Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2014

Cô Đơn - Sáng Tác Quách Nam Dung



Sáng Tác: Quách Nam Dung

Sống Lại Hè Xưa


Lá tương tư dần rơi rụng nhẹ
Nhường màu hoa thắm đỏ vào hè
Mang nỗi nhớ dâng đầy ngọn lá
Lòng vương man mác đậm tiếng ve


Cứ giả vờ tìm hoa mực tím
Che giọt sầu nén đọng trong tim
Tán phượng xanh u uất lòng thành
Nụ cười gượng vờn bay tắt lịm

Hoa phượng đỏ luôn vươn cùng nắng
Giấu làm sao tiết đã vào hè
Trang lưu bút giã từ dăm tháng
Nhớ nhung lòng nhặt lá tơ giăng


Xao xuyến lắm!
Mong hè qua vội.


Lê Kim Hiệp

Hè 2009

Thơ Tranh: Chờ Ai


Thơ: Khiếu Long
Thơ Tranh: Kim Oanh

Xuân Mộ (Thái Thuận)

          Thái Thuận (蔡順, 1441-?):
       Tự: Nghĩa Hòa, hiệu: Lục Khê, biệt hiệu: Lã Đường; là nhà thơ, quan lại Việt Nam thời Lê sơ.
      Thái Thuận sinh ra trong một gia đình bình dân ở thôn Đoài, tổng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại, thừa tuyên Kinh Bắc (nay thuộc xã Song Liễu, huyện Thuận Thành, tỉnhBắc Ninh). 
Thuở trai trẻ, có thời ông làm lính dạy voi, về sau mới đi học. Năm Ất Mùi (1475), đời Lê Thánh Tông, ông thi đỗ Tiến sĩ. 
      Ban đầu, ông làm quan ở Viện Hàn lâm trải 20 năm; sau giữ chức Tham chính sứ Hải Dương, và được cử đi công cán qua các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thuận Hóa... 
      Ông là người có đạo đức, lại có tài văn chương, được người đương thời rất kính trọng. Vì vậy, ông được vua Lê Thánh Tông cho dự chức Tao đàn Sái phu (sau thăng Tao đàn Phó nguyên súy) trong Hội Tao Đàn do chính nhà vua thành lập năm 1495. 
Nhà thơ Thái Thuận mất năm nào không rõ.


:春暮                                XUÂN MỘ

百年身世嘆浮萍, Bách niên thân thế thán phù bình,
春去誰能老下成。 Xuân khứ thùy năng lão hạ thành.
流水橋邊楊柳影, Lưu thủy kiều biên dương liễu ảnh,
夕陽江上鷓鴣聲。 Tịch dương giang thượng giá cô thinh.
月於煙樹雖無分, Nguyệt ư yên thọ tuy vô phận,
風與天香尚有情。 Phong dữ thiên hương thượng hữu tình.
九十韶光容易過, Cửu thập thiều quang dung dị quá,
草心遊子苦難平.    Thảo tâm du tử khổ nan bình!
蔡順                                                    Thái Thuận.

Dịch nghĩa:

Thân thế trăm năm than cho kiếp bèo nổi 
Xuân đi rồi có ai không thành người già 
Bên cầu nước chảy bóng dương liễu thướt tha 
Trên sông chiều tà tiếng đa đa não nuột 
Trăng lồng trong khói cây tuy không phận vụ 
Gió quyến hương trời vẫn có tình với nhau 
Chín chục thiều quang qua đi một cách dễ dàng 
Khiến lòng người đi xa mong đền ơn cha mẹ đau khổ khó lấp bằng cho được 

Bản dịch của Quách Tấn:

Chiều Xuân 

Tấm thân bèo nổi ngậm ngùi thương 
Xuân lụn đầu ai khỏi điểm sương
Bóng liễu thướt tha cầu thệ thủy 
Tiếng đa não nuột bến tà dương
Phận dù không phận trăng lồng khói 
Tình vẫn ưa tình gió quyện hương 
Chín chục thiều quang thoi thấm thoát 
Bồn chồn tấc cỏ bước du phương 
                                   Quách Tấn
* * *

                    Chiều Xuân
    
  Thương trăm năm một thân bèo nổi,
 Xuân đi rồi ai khỏi cái già.
 Bên cầu dương liễu bóng sa,
 Tiếng đa não nuột chiều tà trên sông.
Nguyệt, khói cây tuy không thắm thiết,
Gió, huơng trời da diết bên nhau.
Thiều quang chín chục qua mau,
Cho lòng du tử xuyến xao bồi hồi.
                      Mailoc phỏng dịch
                        Cali    5-5-14

* * *
Thưa Quý Thầy, Anh Chị,
Quên Đi xin tiếp theo Thầy Mai Lộc dịch bài "Xuân Mộ":

            Chiều Xuân


Lênh đênh bèo bọt thân du tử
Xuân hết đành thôi chịu tuổi già
Nước chảy bên cầu trơ dáng liễu
Trên sông chiều xuống tiếng chim đa
Khói trăng chẳng phận còn nương tựa
Hương gió có tình mãi thiết tha
Chín chục ngày xuân trôi thấm thoát
Xuyến xao tấc dạ kẻ xa nhà
                              Quên Đi
Chú Thích: 
- Thiều quang:  ánh sáng đẹp, ý chỉ ngày của mùa xuân.
- Cửu thập thiều quang: chín mươi ngày xuân tươi sáng, chỉ thời gian của mùa xuân trong một năm.

***
                      CHIỀU XUÂN

           Trăm năm thân thế tựa bèo trôi,
           Xuân đến xuân đi già tới nơi.
           Nước chảy qua cầu soi bóng liễu,
           Nắng chiều nghiêng sóng tiếng chim trời.
           Cây mờ bóng nguyệt duyên chưa đượm,
           Gió thoảng mùi hương tình chẳng vơi.
           Chín chục thiều quang qua thắm thoát,
           Tấc lòng du tử dạ khôn nguôi !.
                                     Đỗ Chiêu Đức.

Bất Chợt Quê Xưa




Bất chợt quê xưa
Tuổi thơ ký ức trào dâng
Thương má sớm hôm bên trái bí vườn cà, bờ mương, con rạch...
Nuôi chúng con lớn khôn
Chúng con xa quê
Mang nụ cười ra phố chợ
Tập nếp sống cư dân thành phố
Quên tháng ngày trơn trợt đường quê
Má dắt tay từng đứa dẫn tới trường
Xa khuất quê xưa
Chúng con bay khắp nẻo đường đời
Lúc vui ít khi nào nhớ má
Khi buồn một mình
Tủi hờn lỡ có ai ức hiếp
Thèm được kêu hai tiếng “ Má ơi!”

Bất chợt quê xưa như một giấc mơ
Gặp lại mình chân trần, áo rách
Nói hết tình hương quê?
Bất chợt quê xưa tỉnh giấc cơn mê
Một phút thôi
Một phút cho con nghĩ về nơi có má
Nhớ bến sông
Những đêm hè khỏa trăng, giỡn nước
Xa khuất nẻo về
Ngõ vắng rộn tiếng chim
Bất chợt quê xưa
Tóc trắng má lại thêm
Lẳng lặng giấu nỗi lòng sau khói bếp
Chiều chiều ngóng đợi những đứa con

Bất chợt quê xưa
Nhớ lắm má ơi!
Bờ ruộng, liếp rau

Thương má một đời tần tảo
Cơn mưa chiều tháng bảy chảy qua sân

Ngọc Hải
11/5/2014

Hạt Bụi Trong Tim

   

      Hơn nửa đời người đã trôi qua, có biết bao vật đổi sao dời. Thế mà mỗi lần nhớ về người cha khuất bóng, Hằng lại se sắt buồn. Hai hàng nước mắt cứ chực lã chã rơi. Một thứ tình cảm trái ngược luôn xung đột, xâu xé trong tim Hằng. Thương hay giận cha? Có lẽ cả hai.

      Những kỷ niệm xa nhất mà nàng có thể nhớ được về ông, có lẽ chừng như năm sáu tuổi gì đó. Lúc ấy ba mẹ và Hằng ở chung trong ngôi nhà nền đúc đồ sộ của ông bà nội, cách thị xã Sa Đéc vài cây số. Anh Tâm trọ học nhà bác Phú là anh họ của ba trên Sài Gòn. Trong trí nhớ khá nhạt nhòa của nàng, ông nội là một ông già quắc thước, cao lớn. Tiếng nói sang sảng, nét mặt nghiêm nghị khiến ai cũng phải nể nang. Trên đầu ông lúc nào cũng đội một chiếc mũ len đan, màu nâu giống như mũ của ông Hòa Thượng ở chùa gì đó quên mất tên rồi. Thỉnh thoảng Hằng thấy Hòa Thượng đến thăm ông nội. Hai ông trò chuyện rất tương đắc trong phòng riêng của ông nội. Ngồi trên tấm nệm mỏng, mỗi ông dựa tay trên một chiếc gối hình chữ nhật, rất cứng và áo gối màu đỏ thêu rồng phụng, chim chóc, đính hột cườm lấp lánh đẹp rực rỡ. Lũ nhỏ bị cấm bén mãng vô phòng ông nội, trừ Hằng. Vì ông cưng Hằng đặc biệt, đứa cháu nội gái duy nhất của ông. Sau này theo lời kể của những người trong họ, Hằng biết ông nội là một mẫu người thông minh tuyệt vời. Tấm lòng lại nhân đức. Bà nội chắc cũng chỉ khoảng năm mươi, nét đẹp lúc xuân thì chưa phai, nhưng mái tóc bạc trắng, búi thành một búi rất đẹp sau ót. Bà hay la rầy con cháu. Trong ký ức, Hằng chưa bao giờ được nghe bà nói một lời dịu dàng âu yếm.

      Hằng còn nhớ cái tủ bằng gỗ trong nhà bếp đựng đầy những thố mạch nha. Mạch nha bà nội nấu vàng óng như hổ phách, thơm ngọt tuyệt vời. Nhưng trong đại gia đình đông người, bà phải khóa tủ bằng ống khóa và chiếc chìa khóa quý giá bà giữ khư khư trong túi áo! Thỉnh thoảng bà nội mới kêu mẹ Hằng hoặc cô Bích nướng bánh phồng. Những chiếc bánh phồng khéo léo mà mẹ và cô Bích quết vào dịp Tết, được bà tự tay phết lên một lượt mạch nha vàng óng ánh trước đôi mắt thèm thuồng của lũ trẻ. Ngoài gia đình Hằng còn có gia đình cô Bích là em gái của ba. Cô góa chồng và đem ba đứa con về ở chung với ông bà nội. Ba đứa con của cô cũng sàn sàn tuổi Hằng, nhưng là ba thằng con trai nên nghịch ngợm như giặc. Bà nội phát cho mỗi đứa một miếng bánh phồng quết mạch nha to bằng bàn tay người lớn. Hằng nhắm mắt nhớ lại cái cảm giác cắn miếng bánh phồng dòn tan, hương vị ngọt ngào của mạch nha tan trên đầu lưỡi. Tuyệt vời không gì có thể sánh bằng! Món thứ nhì bà nội hay làm là bánh lọt lá dứa màu xanh biếc như ngọc, chan nước đường và nước cốt dừa. Thỉnh thoảng cũng có bánh đúc lá dứa chấm nước đường thắng kẹo quánh rắc mè rang thơm phức.

      Bà nội nghiêm khắc với tất cả mọi người. Đặc biệt là với mẹ Hằng. Bà soi mói từng chút. Hình như bà không ưa mẹ vì cho rằng mẹ theo tây học. Văn minh quá! Nghĩ cũng bất công. Ba học trường Chasseloup Laubat, nói tiếng tây như gió. Cô Bích cũng học trường Áo Tím. Đôi khi Hằng bắt gặp cô nói tiếng tây với ba mà bà nội có nói gì đâu. Nhưng dù sao cô cũng là con gái bà nội và mẹ là con dâu. Đương nhiên không giống nhau!

      Vì bé quá nên Hằng không biết gữa ba mẹ có chuyện gì, hoặc giữa bà nội và mẹ có chuyện gì. Một buổi chiều ba dắt Hằng ra con lộ sau nhà. Con lộ cách nhà độ hai, ba trăm thước. Một vườn cây trái sum suê ngăn ngôi nhà và con lộ. Phía sau con lộ là cánh đồng trải dài vô tít trong xa, tận lũy tre xanh xanh của làng Mỹ Long. Hằng còn nhớ lúc đó là mùa nước. Những cây lúa vươn lên khỏi mặt nước, rập rờn theo cơn gió chiều mát rượi. Một hàng dài những chiếc xuồng ba lá bơi theo con kinh, về hướng làng Mỹ Long trong đồng sâu. Ba nói họ đi câu tôm. Hằng líu lo hỏi ba đủ thứ chuyện. Nhưng hôm nay ông có vẻ trầm ngâm, thỉnh thoảng mới ừ hử. Hằng còn đang dõi mắt nhìn theo cánh cò trắng bay la đà về hướng mặt trời lặn xa xa, bỗng ba nắm tay Hằng bóp mạnh, giọng buồn có não nuột:
-Mẹ bỏ cha con mình đi mất rồi Hằng ơi!
Hằng ngây thơ nói với ba:
-Hôm qua mẹ nói về thăm ngoại bịnh mà ba.
Ba trả lời, mắt vẫn dõi về cõi vô tận nào:
-Mẹ không về nhà ông bà ngoại. 
Lúc đó Hằng mới oà lên khóc. Ba ôm con gái vào lòng dỗ dành:
-Không sao đâu. Ba con mình sẽ đi tìm mẹ về.

      Đêm đó Hằng ngủ với ba. Hình như trong mơ con bé vẫn khóc thút thít vì nhớ mẹ. Ba trằn trọc ôm con gái xoa lưng vỗ về.
      Hai hôm sau ba thu xếp dẫn Hằng lên Sài Gòn. Hai cha con ở nhà bác Phú. Không hiểu sao ký ức của Hằng rất mù mờ trong khoảng thời gian này. Con bé không nhớ ba đã dẫn đi những đâu để tìm mẹ. Lâu lắm sau này, tình cờ nhìn thấy trong album, tấm hình hai cha con chụp ở Sở Thú. Ba mặc đồ tây, tóc hớt cao, nét mặt buồn rười rượi. Con bé Hằng nhỏ xíu ngồi bên cạnh, mặt cũng đầy nét u hoài. Hằng nhìn tấm ảnh, lòng se thắt và tự hỏi tại sao buồn vậy mà ông già còn hứng thú chụp hình?!


      Cuối cùng không hiểu nhờ phép lạ nào mà ba cũng tìm được mẹ và hai người dắt con gái trở về Sa Đéc. Hằng gặp lại mẹ vui như Tết và tiếp tục sống cuộc đời vô tư lự như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Bắt đầu từ đó ông nội cho ba mẹ cất nhà ra riêng. Nhưng cũng chỉ cách nhau một mảnh vườn trồng cam, chanh, bưởi và vài cây soài cát. Mẹ thoát cảnh làm dâu và không còn nghe những lời chì chiết của bà nội nữa nên vui vẻ hơn nhiều. Bà xin ba mở một tiệm tạp hoá dưới chợ. Mẹ lúc còn con gái là một người đẹp nổi tiếng. Bà lại có học, thông minh, có tài ăn nói và có khiếu văn chương. Lớn lên Hằng nghe mẹ đọc thuộc làu làu Cung Oán Ngâm Khúc, Lục Vân Tiên...và thơ Nguyễn Bính thì bà thích đặc biệt. Ngược lại ba không phải là người sính văn thơ. Trước đây ông làm ở sở lúa gạo, nhưng sau này giúp ông nội trông coi ruộng đất. Đến mùa thu lúa ruộng, có khi đi tận trong đồng xa hàng tháng mới về.

      Nhờ có duyên buôn bán nên cửa hàng của mẹ rất đông khách. Lớn hơn, Hằng đã biết ra cửa hàng giúp mẹ chút đỉnh. Ngoài mẹ ra còn có chị Mai, cháu họ xa bên mẹ giúp việc, trông nom cửa hàng mỗi khi mẹ có công chuyện đi đây đi đó. 
Sáng thứ bảy đó Hằng ra tiệm với mẹ. Khoảng trưa trưa vắng khách, mẹ dặn chị Mai và Hằng coi tiệm mẹ đi khui hụi. Hằng đang kể cho chị Mai nghe những chuyện trong lớp của Hằng, thì một người đàn ông bước vào. Ông ta nhìn dáo dác rồi hỏi chị Mai:
- Ủa, bà chủ không có đây sao cháu?
-Dạ, cô Tư mắc đi khui hụi. Mai trả lời ông ta.
-Lúc nào bà ấy về? Giọng ông ta có vẻ băn khoăn.
-Dạ cháu không biết.
Ông này đứng tần ngần một lúc rồi nói:
-Chừng bà chủ về nhớ nói có ông Nam đến nhé.
-Dạ, cháu sẽ nói với cô Tư. Chị Mai trả lời và nhìn ông ta chăm chăm. Người đàn ông có vẻ hơi ngượng ngập vội đi ra. Chị Mai nhìn theo ông ta rồi thì thầm với Hằng:
-Ông này kỳ ghê. 
-Kỳ sao hả chị? Hằng ngây thơ hỏi.
-Thì cứ hai ba ngày là tới đây một lần. Nhiều khi có mua thứ gì đâu. Hỏi vớ vẩn vài câu. Mà coi bộ ổng tới đây để gặp mặt cô Tư mà thôi.
- Gặp mặt mẹ em chi vậy hả chị?
Chị Mai tặc lưỡi:
-Thì làm sao chị biết được. Chị chỉ thấy ổng kỳ kỳ!
Lúc mẹ về, Hằng láu táu nói có ông Nam tới kiếm mẹ. Mẹ thoáng có chút bối rối:
-À, ông Nam làm ở Toà Án Vĩnh Long. Mà ông này kỳ thiệt, cứ đến làm phiền người ta.
 
      Tuy là phàn nàn, nhưng Hằng cảm thấy giọng mẹ không có chút gì bực bội. Hằng không thể ngờ rằng bắt đầu từ giờ phút này, từ người đàn ông có nước da bánh mật, mái tóc dợn sóng và giọng nói ngọt ngào, nhưng không phải gốc Nam kỳ này, đã bắt đầu cho những cơn sóng ngầm mang phong ba bão táp tới cho gia đình nàng. 
      Ba Hằng đẹp trai, con chủ điền và có uy quyền với những người tá điền mướn đất ông nội. Những lần theo ghe đi góp lúa ruộng, họ đã tổ chức cho ông biết bao nhiêu buổi nhậu. Trong đồng sâu thiếu gì tôm cá, rắn rùa...Kể cả những đứa con gái tươi mơn mởn thơm mùi hương đồng cỏ nội. Ba cứ hưởng thụ thoải mái. 
      Có nhiều tá điền muốn lợi dụng ba nên đã để con gái hầu hạ "cậu" khi cậu say bí tỉ không còn biết trời trăng gì nữa.

      Cho đến khi Hằng có một đứa em cùng cha khác mẹ bất đắc dĩ thì ba mẹ bắt đầu cắn đắng. Những lần cãi nhau ầm ĩ đưa đến xô xát khiến con bé sợ hãi khóc như mưa. Sau cùng ông nội bắt ba phải lên trụ luôn trên Sài gòn. Ba phụ coi xưởng gỗ của bác Phú. Mẹ vẫn ở Sa Đéc và ông Nam vẫn đến thăm mẹ đều đều mỗi tuần. Có khi mang sách báo đến cho mẹ đọc và mang quà cho Hằng. Thật là hai tâm hồn đồng điệu. Cùng yêu thích văn chương thơ phú. Đôi khi mẹ giữ ông ta ở lại dùng cơm trưa. Phải công nhận rằng ông ta có giọng nói rất quyến rũ. Điều kỳ lạ là ông ta vẫn còn độc thân. Nhưng làm sao biết được. Quê ông ta tận ngoài Nha Trang xa lắc xa lơ!

      Ba thường về thăm ông bà nội và hai mẹ con. Một lần, ba từ Sài Gòn về thẳng ngoài tiệm. Gặp ông Nam ở đây, thế là ba đào dậy sóng. Có thể những buổi gặp gỡ giữa mẹ và ông Nam đã đến tai ba nên mới ra nông nỗi. Đàn ông có quyền năm thê bảy thiếp, nhưng luân lý Khổng Mạnh vẫn bắt đàn bà giữ tam tòng tứ đức. Bây giờ nghĩ lại, Hằng chắc chắn giữa mẹ và ông Nam không có chuyện yêu đương phàm tục. Hai người chỉ là bạn tương đắc về văn chương. Nhưng hỡi ôi, ngày đó, những người đàn bà có chồng được quyền tự do hành động như vậy chăng? Ngàn lần không! 

      Ba bắt mẹ phải sang tiệm để lên Sài Gòn sống với ba. Cộng thêm tiền sang căn tiệm dưới Sa Đéc, ông bà mua một căn nhà khang trang gần chợ Thị Nghè. Vốn là người quen buôn bán. Ở không bứt rứt chịu không nổi, mẹ lại mở tiệm bán gạo, than, củi. Mẹ về quê đem chị Mai lên giúp việc như xưa. Hằng học trường Tiểu học Thị Nghè. Hằng ngày đi về với chị Út Kim con của bác Phú. Ba cưng Hằng hơn anh Tú. Có lẽ vì Hằng là con gái Út rượu của ba! Anh hơn Hằng cả mười tuổi, vì giữa hai đứa mẹ có hư thai một lần. Sau khi sinh Hằng thì ngưng đẻ luôn. Cũng tốt vì mẹ vấn không thích con đông.

Gần ngày đi học, ba chở con bé tới tiệm bán văn phòng phẩm mua tập vở. Hằng làm sao quên được nàng đã đòi nằng nặc ba phải mua mấy tờ giấy bao vở màu hồng trong suốt, có in hình cô công chúa Bạch Tuyết và chiếc cặp bằng da màu vàng nâu. Ba mua về cặm cụi bọc hết tập vở cho con gái. Ông vui ra mặt. Rồi hè năm đó ba dẫn Hằng đi...uốn tóc! Người thợ uốn làm sao mà khi xong rồi, mái tóc con bé xoăn tít như lông chó xồm. Trên đường về, Hằng giận dỗi, khóc thút thít bắt đền ba khiến ông bối rối không biết phải làm sao, đành dẫn con gái đi ăn một chầu hủ tíu mỳ ngon thật là ngon Hằng mới hết giận!
      Nhớ tới đây ruột gan Hằng quặn đau. Ba ơi ba, con thương ba nhiều biết chừng nào. Ba tha lỗi cho những lần con vô tình làm ba buồn nghe ba. Con gái ba đang khóc vì nhớ ba đây!...

      Tuổi trẻ vô tư. Ăn, học và ngủ. Hằng cũng vậy. Trong lớp con bé đã quen được nhiều bạn mới. Con Quỳnh da trắng bóc, tóc cắt bum bê. Đôi môi nó đỏ thắm, nhỏ xíu như một nụ hồng. Con Nga mặt đầy tàn nhang, tóc dài cột đuôi ngựa nè. Nhỏ này hay nói xấu con Quỳnh sau lưng. Chắc tại nó tức vì con Quỳnh xinh và học giỏi hơn nó! Chao ôi, mới nứt mắt đã bày trò ganh ghét nhau. Hèn nào trong xã hội người lớn, họ dùng tất cả mọi thủ đoạn đê hèn để giết hại, hạ bệ... nhau cứ đầy rẫy ra! Con Cẩm Yến miệng móm mà có đồng tiền trên má thật là xinh nè...Riêng đám con trai thì Hằng sợ lắm, chưa quen đứa nào.

      Rồi chẳng hiểu vì cớ gì những cuộc cãi vã của ba mẹ bắt đầu trở lại. Ban ngày ba đi làm, mẹ mắc buôn bán nên không có gì, nhưng nhiều đêm đang ngủ, Hằng giật mình thức giấc vì tiếng cãi vả khá lớn của ba mẹ khiến con bé sợ xanh mặt. Mấy ngày sau chị Mai nói riêng cho Hằng biết ba gặp lá thư ông Nam gửi cho mẹ. Không hiểu làm thế nào mà ông ta biết được địa chỉ trên Sài Gòn. Tuy mẹ cố giải thích nhưng ba vẫn giận dữ, cho là mẹ có tình ý với ông Nam. Hằng còn nhỏ quá để có thể hiểu được những khúc mắc của người lớn. Nhưng không khí trong nhà bắt đầu khó thở. Ba không còn pha trò vui vẻ như xưa. Trái lại mặt mày cau có làm anh Tú cũng sợ. Cơm nước xong là anh rút vô phòng. Thấy ba mẹ buồn Hằng cũng buồn lắm. Con bé cảm thấy đến trường chơi với bạn vui hơn là ở nhà, cho nên nhiều hôm sau giờ học Hằng xin mẹ đến nhà con Cẩm Yến chơi. Nhà nó cách nhà Hằng độ năm phút đi bộ mà thôi. Chị Cẩm Hạnh của nó cũng thương Hằng lắm. Chị hay mua quà cho hai đứa ăn chung. Đôi khi Hằng ao ước, thay vì anh Tú, phải chi có một bà chị như chị Cẩm Hạnh thì hay biết mấy! Chị Mai cũng thương Hằng, nhưng chị đâu phải chị ruột. Hơn nữa chị xấu xí, quê mùa chứ đâu có đẹp đẻ, thơm tho, điệu đà như chị Cẩm Hạnh! 

      Có lẽ mẹ đã yêu cầu ông Nam đừng tìm cách liên lạc với mẹ nữa nên sau đó ba mẹ lại bắt tay hòa bình! Anh Tú và Hằng thở phào nhẹ nhõm. Ba tiếp tục dẫn cả nhà đi ăn tiệm cuối tuần. Có lần ba dẫn mọi người, kể cả chị Mai, đi xem cinéma. Phim Tarzan. Anh Tú khoái chí trước những cảnh Tarzan đóng khố da thú, vừa đu dây vừa hú vang cả rừng, còn Hằng sợ quá nắm tay ba thật chặt.
      Hai năm êm đềm trôi qua. Một hôm mẹ nhận được điện tín của cô Bích kêu ba về Sa Đéc gấp. Ông nội bị trúng gió, bây giờ nằm một chỗ không đi lại được. Ba vội vàng thu xếp về quê ngay sáng hôm sau. Ông nội đang đi thăm ruộng. Lúc đó đang là mùa gặt lúa, thì trúng gió té ngoài đồng, tá điền khiêng ông về nhà. Bắt đầu từ lúc đó ông bị liệt nửa người. 

      Cô Bích chỉ có thể giúp bà nội việc nhà, nên ba phải về ở luôn, hay ít ra trong thời gian ông nội bệnh, trông coi việc gặt và thu lúa ruộng. Mẹ, anh Tú và Hằng vẫn ở Sài gòn. Ba về dưới quê một thời gian thì bổn cũ soạn lại và bắt đầu nghiện rượu nặng. Con sâu rượu tàn phá người ông lẹ không ngờ. Trước đây ở Sài gòn, mỗi ngày mẹ Hằng bắt ôngchỉ được uống rượu khi ăn cơm. Lúc đi làm ông có lén uống không thì chẳng ai hay. Nhưng bây giờ ở một mình trong căn nhà rộng, không vợ con bên cạnh. Nhất là không ai cấm cản nên ông uống tha hồ, uống thỏa thích. Hè năm đó Hằng về Sa Đéc, con bé hết hồn khi gặp lại ba. Không ngờ chỉ có mấy tháng mà ông thay đổi nhiều đến vậy! Người ba vốn cao bây giờ càng khẳng khiu. Con bé xót xa cằn nhằn sao ba uống nhiều, ba ốm nhom thì ông tặc lưỡi nói ba không sao thật mà. Cô Bích nói ba cháu chỉ thích uống rượu chớ không thích ăn cơm! Bà nội rầy ba cũng làm ngơ...

      Ông nội có bình phục chút đỉnh nhưng vẫn không đi lại được. Vậy là ba đành phải ở lại Sa Đéc. Công chuyện làm ăn của mẹ không tiến triển chút nào. Nhân dịp cô dượng Bảy Vinh có xe hàng đi đường Sài Gòn -Pleiku, về nói nơi này làm ăn phát đạt lắm. Vì là tỉnh mới thành lập rất xa Sài Gòn, nên hàng hóa gì đem lên đó bán cũng chạy vù vù. Mẹ nghe ham quá nên đóng cửa tiệm, theo xe hàng lên Pleiku thám thính. Lúc đầu thấy khí hậu lạnh lẽo, đất đỏ bay mù trời, mùa mưa đất đỏ dính giày dép dẻo quẹo như dất sét, mẹ cũng ngại. Nhưng nhìn thấy hàng của cô Bảy vừa lên tới, bữa trước bữa sau là bán sạch sành sanh, cảnh chợ búa buôn bán rộn rịp bà cũng bị lôi cuốn. Mẹ về Sa Đéc bàn với ba, bán nhà lên Pleiku làm ăn. Ba lúc này bị ma men ám thường xuyên nên cũng để mặc mẹ muốn tính sao cũng được. Nhưng hình như chuyện gì trong nhà cũng do mẹ tính toán.

      Mẹ lên Pleiku sang một căn nhà trên đường Hoàng Diệu, mở một tiệm tạp hóa bán đủ thứ. Từ gạo, nước mắm, chén bát, nước ngọt ...Tất cả do cô Bảy Vinh chở từ Sài Gòn lên bỏ sỉ rồi mẹ bán lẻ lại. Vậy mà lời vô khối. Hằng và chị Mai lại theo mẹ lên Pleiku. Phần anh Tú xin đi dạy học ở Long Xuyên. Ngoài những lúc bận rộn trong mùa lúa, ba lên Pleiku ở với má và Hằng vài tháng. Nhìn thân thể tiều tụy của ba, Hằng thương quá. Con bé lúc này đã lên lớp Đệ lục, biết suy nghĩ nhiều hơn xưa. Đàn bà ở một mình thì biết tự lo cho mình, nhưng người đàn ông ở một mình thật thảm thương. Tuy hằng ngày qua nhà ông bà nội ăn cơm, nhưng làm sao bằng được chính bàn tay người vợ săn sóc. Hơn nữa bây giờ ông uống rượu càng ngày càng nhiều nên ba say nhiều hơn tỉnh. Tuy rằng chẳng bao giờ ông nhận là mình say! 

      Mẹ ở tuổi ngoài bốn mươi một tí nên hương sắc còn rất đậm đà. Khí hậu lành lạnh của vùng Cao nguyên giúp làn da bà càng thêm mịn màng, trắng hồng. Núm đồng tiền trên má đã khiến lắm con tim "không chịu ngủ yên và đập trật nhịp lia chia"!. Nhiều sĩ quan đổi lên đây. Có người mang gia đình vợ con, nhưng cũng có những ông "độc thân tại chỗ". Trong số những người ái mộ mẹ có ông Đại úy Hòa, ông Trưởng ty Thuế vụ tên Sinh. Ông Hòa đen đúa nhưng cao lớn và cái miệng dẻo quẹo, ngọt như đường. Mỗi bận đi phép về ông đều có quà bánh cho Hằng. Ông này người Nam, có vợ con nhưng bà vợ và các con không lên Pleiku vì chê xứ này khỉ ho cò gáy và bẩn thỉu! Mẹ nói nơi xứ lạ gặp người cùng quê cũng thấy thân thiện hơn người khác. Hằng xem ông Hòa như một ông bác trong nhà, không hề nghi kỵ. Trái lại ông Sinh người Bắc, tướng rất thư sinh, đẹp trai. Ông ta còn độc thân ở tuổi bốn mươi, nhưng nghe nói ngày xưa yêu một cô láng giềng tuyệt đẹp. Gia đình cô ấy ép lấy một anh Bác sĩ học bên Tây về. Từ đó ông trở nên hận đàn bà. Nếu gặp người vừa ý thì cũng chỉ chơi qua rồi bỏ. Vậy mà không thiếu phụ nữ mê mệt, muốn chiếm độc quyền trái tim bệnh hoạn của ông ta.
Hằng nhận thấy mỗi bận ông Sinh đến chơi, dĩ nhiên trong khoảng thời gian ba không có mặt ở Pleiku, mẹ rất vui, nói cười luôn miệng. Lại còn đỏm dáng hơn ngày thường. Bà chỉ thoa chút phấn hồng, chút son thôi mà thấy lộng lẫy hẳn lên. 

      Năm đó mẹ quyết định về Sài Gòn mua hàng bán Tết và mẹ dẫn Hằng theo. Con bé được về Sài Gòn thì vui không tả. Mua hàng xong mẹ con về Sa Đéc thăm ba và ông bà nội. Ông nội yếu quá, gặp Hằng ông mừng lắm. Hằng thấy thương ông ngồi một chỗ, ăn uống và làm vệ sinh phải có người giúp. Ông nội lì xì trước cho Hằng tiền mua chiếc xe đạp. Con bé cảm động ứa nước mắt. Ba thì vẫn say sưa tối ngày khiến mẹ rất buồn! Đêm đó Hằng nghe như hai người cãi nhau. Lại cãi nhau! Sao họ cãi nhau không biết chán hở trời!? Đời sống vợ chồng có gì vui sao? Con bé quyết định lớn lên sẽ không lấy chồng!
      Hai hôm sau mẹ con đi xe đò lên Sài Gòn và mẹ dẫn Hằng đi Vũng Tàu tắm biển. Trời ơi, sướng chưa! Suốt đời con bé chưa từng thấy biển lần nào!
      Hai mẹ con đi xe đò ra Vũng Tàu. Tới nơi còn đang lớ ngớ bỗng thấy một chiếc xe Peugeot 203 màu đen trờ tới đậu bên cạnh. Ông Sinh từ trên xe bước xuống. Hai người tay bắt mặt mừng trong khi con bé Hằng cứ tròn mắt ra nhìn. Ông Sinh mời hai mẹ con lên xe, đưa về một căn nhà khá lớn, mặt tiền nhìn ra biển. Hằng ngạc nhiên không biết tại sao hai mẹ con lại gặp ông Sinh ở đây, nhưng không dám hỏi sợ mẹ rầy!

      Trong hai ngày ở đây, ông Sinh đưa mẹ con đi chơi khắp nơi. Ăn tôm cua sò hến thả dàn. Mặt mẹ sáng ngời hạnh phúc. Tâm hồn con bé quá đơn giản, quá ngây thơ để đặt câu hỏi tại sao? Biển buổi sáng đẹp không thể tả. Ánh mặt trời chiếu xuống như dát vàng, chói cả mắt. Xe chạy vòng từ Bãi Trước ra Bãi Sau. Buổi trưa người đi tắm biển đông đen. Mẹ và Hằng không tắm, chỉ đi chân trần trên cát. Con bé lượm vô số vỏ sò để đem về Pleiku tặng bạn. Nhưng biển buổi chiều lại càng đẹp hơn. Hằng yêu vẻ êm ả và bình yên với những chiếc thuyền đánh cá trở về bến đậu. Hằng nói điều này với mẹ và ông Sinh. Ông ta nhìn Hằng một lúc rồi nói "Cô bé này có tâm hồn thi sĩ. Lãng mạn lắm nhé!". Mẹ nghe chỉ cười không nói gì. Riêng Hằng chẳng hiểu lãng mạn nghĩa là gì!
      Sáng sớm ngày thứ ba, ông Sinh lái xe đưa hai mẹ con ra bến xe về lại Sài Gòn. Trước khi từ giả ông ta đưa cho Hằng một cái hộp. Trong đó có một con thuyền làm bằng vỏ ốc tai tượng, có khắc chữ Kỷ Niệm Vũng Tàu...Hằng nói cám ơn và ông Sinh còn bẹo má con bé một cái.

      Năm đó cả nhà ăn Tết thật vui. Có lẽ tại mẹ vui. Mồng một Tết ông Sinh đến chúc Tết mẹ và lì xì cho Hằng. Ba không lên vì ông nội trở bệnh nặng và một tháng sau thì ông mất. Mẹ không về được, Hằng đang đi học nên mẹ sai chị Mai cầm tiền về phụ vào đám tang. Mai được về thăm nhà thì vui lắm. Hằng dặn khi chị trở lên Pleiku nhớ đem ít chục soài cát và vú sữa hột gà. Mười ngày sau chị Mai trở lên. Ngoài soài và vú sữa, chị còn đem một nồi cá thu nước ngọt kho nước dừa, đặc sản của Sa Đéc. Hằng thương chị nhất ở điểm này!
      Không hiểu sao lúc này mẹ hay bệnh. Nói bệnh thì không đúng. Mẹ ăn không ngon lại hay nôn mửa. Bà thèm một thứ gì đó, sai chị Mai đi mua. Đem về vừa ăn xong là nôn ra hết. Hằng lo quá, không biết mẹ bệnh gì. Một hôm, thấy Hằng lo lắng, mặt buồn hiu, chị Mai lôi Hằng ra nhà sau nói " chắc cô Tư có bầu, Hằng mừng không?". Dĩ nhiên là Hằng mừng. Có thêm em thì vui biết mấy. Hằng vội vàng chạy lên lầu hỏi mẹ có phải mang bầu không, bỗng nhiên mặt mẹ đổi thành trắng bệch, người bà hầu như hết hơi sức, chỉ chực ngã xuống. Hằng vội chạy lại đỡ mẹ nằm xuống giường, lấy dầu nhị thiên đường xức hai bên thái dương. Một lúc mẹ hơi tỉnh, hỏi ai nói với Hằng là mẹ có bầu. Hằng cười toe trả lời chị Mai nói. Mẹ bảo Hằng xuống kêu chị Mai lên cho mẹ nói chuyện, còn Hằng thì đi học bài. Hôm sau chị Mai nói với Hằng là mẹ có bầu thật, nhưng Hằng không được tiết lộ với ai vì mẹ mắc cỡ. Mẹ nói già rồi mang bầu kỳ lắm. Mẹ sợ người ta cười!

      Người lớn thật là kỳ quặc, khó mà hiểu nổi họ!Tuy nhiên Hằng cũng nghe lời, không tiết lộ tin này. Rồi hai tuần sau mẹ đi nhà thương vì bị băng huyết. Vậy là giấc mộng có em bé của Hằng không thành. Mẹ về nhà người xanh lướt, nhưng có vẻ vui. Ông Sinh đến thăm mẹ với một túi nho tươi. Hai người nói chuyện gì lâu lắm. Lúc ông ta về thì mắt mẹ đỏ hoe.
      Lần này ba lên định ở chơi hai tháng. Rồi một buổi tối ba vô phòng Hằng. Đang nói chuyện chơi, con bé bỗng nhớ tới đứa em đáng lẽ phải có, nói với ba, giọng đầy tiếc rẻ:
- Mẹ bị hư thai uổng quá hả ba?
Ba như bị điện giật:
- Con nói gì? mẹ con hư thai? Hồi nào? hồi nào? Giọng ông cao lên bất ngờ.
- Mẹ bị hư thai cách đây ba tháng. Mẹ không nói cho ba nghe sao? Hằng kinh ngạc hỏi.

      Ba nhìn Hằng trừng trừng như nhìn một con quái vật xa lạ nào đó. Bỗng ông bật dậy lao ra khỏi phòng. Sau đó thì tiếng ba quát tháo ầm ĩ bên phòng mẹ. Hằng chạy sang, thấy mẹ ngồi trên giường, hai tay ôm mặt. Ba đang tát bà tới tấp. Hằng hét lên, chị Mai dưới nhà chạy lên. Nhìn thấy cảnh tượng này chị hoảng kinh, xông vào lôi ba ra. Ông còn chưởi mẹ một hồi mới chịu êm. 
       Đêm đó ba ngủ trong phòng Hằng, còn Hằng xuống dưới nhà ngủ với chị Mai. Nhưng hình như không ai ngủ được đêm đó. Mọi người thao thức tới sáng. Hôm sau mặc cho con gái khóc lóc năn nỉ, ba xách va ly ra bến xe trở về Sa Đéc. Còn thề độc sẽ không bao giờ trở lại Pleiku! 
      Cả tuần lễ căn nhà buồn hiu hắt. Mẹ u sầu chẳng nói chẳng rằng. Hằng vẫn cắp sách đến trường đều đặn. Một buổi tối, sau khi học bài xong, Hằng xuống nhà. Thấy chị Mai đang gấp quần áo, con bé sà vào gấp tiếp:
- Nhà mình buồn quá chị Mai ơi! Em không hiểu tại sao hôm đó ba lại đánh mẹ em dữ như vậy? Đâu phải tại mẹ em muốn hư thai phải không?
Mai ngừng tay, nhìn Hằng một lúc rồi ngập ngừng:
-Nếu chị nói cô Tư không phải có bầu với dượng Tư, Hằng có tin không?
Con bé dẫy nẫy:
- Em không tin. Em không tin đâu. Vậy mẹ em có bầu với ai?
- Cô Tư có bầu với ông Sinh.
- Vậy còn ba em? Kỳ vừa rồi mẹ em có về Sa Đéc mà. Sao không phải là ba em? Sao chị biết không phải là của ba em? Chị nói đi! Giọng con bé có vẽ như muốn khóc.
- Cô Tư nói với chị. Hằng nhớ hôm em đi Vũng Tàu chơi không. Chính lúc đó cô Tư dính bầu.

Hằng bàng hoàng nhớ lại những ngày vui ở thành phố biển. Trong tâm trí, con bé mơ hồ nhớ lại, đêm thứ nhì ngủ tại đó, nửa đêm chợt thức giấc không thấy mẹ bên cạnh, Hằng tưởng bà đi nhà vệ sinh nên ngủ tiếp. Nào ngờ...!
Nhưng con bé vẫn không chịu tin:
- Vậy trước đó mẹ em về Sa Đéc cũng ngủ chung với ba em mà.
- Cô Tư tâm sự với chị là từ mấy năm nay dượng không còn làm được chuyện đó nữa.
- Chuyện đó là chuyện gì hở chị? Con bé ngây ngô hỏi.
- Thì chuyện ...em bé đó. Chị đâu có rành. Cô Tư nói với chị vậy mà. Cũng tội nghiệp cô Tư, dượng say sưa tối ngày, cô Tư khổ lắm em ơi. Chị mong em đừng giận mẹ nghen. Ông Sinh thương cô Tư lắm. Ông thương thật tình đó.

      Dĩ nhiên chị Mai đâu có rành. Tuy đã hăm lăm chị vẫn chưa chồng mà. Chị Mai vừa là cháu, vừa là người tâm phúc nên có gì mẹ cũng tâm sự với chị. Hằng thương mẹ, nhưng cũng thương ba. Biết mẹ phản bội ba, Hằng làm sao không giận được. Vậy là từ đó Hằng không muốn gần gủi mẹ như trước. Mẹ biết cũng chỉ thở dài. Mỗi lần ông Sinh tới chơi Hằng đều tránh gặp ông ta. Mẹ có gọi con bé cũng đóng cửa phòng im ỉm. Ông Sinh biết ý cũng bớt tới nhà.
      Vừa nghỉ hè là Hằng xin phép mẹ về quê. Con bé quá giang xe cô bảy Vinh về Sài Gòn. Mẹ dặn Hằng đi xích lô đem qua nhà bác Phú trong Thị Nghè biếu hai ký măng le khô và một ký khô nai. Con bé ngạc nhiên tột độ khi gặp ba đang ở nhà bác Phú. Hai cha con mừng quá là mừng. Ba ôm đầu Hằng hôn chùn chụt. Ông nói ở dưới quê buồn quá nên lên Sài Gòn chơi ít hôm cho khuây khỏa. Sáng hôm sau hai cha con gọi taxis ra bến xe. Đi quá sớm nên chưa ăn sáng. Lên xe rồi ba đưa tiền bảo Hằng lại tiệm nước gần đó mua cho ba bánh bao. Mới bước được vài bước thì gặp ngay một con bé trạc tuổi Hằng, bưng một xề bánh bao nóng hổi còn bốc khói nghi ngút. Hằng mua hai cái. Cứ đinh ninh bánh bao nhân thịt. Nào ngờ khi cắn rồi mới biết chỉ là nhân bắp cải. Hằng nói để đi mua cái khác, ba bảo thôi. Đã mua rồi thì ráng ăn. Giờ đây, gần nửa thế kỷ trôi qua, nhớ đến nét mặt ba cố ăn hết cái bánh bao nhân bắp cải mà hai hàng nước mắt Hằng vẫn tuôn tràn. Có những chuyện giống như những vết dao chém vào đá. Vĩnh viễn với thời gian. Không bao giờ phai mờ. Lần này Hằng để ý thấy tay ba run run và mắt thì vàng như nghệ. Người chỉ còn da bọc xương. Bác Phú nói riêng với Hằng" Cháu nói với mẹ cháu là ba cháu có vẻ bệnh nhiều lắm đó. Coi chừng không xong đâu à!". Hằng lo lắm, nhưng chẳng biết lo làm sao? 

      Về tới nhà, Hằng lo quét tước lau chùi nhà cửa cho thật sạch sẽ. Mẹ có gửi tiền cho cô Bích nấu ăn cho ba. Cô nói ba cháu chỉ uống rượu chứ có ăn uống gì đâu mà đưa tiền. Hai tuần đầu ba còn cố ăn được chút đỉnh, nhưng sau đó ăn vào là nôn ra. Trong thức ăn có lẫn máu tươi. Ba nằm trên giường rên rỉ, đau đớn. Mỗi ngày con bé đổ sữa cho ông, nhưng phần lớn là nôn ra hết. Càng ngày càng nhiều máu tươi hơn. Hằng chỉ biết nhìn ba và khóc. Con bé còn nhớ, một đêm trời tối như bưng, trong nhà hết nước sôi để pha sữa, Hằng phải cắn răng băng qua khu vườn, qua đập cửa nhà bà nội. Eo ơi, nhìn cây cối trong vườn rung động trong bóng đêm như những bóng ma đầy dọa nạt, Hằng sợ đến run lập cập. Nhưng thương ba quá, con bé vẫn cố đi, miệng niệm Phật liên hồi. Hôm sau Hằng nhờ con trai cô Bích qua Long Xuyên gọi anh Tú về. Anh Tú về vội vàng đưa ba đi khám Bác sĩ. Bác sĩ nói ba bị bệnh chai gan và loét bao tử trầm trọng. Tất cả vì rượu. Ông chuyền nước biển và cho thuốc uống. Đến ngày thứ ba mới cầm, không ra máu và ba có vẻ tỉnh táo hơn.

      Anh Tú bảo Hằng lên Pleiku trông nhà cho mẹ về chăm sóc cho ba. Hằng không chịu thì anh vừa mắng mỏ, vừa năn nỉ. Cuối cùng con bé phải đầu hàng. Buổi sáng Hằng thấy ba nằm thiêm thiếp trên giường, mặt mày xanh xao, hơi thở nặng nhọc. Lòng đau như dao cắt, con bé vừa xách chiếc valy nhỏ bước ra khỏi nhà, đi ngang cửa sổ phòng khách là có tiếng ba gọi từ phía trong cửa sổ:
- Hằng, Hằng! Con đi đâu đó?
- Con đi Pleiku kêu mẹ về săn sóc ba. Hằng trả lời giọng nghẹn ngào.
- Không, không! Con đừng đi. Còn không cho ba đi theo với.
- Ba đang bệnh đi không được đâu. Thôi ba vô nằm nghỉ. Con đi nghen ba.
      Dứt lời là con bé xách va ly đi như chạy. Nước mắt tuôn ướt cả mặt. Anh Tú dặn Hằng tới Sài Gòn là đi thẳng ra bến xe Miền Trung. Gặp chuyến nào đi liền chuyến nấy không được chờ. May quá có chuyến trưa sắp chạy. Chỉ còn chỗ ở băng cuối cùng Hằng cũng leo lên. Suốt mười mấy tiếng đồng hồ trên đường đi, Hằng rầu rĩ nhớ ba đến nỗi không muốn ăn uống gì cả. Cũng không để ý đến những lúc xe bị xóc, hành khách băng sau cùng bị tung lên, đôi khi đầu đụng trần xe đau điếng. Nhớ tới hình ảnh ba, hai tay nắm chấn song cửa sổ, đòi đi theo Hằng là con bé lại giọt vắn giọt dài khiến hai người ngồi bên cạnh ái ngại quá. Nhưng hỏi gì con bé cũng lắc đầu, không nói.

      Hằng không ngờ đó là lần cuối cùng gặp mặt ba. Vì mẹ về tới là ông yếu lắm rồi. Ba ngày sau ba trút hơi thở cuối cùng. Nhận được điện tín anh Tú đánh lên báo tin ba mất và dặn Hằng đừng về, con bé lịm người khóc không thành tiếng. Nếu biết ba ra đi sớm như vậy, có đánh chết Hằng cũng quyết ở lại với ba. Con bé đau liệt giường cả tháng trời sau đó. Mẹ lại khổ sở săn sóc cho con gái...
      Một thời gian sau ông Sinh xin đổi đi tỉnh khác vì mẹ từ chối lời cầu hôn của ông ta. Cả anh Tú và Hằng đều ghét cay ghét đắng, cho là vì ông ta mà ba mới chết sớm như vậy.
      ...Thật lâu, thật lâu sau này, nghĩ lại Hằng thấy thương mẹ vô cùng. Bà đã vì hai anh em nàng mà chịu hy sinh hạnh phúc của riêng mình. Theo lời chị Mai, mẹ rất yêu ông Sinh. Về sau có nhiều người theo đuổi mẹ đều từ chối.

      Công bình mà nói, ba cũng đáng trách. Hằng không hiểu tại sao một người có điều kiện tốt như ba mà chịu xuôi tay đầu hàng Định mệnh, để ông Thần Lưu linh lôi cuốn đến nỗi tan nát cả hạnh phúc gia đình? Tại sao ba lại hèn yếu đến thế hở ba? Con thương ba nhưng cũng ghét ba. Ba rủ áo ra đi, thanh thản, nhẹ nhàng bên kia thế giới. Nhưng phần mẹ được gì? Suốt đời làm lụng, buôn bán cực khổ nuôi chồng, nuôi con. Trở thành góa phụ ở tuổi mới ngoài bốn mươi, đẹp đẻ, giỏi giang... mà cứ phải cắn răng sống cảnh phòng không chiếc bóng, chỉ vì tình thương dành cho hai con. Trong khi chung quanh ong bướm dập dìu. Hằng thương cả ba lẫn mẹ. Nhưng vẫn canh cánh bên lòng một tình cảm khó tả: thương, giận và tiếc nuối! Nếu được bắt đầu lại, Hằng sẽ nghĩ đến mẹ nhiều hơn.

      Ba không đáng trách và mẹ không đáng thương lắm sao? Những hạt bụi bám chặt trong tim con gái chừng nào mới gội sạch được đây? 

Tiểu Thu

Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2014

Solitude - Soạn Hòa Âm&Trình Bày - Nguyễn Đức Tri Tâm



Soạn Hòa âm & Trình Bày: Nguyễn Đức Tri Tâm

Đừng Buồn Tôi Em Nhé!


Đừng buồn tôi em nhé
Ở tuổi ngoài bốn mươi
Ta quen nhau quá trể
Nên hận đời thế thôi

Ví dù mười năm trước
Tôi hãy còn cô đơn
Những đêm lầm lũi bước
Những ngày dài bôn chôn

Ví dù chín năm trước
Tôi vẫn còn lang thang
Nhìn mây thèm chút nắng
Ngó hoa tiếc nhụy tàn

Ví dù tám năm trước
Tôi bỏ nhà đi hoang
Khuya trong đời mất nước
Thương mình quá mênh mang

Ví dù bảy năm trước
( Tôi biết hơi muộn màng)
Em vừa thay kiểu tóc
Soi bóng mình cao sang

Đừng buồn tôi em nhé!
Bốn mươi chưa thể già
Nhịp tim khua rộn rã
Tay đời còn nở hoa

Đừng buồn tôi em nhé!
Yêu thử một lần thôi
Lỡ mai kia sắp chết
Ngỡ ta còn có đôi

Lâm Hảo Dũng

Lãng Mạn Italy

     Lần đầu bay đến châu Âu tôi mới nhận thấy xứ Úc thật xa xăm. Nguyên thủ tướng Úc, Paul Keating, có lần phát ngôn một cách tượng hình, Úc là "arse end of the world" (cái lỗ tận cùng của thế giới). Từ Melbourne bay đến Singapore mất 8 tiếng, từ Singapore đến Frankfurt (Đức) 13 tiếng và cuối cùng đến Napoli (Ý) thêm 2 tiếng chưa kể những khoảng thời gian chờ đợi chuyển máy bay. Một anh chàng Ăng-lê dáng dấp phong trần ngồi cạnh trong chuyến bay từ Singapore đến Frankfurt hỏi đi đâu ở Ý. Tôi bảo rằng khởi hành từ Napoli (Naples) ngược lên phía Bắc ghé Roma, Firenze (Florence), Venezia (Venice) và cuối cùng đến Milano (Milan). Anh ta ngạc nhiên bảo tôi, "Ồ! Tại sao Napoli? An ninh hơi phức tạp đấy", tôi hơi chột dạ bảo rằng "Không phải nơi này là chốn an bình lãng mạn tạo hứng khởi cho những bài ca Napolitan như "Santa Lucia" và "O sore mio" hay sao?". Anh ta cười, phủi tay, "Vâng, nhưng là chuyện quá khứ, đã hơn 100 năm trước rồi ông ạ". Thật là nghề chơi cũng lắm công phu, cần nhiều kiên nhẫn và một chút phiêu lưu.

Napoli - Sorrento.
      Sau hơn 30 tiếng kể từ điểm khởi hành, cuối cùng chiếc máy bay đáp xuống phi trường quốc tế Napoli. Cảm giác đầu tiên khi đặt chân xuống xứ sở "spaghetti" là cái không khí lè phè của người dân Ý. Hải quan Napoli không đòi hỏi viết đơn khai báo hành lý, họ treo trên tường hai tấm bảng đơn giản chỉ hai ngõ ra, "Khai báo hành lý" hay "Không khai báo hành lý". Vài nhân viên hải quan vừa nói chuyện, vừa phì phèo thuốc lá, đi qua đi lại không màng hỏi chuyện tra xét. Mùi khói thuốc bao trùm cái không gian hít thở, thoang thoảng trên đường phố đeo đuổi tôi suốt cuộc hành trình từ miền Nam đến Bắc Ý. Dĩ nhiên, hành khách cứ theo ngõ "Không khai báo" lũ lượt đi ra. Tôi chợt nhớ cuộc nói chuyện ngắn với anh chàng Ăng-lê trên máy bay mà không khỏi hoang mang. Trên chuyến xe bus từ phi trường vào trung tâm thành phố, anh tài xế mải miết nói chuyện với một hành khách trong suốt cuộc hành trình 30 phút. Không biết họ quen nhau thế nào mà sao có lắm đề tài bàn luận mặc dù trên xe có gắn tấm bảng nhỏ tiếng Ý "Non parla …" mà tôi có thể đoán từ tiếng Anh là "Tài xế không được nói chuyện trong khi lái xe". Khác với dân Đức tôn trọng sự chính xác, kiệm lời, tuân thủ quy luật thì dân Ý dường như ở một bên ngược lại.

      Chiếc xe bus chạy vào thành phố đến nhà ga chính của Napoli. Ở đây chỉ có những tòa nhà hình khối chữ nhật to lớn cao năm bảy tầng nằm san sát dọc theo những con phố lớn. Nét cổ kính của những tòa nhà vẫn còn ẩn hiện trong những đường cong kiến trúc nhưng quần áo đồ giặt các thứ tung bay phấp phới ngoài cửa sổ, những lớp sơn mốc meo trên tường đã biến Napoli, từng là trung tâm chính trị và văn hóa của miền Nam Ý, trở thành một nơi nhếch nhác ngoài sự mong đợi của tôi. Những người nhập cư từ châu Phi, Trung Đông bày bán đồ gia dụng, đồ lưu niệm "made in China" trên những quán sạp kéo dài từ bến xe bus đến nhà ga, tụm năm tụm ba tán gẫu. Tấp nập người bán nhưng không một người mua. Đâu rồi sự lãng mạn trong bài hát "Santa Lucia", hay là phải đợi màn đêm đi xuống mới nhìn thấy những "ánh sao lấp lánh trên mặt đại dương". Đâu rồi những tia nắng vàng của "O sore mio" (Mặt trời của tôi) hòa trong làn gió nhè nhẹ … Cuối cùng tôi cũng tìm đến được bến Santa Lucia nằm trên bờ biển dọc theo thành phố Napoli bằng chiếc xe bus địa phương. Dọc theo bờ biển là vỉa hè rộng rãi cho người đi bộ. Phía trước mặt là một ngôi thành cổ. Bên kia đường là những toà nhà cao to và những nhà hàng sang trọng. Đâu đó tôi nghe một giọng hát từ xa vọng lại kèm theo tiếng đàn ghi-ta bài "Santa Lucia". Không khí ở đây thoải mái và "văn minh" hơn cái xóm nhà ga trung tâm. Ngày thứ nhất ở Ý làm tôi hơi thất vọng.

     Theo chương trình hành động của ngày thứ hai là đến thị trấn Sorrento bằng xe lửa. Tờ mờ sáng đến nhà ga được ông bán vé chỉ tờ cáo thị viết bằng hai thứ tiếng Ý và Anh dán trên cửa sổ rồi nhún vai bảo tôi đại loại rằng, "Hôm nay đình công!". Tôi ngơ ngác. Ông có đùa không chứ? Ông có biết rằng "đình công" không phải là chuyện đùa mà ông dửng dưng nói y như "chuyện thường ngày ở huyện"! Một ngày không có chương trình chỉ lông nhông ở một thành phố lạ là một việc lãng phí thời gian cực kỳ. Tôi gặn hỏi ông có cách đi nào khác. Vốn tiếng Anh của ông giới hạn nên ông chỉ nói gọn lỏn "boat" mà tôi hỏi một lúc mới biết là phà. Phà chỉ có vài chuyến mỗi ngày nhưng may quá bến phà cũng không xa. Thế là chúng tôi đeo chiếc ba lô chạy như bay ra khỏi nhà ga đi tìm phà… Cuối cùng cũng đến bến phà và kịp mua vé cho chuyến phà sẽ khởi hành trong vòng 10 phút tới. Chiếc phà chạy dọc theo bờ biển kéo dài từ Napoli đi ngang Pompeii rồi đến Sorrento. Ngọn núi Vesuvius hiện rõ trên bầu trời khi phà đi ngang Pompeii (Hình 1). Ngọn núi lửa này bùng nổ 2000 năm trước chôn vùi thị trấn Pompeii gần một thước dung nham để lại những dấu tích sinh hoạt của người đương thời. Pompeii trở thành phế tích và ngày nay là một thị trấn trực thuộc Napoli.

Hình 1: Núi lửa Vesivius và thị trấn Pompeii.

       Phà cập bến Sorrento. Từ bến phà nhìn lên là những tòa nhà đứng ngạo nghễ trên bờ đá cao cao chơi vơi nằm trên bờ núi đá kéo dài dọc theo bờ biển Almafi (Hình 2). Chúng tôi lò dò tìm đường đi đến trung tâm thị xã. Con đường dài hun hút không một bóng người làm bằng những khối đá xanh nhỏ (10 x 10 cm) được sắp tỉ mỉ thành những hình nan quạt một cách đầy nghệ thuật. Ô … những con đường đá xanh đẹp mắt, châu Âu là đây! Dọc hai bên đường là vách đá cao hàng chục mét được gọt phẳng mà khoảng hở giữa những tảng đá xám đã được những người thợ trám lại bằng những viên gạch đỏ tạo nên một sự hài hòa đơn giản. Ngỡ rằng lạc lối, tôi bèn hỏi một người Ý làm đường đang hì hục đào đất. Ông không hiểu tiếng Anh, nên tôi lắp bắp vài tiếng Ý bồi, cộng thêm một câu tiếng Anh lai Ý, "Dove Sorrento central? Is this way corretto?" (Trung tâm Sorrento ở đâu? Đường này có đúng không?). Ông công nhân này hiểu ngay lập tức quơ tay chỉ trỏ và xổ ngay một tràng tiếng Ý mà tôi chỉ hiểu được độc nhất một chữ "corretto". Con đường là một ngõ cụt mà trước mặt là một vách đá, trung tâm Sorrento đâu không thấy mà chỉ thấy phía trên tận cùng của vách nhiều cờ bay phấp phới và chiếc cầu thang gắn vào vách đá đi lên. Chúng tôi ngại ngùng bước lên và khi đến bậc thang cuối cùng thì thị trấn Sorrento bỗng nhiên bùng ra trước mắt ly kỳ như một pha ảo thuật. Đúng là kiểu Ý độc đáo. Chưa bao giờ tôi có kinh nghiệm đi tìm một thành phố theo kiểu leo thang như thế này. 
  
Hình 2: Bến phà Sorrento
     Từ bên này đường nhìn qua phía bên kia là trung tâm thị trấn với hai hàng cây trụi lá dọc theo hai bên đường. Những chiếc Vespa ngược xuôi luồn lách qua những chiếc xe hơi con chạy trên những con đường lót đá. Bên kia đường những anh chàng Ý điển trai mặc bộ vest sậm màu, đeo kính râm, quấn khăn choàng cổ màu trắng, lịch lãm đi chầm chậm trên phố. Hay những bóng hồng điệu đàng trong cái áo khoát mùa đông thắt lưng eo, chiếc quần jean bó sát chân dài với đôi giày ống cao gót dịu dàng gót ngọc, thỉnh thoảng đưa tay vén mái tóc dài bay bay trong gió xuân nhè nhẹ. Những con đường nhỏ thoai thoải tẻ ra từ con đường lớn dẫn vào những cửa tiệm bán quần áo, đồ lưu niệm, quán ăn. Bên này đường người ta ăn uống nhộn nhịp. Một người đàn ông lái chiếc xe Vespa bỗng nhiên trờ tới rồi ngừng lại bắt tay chào một ông bạn đang đứng trên vỉa hè. Hai người mời nhau điếu thuốc, rồi một cuộc đàm thoại trên trời dưới đất lại bắt đầu. Người Ý thích nói, thích thuật chuyện, nói miên man rồi cười vui thích thú. Nhìn họ nói chuyện, tôi bỗng thấy vui lây. Cuộc sống ở đây thật thanh bình và nhẹ nhàng như những làn gió xuân thổi qua thị trấn. Thời gian bồng bềnh dường như trôi rất chậm.

      Chúng tôi lên chiếc xe bus địa phương chạy từ Sorrento đến thôn Positano theo con hương lộ hẹp, ngoằn ngoèo nhìn xuống bờ biển Almafi êm đềm xa xa bên dưới. Hầu như nơi đây nhà nào cũng có vườn cam. Những quả cam nặng trĩu tạo nên những điểm vàng lấm tấm nổi bật từ màu xanh mướt trong ngôi vườn nhà ai dọc theo con hương lộ dẫn đến Positano. Có đi trên con đường nhỏ này người ta mới hiểu được những ca từ lãng mạn trong "Torna a Surriento" (Hãy về lại Sorrento). "Hãy nhìn biển xanh đẹp biết bao. Nó làm xao động lòng người … Hãy nhìn những quả cam nặng trĩu trong vườn nhà ai. Mùi hương của nó len lỏi thắm vào tim. Người ơi! Hãy về lại Sorrento  …". Vâng, hơn một trăm năm qua bài hát "Hãy về lại Sorrento" có tầm cỡ của "Santa Lucia" hay "O sore mio" vẫn còn mang âm hưởng rung động lòng người. Tôi không hiểu lời ca tiếng Ý, chỉ nghe nhạc điệu. Những bài ca này khi được diễn tả bằng giọng tenor của Luciano Pavarotti với cái đánh lưỡi chữ "r" thật giòn đủ làm người nghe nhắm mắt đưa hồn bay lên cao. Tiếng Ý kết thúc với những nguyên âm và có một chút lên giọng ở cuối câu cộng hưởng qua giọng nói như chim của các cô gái, nghe mà mê.   

      Thị trấn Positano với cư dân không hơn 4.000 người trở thành một tâm điểm du lịch nhờ vào vẻ đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và những ngôi nhà trên ven đồi. Cả thị trấn chỉ có một con đường chính là trung tâm buôn bán, ăn uống, và cũng là con đường từ trên đồi cao dẫn đến một bãi biển nhỏ màu xam xám. Bãi biển không gì đặc biệt, những ngọn đồi cũng bình thường như bao ngọn đồi khác. Nhưng không hiểu làm sao Positano hiện ra như một bức tranh tuyệt mỹ ba chiều với những căn nhà nhiều tầng có nhiều khung cửa sổ và mái nhà màu đỏ lợp ngói âm dương. Những ngôi nhà cao thấp khác nhau, màu sắc khác nhau, hơi hỗn độn nhưng trong sự hỗn độn người ta tìm thấy sự hài hòa, yên bình với thiên nhiên (Hình 3). Trời muốn đổ mưa, một áng mây bất thần bay qua phủ ngang ngọn đồi. Nhìn xuống vùng biển của Positano, một phần của Địa Trung Hải bao la ngoài kia, chỉ thấy những ngọn sóng lăn tăn như nước mặt hồ. Một chiếc du thuyền mong manh nằm bất động trên sóng nước…  
    
Hình 3: Vùng quê Positano
Roma
      Từ Napoli chúng tôi dùng xe lửa cao tốc đi đến Roma. Roma được thành lập vào thế kỷ 8 trước Công nguyên, cho đến ngày hôm nay đã 2.800 năm. Trong thời đại cực thịnh của Đế quốc La Mã hai ngàn năm trước, Roma đồng nghĩa với văn minh. Thành phố Roma gắn liền với con sông Tevere. Con sông màu xanh hiền hòa chảy dọc theo hướng đông tây của thành phố đã chứng kiến bao cuộc thăng trầm của Roma qua hàng bao thế kỷ. Vatican tọa lạc phía tây dòng sông và phố cổ Roma với nhiều di tích nằm phía đông. Roma là một chứng cứ của nền văn minh phương Tây với những tòa nhà cổ kính xây từ thời Phục Hưng (thế kỷ 14 -17). Thời kỳ này cũng là thời cực thịnh của nghệ thuật điêu khắc, hội họa và kiến trúc. Quả thật "Roma không thể xây trong một ngày". Xây dựng một Roma đại cần ngàn năm.  

     Từ nhà ga trung tâm Termini của Roma, người ta có thể dùng xe điện ngầm Metro đến ga Colosseo. Vừa bước ra khỏi đường hầm đi lên đến mặt đường là một kiến trúc bằng đá khổng lồ Colloseum hiện ra trước mắt. Tôi đứng lặng một vài giây để chiêm ngưỡng và trầm trồ cái đại của Giác đấu trường Colloseum. Sau 2.000 năm tuế nguyệt, Colloseum giờ đây chỉ là phế tích nhưng những dấu vết ngàn năm vẫn còn hiển hiện. Colosseum là một đấu trường cho các kiếm sĩ tranh tài hay giữa kiếm sĩ và mãnh thú. Đây là một kiến trúc đá khổng lồ có thể chứa 50.000 – 80.000 người xem, ở giữa là đấu trường có diện tích tương đương với một sân vận động hiện đại (Hình 4). Colloseum được hoàn thành trong vòng 10 năm với nền làm bằng bê tông và đá. Người La Mã 2.000 năm trước đã biết dùng bê tông và xi măng làm chất dính giữa những tảng đá xanh khổng lồ làm nền cho những cây cột chống. Ở những nơi ít chịu lực như mặt ngoài của Colloseum, các tầng trên hay những cấu trúc vòm họ dùng vật liệu nhẹ hơn như đá ong hay gạch nung. Những kỹ sư xây dựng thời La Mã đã biết chọn vật liệu thích hợp, đo đạc sức bền vật liệu và thiết kế cơ học chính xác để ngày hôm nay Colloseum vẫn còn đó sừng sững với thời gian. Giác đấu là một "thú vui" thư giãn giống như những sinh hoạt thể thao hằng tuần giữa các đội bóng tranh tài thời hiện đại. Thú vui đẫm máu này được chính quyền đương thời khuyến khích với mục đích làm người dân quên đi những nỗi nhọc nhằn trong cuộc sống. Một phương thức "mềm" để dẹp những mầm móng nổi loạn. Vài ngàn năm sau phương thức này vẫn còn vô cùng hiệu quả.  

Hình 4: Bên trong Colloseum
     Đối diện với Giác Đấu trường là Roman Forum (Quảng trường La Mã). Nơi này là trung tâm chính trị và hành chính của Đế quốc La Mã. Cổng đi vào Quảng trường là "Arch of Titus", một khải hoàn môn do những nô lệ người Do Thái xây cất 2.000 năm trước (Hình 5). Những nét khắc hoa văn sắc sảo và chữ viết vẫn còn nguyên vẹn. Phế tích đền Saturn là một kỳ quan khác (Hình 6). Trong thời cực thịnh lãnh thổ của Đế quốc La Mã bao trùm châu Âu, Trung Đông và một phần Bắc Phi. Khái niệm về cộng hòa, dân chủ và văn hóa thị dân đã được thành hình trong giai đoạn này. Tên tuổi của Julius Ceasar gắn liền với giai đoạn cực thịnh của đế chế La Mã. Ông là một chiến tướng tài ba, tàn bạo nhưng lại là một nhà ngoại giao mềm mỏng, hào hoa và một chính khách đầy tham vọng và mưu lược. "Tôi đến, tôi nhìn, tôi chinh phục". Ông tóm thu quyền lực tại Roma biến thành nhà độc tài để cải cách đế chế theo ý mình từ Cộng hòa La Mã trở nên Đế quốc La Mã. Ông được nhiều ủng hộ của tầng lớp thị dân trung lưu và nghèo khổ ở Roma. Ông bị mưu sát bởi nhóm nghị viên tạo phản vì họ bất mãn sự chuyên quyền của ông. Trong Quảng trường La Mã, người ta dựng lên một cái chòi nhỏ đánh dấu nơi ông bị giết, giờ đây chỉ là khoảnh đất nhỏ ảm đạm và lạnh lẽo.  
Hình 5: Cổng Titus.
Hình 6: Đền Saturn. 
      Khái niệm dân chủ, nghị viện của thời đại Cộng hòa La Mã đã tạo nên một tầng lớp thị dân không khác gì thời hiện đại. Nhu cầu vật chất và tinh thần của tầng lớp thị dân đưa đến sự thành hình đô thị và văn hóa đô thị. Kỹ sư, kiến trúc sư và nghệ nhân Ý là bậc thầy trong quy hoạch phố thị, xây dựng nhà cửa, cầu cống, đường sá vài ngàn năm trước. Trong khi phần còn lại của thế giới vẫn là làng mạc, bộ lạc sống trong nhà tranh vách đất bao quanh bởi lũy tre làng hay vẫn còn trong hang động. Đô thị phương Đông là kết quả của sự ráp nối tự nhiên của các làng xã nên thiếu sự tổ chức và quy hoạch. Họ xây nhà trước, làm đường sau trong khi phương Tây thì ngược lại. Thậm chí tại Trung Hoa cách tổ chức đô thị phải đợi đến triều đại nhà Đường vào thế kỷ thứ 7 khi họ xây dựng kinh đô Trường An (Tây An ngày nay).  Đến ngày hôm nay nước Nhật vẫn không có tên đường. Ở Ý, đường phố dù lớn hay nhỏ đều có tên khắc một cách trang trọng trên một tấm bảng cẩm thạch gắn ở mỗi góc đường.  

       Quan sát những kiến trúc gạch, đá khổng lồ như Collesseum, những thánh đường hay những tòa nhà cổ ngàn năm hiện hữu khắp nơi trên đất Ý, tôi không khỏi có sự so sánh với kiến trúc phương Đông mà vật liệu phần lớn là gỗ. Sự khác nhau có thể phát xuất từ tư duy của một nền văn minh dựa vào thần linh và nền văn minh có nguồn gốc nông nghiệp. Người Trung Hoa ít dùng đá trừ những trường hợp cần thiết phải xây thành lũy xung quanh một thị trấn hay dọc theo biên giới như Vạn lý Trường thành cho việc phòng thủ chống xâm lăng. Tư duy của nền văn minh nông canh cũng không cần sự lâu dài mà chỉ cần sự thực tiễn. Gỗ dễ cưa đục, giúp việc thi công thực hiện nhanh chóng. Gỗ dễ cháy, tạo cơ hội làm mới, không gì phải lưu luyến với cái cũ. Nhưng nền văn minh dựa trên thần linh đòi hỏi sự hoàn hảo, sự vĩnh cữu, tỉ mỉ xuất phát từ lòng tôn kính tuyệt đối. Kiến trúc thánh đường, các tác phẩm nghệ thuật về điêu khắc hay hội họa lừng danh mà tôi sẽ đề cập phần sau đều có động lực to lớn từ tôn giáo.   

       Từ Quảng trường Roma chúng tôi đi bộ hướng về bờ sông Tivere. Dòng sông xanh ngắt chảy có lúc nhanh lúc chậm. Cái cổ xưa của thành phố Roma có thể cảm nhận được từ những tòa nhà cổ, giáo đường hai bên bờ và những chiếc cầu bắc ngang sông (Hình 7). Dòng sông có một khúc quanh và ở đây có một cộng đồng người Do Thái rất lâu đời. Họ bị xua đuổi và tập trung đến khúc quanh này sống lây lất trong những "ghetto" thường xuyên bị ngập lụt. Ngày nay, lụt được chế ngự và người Do Thái vẫn còn đó sống xung quanh một thánh đường Do Thái xinh đẹp. "Ghetto" ngày nay là một khu đất vàng!  Gần "ghetto" là một ngôi chợ nhỏ cũ kỹ với những sạp bán rau quả, bán thức ăn, bán bánh ngọt hay bán kem gelato. Tài liệu du lịch Roma xem nơi này như một địa điểm văn hóa để nhìn lại sinh hoạt đời thường xưa cũ của người Roma. Thật ra, nó cũng không khác gì những hàng quán xung quanh chợ Bến Thành, thỉnh thoảng xông lên mùi mốc meo cống rảnh. Những gian hàng bán thức ăn chỉ có pasta/pizza hay bánh mì kẹp những lát "ham" hoặc thịt xông khói. Spaghetti và pizza đương nhiên là món ăn "quốc túy" Italy. Nhưng dù là nơi xuất xứ, hai món ăn này không khỏi làm nhiều người thất vọng. Sau khi được "xuất khẩu" sang Mỹ và Úc thì chúng được thoát xác biến thành những món ăn ngon hợp khẩu vị địa phương. Những miếng pizza Ý trông thật thê thảm. Nó được làm sẵn một cách sơ sài với vài miếng cheese và salami phủ lên. Khi ăn thì được đem ra ép nóng. Món spaghetti, risotto (cơm) thua xa những quán ăn Italy bình dân trên con đường Lygon ở trung tâm thành phố Melbourne. Ăn những khúc bánh mì kẹp thịt "ham" mỏng mảnh, khiến tôi không khỏi thèm nhớ đến khúc bánh mì bì với chút nước mắm. Sau gần 10 ngày tại Ý, spaghetti và pizza đã tràn lên tới cổ, có những lúc tôi vô cùng muốn thưởng thức một bát phở nóng quê hương. Nhưng trong suốt cuộc hành trình, tìm một quán ăn Việt như mò kim đáy biển. 

Hình 7: Sông Tivere và cổ thành. 
     Đặc điểm của những thành phố Ý, dù lớn hay nhỏ, là những con lộ lát đá xanh khi rộng khi hẹp, nó không phải là con hẻm, vỉa hè mà cũng không phải là con đường hiểu theo nghĩa bình thường. Không phải là con hẻm vì người ta không thấy những "phụ kiện" của sinh hoạt hằng ngày như thùng rác hay bàn ghế bày biện vô trật tự. Không là vỉa hè hay con đường vì chỉ là con lộ nhỏ cho người đi bộ, tiếp giáp với những tòa nhà có thể là văn phòng công ty, chung cư, một quán ăn nhỏ hay tiệm bán quần áo thời trang. Con lộ không phải là con đường khúc khuỷu hay đường cong ẻo lả mà là những đường gãy khúc chạy theo đường biên của những tòa nhà. Thỉnh thoảng những con lộ này dẫn vào hoa viên nhỏ xinh xinh của một chung cư cao cấp. Cách sắp xếp những con lộ trông đơn giản nhưng đòi hỏi phương pháp tổ chức phố xá (town planning) có bài bản khoa học và thái độ sinh hoạt nghiêm túc và tự giác của người dân.
  
      Đối với người du lịch, đi bộ dọc theo những con đường nhỏ này là một kinh nghiệm thú vị. Khi đôi chân bắt đầu mệt mỏi, cảnh quan trở nên nhàm chán,  tầm nhìn bị giới hạn thì bỗng nhiên con lộ đưa ta đến một quảng trường (piazza). Cái không gian nơi hình dạng bầu trời bị bao vây bởi những tòa nhà thì bây giờ được bung ra như chiếc bong bóng bất chợt phình to dưới sức ép của luồng không khí. Những quảng trường này to nhỏ khác nhau, từ vài mươi mét vuông đến hàng chục ngàn mét vuông, như một trung tâm từ đó tỏa ra nhiều con lộ. Có nơi trước mặt là một ngôi nhà thờ to lớn hay hồ phun nước với những chi tiết kiến trúc vô cùng tỉ mỉ hay những bức tượng điêu khắc từ thời Trung Cổ. Mọi thứ đều là Di sản Thế giới. Có chỗ chỉ là nơi nghĩ chân hay tập hợp của cư dân địa phương gặp nhau tán ngẫu với vài quán ăn hay quán cà phê xung quanh. Tôi cũng ngồi nghĩ chân và tình cờ ngồi gần một ông cụ đang lặng yên ngồi tắm nắng chiều. Tôi bắt chuyện với ông và "trò chuyện" bằng những ngón tay, bằng tay, bằng ngôn ngữ Ý, Anh lẫn lộn. Ông cụ vui lắm như lâu ngày ông không có dịp nói mặc dù vốn tiếng Anh giới hạn. Tôi hỏi vợ ông đâu, sao ngồi đây một mình. Ông chỉ tay lên trời, nhắm mắt lại ngụ ý đã đi gặp Thượng Đế. Ông bảo đã 81 tuổi nghĩ hưu lâu rồi và lúc xưa làm việc tại ngân hàng. Rồi ông hỏi tôi từ đâu đến, làm nghề gì, bao nhiêu tuổi, Roma thế nào. Tôi bảo, "Roma tres bella" (Roma đẹp lắm). Nhân tiện, tôi hỏi đường đi đến "Những bậc thang Tây Ban Nha" (Spanish Steps). Ông bảo, "Oh! Piazza di Spagna" (quảng trường Tây Ban Nha) rồi giơ tay chỉ dẫn, quẹo trái, quẹo phải thì tới. Tôi cám ơn ông "Grazie", chúc ông sức khỏe và mọi việc tốt lành "tutto bene". Đi được một quảng, tôi quay đầu nhìn lại ông vẫn nhìn theo tôi e rằng tôi lạc bước. Tôi cười với ông và vẫy tay chào lần cuối.  

      Spanish Steps là 136 bậc đá nối liền quảng trường Tây Ban Nha nằm dưới bậc đá và nhà thờ Trinità dei Monti trên đỉnh đồi do người Pháp tài trợ xây cất trong thời kỳ Phục Hưng (Hình 8). Tất cả đều có tuổi đời hơn 300 năm. Cái tên "Tây Ban Nha" của quảng trường là do con đường trước mặt một thời dẫn đến sứ quán Tây Ban Nha. Spanish Steps bỗng nhiên nổi trội hơn những kỳ quan khác ở Roma khi phim "Kỳ nghỉ ở Roma" (Roman Holiday) trình chiếu vào những năm ở thập niên 50 của thế kỷ trước. "Kỳ nghỉ ở Roma" diễn tả một cuộc tình lãng mạn, chớp nhoáng giữa công chúa Ann của nước XYZ và chàng phóng viên Mỹ đẹp trai tên Joe. Bộ phim do Audrey Hepburn (vai công chúa Ann) và Gregory Peck (vai phóng viên Joe) chủ diễn đã làm thổn thức biết bao con tim trên thế giới. Cho đến ngày nay, cái tên "Spanish Steps" vẫn còn gắn liền với bộ phim "Kỳ nghỉ ở Roma". Tiếc thay, thực tế thì không lãng mạn như phim. Nhà thờ Trinità dei Monti vẫn còn uy nghi đứng trên đỉnh đồi. Quảng trường bên dưới với cái hồ phun nước nổi tiếng đẹp độc đáo được bao che kín mít để trùng tu khiến cho những con chim bồ câu không có chỗ đậu kiếm ăn. Thiên hạ ngồi đầy trên những bậc đá che khuất những góc "lãng mạn" khả dĩ để chụp ảnh. Ở đây, những người nhập cư "phát minh" ra dịch vụ bán hoa hồng giống như trong phim. Bán không được các ông bèn nghĩ cái kiểu rao hàng cho free như ông bán hoa bụng phệ trong phim đã từng tặng cho công chúa Ann. Các ông chiếu cố đến các cặp trai gái trẻ. Nàng tưởng thật nhận xong thì ông xoay sang chàng xin vài Euro gọi là lấy vốn!
Hình 8: Bậc Tây Ban Nha
Tòa thánh Vatican
     Đến Roma là phải viếng Tòa thánh Vatican. Vương Cung Thánh Đường St. Peter là thánh đường của mọi thánh đường trên quả đất này. Tiếc thay, chiếc máy ảnh nhỏ bé của tôi không thể tóm thu hết kiến trúc vĩ đại của St. Peter (Hình 9). Cách tham quan hay nhất để hiểu lịch sử Vatican, những tác phẩm mỹ thuật và tiết kiệm thời giờ xếp hàng mua vé là nên tham gia một "tour" nửa ngày có người hướng dẫn. Nội dung thăm viếng Vatican thường có ba phần: Viện Bảo Tàng, nhà nguyện Sistine và Vương Cung Thánh Đường St. Peter.
Hình 9: Vương Cung Thánh Đường St. Peter. 
      Tòa thánh Vatican là một quốc gia; một quốc gia không cần quân đội và ra vào không cần hộ chiếu hay visa mà chỉ cần mua vé tham quan và tuân thủ những yêu cầu cơ bản như không được chụp ảnh, uống rượu hay la lối ồn ào. Ngày nào cũng như ngày nào khánh viếng đến từ mọi nơi trên quả địa cầu không bao giờ dứt. Người ta xếp hàng mua vé dọc theo con đường dưới bức tường thành và cũng là ranh giới của "thành quốc" Vatican và Ý. Ở những ngày lễ đặc biệt như Phục Sinh hay Giáng Sinh, dòng người rồng rắn kéo dài đến vài cây số. Chúng tôi được hướng dẫn đi vào cửa sau và tour sẽ chấm dứt tại quảng trường St. Peter phía trước Tòa thánh.    
      Đối với những người "ngoại đạo" như tôi chỉ biết Vatican là trung tâm hành chính của một tôn giáo lớn. mà không hề biết rằng Vatican còn chứa biết bao tác phẩm nghệ thuật như điêu khắc, tranh vẽ của thời Phục Hưng (từ thế kỷ 14 đến 17). Ngày nay, những tác phẩm này là những hạt kim cương trên vương miện của nghệ thuật loài người. Thời Phục Hưng là một thời đại khai minh bùng ra tại Ý như một cuộc cách mạng văn hóa rồi lan tràn khắp châu Âu kéo dài ba thế kỷ. Thời đại này mang ánh bình minh đến châu Âu, dứt khoát với thời Trung Cổ ảm đạm. Văn hóa là tất cả. Nền văn minh cũng sẽ đi đến sự tàn lụi nếu không có văn hóa như một nền tảng khai minh và chất xúc tác của mọi hoạt động xã hội. Anh hùng tạo thời thế và thời thế cũng tạo ra anh hùng. Trong những "anh hùng" đã được thời thế tạo ra là hai thiên tài nghệ thuật lừng danh, Michelangelo và Leonardo da Vinci, mà người đời sau đặt danh hiệu là "Người của Phục Hưng"(Renaissance Man). Hai nhân vật này sinh ra cùng thời, đa tài, có những lúc họ làm việc cùng nơi nhưng họ không hòa hợp nhau vì hội chứng "một rừng không thể có hai cọp". Leonardo phải lưu lạc đến Milano và ở đây ông vẽ bức họa lừng danh thế giới "Buổi ăn tối cuối cùng" (The last supper). Michelangelo đến Roma tạo nên sự nghiệp lừng lẫy với những công trình nghệ thuật có một không hai tại Vatican. Thật sự, quần chúng rất không công bằng với Michelangelo. Khi nói đến bức họa "Mona Lisa" hay "Buổi ăn tối cuối cùng" thì người ta liên tưởng ngay đến Leonardo. Nhưng nếu không đến Vatican thì tên tuổi Michelangelo chỉ bàng bạc trong sách vở.  

      Những tác phẩm nghệ thuật của Michelangelo bao trùm khắp nơi trong Vatican. Ông là một nhà điêu khắc, một kiến trúc sư, thích làm thơ nhưng không thích hội họa thậm chí kinh thường, nhưng ông được Nhà Thờ "đặt hàng" vẽ một loạt tranh "Sáng thế" trên trần nhà có diện tích vài mươi mét vuông trong nhà nguyện Sistine (Sistine Chapel). Theo lời cô hướng dẫn, những bức họa trong giáo đường trước Michelangelo không có sự linh hoạt, người trong tranh bất động không lộ cảm xúc. Có lẽ nó phản ánh cái thụ động và ảm đạm của thời Trung Cổ trước đó.  Michelangelo thay đổi toàn bộ khái niệm hội họa giáo đường từ kinh nghiệm điêu khắc dày dặn của ông. Ông thổi linh hồn vào những nhân vật trong tranh, tạo ra những nét mặt buồn vui. Thân người mềm mại hơn, tứ chi linh động hơn. Cô ta nói thêm, "Michelangelo và Leonardo đã tạo ra khái niệm cách tân trong hội họa và được đón nhận nồng nhiệt trong thời kỳ Phục Hưng. Những biểu hiện rất tự nhiên trong các bức họa Sáng thế hay nụ cười mỉm của Mona Lisa có thể gọi là một cuộc cách mạng của nghệ thuật". Sau phần giải thích, cô ta đưa chúng tôi vào nhà nguyện Sistine chiêm ngưỡng với thời lượng giới hạn cho mỗi lượt người là 15 phút. Quả thật, trăm nghe không bằng một thấy. Một trong bức họa lừng danh trong loạt tranh "Sáng thế" của Michelangelo là "Sự sáng tạo Adam" (The creation of Adam) phác họa Thượng Đế đầu tóc bạc phơ đầy sức sống bay đến với đàn thiên sứ truyền sự sống qua ngón tay của mình đến ngón tay Adam. Adam được thể hiện là một người đàn ông lực lưỡng có nét mặt chờ đợi dù hơi miễn cưỡng, bàn tay hơi buông thả như chưa sẵn sàng nhập thế (Hình 10). Từ nhà nguyện Sistine chúng tôi đi qua Viện Bảo Tàng trưng bày hàng trăm tượng điêu khắc khác nhau và tranh vẽ trần nhà của nhiều nghệ nhân kéo dài từ thời kỳ Phục Hưng đến thế kỷ 19. Ở đây tôi nhìn thấy bức tượng nửa người của Julius Ceasar. Mặt ông trông khắc khổ có chiếc mũi to và nhiều nếp nhăn hằn trên trán.
Hình 10: Sự sáng tạo Adam (Nguồn: Wikipedia) 
      Sau cùng chúng tôi đi vào St. Peter. Vừa bước vào thì phía góc phải của thánh đường là tượng Pietà được đặt trong một lồng kính chống đạn, một kiệt tác điêu khắc của thiên tài Michelangelo ở tuổi 23 (Hình 11). Tác phẩm này diễn tả Đức Mẹ để thi hài của Jesus lên đôi chân của mình sau khi Ngài vừa được mang xuống từ thập tự giá. Gương mặt của Đức Mẹ mang một thoáng u buồn, hơi trẻ so với một người mẹ bình thường đã vào tuổi trung niên. Jesus nằm bất động, người buông thả trên đôi chân Đức Mẹ. Tôi nhìn bức tượng mà có cảm giác nó đang toát ra một sự sống. Đôi tay thiên tài của Michelangelo đã biến những tảng cẩm thạch thô cứng trở thành những vật mềm mại được biểu hiện một cách thần tình qua mái tóc và trang phục của Đức Mẹ.
Hình 11: Tượng Pietà
      Một kỳ quan khác là nội thất thánh đường với mái vòm cao vút vài chục mét ở bên trên. Cái đại của kiến trúc cổ đưa người xem từ kinh ngạc đến kinh ngạc khác. Những cây cột cẩm thạch được chạm khắc cực kỳ công phu tạo nên hình ảnh, hoa văn nhiều màu sắc và cái trần cong cong được dát vàng (Hình 12). Nền nhà cũng làm bằng cẩm thạch với nhiều màu sắc khác nhau dẫn đến chỗ cầu nguyện ở cuối hành lang. Cái đẹp và đại của kiến trúc nội thất ở đây không thể nào diễn tả được hết bằng lời. Nhưng mỹ thuật vẫn không làm loãng không khí linh thiêng trong St. Peter. Ở đây là nơi chôn cất của một số Đức Giáo Hoàng nhiều thế kỷ trước và gần đây Đức Giáo Hoàng John Paul II. 
Hình 12: Bên trong St. Peter
Firenze
      Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình tiến về phía Bắc. Từ Roma chúng tôi đến thành phố Firenze (Florence) vào một buổi tối trời lất phất mưa. Firenze là một thành phố nhỏ có 300.000 dân là trung tâm của vùng Tuscany trù phú. Firenze rất nên thơ và nhẹ nhàng. Dòng sông Arno êm đềm chảy ngang thành phố nối liền với thị trấn Pisa ở phía đông là một dòng sông lịch sử mang nhiều ân oán giữa hai thành phố. Firenze đã từng là một trong những trung tâm thương mại, tài chính và văn hóa tại châu Âu từ thời Trung Cổ (Hình 13). Thánh đường lúc nào cũng thường trực hiện diện trong các thị trấn lớn nhỏ tại Ý. Thành phố càng lớn càng lâu đời thì nhà thờ cũng phải có số tuổi và bề thế tương đương. Thánh đường Firenze nổi tiếng với cái mái vòm ngói đỏ to lớn nhất nhì châu Âu, cây tháp vuông cao chót vót và những bức tường làm bằng cẩm thạch hai màu đen trắng tạc nên những ô chữ nhật lớn nhỏ đều đặn. Lại một kiệt tác đại khác trong kiến trúc giáo đường (Hình 14). Firenze cũng rất tự hào với bức tượng điêu khắc khỏa thân David, một tác phẩm lừng danh khác của Michelangelo mà tôi không có thời gian để tham quan. Firenze được xem là nơi khai sinh của phong trào Phục Hưng châu Âu, đã từng là một Mecca của nghệ thuật và cũng là nơi mà Leonardo đã đặt cọ vẽ tạo nên tác phẩm "Mona Lisa".
Hình 13: Dòng sông Arno và thành phố Firenze

Hình 14: Thánh đường Firenze 
      Viện bảo tàng nổi tiếng Uffizi được xây cạnh dòng sông Arno vào thế kỷ 16 và là nơi tàng trữ hàng ngàn hiện vật mỹ thuật bao gồm tranh vẽ và điêu khắc từ thời kỳ Đế quốc La Mã đến thời Phục Hưng trải dài hơn 1500 năm. Bức họa vô giá "Vệ Nữ giáng trần" (The birth of Venus) được trưng bày ở đây (Hình 15). Hai thiên thần một nam một nữ thổi luồng sinh khí để tạo nên Vệ Nữ có một khuôn mặt đẹp hiền hòa và thánh thiện. Nàng khỏa thân, e thẹn trong dáng đứng nghiêng nghiêng trên chiếc vỏ sò lướt sóng đi vào bờ và được một phụ nữ đón tiếp với cái áo choàng đỏ. Nàng có một mái tóc thật dài, vàng óng ánh bay bay theo gió. Một tay nàng che một phần ngực úp úp mở mở, tay kia nàng buông thỏng đè lên mái tóc dày, vô tình hay cố ý che lại phần dưới của một thân hình tuyệt mỹ. Tôi bị thu hút bởi vẻ đẹp Vệ Nữ, đứng nhìn rất lâu bức họa này. Thầm nghĩ mỹ học thời Phục Hưng là một cuộc cách mạng tạo ra một góc nhìn nghệ thuật để tôn vinh vẻ đẹp của cơ thể con người và giải phóng nó ra khỏi những lớp áo dày trong hội họa thời Trung Cổ. Vẻ đẹp mềm mại và đường cong trên cơ thể người đàn bà, hay cơ bắp cuồn cuộn của người đàn ông đã được Michelangelo và những người sau ông lột trần một cách sống động. Bộ ngực người đàn bà từ xưa đã được xem như một "tòa thiên nhiên" không cần phải cường điệu mỹ hóa. Bộ phận sinh dục đàn ông, ngược lại, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, trong văn học nhân gian lẫn văn chương bác học, thường bị xem là một công cụ mang tính dung tục thậm chí thấp hèn. Nhưng ở một chiều hướng khác nhuốm màu sắc tôn giáo, sinh thực khí của giống đực lại được phủ lên lớp áo của sức mạnh thần linh như là cái khởi đầu của vạn vật. Trong những bức tranh hay tượng điêu khắc của nghệ thuật Phục Hưng, sự hiện diện trần trụi của dương vật thoạt nhìn hơi phản cảm do cái định kiến được gọi là "thuần phong mỹ tục". Nhưng quan sát kỹ thì nó được nâng niu, chăm chút và mỹ hóa bằng những bàn tay nghệ thuật. Nó không cần phải khoa trương sự hùng dũng một cách lộ liễu để chứng tỏ "sức mạnh sáng tạo" thần linh như những tượng linga trong Ấn Độ giáo. Hay phải rụt rè che khuất xem như vật phi tồn tại trong nghệ thuật phương Đông. Nghệ nhân thời Phục Hưng theo con đường trung dung hiện thực pha một chút mỹ học đã đem một bộ phận bình thường trở lại vị trí bình thường vốn có của nó. 

 
Hình 15: Vệ Nữ giáng trần (Nguồn: Wikipedia) 
      Chuyến tour địa phương một ngày đưa chúng tôi đến các thị trấn thời Trung Cổ như Siena, San Gimignano đi qua những vùng quê của Tuscany và cuối cùng đến tháp nghiêng Pisa. Người hướng dẫn viên của chúng tôi là một sinh viên xinh đẹp người Ba Lan làm việc bán thời và dự định ở lại đây vì quá yêu Firenze! Từ thế kỷ 15, vùng Tuscany vốn là vùng thuần túy nông nghiệp, làm rượu vang và tơ lụa. Nhưng sự giao dịch thương mại đã phát sinh nhu cầu ngân hàng và tài chính mà Siena là trung tâm cho những dịch vụ này. Vào thời Trung Cổ, Firenze, Siena và Pisa đã có những va chạm quyền lợi kinh tế. Sứ quân ở những vùng này tìm cách chinh phục lẫn nhau bằng sức mạnh quân sự và cuối cùng Firenze là kẻ chiến thắng.  
      Thị trấn Siena là một cổ thành được xây trên một ngọn đồi được bao bọc bởi tường thành bằng đá rêu phong và có cổng thành để đi vào phố trung tâm. Ở đây, cũng giống Roma có nhiều con đường nhỏ lát đá đi quanh co dọc theo những căn nhà cao cao với những cánh cửa sổ vuông vuông nhiều màu cùng tập trung đến một quảng trường to rộng. Một con đường nhỏ khác dẫn đến sườn đồi thoai thoải nhìn xuống vùng đồng quê bao la có những vườn nho xen lẫn với đám cây tùng cao ngất. Xa xa là những ngôi nhà mái đỏ hay những tháp chuông nhà thờ hắt lại những tia nắng mặt trời lung linh trong cánh đồng trải dài xanh mướt. Cô hướng dẫn bỗng dừng lại trước một quảng trường mà trước mặt là một tòa nhà xưa của ngân hàng "Banca Monte dei Paschi di Siena" và bức tượng của người sáng lập vào thế kỷ 15. Ngân hàng này vẫn còn hoạt động đến ngày hôm nay. Triết lý ở Siene chỉ là "làm ăn" kiếm tiền. Và con đường trước mặt lúc xưa có vinh dự là một trong những con đường chính trên toàn nước Ý dẫn đến Roma.

Pisa
      Mục đích đến Pisa của mọi người hầu hết là để chiêm ngưỡng cái tháp nghiêng (Hình 16). Cái tháp đã tồn tại hơn 800 năm nhưng nó bắt đầu nghiêng ngay sau khi hoàn thành. Trung bình đỉnh tháp di động 1,5 mm/năm. Ngoài cái nghiêng "trời cho", tháp có cấu trúc hình ống. Một hình dạng đầy thách thức cho các nhà thiết kế và kỹ sư xây dựng. Nó là một bằng cớ chứng tỏ tài năng xây cất của người Ý nhưng không may người đương thời chưa biết đến kỹ thuật phân tích địa chất bằng những phương pháp khoa học khiến cho "sự cố" đã xảy ra. Nó tiếp tục làm đau đầu các khoa học gia hiện đại nhưng mang lại niềm vui cho khách thập phương. Có một lúc tháp nghiêng quá đà, các kỹ sư, nhà toán học, vật lý, sử gia họp lại với nhau cùng thảo luận, lập ra những mô hình toán học để ổn định độ nghiêng. Người ta đã đổ hàng chục triệu đô la để tìm lời giải đáp từ những phương pháp đơn giản nhất cũng như phức tạp nhất. Lúc thì dùng dây cáp kéo ngược lại, lúc thì đặt hàng ngàn tấn chì làm đối trọng, lúc thì đào lấy đất dưới nền tháp ở phía nhô lên để làm nghiêng ngược lại.  Tháp nghiêng là một thách thức đối với chuyên gia lẫn người không chuyên. "Thần đèn" Việt Nam cũng có lần hăm hở giơ tay tình nguyện xin được đi chỉnh sửa tháp Pisa. Trong lần tu chỉnh cuối, chuyên gia bảo đảm là tháp sẽ ổn định ít nhất 200 năm. Thôi nhé, xin hãy để nguyên cái dáng đứng "nghiêng nghiêng" Vệ Nữ vì cái đối xứng không phải lúc nào cũng là cái đẹp tuyệt đối. Cái "nghiêng nghiêng" này cũng thu hút hàng triệu khách nhàn du và đã để tên tuổi của Pisa vào bản đồ thế giới.
Hình 16: Tháp nghiêng dùng cột đèn làm chuẩn.
     Nhưng Pisa không phải chỉ có tháp nghiêng. Cái tháp thật ra chỉ là một phần của đại thánh đường Pisa đã tồn tại hơn 1000 năm. Người ta thường nhìn cái "nghiêng" mà quên đi thánh đường. Pisa cũng sở hữu Đại học Pisa một cơ sở giáo dục lâu đời (700 năm) hàng đầu của Ý và thế giới. Và Galileo Galile, cha đẻ của nền khoa học hiện đại, là đứa con lỗi lạc của Pisa. Galileo đã quan sát sự vận hành của Thái Dương hệ bằng kính viễn vọng tự chế của mình và bằng thực nghiệm ông khiêm tốn kết luận rằng trái đất quay quanh mặt trời, không phải là vật thể cố định làm trung tâm của vũ trụ. Tiếc thay, Nhà Thờ Roma (Vatican) không nghe, buộc tội ông là người dị giáo, hăm dọa tra tấn, cấm ông dạy học, xuất bản sách và giam lỏng ông suốt đời.

Venezia (Venice)
      "Venezia đang chìm" trở thành một thực tại hơn là một tiếng chuông cảnh báo. Venezia là một hòn đảo cách đất liền 3 km và được nối liền bằng đường xe lửa qua một eo biển cạn. Khi vừa bước ra khỏi nhà ga tại Venezia, trước mắt tôi là một con kênh chắn ngang nối liền với biển Adriatic. Quả thật, Venezia là một thành phố có một không hai trên quả đất này. Ở đây không có đường xe nên tàu thuyền và đôi chân là hai phương tiện đi lại chính. Người ưu tư cho số phận Venezia phải nói là rất nhiều vì như một người con gái đẹp mong manh, như ngọn đèn trước gió, nó quá nên thơ để biến mất trên hành tinh này. Con Kênh Lớn (Grand Canal) hình chữ S ngược là một con lộ huyết mạch chảy xuyên qua thành phố. Nối liền với Kênh Lớn là những con kênh nhỏ và nhỏ hơn nữa tạo nên một hệ thống kênh chằng chịt chia Venezia thành hàng trăm hòn đảo nhỏ và đương nhiên có hàng trăm cây cầu đi bộ dài ngắn khác nhau.  

      Nhìn lại lịch sử, Venezia vốn là một đảo có nhiều đầm lầy và không phải là nơi sinh sống. Hơn 1500 năm trước, những cuộc tấn công của bọn người "man di" (barbarian) trong đất liền đã khiến người dân bỏ chạy tị nạn đến hòn đảo này. Dần dà những người tị nạn kéo đến càng đông và biến Venezia trở thành nơi cư trú vĩnh viễn. Nhưng làm sao họ có thể xây nhà trên mặt đất phần lớn là bùn sình? Họ nghĩ ra một phương pháp là đóng cừ (đóng cọc gỗ) xuống bùn cho đến khi cọc chạm đất cứng dưới đáy biển. Có những tòa nhà cần đến hàng trăm ngàn cọc gỗ. Tất cả được làm bằng từ cơ bắp con người! Trong lòng đất cọc gỗ ít tiếp xúc với không khí nên hiện tượng mục gỗ không xảy ra mà trái lại gỗ càng lúc càng bền cứng. Sau đó họ làm nền đá đặt lên nền gỗ, một loại đá được khai thác dễ dàng đâu đó ở vùng biển Adriatic có tính chất chống nước biển. Tạo hóa thật sự cũng không phụ sự bền chí của con người. Từ đó họ xây lên những tòa nhà và giáo đường kỳ . Khi đã có điều kiện để an cư lạc nghiệp, chẳng bao lâu trong vài thế kỷ Venezia trở nên phồn vinh và trở thành trung tâm thương mại, giao dịch quan trọng trong vùng biển Adriatic. Người Venezia (Venetian) quen sống với biển, làm ăn giỏi, có bản lĩnh lại nhiều chí phiêu lưu. Marco Polo là một Venetian đã từng lưu lạc đến tận Trung Hoa đời Nguyên. Nhưng sự trù phú và phong lưu của Venezia đã nhanh chóng đẩy cả một xã hội vào con đường trụy lạc ăn chơi. Có một lúc người ta gọi Venezia là "nhà thổ của châu Âu". Qua nhiều cuộc thăng trầm, người Venezia ngày nay vẫn tự hào về lịch sử độc đáo và ý chí khắc phục thiên nhiên của mình. Thậm chí khi qua đời họ muốn thi hài của mình được mai táng ở Venezia, và có một hòn đảo nhỏ gần đó toàn thể được dùng làm nghĩa trang cho Venetian.

      Hơn một ngàn năm qua cho đến ngày nay, mối quan tâm của người Venezia vẫn là sự chống chọi với biển. Người ta tính trung bình cứ 100 năm Venezia chìm xuống biển 10 cm bởi sự di động của nền đất dưới đáy biển. Thế kỷ vừa qua vì những họat động con người phần lớn do những chiếc tàu động cơ và việc xây đường ray xe lửa khiến cho mức lún gia tăng đến 20 cm. Hiệu ứng nhà kính làm nước biển dâng cao tạo thêm một biến số đau đầu. Tôi nhìn thấy có nhiều tòa nhà đã bị nước biển tràn vào tầng một và cũng có một số nơi bị bỏ trống trở nên hoang phế. Cư dân ở đây càng lúc càng giảm đến gần con số 55.000 vì cuộc sống không tiện nghi. Ngược lại số lượng du khách càng lúc càng gia tăng. Tôi không thấy trẻ con và người cao niên, không thấy trường tiểu học hay trung học. Đi thuyền, đi bộ và leo cầu xuống cầu không phải là lựa chọn của con người sống ở thế kỷ 21.

      Dù có nhiều nỗi lo âu Venezia vẫn đẹp mong manh, kiêu hãnh và tràn đầy lãng mạn. Đứng trên cầu Rialto ở trung tâm thành phố bắc ngang Kênh Lớn người ta nhìn thấy những hoạt động bình thường của một đô thị. Nhưng ở đây thay vì xe thì là những chiếc tàu chở hàng hay hành khách, tàu cảnh sát, tàu cứu thương, những chiếc taxi biển vượt sóng hay thuyền gondola chèo tay đi chầm chậm. Venezia trong một thoáng mưa chiều hay ở một ngày nắng tốt, vào lúc bình minh hay bảng lảng hoàng hôn, lúc nào cũng là một thành phố gợi cảm lung linh trên biển. Hai ngàn con đường nhỏ lát đá với hàng trăm cây cầu đưa ta đến mọi ngõ ngách của Venezia. Đi vào những ngõ khuất ta sẽ thấy một Venezia im lìm. Ở đây có nhiều con kênh nhỏ chỉ vừa cho hai chiếc gondola qua lại, hai bên là những tòa nhà đã nhuốm vẻ mệt mỏi rêu phong. Những bức tường loang lỗ làm lộ ra những viên gạch đỏ vì chiều dài của thời gian hay do sự lãng quên của con người. Tôi đứng nhìn con kênh nhỏ loang loáng bóng tường nhà rồi dùng trí tưởng tượng thay dòng kênh bằng một con đường dài và hẹp. Bỗng nhiên, mọi vật trước mắt trở nên xơ cứng, nhếch nhác và tầm thường (Hình 17). À … đúng là nước. Chính những dòng nước trong xanh của con kênh nhỏ hay vùng biển rộng trước quảng trường San Marco với những chiếc gondola nhấp nhô theo sóng nước, hay ngọn tháp vuông màu đỏ, mái vòm giáo đường màu xanh lấp lánh trong ánh nắng mặt trời đã đem lại cái trữ tình của Venezia (Hình 18, 19). Sóng nước, ánh sáng và kỳ công của con người đã tạo nên sự kỳ Venezia. Hầu như mọi nơi trên cái hòn đảo nhỏ bé này từ quảng trường San Marco hoành tráng, cầu Rialto nhộn nhịp đến con phố nhỏ hay những góc khuất yên tĩnh đều có thể là nguồn cảm hứng vô bờ trong hội họa. Và như một người con gái, khi đã đẹp thì một vật bình thường cũng trở thành món trang sức cuốn hút làm tăng thêm nét hoang dã trên những đường cong đài các. Cái rêu phong bởi sức nặng thời gian, những chậu hoa bình thường để ngoài cửa sổ lan can hay cây cọc gỗ thô thiển ở những bến thuyền bỗng chốc trở thành nét chấm phá dào dạt làm rung động lòng người. 

Hình 17: Góc khuất

Hình 18: Quảng truờng San Marco.
Hình 19: Kênh Lớn.
      Tôi từ giã Venezia trong nỗi bâng khuâng như phải tạm biệt với một người vừa chớm yêu lại phải nói câu giã từ. Một thoáng bùi ngùi đi qua trong tôi khi nghĩ đến 50, 100 năm tới Venezia chỉ là phế tích, một chốn không người với những toà nhà nghiêng ngã, những mái vòm giáo đường rạn nứt, những chiếc cầu nhỏ năm xưa nay không còn dấu vết. Lúc đó trên dòng Kênh Lớn mọi vật trở nên bất động hoang sơ, chỉ thấy những chiếc thuyền chở khách nhàn du đến đến đi đi trầm trồ, luyến tiếc. Nhưng Venezia không màng đến một thời hoàng kim đã nhẹ nhàng đi qua, vô tư chìm dần, chìm dần vào lòng biển …

Milano
      Từ Venezia chúng tôi đi đến Milano và chấm dứt cuộc hành trình xuyên Ý tại đây. Nhà ga xe lửa trung tâm của thành phố Milano được xây bằng đá, to cao và rất ấn tượng. Nghe đâu đó là công trình của nhà độc tài phát-xít Mussolini được hoàn thành vào năm 1931. Trong thế chiến thứ hai Milano bị bom tàn phá hơn 60 % và những khu bị bom được xây dựng lại trở thành khu hiện đại. Đi qua những thành phố và thị trấn cổ trong mấy ngày qua, bây giờ tôi mới thấy lại hình ảnh quen thuộc của các nhà cao tầng với những cây cần cẩu quay tới quay lui nhộn nhịp việc xây cất, xe tram ngược xuôi trong nội thành và đường xe cao tốc quanh thành phố. Người ta đến Ý để tìm cái cổ xưa, nhưng Milano đại diện cho cái hiện đại và năng động của Ý. Như bao thành phố hiện đại khác Milano là thành phố của thời trang, kinh tế, công nghiệp, ăn uống và vui chơi. Dân Ý thường nói, đến Milano phạm tội rồi đi Roma xin tội! Nhưng dù bị gọi là nơi phạm tội một trong những kỳ quan ở Milano vẫn là … nhà thờ. Phải nói rằng đến Ý chỉ để chiêm ngưỡng nhà thờ thì cũng đáng đồng tiền bát gạo. Mỗi thánh đường có vẻ đẹp riêng của nó, "mỗi tòa mỗi vẻ, mười phân vẹn mười".

      Đại thánh đường Milano mà dân ở đây gọi tắt là "Duomo" (cathedral) là một kiến trúc bằng đá trắng đồ sộ được xây cất cực kỳ tỉ mỉ mà phía trước mặt là một quảng trường rộng hàng chục ngàn mét vuông (Hình 20). Khởi công gần 700 năm trước và phải mất vài trăm năm để hoàn thành. Thánh đường có sức chứa 40.000 người bên trong tương đương với toàn thể cư dân Milano vài trăm năm trước. Chúng tôi tham gia vào một đoàn có người hướng dẫn vào trong thánh đường. Đặc điểm của thánh đường là phía trên đỉnh của mỗi ngọn tháp là một bức tượng mà tôi phỏng tính có hơn 100 bức tượng trên mái thánh đường. Nhìn từ xa những bức tượng này cho một cảm giác rất mong manh chỉ cần một cơn bão là có thể làm ngã đổ. Cô hướng dẫn trấn an là chưa có chuyện này xảy ra vì mỗi bức tượng được khắc từ một khối đá nặng vài tấn.


Hình 20: Đại thánh đường Milano 
     Từ Duomo chúng tôi được hướng dẫn đi qua những con phố của trung tâm Milano đến một địa điểm gọi là "Convent of Santa Maria delle Grazie" nơi mà 500 năm trước Leonardo đã vẽ bức họa "Buổi ăn tối cuối cùng" trên một bức tường ở đây. Leonardo cũng như Machelangelo là những nghệ nhân tự do làm việc theo đơn đặt hàng từ các đại gia, quan chức hay Nhà Thờ. Không khác gì ngày nay đi tìm việc, thiên tài cũng phải rày đây mai đó mưu sinh. Leonardo làm việc tại Milano trong một thời gian dài và hoàn thành nhiều tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng trong đó có "Buổi ăn tối cuối cùng".  
     Vì nhu cầu của quá nhiều khách viếng, những đoàn người vào xem cần phải mua vé trước, đến đúng giờ và chỉ được quy định vào bên trong tối đa 15 phút. Đúng giờ hẹn, chúng tôi được hướng dẫn đi qua hai lần cửa và bước vào trong một căn phòng thật to tương đương với một rạp xi-nê nhỏ và trong ánh đèn mờ bức họa thần kỳ hiện ra trước mặt. Mọi người không ai bảo ai đều đứng sững lại, giọng cô hướng dẫn cũng trầm xuống. Tôi cảm thấy cái gì rất linh thiêng toát ra từ bức họa, có thể là do sự pha lẫn giữa cái huyền bí của tôn giáo và cái linh động trong bức họa tạo ra từ một bàn tay thiên tài. Tôi phỏng chừng bức họa dài 9 mét và cao không hơn 5 mét (Hình 21). Màu sơn đã nhạt làm mất đi nét sắc sảo nhưng biểu hiện của người trong tranh vẫn còn sống động. "Buổi ăn tối cuối cùng" không phải là một đề tài mới trong thời Leonardo. Theo lời cô hướng dẫn, đã có nhiều người trước Leonardo vẽ cùng một đề tài nhưng Leonardo đã diễn tả một cách xuất thần phản ứng của 12 tông đồ ngay sau khi Jesus tiên liệu, "Sẽ có một người trong các ngươi phản bội ta". Jesus ngồi giữa vẻ mặt u buồn. Lời của Jesus đi ngang như tiếng sét. Mười hai tông đồ chia làm 4 nhóm biểu lộ nhiều thái độ và thần sắc khác nhau. Judas, kẻ phản bội, được ông vẽ bằng màu sắc u ám, râu ria xồm xoàm, có thái độ thụ động như không muốn tham gia vào việc đối thoại. Một tay Judas nắm chặt cái túi tiền chứa ba mươi lạng bạc vừa lãnh được để làm việc chỉ điểm. Có lẽ, đây là phong cách của nghệ thuật Phục Hưng như tranh vẽ "Sáng thế" của Michelangelo trên trần nhà của nhà nguyện Sistine.

Hình 21: Buổi ăn tối cuối cùng (Nguồn: Wikipedia)
      Tài năng của Leonardo không dừng ở hội họa. Ông có nhiều hình vẽ mô tả ý tưởng về khoa học và y học. Những ý tưởng và mô hình của Leonardo về khoa học bao gồm cơ khí, thủy động lực học, vật bay, máy dệt, kỹ thuật xây cất được trưng bày tại Viện Bảo tàng Khoa học Kỹ thuật của thành phố Milano. Có thể nói rằng Leonardo có một trực giác phi phàm khi tạo ra những mô hình này. Nhưng ông còn quá sớm để làm ý tưởng chấp cánh bay cao thành thực dụng. Lúc đó toán học chưa được dùng như một công cụ để miêu tả các khái niệm khoa học. Việc này cần thêm một thế hệ kế tiếp Leonardo. Đó là thế hệ của Galileo Galile. Ở Viện Bảo tàng này học sinh đến học tập hay làm thực nghiệm nhiều hơn là du khách như tôi. Các em học sinh đi lại ghi ghi chép chép. Tôi rất ngạc nhiên khi một Viện Bảo tàng lại có những dụng cụ thí nghiệm để làm thực tập bao gồm những môn như Hóa học, Vật lý và Sinh học. Cũng nên nói thêm là trong suốt cuộc hành trình tôi đã chứng kiến nhiều đoàn học sinh đi học tập dã ngoại với thầy cô. Tại Quảng trường La Mã (Roman Forum) học sinh xen lẫn với du khách. Thầy cô nhiệt tình giảng bài trước những phế tích, có lẽ về lịch sử, cho một đoàn học sinh chăm chú ngồi nghe.

      Để chấm dứt cuộc hành trình xuyên Ý, tôi muốn nói đến Hồ Como (Lake Como), một thị trấn cách Milano 1 tiếng đường xe về phía bắc và gần biên giới Thụy Sĩ. Đây là điểm cực bắc của cuộc hành trình. Hồ Como là địa điểm nghĩ mát của các đại gia và quan quyền từ thời đế chế La Mã. Como là địa điểm duy nhất mang vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên trong các nơi tôi đã đi qua. Từ Como người ta thấy rặng Alps hùng xa xa. Những tòa nhà cổ xưa được xây ở hai bên đồi núi trùng điệp. Ở đây, rất ngẫu nhiên tôi gặp Alessandro Volta. Nói đúng hơn là tôi gặp tượng của Alessandro Volta (Hình 22). Como là quê quán của Volta một nhà bác học người Ý lần đầu tiên đã sáng chế ra pin vào thế kỷ 19. Đơn vị điện áp Volt được lấy từ tên Volta của ông. Nguyên tắc pin Volta và pin của ngày hôm nay vẫn không có gì thay đổi. Chỉ khác là kích cỡ. "Cục" pin đầu tiên là cái ống tròn cao 60 cm và pin ngày hôm nay đã thu nhỏ bằng đồng xu. Người dân Como lập ra Quảng trường Volta, một đền kỷ niệm và một ngọn "hải đăng" trên núi Como để tưởng nhớ một nhà khoa học vĩ đại.


Hình 22: Tượng Alessandro Volta.
***
      Trở lại Úc dư âm về cái đẹp lâng lâng kéo dài qua nhiều ngày. Tôi phải ngồi vào bàn cẩn thận ghi ngay những cảm xúc đó trước khi nó vuột mất. Cái đẹp của xứ Ý không phải là vẻ đẹp thiên nhiên mà là sự kết hợp vô cùng vi diệu giữa kỳ công của con người và Mẹ Thiên nhiên. Mỹ thuật trong kiến trúc, điêu khắc, hội họa bắt nguồn từ động lực tôn giáo đã làm bùng nổ một thời đại. Trong một chuỗi sự kiện xảy ra qua vài thế kỷ nhiều thiên tài và nghệ nhân siêu phàm vô danh đã xuất hiện tạo ra những điều kỳ . Tôi cảm thấy tài năng của con người quả là vô hạn. Người ta thường nói đến "Mỹ học". Tôi không biết và hiểu thế nào là Mỹ học. Những gì nhìn thấy ở Ý từ những căn nhà ở ven đồi miền quê Positano, những thánh đường nguy nga, chiếc thuyền gondola của Venezia, đến "Buổi ăn tối cuối cùng", theo tôi đó là Mỹ học. Người ta bảo cảm giác lần đầu lúc nào cũng sâu sắc nhưng đối với Ý nếu có đến những lần sau dù cảm nhận có khác dư vị vẫn đậm đà.
(Lễ Phục Sinh, tháng 4 2014)

 Trương Văn Tân