canh nên họ chưa bao giờ có ý định khai khẩn vùng đất đầy đầm lầy trũng nước của miền Thủy Chân Lạp nầy; thứ nhì dân Chân Lạp vào thế kỷ thứ VII hãy còn quá ít để có thể phân tán cho vùng đất xa xôi nầy.
Chính vì vậy mà các vua xứ Cát Miệt cứ để mặc cho hậu duệ của hoàng gia Phù Nam trước đây tự ý lập nên những khu tự trị nhỏ trong vùng vùng, miễn sao họ đừng nổi lên đánh phá Chân Lạp là được. Và cũng chính vì vậy mà mãi đến thế kỷ thứ VIII sau Tây lịch, trong vùng đất Thủy Chân Lạp có rất nhiều tiểu quốc được thành lập, mà theo các bia ký thì tại vùng trung tâm của Phù Nam trước đây xuất hiện một tiểu quốc tên Aninditapura, do một hoàng thân dòng dõi Phù Nam tên là Baladitya trị vì. Thêm vào đó, sau khi vương quốc Phù Nam bị tiêu diệt, có rất nhiều phiên quốc chư hầu của Phù Nam trước đây nổi lên thành những nước mạnh mà Chân Lạp không đánh bại được, trong số đó có triều đại Srivijaya của vùng Java. Đến giữa thế kỷ thứ VIII, Srivijaya đã đem quân vượt biển tiến đánh vào bán đảo Đông Dương, trong đó có vương quốc Chân Lạp. Như vậy, trong vòng gần một thế kỷ, toàn vùng phía Nam của bán đảo Đông Dương đã nằm dưới sự cai trị của triều đại Srivijaya. Chính vương quốc Chân Lạp cũng phải chịu cảnh bị xâm chiếm cho mãi đến đầu thế kỷ thứ IX (vào năm 802) họ mới thu phục được nền độc lập từ tay triều đại Srivijaya.
Hình Ảnh Của Vương Quốc Phù Nam Theo Các Sử Gia Và Các Nhà Khảo Cổ Học Thời Cận Đại: Kỳ thật tất cả các sử gia thời cận đại đều dựa vào những cổ thư của Trung Hoa hoặc Ấn Độ để viết lại lịch sử của một vương quốc đã tàn lụn cách nay gần 15 thế kỷ. Dầu muốn dầu không, điều nầy khiến cho cái nhìn của các sử gia thời cận đại phần nào bị hạn hẹp. Theo nhà khảo cổ Pháp Giteau trong quyển Lịch Sử Cao Miên (Histoire du Cambodge), vương quốc Phù Nam do một vị hoàng thân Ấn Độ tên Kaudinya (Hỗn Điền—Hun-T’ien) sáng lập sau khi ông nầy gặp gỡ và kết hôn với nữ hoàng Liễu Diệp. Họ sinh con đẻ cháu và chia nhau cai quản 7 thành phố lớn thời bấy giờ. Hán sử ghi rằng vương quốc Phù Nam thành lập vào đầu kỷ nguyên dương lịch, thời kỳ nầy tương ứng với thời điểm khởi nghĩa của hai bà Trưng ở Giao Châu bị thất bại, khi đó các lạc hầu và lạc tướng cũng như các tù trưởng chạy xuống phương Nam hợp cùng cư dân bản địa xây dựng nên một vương quốc mang tên Phù Nam. Vương quốc nầy bao gồm nhiều tiểu quốc trải khắp vùng phía Nam bán đảo Đông Dương đến tận Malacca của Mã Lai. Các tiểu quốc nầy hợp lại với nhau thành vương quốc Phù Nam, nhưng vẫn giữ nguyên tên gọi, định chế chính trị và bản sắc truyền thống của riêng họ như Đô Côn, Cửu Trì, Đốn Tốn, Xích Thổ, Bàn Bàn, Đan Đan, Cát Miệt (Chân Lạp), vân vân. Theo Aymonier (1883) thì Phù Nam là phiên âm của chữ “Phnom” nghĩa là “núi” từ tiếng Khmer. Do đó ông đoán Phù Nam chính là Chân Lạp về cả địa lý lẫn lịch sử. Cho tới bây giờ chưa ai dám cả quyết là Aymonier đúng hay sai trong việc ông này quyết đoán Phù Nam chính là Chân Lạp, vì những đoán định của các nhà nghiên cứu lịch sử thời cổ đại đều bắt nguồn từ những ghi chép trong các thư tịch cổ. Mãi cho tới ngày nay, chính những người Khmer cũng mặc nhiên xem mình là hậu duệ của Hỗn Điền. Trong khi đó nhà khảo cổ người Pháp tên Maurice Glaize trong quyển Les Monuments du Groupe d’Angkor(58), khi dựng lại phổ hệ của các triều đại Chân Lạp, bắt đầu từ thế kỷ thứ I lại ghi là vương quốc Phù Nam, đến thế kỷ thứ VI, cho rằng khi vị vua đầu tiên là Bhavavarman I của Chân Lạp, ngay sau khi lập quốc vào năm 598. Sau khi vua Bhavavarman I băng hà, người em trai tên là Mahendravarman lên nối ngôi từ năm 600 đến năm 615 sau Tây lịch. Sau khi vua Mahendravarman băng hà, con trai tên Icanavarman I lên ngôi (615-635), và chính người nầy đã từ từ uy hiếp và lấn dần đất đai của vương quốc Phù Nam, sau đó chiếm đế đô Đặc Mục (Vyadhapura) và tiêu diệt hẳn người Phù Nam.
Như vậy là mâu thuẫn, vì làm sao con cháu có thể đi tiêu diệt tổ tiên của mình để lập nên một vương quốc khác được? Như vậy, khi muốn dựng lại hình ảnh của một vương quốc đã tàn lụn cách nay gần 15 thế kỷ, chúng ta không thể nào đơn thuần chỉ dựa vào sách vở hoặc những thư tịch cổ của một số quốc gia lân cận, vì không phải thư tịch cổ nào cũng ghi lại một cách chính xác những sự kiện lịch sử thời đó, vì đừng nói đâu xa, chỉ cách nay chừng vài thế kỷ thôi, phương tiện giao thông chưa có, nên ngay các lân bang cũng không biết về nhau nhiều lắm. Đến đầu thế kỷ thứ XX, vào năm 1903, P. Pelliot đã bắt đầu viết về một nước Phù Nam cổ bằng những công trình nghiên cứu cụ thể. Đây là một bước tiến quan trọng trong tiến trình dựng lại hình ảnh của vương quốc Phù Nam. Bốn thập niên sau đó, vào năm 1943, G. Coedes nghiên cứu tất cả bia ký cũng như tất cả những gì liên quan đến vương quốc Phù Nam từ khi thành hình đến khi tàn lụn, trong đó ông nói khá chi tiết về những phát triển của đất nước nầy. Tuy nhiên, sự nghiên cứu của ông đa phần dựa vào sử liệu chứ không nặng về những di tích khảo cổ.
Theo quyển Đông Nam Á Sử Lược, giáo sư Hall viết rằng:
“Chính Khương Thái và Châu Doanh (K’ang Tai và Chou Yinh), hai nhà văn Trung Hoa tháp tùng sứ đoàn Trung Hoa đến vương quốc Phù Nam vào giữa thế kỷ thứ III, đã đề cập lần đầu tiên đến vương quốc Phù Nam. Khương Thái kể rằng Hỗn Điền (Kaundinya) là người sáng lập ra vương quốc nầy và ông phiên âm tên vương quốc nầy là Hun T’ien. Theo ông, có lẽ Hỗn Điền là người ngoại quốc, đến từ Ấn Độ hay Mã Lai. Khương Thái kể tiếp rằng có lẽ Hỗn Điền đã đến đây theo giấc mộng của mình. Khi đến nơi, ông đánh bại nữ hoàng của xứ nầy là Liễu Diệp, rồi lại kết hôn cùng vị nữ hoàng nầy để sáng lập nên vương quốc Phù Nam.” Không biết thời đó Khương Thái có biết về truyện thần thoại “Rắn Bảy Đầu” của Ấn Độ hay không, chứ những gì mà ông ta ghi lại trong nhựt ký của mình giống hệt như truyện thần tiên Ấn Độ đã được khắc trên bia đá ở Mỹ Sơn, trước kia thuộc vương quốc Champa và ngày nay thuộc tỉnh Phú Yên của Việt Nam. Theo Việt Sử Tân Biên của Phạm văn Sơn, lịch sử thành lập vương quốc Phù Nam khởi đầu bằng truyền thuyết “Một hôm Hỗn Điền (Kaundinya) nằm mộng thấy một vị thần cho một cây cung và khuyên đi lập nghiệp ở Phù Nam. Sáng hôm sau, Hỗn Điền sửa soạn thuyền bè ra đi tìm đất Phù Nam. trước khi xuất hành, Hỗn Điền vào một đền thờ Bà La Môn làm lễ, quả nhiên bắt gặp một cây cung nằm dưới gốc của một loại cây quí. Ông bèn vượt biển tìm đến đất Phù Nam. Sau nhiều ngày gian truân trong chuyến hải hành, đoàn tàu của Hỗn Điền tìm thấy một vùng đất liền bao la bạt ngàn mà người ta tin là vùng đồng bằng sông Cửu Long bây giờ. Lúc đó vùng nầy đang do nữ hoàng Liễu Diệp (Soma—Lieo Ye) cai trị. Nữ hoàng thấy kẻ lạ đến, liền xua quân đánh đuổi. Sau nhiều trận thư hùng, nữ hoàng Liễu Diệp liệu sức không đánh bại được những mũi tên thần của Hỗn Điền nên xin cầu hòa. Sau đó hai người kết hôn để cùng nhau cai trị xứ Phù Nam.”
Tuy nhiên, theo các nhà khảo cổ, những bia đá tìm thấy tại các vùng Phú Yên, Thánh địa Mỹ Sơn và Trà Kiệu(59) thì câu chuyện trên là rập khuôn theo thần thoại của người Chăm nói về vua Kaudinya và nàng Long Nữ Nagi Soma. Việt Sử Tân Biên của Phạm văn Sơn cũng ghi lại như sau: “.Lãnh thổ Phù Nam choán cả miền Nam bán đảo Đông Dương, từ vùng hạ lưu sông Cửu Long, vùng Đồng Tháp Mười và các đất đai sát bờ biển Thái Lan. Dấu tích nước Phù Nam hiện nay còn lại 3 tấm bia bằng chữ Phạn: một tấm chạm hình Phật đào được ở Bati, phía Nam thành nam Vang, và 2 tấm chạm hình thần Vishnu tìm thấy ở Việt Nam và phía cực Nam Cao Miên. Ba tấm bia nầy có niên đại từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ VI. Đế quốc Phù Nam liên hệ rất nhiều với biển nên có giao thương với các lân quốc Nam Dương, Mã Lai, Champa và nhất là với Trung Hoa. Từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ VI, vương quốc nầy gửi rất nhiều sứ đoàn đến Trung Hoa.”
Louis Malleret, Nhà Khảo Cổ Người Pháp,Người Đầu Tiên Đã Phơi Bày Hình Ảnh Của Vương Quốc Và Dân Tộc Phù Nam Qua Những Chứng Tích Khảo Cổ:
Vào năm 1944, một khúc quanh trong việc nghiên cứu khảo cổ về vương quốc Phù Nam, một nhà khảo cổ học người Pháp tên Louis Malleret, thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ, đã đến tận vùng Óc Eo để khai quật những dấu tích của một hải cảng đã bị sụp trong lòng đất, nằm trong xã Mỹ Lâm, quận Kiên Thành, tỉnh Rạch Giá. Ông Malleret đã cho khai quật 22 địa điểm và tìm thấy 12 di tích kiến trúc hiện chỉ còn lại những nền móng chìm dưới mặt đất khoảng 6 tấc. Trong số nầy có di tích quan trọng của hai ngôi đền lớn. Một ngôi còn lại nhiều căn phòng với vách tường cao gần 4 thước. Ngôi còn lại có nền được lót bằng những tảng đá hoa cương rất lớn, có viên với bề dài 3,12 mét và bề ngang 2,60 mét. Bên cạnh đó có nhiều tảng đá lớn, đục đẽo sơ sài, sắp xếp giống hình một căn phòng hình chữ nhật. Chung quanh di chỉ nầy, ông còn tìm thấy rất nhiều chén, bát, lu, hũ bằng đất nung, cùng những dụng cụ nông nghiệp và những đồ dùng nhỏ bằng đồng và rất nhiều nữ trang. Có nhiều nơi, ông thấy các món nữ trang nằm trên nền cát, và qua những dấu vết gần đó, ông suy đoán đây là khu vực của một nhà kim hoàng. Ngoài những đồ trang sức bằng vàng, người ta còn tìm thấy những xâu chuỗi hạt trai nhuộm màu, hoặc những viên hồng ngọc, mã não, đang làm dở dang, vân vân.
Vào năm 1944, một khúc quanh trong việc nghiên cứu khảo cổ về vương quốc Phù Nam, một nhà khảo cổ học người Pháp tên Louis Malleret, thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ, đã đến tận vùng Óc Eo để khai quật những dấu tích của một hải cảng đã bị sụp trong lòng đất, nằm trong xã Mỹ Lâm, quận Kiên Thành, tỉnh Rạch Giá. Ông Malleret đã cho khai quật 22 địa điểm và tìm thấy 12 di tích kiến trúc hiện chỉ còn lại những nền móng chìm dưới mặt đất khoảng 6 tấc. Trong số nầy có di tích quan trọng của hai ngôi đền lớn. Một ngôi còn lại nhiều căn phòng với vách tường cao gần 4 thước. Ngôi còn lại có nền được lót bằng những tảng đá hoa cương rất lớn, có viên với bề dài 3,12 mét và bề ngang 2,60 mét. Bên cạnh đó có nhiều tảng đá lớn, đục đẽo sơ sài, sắp xếp giống hình một căn phòng hình chữ nhật. Chung quanh di chỉ nầy, ông còn tìm thấy rất nhiều chén, bát, lu, hũ bằng đất nung, cùng những dụng cụ nông nghiệp và những đồ dùng nhỏ bằng đồng và rất nhiều nữ trang. Có nhiều nơi, ông thấy các món nữ trang nằm trên nền cát, và qua những dấu vết gần đó, ông suy đoán đây là khu vực của một nhà kim hoàng. Ngoài những đồ trang sức bằng vàng, người ta còn tìm thấy những xâu chuỗi hạt trai nhuộm màu, hoặc những viên hồng ngọc, mã não, đang làm dở dang, vân vân.
Ông Malleret còn tìm thấy một cái chày vồ nhỏ, làm bằng đất nung, giống như loại chày vồ mà người Miên đang sử dụng hiện nay. Bên cạnh đó, ông cũng tìm thấy nhiều cọc gỗ, dấu tích của những ngôi nhà sàn, giống như nhà sàn của cư dân trong vùng thường bị ngập nước. Sau khi cho đào sâu xuống thêm khoảng 1,80 mét nữa thì ông khám phá ra nhiều xương cốt của người và thú vật, cũng như rất nhiều vỏ sò, ốc và chén bát bằng đất nung. Ông cũng tìm thấy một số vật nặng dùng để cột vào lưới đánh cá, cho thấy cư dân cổ tại đây đã từng sống với nghề đánh bắt cá. Lúc khai quật thì Óc Eo cách bờ biển khoảng 25 cây số, nhưng ông Malleret quả quyết rằng cách đây 20 thế kỷ, hải cảng nầy phải nằm sát bờ biển. Qua tài liệu và những không ảnh thu thập được, cũng như sự quan sát tại chỗ của ông, ông Malleret đã kết luận diện tích của thành phố nầy khoảng 400 mẫu.
Toàn vùng chia thành nhiều ô nhỏ, chứng tỏ ngày xưa đô thị nầy tọa lạc gần biển với số lượng dân cư rất đông. Cũng theo những kết quả qua khai quật, những đồ nữ trang làm theo kiểu cách Ấn Độ, những dòng chữ Phạn vào thời kỳ thế kỷ thứ V hoặc trước hơn nữa được khắc trên những tảng đá, và một số đồ dùng có dấu hiệu của tôn giáo Bà La Môn, ông Malleret cho rằng dầu chưa có sử sách nào viết về vương quốc Phù Nam, nhưng theo ông vương quốc nầy chắc chắn phải thành lập vào thế kỷ thứ nhất, theo cổ thư Trung Hoa và vài bia ký ở miền Nam Việt Nam.
Cư dân cổ của vương quốc nầy phần lớn chịu ảnh hưởng Bà La Môn. Họ dùng chữ Phạn trước thế kỷ thứ V. Qua một số vật dụng có nét mỹ thuật Ba Tư và một cái huy chương La Mã khắc hình vua Antonius le Pius, cũng như một số đồng tiền La Mã đánh dấu năm 152 D.L., ông Malleret cho rằng có thể vương quốc Phù Nam đã từng có một vị vua cai trị người gốc Ba Tư, và vương quốc nầy có quan hệ thương mãi với các vùng Ấn Độ chạy dài đến thành La Mã. Theo cổ thư Trung Hoa thì vào năm 166 sau Tây lịch, tướng Marc Aurèle, thống đốc thành Pondichéry(60) đã gửi một sứ đoàn đến Trung Hoa, có lẽ sứ đoàn nầy đã ghé lại Phù Nam vào năm nầy. Dầu phạm vi khai quật hãy còn hạn hẹp trong vùng Óc Eo, thuộc quận Ba Thê, tỉnh An Giang, năm 1944, nhà khảo cổ học và nghiên cứu cổ sử người Pháp là ông L. Malleret cũng đã bắt đầu đưa việc nghiên cứu về vương quốc Phù Nam sang một khúc quanh mới. Ông đã gắn chặt đời mình với công cuộc khai quật và nghiên cứu nầy. Hầu như không có nơi nào của miền Nam Việt Nam mà ông chưa đặt chân tới. Hễ nghe ai nói chỗ nầy có gò, chỗ kia có cổ mộ... là ông tìm tới. Riêng tại miền Tây Nam Phần, ông đã tiến hành khai quật trên 136 địa điểm. Từ Mỹ Tho lên đến biên giới Việt Miên ở miền Đông, ông đã khai quật hơn 167 địa điểm.
Trong suốt gần 20 năm ròng rã, ông L. Malleret công bố đã khai quật được trên 1311 hiện vật vàng, cân nặng 1.120 gram và trên 10.000 hột ngọc đã làm ngạc nhiên toàn thể các giới nghiên cứu cổ sử và khảo cổ học. Ngoài ra, bên cạnh các gò tháp, ông còn thu nhặt trong các cổ mộ nhiều hài cốt và nhiều di tích cũng như hàng ngàn hiện vật bằng đồng, sắt, gỗ, và đá khác, cũng như hàng chục ngàn hiện vật bằng gốm sứ bao gồm nhiều chủng loại như bình, vò, tô, chén, tượng, và chân đèn, vân vân.
Trong số những hiện vật khai quật, có rất nhiều hiện vật có nguồn gốc từ Trung Hoa, Ấn Độ, Ý, và Trung Á có niên đại từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ III sau Tây lịch. Phải công nhận, chỉ có công trình nghiên cứu và khai quật của ông L. Malleret được xem là có tầm cỡ nhất từ trước đến nay. Ông đã chụp được những hình ảnh về các kiến trúc độc đáo như những dấu tích khu nhà sàn trên khu hải cảng Óc Eo. Vào năm 1963, theo báo cáo của ông Malleret, trên thềm cao phía Tây của Hậu Giang, bây giờ gắn liền với địa phận tỉnh Tà Keo, thuộc Kampuchia, có một dãy núi đá nhỏ Phnom Angkor Borei, Phnom Batep, và Phnom Da cách nhau từ 1 đến 3 cây số, cách dãy Phnom Chisor, Phnom Kleang, Phnom Bayang khoảng từ 15 đến 20 cây số. Người ta tìm thấy ở Angkor Borei những dấu vết tường thành, có chỗ xây bằng gạch, có chỗ xây bằng đá, dài khoảng từ 1800 thước đến 2.000 thước. Dọc theo tường thành người ta khám phá ra 5 con kinh cạn, kinh số 1 đi Vat Po, kinh số 2 đi Vat Sosey, kinh số 3 đi Vat Speu, chỉ dài khoảng từ 2 đến 4 cây số.
Kinh số 4 đi sông Châu Đốc dài khoảng 15 cây số, và kinh số 5 nối liền Châu Đốc đi Ba Thê, dài khoảng 100 cây số. Như vậy, những con kinh dài số 4 và số 5 đi từ hải cảng lớn nhất của Phù Nam là Óc Eo, chảy từ những kinh rạch miền Đông đến sát chân tường thành Angkor Borei. Tại chân tường thành Angkor Borei, ông Malleret còn tìm thấy rất nhiều mảnh gốm sứ, trong đó có những vòi ấm Óc Eo, một số mảnh thiếc thuộc văn minh Óc Eo vẫn còn nguyên trạng... từ đó cho phép Malleret kết luận rằng kinh đô Vyadhapura của vương quốc Phù Nam trước khi bị chiếm là khu đền tháp Angkor Borei ngày nay.
Nhờ những chứng cớ nầy mà ông L. Malleret đã phân chia văn hóa Óc Eo ra làm hai thời kỳ: thời kỳ tiền Khmer tương ứng với sự tồn tại của vương quốc Phù Nam và thời kỳ sau gọi là thời kỳ Chân Lạp. Theo Malleret thì từ đầu kỷ nguyên Tây lịch, vương quốc Phù Nam là một trong những vương quốc hùng mạnh nhất trong vùng Đông Nam Châu Á. Họ đã có tổ chức hành chánh, quân sự và kinh tế rất vững vàng. Kinh đô đặt tại Vyadhapura, gần thị trấn Banam ngày nay (Đông Bắc Kampot), cách bờ biển hiện tại khoảng 120 hải lý(61).
Tuy nhiên, ông chỉ có thể đưa ra những nhận xét bao quát, chứ không thể báo cáo một cách chi tiết về vương quốc nầy. Ông cho rằng vết tích những con tàu ở vùng Kiên Giang như một tiền cảng của Óc Eo và hiện vật di tích Óc Eo được tìm thấy ở nhiều địa điểm chứ không chỉ riêng trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Sau các cuộc khai quật khảo cổ, không nghi ngờ gì nữa, Óc Eo chẳng những là một hải cảng lớn, mà còn là trung tâm thương mại có tầm cỡ đối với nhiều người ngoại quốc vào thời đó. Vào thời mà phương tiện quan trọng vào bật nhất là đường hàng hải thì Óc Eo nằm ngay trên trục giao thông chính giữa Ấn Độ và Trung Hoa.
Theo sử liệu Trung Hoa, các thương nhân Trung Hoa đã nói rằng con đường duy nhất để đi đến Malacca là phải đi ngang qua hải cảng Óc Eo. Họ còn ghi lại là đã có một cơn bão lụt kinh khủng xảy ra tại vùng nầy đã tàn phá kinh đô Vyadhapura và hải cảng Óc Eo, nhưng không ghi rõ xảy ra vào năm nào. Tại Óc Eo người ta phát hiện nền của một thành cổ dài khoảng 1.500 thước, trong đó có nhiều đồ trang sức khác nhau, làm bằng đất nung, gốm sứ, thủy tinh, đá quí, kim cương, chì, thiếc, bạc, vàng, vân vân. Người ta còn phát hiện ra một con dấu và nhiều đồng tiền, có cả đồng tiền La Mã nữa. Bên cạnh đó, các nhà khảo cổ còn tìm thấy các khuê bài bằng vàng của hoàng đế La Mã, Antonius Pius, năm 152 sau Tây lịch và nhiều ấn chiếu bằng chữ Phạn vào thời nầy. Riêng tại khu di chỉ Gò Cây Me trong ấp Bình Thạnh, xã Trung Hiếu, và ấp Bình Phụng thuộc xã Trung Hiệp, quận Vũng Liêm thuộc tỉnh Vĩnh Long, ông L. Malleret cho rằng có thể tại vùng nầy đã từng có một thành phố cũ của vương quốc Phù Nam vì tại Nỗng Vua và Bàu Vàng dân chúng địa phương đã đào được rất nhiều tượng vàng và những mảnh gốm sứ rất lạ. Có thể thành phố nầy nằm trong địa phận của các xã Trung Hiệp, Trung Hiếu và Trung An thuộc quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.
Tuy nhiên, vì tình trạng chiến tranh ngày càng khốc liệt nên ông Malleret phải đình chỉ việc khai quật khu Gò Cây Me vào năm 1963. Sau khi nhà khảo cổ Louis Malleret đưa ra những kết quả cũng như nhận định của mình về vương quốc Phù Nam, hãy còn nhiều người hoài nghi về những kết quả nầy, vì nó chỉ là kết quả của những khai quật nằm trong phạm vi hạn hẹp tại vùng Óc Eo. Những người có khuynh hướng hoài nghi nầy cho rằng nhận định của ông Louis Malleret về một thành phố cảng Óc Eo hãy còn nhiều điều mơ hồ. Nhưng đến những năm 1980 và 1983, người ta đã cho khai quật một loạt các gò nổi trong vùng Giồng Cát trong khu di tích Ba Thê, kết quả cho thấy đây chính là một trong những bộ phận của đô thị Óc Eo như Louis Malleret đã nói đến trước đây. Năm 1995, trong khi đào kênh trong vùng lân cận Gò Cây Me, nơi mà nhà khảo cổ Louis Malleret đã khai quật dang dở vào năm 1963, người ta đã phát hiện ra những dãy gốm trang trí rất đẹp, đây chỉ có thể là nơi cư trú của hàng vua chúa hay hoàng gia của một vương quốc mà thôi. Theo các nhà khảo cổ học thì có lẽ đây là di tích duy nhất ở vùng châu thổ sông Cửu Long còn nguyên vẹn chưa bị đào bới từ trước tới nay. Tháng 12 năm 1998, Viện Khảo Cổ Học Việt Nam đã tiến hành đào một hố thám sát trên ruộng lúa nằm về phía Tây của khu di chỉ và người ta đã tìm thấy rất nhiều lớp gốm sứ điển hình của nền văn hóa Óc Eo. Nói tóm lại, hiện vật di tích Óc Eo được tìm thấy ở nhiều địa điểm khác nhau, rải rác không chỉ riêng trong lưu vực sông Cửu Long, từ Kiên Giang, Óc Eo (Ba Thê), Cần Giuộc (Long An); mà còn tìm được rải rác khắp lưu vực sông Iwaradi bên Miến Điện nữa.
Tất cả những cống hiến của nhà khảo cổ học Louis Malleret không chỉ mang lại cho ông sự nổi tiếng về bộ sưu tập đồ sộ về những hiện vật có liên quan đến nền văn hóa Óc Eo, mà nó còn phơi bày cho hậu thế chúng ta về hình ảnh khá rõ ràng của dân tộc và vương quốc Phù Nam. Ông Louis Malleret đã phân định rõ ràng về sự khác biệt giữa hai nền văn hóa Phù Nam và Chân Lạp. Ông gọi nền văn hóa Óc Eo là nền văn hóa Tiền Khmer, trong đó vương quốc và dân tộc Phù Nam tồn tại. Với Louis Malleret, dấu tích những con tàu ở Kiên Giang cũng như dấu tích của hải cảng Óc Eo cho thấy rõ rệt sự khác biệt giữa hai dân tộc Phù Nam và Chân Lạp, một bên là dân chuyên sống gần biển, còn một bên chỉ thích hợp với những vùng núi cao mà thôi. Khi phơi bày những không ảnh chụp được một hệ thống kinh đào có hình nan hoa với những kỹ thuật dẫn thủy nhập điền để phát triển ngành nông nghiệp, ông Louis Malleret cho thấy dân tộc Phù Nam rất thạo trong việc trồng lúa nước. Bên cạnh đó, ông cũng phơi bày những hình ảnh của một hải cảng Óc Eo phồn thịnh vào thế kỷ thứ II, cho thấy dân Phù Nam cũng là một dân tộc rất giỏi về thương mãi.
Chính ông Louis Malleret đã đi tiên phong trong việc tìm ra được một di chỉ kiến trúc nằm bên trên một tầng văn hóa của cư dân Óc Eo, để đi đến khả năng tách biệt hai tầng văn hóa nầy riêng ra. Điều nầy đủ để minh chứng rằng trước khi người Chân Lạp có mặt ở vùng Thủy Chân Lạp, đã có một dân tộc, một vương quốc cổ từng cư trú tại vùng đất nầy. Có thể nói đây là lần đầu tiên, những phát hiện trong khai quật khảo cổ được dùng trong việc dựng lại hình ảnh một vương quốc, một dân tộc, một nền văn hóa đã tàn lụn cách nay gần 15 thế kỷ. Đây quả là một kỳ công trong ngành khảo cổ học! Thay Lời Kết Về Vương Quốc Phù Nam: Nói tóm lại, theo kết quả của những di tích khảo cổ khai quật được, thì miền Nam Việt Nam, từ khu vực từ Vũng Tàu đến Hà Tiên, trong quá khứ hai ngàn năm trước đã từng là lãnh thổ của một vương quốc hùng mạnh và rộng lớn nhất vùng Đông Nam châu Á, đó là vương quốc Phù Nam.
Tuy nhiên, theo cổ sử Trung Hoa, những vùng đất của vương quốc Phù Nam bao gồm các miền đất trên bán đảo Đông Dương, kể cả Việt Nam, Campuchia, Malacca, và Champa. Theo các sử gia, thì mối quan hệ giữa Ấn Độ và vùng Đông Dương đã có từ lâu, nên không riêng gì Phù Nam mới có truyền thuyết lập quốc từ một ông hoàng Ấn Độ kết hôn với một bà hoàng gốc địa phương, mà cả vùng Mã Lai và Malacca cũng đều có một truyền thuyết tương tự. Bằng chứng xác thực của truyền thuyết về nguồn gốc Ấn Độ được đưa ra bằng bia ký mà người ta phát hiện được ở vùng Mỹ Sơn, Trà Kiệu trong tỉnh Quảng Nam, thuộc vương quốc Chmapa cổ đại.
Một sử gia nổi tiếng người Ấn Độ, tên Majumda, đã khẳng định trong quyển Hindu Colonies on Far East(62), “những viễn cảnh giàu sang đã khiến các thương gia người Ấn tìm kiếm những vùng đất lạ ngoài biên giới của họ. Những vùng đất và hải đảo ngoài biển khơi và những vùng đồi núi ở phía đông được nổi tiếng với huyền thoại về vàng bạc và đá quý, và người ta gọi chúng là những vùng đất vàng Suvannabhumi và Suvandipa, vân vân, nơi các thương gia Ấn thường xuyên lui tới mua bán đồ gia vị, quế, và nhiều loại dầu thơm.” Thật vậy, trong quá khứ đã có nhiều ông hoàng Ấn Độ, thuộc giai cấp Sát Đế Lợi (Ksatriya) đã đem tư tưởng Ấn Độ truyền bá vào vùng Đông Dương, và người ta cũng không lấy làm lạ khi vùng Đông Dương của Đông Nam Á một thời đã trở thành trung tâm văn hóa, thương mại, và chính trị quan trọng của nền văn minh Ấn Độ, mà vương quốc Phù Nam là một thí dụ điển hình. Phù Nam là tên của một trong những vương quốc cổ nhất trong lịch sử Đông Nam Á.
Vương quốc với nền văn hóa Óc Eo có một lịch sử khá lâu đời như những nền văn hóa Âu Châu khác mà chúng ta từng biết đến. Vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch, khi tại Âu châu thì Đại Đế Claudius đang ra sức chinh phục đất Anh Cát Lợi và tại Trung Hoa là triều đại nhà Tây Hán, thì tại vùng Đông Nam châu Á một vương quốc hùng cường xuất hiện trên bản đồ thế giới, đó là vương quốc Phù Nam. Theo các nhà sử học, khảo cổ học và nhân chủng học, lãnh thổ của vương quốc nầy về phía Đông chạy dài từ lưu vực hạ lưu sông Cửu Long, đến phía Nam Trung Phần(63), về phía Tây đến thung lũng sông Mê Nam (Thái Lan), và về phía Nam chạy đến phía Bắc của bán đảo Mã Lai. Hiện tại chúng ta có rất ít sử liệu cũng như quá trình phát triển của vương quốc nầy, chính vì thế mà việc phác họa lại hình ảnh và văn hóa của cư dân cổ trong vùng nầy không phải là chuyện dễ. Tuy nhiên, trong thời cận đại, qua kết quả khai quật của các nhà khảo cổ học của cả Việt Nam lẫn Tây phương đã giúp cho các nhà sử học có thể đem những di vật khai quật được ra để đối chứng với những tài liệu trong các thư tịch cổ của Trung Hoa để khả dĩ xác định được vị trí và lãnh thổ từng phần của vương quốc Phù Nam ngày trước. Theo các thư tịch cổ của Trung Hoa, vào khoảng giữa thế kỷ thứ III, sứ giả Trung Hoa có đến đây ghi chép một số điều về cảnh quang, phong tục và tập quán của cư dân trong vùng. Thật tình mà nói, mãi cho đến ngày hôm nay, danh hiệu “Phù Nam” cũng còn rất mơ hồ với chúng ta, vì chưa ai trong chúng ta dám đoan chắc Phù Nam là một dân tộc hoàn toàn khác với dân tộc Cao Miên, cũng chưa ai trong chúng ta có đầy đủ chứng cứ xác định rằng hai dân tộc nầy không có liên hệ gì với nhau.
Chính vì vậy mà các sử gia, nhất là các sử gia người Trung Hoa, khi viết về lịch sử Phù Nam, họ thường ghi lại sự thành hình của nó tại những vùng hạ lưu châu thổ sông Mékong, vùng phía Bắc Malacca, và ngay cả các vùng phía Bắc Thừa Thiên (Huế của Việt Nam), và vùng Arakan cũng như hạ lưu Miến Điện, nhưng hiện nay các nhà khảo cổ chưa tìm được những bằng chứng xác thực về sự hiện diện của vương quốc Phù Nam tại vùng Arakan (Burma). Một yếu tố khác đã góp phần không nhỏ vào sự suy tàn của vương quốc Phù Nam là nền kinh tế của vương quốc nầy bị suy sụp từ sau sự tiến bộ kỹ thuật của nền hàng hải.
Vào khoảng thế kỷ thứ 6 thì các tàu buôn từ Ấn Độ và Malacca có thể đi thẳng đến Trung Hoa mà không cần ghé lại Óc Eo nữa. Sự kiện nầy đã khiến cho nền thương mãi của Phù Nam đột nhiên suy sụp một cách thảm hại, khiến cho vương quốc không còn đủ khả năng duy trì đội chiến thuyền hùng mạnh, do đó mà khả năng quân sự của Phù Nam cũng bị suy sụp theo, và cuối cùng là sự sụp đổ của vương quốc nầy. Sau khi Kambuja đánh bại vương quốc Phù Nam vào thế kỷ thứ VII, chúng ta không còn thấy danh xưng Phù Nam xuất hiện trong các cổ thư Trung Hoa nữa, mà thay vào đó bằng tên gọi Thủy Chân Lạp. Có lẽ, người Trung Hoa gọi như vậy để chỉ vùng lãnh thổ Phù Nam trên vùng đất Nam Phần Việt Nam, và cũng để phân biệt với vùng đất Lục Chân Lạp, tức vùng đất gốc của vương quốc Chân Lạp. Dầu sau năm 627, vương quốc Chân Lạp mặc nhiên là chủ nhân ông của một vùng đất bao la bạt ngàn, về phía Nam của họ, nhưng trên thực tế Chân Lạp chưa bao giờ thực sự cai quản vùng đất nầy, vì cư dân ít ỏi của họ đã quen với việc sinh sống trên các vùng đất cao, không có khả năng tổ chức khai phá vùng đồng bằng sình lầy ngập mặn đang được bồi đắp của vùng Thủy Chân Lạp. Dầu đến thế kỷ thứ VII thì coi như Phù Nam đã bị diệt vong, nhưng mẫu mực của nền văn minh Phù Nam (Óc Eo) cũng như cách tổ chức hành chánh của vương quốc nầy đã là gương mẫu cho nhiều nền văn minh sau nầy như là tiểu vương Palembang (Sri Vijaya) và Java (Sailendra) thuộc Nam Dương ngày nay, cũng như vùng Malacca đã góp phần truyền bá văn minh Ấn Độ đến những vùng đất xa xôi hay những bộ lạc phiên thuộc của vương quốc Phù Nam.
Người Long Hồ
Anaheim ngày 3 tháng 8 năm 2011
Copyright © 2012 by Ngoc Tran. All rights reserved.
Chú Thích:
(1) South China Sea là biển nằm về phía Nam của Trung Hoa, chứ không phải là Biển Nam của Trung Hoa. Ngày nay vì có sự tranh chấp chủ quyền giữa nhiều nước trên vùng biển nầy nên Việt Nam gọi biển nầy là Biển Đông, trong khi Phi Luật Tân lại gọi là Biển Tây Philippines.
(2) Theo Vũ Hữu San trong “Địa Lý Biển Đông Với Hoàng Sa Và Trường Sa”, California – USA: Hương Quê, 1994, tr. 10-15.
(3) Theo giáo sư Trần Kim Thạch trong ‘Nguồn Gốc Tại Chỗ Cho Đồng Bằng Sông Cửu Long’ được đăng trong Tin Sáng ngày 30 tháng 1 năm 1981.
(4) Theo H. Fontaine trong ‘Những Đống Sò Điệp ở Châu Thổ Sông Cửu Long’, trong Việt Nam Địa Chất Khảo Lục, số 14-1971, tr. 135-141.
(5) Có thể là bờ biển Vũng Tàu ngày nay.
(6) Theo Từ Nguyên, một nhà Trung Hoa học, một trượng dài khoảng từ 2,2 đến 2,5 mét. Một lý dài khoảng 576 mét.
(7) Trong vùng Xuân Lộc, Đồng Nai.
(8) Cũng thuộc vùng Xuân Lộc, Đồng Nai.
(9) Vùng Tân Uyên, tỉnh Sông Bé.
(10) Vùng Kiên Giang.
(11) Vùng Ba Thê, tỉnh An Giang ngày nay.
(12) Theo truyền thuyết thì Hỗn Điền đến từ phía Đông Ấn Độ với một cây nỏ thần và hơn một ngàn binh sĩ, vượt biển sang đánh chiếm xứ Koh Thlok. Công chúa xứ nầy tên là Liễu Diệp, con của Long vương Naga, sau một trận kịch chiến đã bị nỏ thần của Hỗn Điền đánh bại, công chúa đầu hàng và ưng thuận làm vợ và cho phép Hỗn Điền lên ngôi vua cai trị xứ Koh Thlok, sau nầy lấy tên là Phù Nam.” Dù đây chỉ là truyền thuyết, nhưng về sau nầy người ta khám phá những điều tương tự trên một bia ký tại Trà Kiệu, Mỹ Sơn, vùng Quảng Nam (Trung Phần), chỉ khác chỗ là tên nàng công chúa trên bia ký là “Soma”.
(13) Có thể lúc ấy người Phù Nam không có giao dịch trực tiếp với các xứ Hy Lạp và La Mã, nhưng các xứ Ấn Độ và Ba Tư đã đem hàng hóa của 2 xứ nầy đến buôn bán tại Phù Nam.
(14) Ngày nay thuộc Cao Miên.
(15) Tức là các vùng nằm về phía đông bắc vương quốc Phù Nam thuở đó.
(16) Chạy dài từ Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, đến Hà Tiên.
(17) Có sách ghi là từ 205 đến 225 sau Tây lịch.
(18) Ngày nay thuộc Thái Lan. (19) Hiện còn di tích bia Võ Canh. (20) Vùng Tam Giác Vàng ngày nay, biên giới giữa các nước Lào, Miến và Thái.
(21) Phạm Chấn tức là Fan Chan, đã giết chết Phạm Chiêu, rồi trị vì Phù Nam từ năm 225 đến 250 sau Tây lịch.
(22) Vùng đất nầy ngày nay thuộc vùng Thừa Thiên của Việt Nam. (23) Có thể là năm 357?
(24) Lúc ấy lãnh thổ về phía Nam của Phù Nam bao gồm cả những phần đất chạy dài từ Bắc đến Nam bán đảo Mã Lai gồm 2 nước mà cổ sử ghi là Tunhsun hay Đốn Tốn và Chihtu hay Xích Thổ.
(25) Kaundinya Jayavarman, vua thứ XI triều Kaundinya, trị vì vương quốc Phù Nam từ năm 470 đến năm 514, có sách ghi là từ năm 478 đến năm 514.
(26) Âm Hán Việt là Sĩ Đạt Đa Na Già Tiên.
(27) Âm Hán Việt là Mạn Đà La Tiên.
(28) Âm Hán Việt là Tăng Già Bà Thi Sa (Tăng Già Bà La). Ông là một vị Tăng người Phù Nam, người đã dịch mười một bộ kinh Phật sang Hán tự từ năm 506 đến năm 520 sau Tây lịch.
(29) Giải Thoát Đạo, một trong những bộ luận nổi tiếng của Phật giáo Nguyên Thủy.
(30) Theo cổ thư nhà Tùy, Bhavavarman có tên là Chitrasena, cháu của vua Rudravarman, nhưng cổ thư ghi họ là Kshatriya, theo thiển ý thì đây là sự nhầm lẫn vì chữ Phạn Kshatriya chỉ có nghĩa là dòng dõi Sát đế lợi hay dòng vua chúa mà thôi.
(31) Có lẽ là vùng trũng Đồng Tháp Mười ngày nay, và cả vùng chạy từ miền Tây sông Hậu ra đến biển Đông và vịnh Xiêm La.
(32) Theo sách Tân Đường Thư, Vyadhapura là tiếng Phạn có nghĩa là ‘Thành phố của những người thợ săn’. (33) Theo Từ Nguyên, 1 lý dài khoảng 576 mét.
(34) Hiện tại không ảnh cho thấy có rất nhiều dấu vết của các kinh đào từ Óc Eo tới Angkor Borei, dài trên 70 cây số. Ngay tại Óc Eo cũng có 4 con kinh cắt nhau, và rất nhiều dấu vết của những con kinh khác.
(35) Theo Lê Hương trong “Sử Liệu Phù Nam”, Sài Gòn, 1974, tr. 53, theo các thư tịch cổ Trung Hoa, có lẽ vương quốc Phù Nam được thành hình vào đầu thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch. Nguồn gốc của vương quốc Phù Nam được ghi trong quyển Sử Ký Tư Mã Thiên về đoạn sứ giả Việt Thường nhờ kim chỉ nam của ông Châu Công đi về nước, ngang qua Phù Nam và Lâm Ấp có nói nước Phù Nam đang có một vị Nữ Vương tên Say-Liêu trị vì. Ông Mã Đoàn Lâm trong quyển “Văn Hiến Thông Khảo” ghi rằng Phù Nam có một nữ vương tên Liễu Diệp mạnh mẽ, còn trẻ tuổi, rất giống con trai, can đảm phi thường, nổi danh trong những cuộc chinh phạt các quốc gia láng giềng. Tuy nhiên, không ai được biết thêm về triều đại Lieou-Ye vì thời đó người Tàu không có bang giao với Phù Nam nên sách sử Tàu cũng không nhắc nhở gì đến bà hoàng Lieou-Ye.
(36) Tức núi Ba Thê, nay thuộc huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
(37) Theo kết quả khai quật nầy thì vương quốc Phù Nam tồn tại trong khoảng từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII sau Tây lịch.
(38) Chenla là tên gọi theo âm Hán Việt của vương quốc Chân Lạp hay Cao Miên ngày nay.
(39) Hải cảng nầy tồn tại suốt từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII.
(40) Việc thuần hóa và sử dụng được loài voi đã minh chứng điều nầy một cách rõ nét. Những di vật tìm thấy cũng giúp cho chúng ta thấy được sự khả tín của những thư tịch cổ Trung Hoa. Theo Tân Đường Thư thì Phù Nam có 5.000 voi chiến. Thời Trúc Chiên Đàn xưng vua Phù Nam, ông đã sai sứ sang cống voi thuần dưỡng. Theo đó cho thấy ngay từ thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch, Phù Nam đã là một vương quốc có tổ chức trung ương tập quyền hẳn hòi, trong khi người ta không tìm thấy dấu vết của một nhà nước có tổ chức của nền văn minh ở phía Bắc là Sa Huỳnh.
(41) Thuộc vùng Kiên Giang ngày nay.
(42) Thuộc vùng Đồng Tháp ngày nay.
(43) Thuộc vùng Long An ngày nay.
(44) Lúa ma còn có tên là lúa trời hay lúa hoang mà ngày nay vẫn còn trong miệt Đồng Tháp Mười.
(45) Theo Lê Vinh Quốc và Hà Bích Liên trong “Các Nhân Vật Lịch Sử Trung Đại, Tập I: Đông Nam Á”, TPHCM: NXB Giáo Dục, 1997, tr. 9-13.
(46) Thả xác người chết cho trôi theo dòng sông, làm mồi cho cá tôm.
(47) Thiêu xác người chết rồi lấy tro đem về thờ trong chùa. Một thời gian sau, có thể là ba năm hay một năm thì đem rải xuống sông hay xuống biển.
(48) Để xác người chết trên ngọn cây cho kên kên và những loài chim lớn ăn thịt.
(49) Năm 245, một sứ giả của Ngô Tôn Quyền thời Tam Quốc bên Trung Hoa tên Khương Thái, một trong những sứ thần đầu tiên của Trung Hoa đi sứ sang vương quốc Phù Nam.
(50) Theo Nguyễn Mạnh Cường & Nguyễn Ngọc Minh trong “Tôn Giáo-Tín Ngưỡng của Các Cư Dân Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long”, TPHCM: NXB Phương Đông, 2005, tr. 33-54.
(51) Bà La Môn là Ấn Độ giáo. Một đạo giáo cổ truyền của Ấn Độ cách đây trên bốn ngàn năm, do ông Krishna sáng lập. Căn cứ trên Thánh kinh Vệ Đà thì thần Phạm Thiên là vị thần có quyền pháp sáng tạo ra muôn vật. Có bốn giai cấp trong xã hội theo Ấn Độ giáo. Theo đạo Bà La Môn, sống đây là sống gởi. Chết sẽ về với Phạm Thiên đời đời nếu tuân theo đúng chân lý của Phạm Thiên. Bà La Môn là những người thuộc giai cấp cao nhất trong xã hội Ấn Độ dưới thời Đức Phật.
(52) Hiện tại không ảnh cho thấy có rất nhiều dấu vết của các kinh đào từ Óc Eo tới Angkor Borei, dài trên 70 cây số. Ngay tại Óc Eo cũng có 4 con kinh cắt nhau, và rất nhiều dấu vết của những con kinh khác.
(53) Ngoài những di vật còn nguyên vẹn, sau khi vương quốc Phù Nam bị tiêu diệt, không ai tuyên bố chủ quyền trên phần đất nầy cho mãi đến thế kỷ thứ VIII thì vua Chân Lạp mới bổ nhiệm người đến đây cai quản. Như vậy, trong suốt hai thế kỷ, lãnh thổ trước đây của Phù Nam hoàn toàn bị bỏ hoang. Hơn thế nữa, các thư tịch cổ Trung Hoa cũng chưa từng thấy ghi chép về những sự việc nầy.
(54) Từ năm 1950 đến 1980, các nhà địa chất học đã đo ở Hòn Dáu vùng Hải Phòng mực nước biển đã tăng lên đến 30 phân.
(55) kể từ năm 539 đến khi hoàn toàn bị diệt vong, vương quốc Phù Nam đã bị buộc phải triều cống cho vương quốc mới là Chân Lạp, một trong những thuộc quốc xưa kia của Phù Nam.
(56) ‘Những Đền Đài của Angkor’.
(57) Cát Miệt là phiên âm Hán của chữ Khmer theo tiếng Phạn.
(58) Những đền đài Đế Thiên Đế Thích.
(59) Quảng Nam.
(60) Pondichéry là một thuộc địa của La Mã tại vùng Ấn Độ ngày nay. (61) Khoảng cách nầy có thể gấp đôi khoảng cách bờ biển thời đó vì tiến trình biển tiến. (62) ‘Những Thuộc Địa của Ấn Độ ở miền Viễn Đông’, tái bản lần thứ nhì tại Calculta vào năm 1963.
(63) Ngày trước là phía Nam của vương quốc Champa.
Nhấp vào Links:
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)