甲骨文—馬字 :
* GIÁP CỐT VĂN :
Còn gọi là " Khế Văn " 契文, " GIÁP CỐT BỐC TỪ " 甲骨卜辭 hoặc " QUY GIÁP THÚ CỐT VĂN " 龜甲獸骨文,
chỉ loại chữ ghi lại những việc bói toán trong cung ở cuối nhà Thương,
là thể chữ viết được hình thành và có hệ thống sớm nhất của chữ Hán, nó
là cái gạch nối giữa hai hệ thống Vẽ hình và phù hiệu ghi lại sự việc
với Hệ thống chữ khắc trên kim loại đồng đen, là khởi thủy đầu tiên của
Hệ thống tiếng Hán Hiện Đại.
金文—馬字
*
KIM VĂN 金文 : Còn được gọi là Minh Văn 銘文 ( Chữ được khắc ) hoặc Chung
Đỉnh Văn ( Chữ được khắc trên Chuông và Đỉnh ) là loại chữ của thời
đại Đồ Đồng, phát xuất từ cuối đời nhà Thương và thịnh hành ở đời Tây
Chu, ghi lại tất cả những sinh hoạt trong cuộc sống của
thời đại
nầy, nên còn được gọi là Tây Chu Kim Văn.
大篆—馬字
* ĐẠI
TRIỆN : Là một dạng chữ viết sớm nhất của chữ Hán, thông dụng ở nước
Tần thời Chiến Quốc, là tiền thân của thể chữ Tiểu Triện, còn mang rất
nhiều hình tượng của chữ Tượng Hình.
小篆—馬字
*
TIỂU TRIỆN 小篆: là loại chữ mà Tần Thủy Hoàng sau khi thống nhất đất
nước ( năm 221
trước Công Nguyên ) đã ra lệnh cho Thừa Tướng LÝ TƯ tiến hành chính
sách " Thư đồng văn " 書同文 ( viết cùng loại chữ ) thủ tiêu các chữ dị thể
của 6 nước để thống nhất chữ viết và cách viết chữ.
隸書—馬字
*
LỆ THƯ :( Chữ LỆ ) là do Tiểu Triện diễn biến mà thành, chủ yếu là kéo
thẳng các nét cong queo của chữ Triện. Bắt đầu từ đời Tần, đến đời Hán
mới định hình thành một thể chữ chính thức. Chữ LỆ làm cho chữ Hán cổ
tiến thêm một bước dài trong việc phù hiệu hóa ngôn ngữ thành chữ viết,
xa rời hẵn với loại chữ tượng hình.
楷書—馬字
* KHẢI THƯ : Chữ KHẢI còn gọi là Chân Thư 真書 hoặc Chính Thư 正書 , bắt nguồn từ những năm cuối đời Đông Hán, lưu hành rộng
rãi trong đời
Ngụy Tấn. KHẢI có nghĩa là Khuôn Mẫu, cũng như chữ LỆ, chữ KHẢI là do các nét bút ( bút pháp ) kết
hợp thành một phù hiệu vuông vắn thành chữ viết, hoàn toàn thoát khỏi
tự dạng tượng hình, là thể chữ Tiêu Biểu nhất cho chữ Hán Hiện Đại, còn
được sử dụng tới ngày hôm nay.
宋體 – 馬字
*TỐNG
THỂ : Là thể chữ dùng để in ấn. Theo đà phát triển của kĩ thuật in ấn
Trung Hoa,
một thể chữ vuông vắn ngay ngắn được hình thành để thích ứng với nghề
in ấn. Vì thịnh hành ở đời Tống, nên được gọi là Tống Thể.
電腦字體 – 馬字
Như
trên đã trình bày, chữ MÃ quả là chữ Tượng Hình tiêu biểu của Văn Tự
Trung Hoa trong tiếng Hán Cổ cho đến hiện đại. Quá trình diễn tiến của
chữ Mã cũng là quá trình diễn tiến của chữ Hán từ thượng cổ cho đến
hiện nay.
Chữ MÃ 馬
hiện diện rất nhiều trong cuộc sống của chúng ta trong quá khứ cũng như
hiện tại. Trước tiên, MÃ là Ngựa, là con vật được xếp hàng thứ 7 trong Địa Chi của 12 con giáp. MÃ là một trong Bách Gia Tính mà ta gọi là Bá Tánh có họ MÃ. Mã Giám Sinh là
cái tên mà ai cũng biết, kể cả giới bình dân ghiền hát Cải Lương cũng biết khi
xem tuồng Vương Thúy Kiều. MÃ là con Ngựa trong cờ Tướng, đi theo hình
Chữ Nhật 日, khi sắp bị chiếu bí thì nhảy sảng hình chữ ĐIỀN 田, nên mới
có câu " Sự cấp mã hành điền " ( khi cấp bách thì Ngựa đi hình chữ Điền
), Ý nói : Lúc qúynh quáng thì người ta hay làm sảng.
MÃ là con Ngựa Đỏ Xanh Vàng Trắng trong bài Tứ Sắc, mà tất cả từ trí
thức cho đến bình dân, từ thành thị cho đến nông thôn đều mê mẫn ngày
đêm không nghỉ!
Ngựa là con vật
đứng đầu trong Lục Súc ( 6 con vật nuôi trong nhà là : Ngựa, trâu, dê, gà, heo, chó ). Đầu tiên, ngựa dùng để kéo cày, sau này
mới chuyển qua kéo xe và đắc dụng trong công việc nầy cho đến thời cận
đại khi máy hơi nước được phát minh. Mặc dù máy móc đã thay thế cho sức
ngựa, nhưng vẫn không thoát khỏi từ MÃ LỰC, dùng sức ngựa để đo độ mạnh
yếu cũa máy móc, giới bình dân thì gọi thẳng bằng một chữ NGỰA mà thôi :
" Cái máy nầy " 2 Ngựa " đó bà con ! ". Ai đã từng học
Trung Học ngày trước, thì chắc chắn học qua tác phẩm văn học bình dân
bằng Văn Nôm nổi tiếng là Lục Súc Tranh Công, ta hãy
nghe con Ngựa kể công đây...
Tao đã từng, đi quán, về quê, Đã ghe trận đánh nam, dẹp bắc. Mỏi gối nưng phò xã tắc, Mòn lưng cúi đội vương công. Ngày ngày chầu chực sân rồng Bữa bữa dựa kề loan giá....
Ngựa lại được trọng dụng và đắc dụng trong quân đội như con ngựa đã khoe ở trên : " Đã ghe trận đánh Nam dẹp Bắc ".... Từ ngàn xưa, bất cứ là quân đội của nước nào, Âu cũng như Á đều có đội KỴ BINH, nhất là đội THIẾT KỴ nổi tiếng của Mông Cổ, không những chỉ dọc ngang trên các thảo nguyên Châu Á, mà còn tung hoành lấn chiếm sang cả Châu Âu. Sống trên mình ngựa, đánh giặc trên mình ngựa, xưng hùng xưng bá trên mình ngựa, rồi... cũng chết trên mình ngựa luôn, nên ta mới có thành ngữ " Da Ngựa Bọc Thây " là thế !
Mới nghe qua, thì Thành ngữ nầy rất Nôm như tiếng Việt thuần túy,
nhưng khi xét xuất xứ thì nó lại rất Hán. Da Ngựa Bọc Thây có xuất xứ là
" MÃ CÁCH QUẢ THI 馬革裹屍 ", là lời nói của một danh tướng đời Đông Hán Mã
Viện : " Làm trai phải chết ở biên cương, lấy da ngựa để bọc thây, chớ
sao có thể chết ở trên giường với vợ con được chứ ?! ". Qua câu nói nầy, ta thấy
con ngựa càng gần gũi thân thiết và gắn bó với con người biết bao, khi
sống thì cùng với con người " đánh Nam dẹp Bắc ", khi chết, thịt ngựa là
lương thực đở đói
cho chiến sĩ, da ngựa thì để bọc thây khi chết ở sa trường, quả là một con vật gắn bó và cùng sống chết với con người !
Còn một thành ngữ nghe rất Việt mà lại có gốc Hoa nữa là câu : " Ngựa quen đường cũ ", xuất phát từ điển tích " LÃO MÃ THỨC ĐỒ 老馬識途 " theo câu truyện sau đây : Tề Hoàn Công đem binh đi giúp nước Yên đánh bại được quân Sơn Nhung, trên đường về lại bị dẫn dụ lạc vào sa mạc Hàn Hải với gió cát mịt mù không nước uống, lạnh lẽo buốt giá không biết đường ra, quân sĩ kiệt quệ chết chốc rất nhiều . Tướng Quốc Quản Trọng mới tâu với Tề Hoàn Công về đặc tính nhận được đường về của loài Ngựa, bèn chọn một số ngựa già, thả cho chúng tự tìm lối ra, rồi ra lệnh cho toàn quân đi theo sau. Quả nhiên sau vài lần quanh quẹo đã ra khỏi được sa mạc hiểm ác kia. "Lão Mã Thức Đồ" là thành ngữ chỉ những con ngựa già có khả năng tìm về đường cũ đã đi qua, dùng để chỉ những người già dặn có kiến thức, có kinh nghiệm sống, có thể hướng dẫn ta đi những con đường đúng. Còn " Ngựa Quen Đường Cũ " của ta thì chỉ những người đã làm việc xấu việc sai, dù cho có cải hóa sửa đổi lại rồi, cũng dễ dàng đi lại con đường sai lầm cũ, tật xấu khó chừa!
Còn một thành ngữ mà cả Hoa cả Việt đều sử dụng như nhau, Ý nghĩa như nhau, phát âm như nhau, đó là thành ngữ " THIÊN QUÂN VẠN MÃ 千軍萬馬 "
Ta không có dịch " Thiên Quân Vạn Mã " là " Ngàn quân muôn ngựa ", mà
sử dụng thẳng thành ngữ Thiên Quân Vạn Mã để chỉ lực lượng quân đội
hùng hậu với một khí thế to lớn để áp đão đối phương.
Tương tự như " Thiên Quân Vạn Mã ", ta còn có thành ngữ " CHIÊU
BINH MÃI MÃ " là chiêu mộ binh lính và mua thêm ngựa, thêm khí giới để
thành lập lực lượng quân đội định làm việc lớn .
Qua 2 thành ngữ nêu trên, cho ta thấy có những thành ngữ Hán Việt rất
thông dụng trong tiếng Việt, đến nổi ta không cần phải dịch nó ra tiếng
Nôm nữa mà sử dụng thẳng thừng luôn những thành ngữ đó một cách rất tự
nhiên. Sau đây là một thành ngữ về ngựa nữa mà ta chỉ cần nói trại đi có
một từ thôi, đó là " TÁI ÔNG THẤT MÃ 塞翁失馬 ", tức là " TÁI ÔNG MẤT NGỰA
" đó ! Theo điển tích thì câu truyện như sau...
TÁI ÔNG là Ông già ở vùng biên tái,
mà cũng có thể là Ông già họ TÁI, rất chuyên về ngựa. Một hôm, con ngựa quí nhà ông bỗng nhiên chạy mất. Hàng xóm mọi người cùng đến chia buồn. Ông cười bảo : Đây chưa chắc là việc
không vui. Mấy hôm sau, con ngựa của ông trở về, lại dẫn theo một con
ngựa quí khác. Mọi người hay tin lại đến chúc mừng. Ông bảo, đây chưa
chắc là việc đáng mừng. Quả nhiên vài hôm sau đó, con ông
tập cưởi con ngựa đó, bị nó quăng cho té què chân. Mọi người lại cùng
đến an ủi, chia buồn. Ông lại bảo : Đây
vị tất đã là chuyện buồn. Năm sau, giặc đánh vào vùng biên tái, tất cả
thanh niên đều phải lên đường nhập ngũ tòng chinh, chỉ có con trai ông
vì bị què chân nên được ở lại, khỏi phải ra chiến trường.
Đây là
câu truyện Ngụ ngôn trong sách Hoài Nam Tử 淮男子, cho ta thấy chuyện đời
may rủi vô chừng, họa phước khó mà lường trước được. Có lắm chuyện tưởng
như rủi mà lại may, tưởng như phước mà lại là họa... cho nên ta phải để
lòng rộng mở, khoáng đạt, bình tĩnh mà ứng phó những tình huống
khôn
lường trước được nầy.
Ngoài các thành ngữ nêu trên, ta còn có rất nhiều thành ngữ có liên
quan đến ngựa được sử dụng thẳng trong văn chương tiếng Việt mà khỏi cần
phải diễn nôm gì cả. Ví dụ như :
Mã đáo thành công. Ngưu đầu mã diện. Thanh mai trúc mã.
Đơn thương độc mã. Trường đồ tri mã lực. Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã
Nhất ngôn kÝ xuất, Tứ mã nan truy...
Thành ngữ " THANH MAI TRÚC MÃ " ( Mai xanh
và Ngựa trúc ) được sử dụng rộng rãi và rất phổ biến trong văn chương
Việt Hoa, mãi cho đến hiện nay, trong đàm thoại thông thường người Hoa
vẫn còn sử dụng thành ngữ nầy : " Hai đứa nó là Thanh mai Trúc mã với
nhau đó !".
Điển tích Thanh Mai Trúc Mã xuất xứ từ bài thơ Ngũ Ngôn trường thiên nổi tiếng " Trường Can Hành " 長干行 của Thi Tiên LÝ BẠCH 李白 đời Đường, bài thơ tả lại đôi vợ chồng trẻ từ nhỏ ở chung xóm, cùng chơi đùa vô tư với nhau, trong đó có 2 câu:
Lang kị TRÚC MÃ lai, 郎騎竹馬來, Nhiễu sàng lộng THANH MAI. 繞床弄青梅。 ( Chàng cởi ngựa trúc đến, vòng quanh miệng giếng mà ghẹo cành mai xanh ).
Vì
là bài thơ kể lại mối tình cảm khắng khít của một đôi trai gái đã chơi
đùa và quen nhau từ tấm bé, rồi lớn lên thành chồng thành vợ với nhau,
cho nên thành ngữ Thanh Mai Trúc Mã dùng để chỉ những cặp vợ chồng đã
quen biết nhau từ thuở nhỏ. Sau này dùng rộng ra để chỉ những người yêu
nhau từ trước lâu rồi, sau đó mới lấy
nhau. Từ đó, từ
TRÚC MAI hay MAI TRÚC còn để chỉ tình nghĩa vợ chồng mà Nguyễn Du đã
tận dụng đến 4 lần: 2 lần với Kim Trọng và 2 lần với Thúc Sinh trong
TRUYỆN KIỀU như sau ...
Lần thứ nhất : Khi cô Kiều bán mình chuộc tội cho cha, đã nhắn lại với Kim Trọng là : Tái sinh chưa dứt hương thề, Làm thân trâu ngựa đền nghì TRÚC MAI.
Lần thứ hai : Trước đêm phải lên đường theo Mã Giám Sinh, cô Kiều đã trối lại với Thúy Vân là :
Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu đền nghì TRÚC MAI.
Lần thứ ba : Dùng để tả lúc Thúc Sinh chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh là : Một nhà sum họp TRÚC MAI Càng
sâu nghĩa bể, càng dài tình sông
Lần thứ tư : là khi Thúc Sinh trở lại tìm Thúy Kiều :
Tưởng rằng MAI
TRÚC lại vầy Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau.....
Nhân năm NGỌ lại nhắc đến TRUYỆN KIỀU của Cụ NGUYỄN DU, ta
thử điểm lại những từ MÃ và NGỰA được nhắc trong Truyện Kiều cho vui nhé !...
Đầu tiên là trong Tiết Thanh Minh với...
Dập dìu tài tử
giai
nhân, NGỰA XE NHƯ NƯỚC, áo quần như nêm.
Thành ngữ NGỰA XE NHƯ NƯỚC có xuất xứ từ Hậu Hán Thư trong câu : " Xa
như lưu thủy, mã như du long 車如流水,馬如游龍。 " ( Xe như nước chảy, Ngựa tợ
rồng bơi ). Chỉ xe ngựa qua lại đông đúc xôn xao huyên náo, chỉ sự náo
nhiệt của nơi phồn hoa đô hội.
Kế đến là sự xuất hiện một cách hào hoa phong nhã của Kim Trọng với...
TUYẾT in sắc NGỰA câu dòn, Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Ngựa trắng như tuyết là Bạch Mã, chỉ màu lông của Ngựa, chớ không phải
là một loại ngựa, nhưng nếu ta thêm vào giữa một chữ thì nó sẽ trở thành
một loại ngựa quí, đó chính
là BẠCH LONG MÃ, con ngựa huyền thoại do Tiểu Bạch Long chuyển
hóa mà thành,đã chở Đường Tam Tạng đi Tây Phương thỉnh kinh suốt 13 năm
trời trong tác phẩm nổi tiếng TÂY DU KÝ của Ngô Thừa Ân.
Ngựa trắng còn là Bạch Mã của Bạch Mã Hoàng Tử với nàng Công Chúa ngủ trong rừng. Đông Tây đã gặp nhau ở con
NGỰA TRẮNG nầy. Chàng Kim chính là Bạch Mã Hoàng Tử của nàng Kiều đó vậy ! Nhưng đến cuối ngày vẫn phải chia tay để cho...
Khách đà lên Ngựa người còn ghé theo...
Rồi khi " Thề hoa chưa ráo chén vàng " thì chàng Kim lại phải ...
Buộc Yên quảy
gánh vội vàng... để đến Liêu Dương hộ tang cho chú.
Đến khi gia biến của Thúy Kiều, ta lại thấy...
Đầu trâu mặt NGỰA ào ào như sôi.
ĐẦU TRÂU MẶT NGỰA là thành ngữ phát xuất từ Phật giáo với Địa Ngục Luân
Hồi, với Đầu Trâu Mặt Ngựa là Câu hồn Sứ giả chuyên bắt hồn và làm
công việc hành hình những người có tội và gian ác. Sau dùng rộng ra để
chỉ những bọn côn đồ, tay sai ác ôn chuyên làm hại và hành hung người
khác. Thành ngữ nầy nguyên gốc là NGƯU ĐẦU MÃ DIỆN 牛頭馬面
Tương
truyền, lúc đầu Phật giáo chỉ có Ngưu Đầu, khi truyền vào Trung Hoa mới
phát sinh thêm một Mã Diện nữa cho đối xứng với cách nói
của người Hoa. Theo
Thiết Thành Nê Lê Kinh : A BÀNG khi là người vì không có hiếu với cha
mẹ, cho nên khi chết mới bị đày phải đeo cái đầu trâu, làm công việc
tuần tra và bắt hồn những người tới số chết. Còn có tài liệu cho rằng :
Mặt Ngựa là Mã Diện La Sát, nhưng trong Phật giáo chính tông Ấn Độ thì
không có nói đến, chỉ trong Phật giáo Mật Tông thì có nhắc đến một MÃ
DIỆN MINH VƯƠNG có mặt ngựa, nhưng đây lại là một Bồ Tát, chứ không phải
là Sai Nha.
Để diễn tả cảnh chia tay não lòng của cô Kiều, khi phải đau lòng mà đi
theo Mã Giám Sinh, NGUYỄN DU đã viết :
Đoạn trường thay lúc phân kì, VÓ CÂU khấp khểnh
bánh xe gập ghềnh.
VÓ CÂU hay VÓ
NGỰA là chỉ BƯỚC CHÂN của NGỰA. VÓ còn dùng để chỉ CHÂN NGỰA, như trong
câu : Con ngựa bị ngã chổng BỐN VÓ lên trời !. Còn... CÂU 駒 : là Ngựa Non, Ngựa Trẻ, Ngựa Khỏe, Ngựa Mạnh, Ngựa Giỏi. Thêm
vào chữ LONG, ta có từ LONG CÂU 龍駒, còn được đọc trại thành LONG CU, là
loại ngựa hay được dùng cho Hoàng tộc, cũng dùng để chỉ loại ngựa mạnh
mẽ như rồng, và còn được gọi là LONG MÃ, như BẠCH LONG MÃ còn gọi là
TUYẾT
LONG MÃ ,
con ngựa của Thường Sơn Triệu Tử Long cởi
trong Tam Quốc diễn nghĩa, đã xông xáo trong 80 vạn quân Tào ở Trường
Bản cứu ấu chúa A Đẩu đưa về cho Lưu Bị.
CÂU là
Ngựa, nên ngựa quí được gọi là LƯƠNG CÂU 良駒 hoặc BẢO CÂU 寶駒. Như Hãn
Huyết Bảo Câu, con ngựa có mồ hôi đỏ như huyết tương, có thể chở cả
Hoàng Dung và Quách Tĩnh mà ngày đi được cả ngàn dặm. CÂU là ngựa chạy
nhanh, nên ta có thành ngữ " Bóng CÂU qua cửa sổ " để chỉ thời gian vô
tình qua rất nhanh không chờ đợi ai cả. Thành ngữ nầy phát xuất từ thành
ngữ gốc là "
LƯƠNG CÂU QUÁ
KÍCH " 良駒過隙 hoặc BẠCH CÂU QUÁ KÍCH 白駒過隙, có nghĩa : " Ngựa giỏi màu
trắng thoáng qua KHE cửa " diễn tả còn nhanh hơn là qua " Cửa sổ " của
ta nữa !
Ta gặp lại từ VÓ CÂU khi Hoạn Thư khuyên Thúc Sinh về Lâm Chuy để viếng Thúc Ông : Được lời như cởi tấc son, VÓ CÂU rung rủi nước non quê người. và
khi... VÓ CÂU vừa gióng dặm trường, Xe hương nàng cũng thuận đường qui ninh.
... " QUY NINH " để mét má với " Nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen ! ".. ..
Khi cô Kiều hỏi về
biện pháp mà Sở Khanh sẽ dùng để giải cứu mình, thì được chàng họ Sở trả lời :
Rằng ta có NGỰA TRUY PHONG, Có
tên dưới trướng vốn dòng kiện nhi.
TRUY là Rựơt đuổi, PHONG là Gió. Ngựa TRUY PHONG là Ngựa rượt đuổi theo
gió, Ý là Ngựa chạy nhanh như gió, nên tất cả ngựa chạy nhanh đều có thể
gọi được là Ngựa Truy Phong. Sở Khanh khoe có ngựa chạy nhanh như gió
để... rủ cô Kiều bỏ trốn ! " Ba mươi sáu chước chước nào là hơn ? ".
Cho nên mới :
Cùng nhau lẻn bước xuống lầu, Song song NGỰA trước NGỰA sau một đoàn.
Nhưng... TRUY PHONG MÃ 追風馬 là tên của con ngựa của Ngũ
Vân Triệu ( thường bị đọc trại đi thành Ngũ Vân THIỆU ) trong truyện
THUYẾT ĐƯỜNG Diễn Nghĩa . Con ngựa chạy nhanh như gió giống như tính
cách của chủ nhân nó, làm việc gì cũng mau mắn. TRUY PHONG MÃ nầy ngày
có thể đi ngàn dặm, đêm có thể đi thêm 800 dặm đường nữa !
Vì là phương tiện giao thông, nên hình ảnh con ngựa còn
là hình tượng của sự chia tay, khi cô Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm Hoạn Thư, NGUYỄN DU đã viết :
Người lên NGỰA, kẻ chia bào, Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. và là... phương tiện
hành hung đã giúp cho Khuyển Ưng bắt cóc cô Kiều :
Vực nàng lên NGỰA tức thì, Buồng đào viện sách bốn bề lửa dong.
và cũng là...
hình ảnh hào hùng, dứt bỏ nhi nữ thường tình, của người đi làm việc lớn :
Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm yên NGỰA lên đàng thẳng dong.
... để đưa đến một kết quả có hậu
là... hình ảnh của sự long trọng tiếp đón khi mà Từ Hải đã
:
Kéo cờ lũy, phát súng thành, Từ Công ra NGỰA thân nghinh cửa ngoài.
... để rước nàng Kiều về dinh...
Với " Râu hùm hàm én mày ngài " ta thấy hình
tượng của Từ Hải uy vũ như là
hình tượng của một Trương Phi, nên... con Ngựa mà Từ Hải cởi chắc cũng
phải thuộc loại NGỰA Ô TRUY như của Trương Phi cởi vậy. Ô TRUY MÃ 烏追馬 là
loại ngựa có bộ lông đen tuyền, chạy nhanh như điện xẹt, là một trong
những loại ngựa quí hiếm.
Đỗ Chiêu Đức
|