Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2014

Thơ Tranh: Tìm Kiếm


Thơ & Thơ Tranh: Kim Quang

Đêm Quê


Đêm về gió tản phương trời ?
Cỏ cây yên giấc ngủ vùi vườn sau
Khóm hoa xếp cánh rũ sầu
Chờ gà gọi sáng, đón chào bình minh

Dế mèn trổi khúc ru tình
“Giăng đèn” đom đóm, xinh xinh cạnh nhà
Ểnh ương bớ bạn từ xa
Ra đồng lúa chín, nhảy ca vui mừng

Sông say, dòng nước cũng ngưng
Trăng say, tỏa ánh sáng bừng đêm quê
Sao say, sao xẹt không về
Mây say, gọi gió trở về “phong vân”

Xóm giềng vui tụ mấy canh
Hát hò, chén cạn, chén nâng say mềm
Thiên nhiên sống động về đêm
Cái vui mộc mạc êm đềm miền quê

Khúc Giang

Cuội Với Trăng: Nói Dối Về Sự Thật Đã Dối

Ngửa mặt nhìn trời, nước mắt chảy không ướt môi
Tài hoa như Lý Bạch, không tả hết ánh trăng đẹp
Ai chưa từng thấy trăng
Ai chưa từng khóc một lần
nhưng nhìn trăng rồi khóc, có mấy ai?
Đó là chuyện Chú Cuội Với Mặt Trăng:

1.
Ngày xưa, có gã tiều phu, tên Cuội.
Những đêm mây phủ, sương mù, không trăng, dưới ánh đèn dầu, Cuội dùng rìu đấu với bóng mình, nghênh ngang bất tử trên vách lá. Mãi về sau, có kẻ xác nhận: Thắng người rất dễ. Thắng mình mới khó.
Những đêm mưa, trời không có trăng, Cuội dùng dao nhọn vạch lên nền đất, những tâm sự cô đơn theo điệu mưa lúc lớn lúc nhỏ dội lên mái nhà. Mãi về sau, có kẻ gọi là thơ. Cuội không mơ làm thi sĩ.
Những đêm mùa giông bão, không trăng, Cuội đắp chiếu nằm đối đầu hiu quạnh. Bắp thịt đốn ngã cổ thụ cao lớn giữa rừng nhưng co rút trước nỗi buồn lặng lẽ. Trí tuệ am tường qui luật rừng rú nhưng bất lực không thể làm gì khi hồn trống rỗng. Mãi về sau có kẻ cho biết: Thượng Đế tuyệt đối cô đơn. Hình ảnh giống Thượng Đế, con người cô đơn tương đối. Có nghĩa, đôi khi không cô đơn, gọi là hạnh phúc. Thật mong manh có ngụ ý.

Cuội chưa biết Cô Đơn. Tự hỏi, cái gì ghê gớm đang chấn ngang ngực? Khó chịu như muôn vạn côn trùng kêu than trong tai. Bức xúc như trăm viên đá chận nghẹt dòng suối đang chảy rấm rứt. Xụi lơ như con thú trúng tên chảy gần hết máu. Cảm giác chán chường. Cái gì đang lạc lõng trong tim như con cú mắt mù bay giữa nắng trưa.

Ngày xưa, có gã tiều phu, tên Cuội.
Vào hang cọp, bẻ chân cọp con, học cọp mẹ trồng cây “Chữa Lành Bá Bệnh.” Tiều phu đổi mệnh lương y. Trước đốn cây, sau chặt thần chết.
Cuội nói dối đứng đầu huyền thoại, nói dối thần kỳ. Biết nói bậy, người nghe vẫn tin. Dân lũ lượt đến xin chữa bệnh. Về sau, lưu truyền đông y quảng bá một viên thuốc chữa hết bệnh từ đau nhức đến ung thư. Sữa ong chúa hóa yếu thành mạnh, hóa xấu thành đẹp. Cuội là tổ phụ môn phái thần dược, đã bị lãng quên.
May mắn hóa Cuội nên anh hùng, hóa thành từ mẫu. Chiếc lá rơi xuống gặp gió, bay lên; lộng gió, bay cao. Người đời bắt chước thả diều nhưng cột dây điều khiển. Lá rơi từ đó mất tự do.
Cuội chưa biết May Mắn. Tự hỏi, cái gì khoái trá đang đẩy dưới chân. Phải chăng, đôi hia bảy dặm? Tự dưng mọi chuyện suôn sẻ: Vợ đẹp tự hiến dâng. Công đức tự dựng cổng. Tiền bạc tự chạy đua vào nhà. Cảm giác bừng bừng chiến thắng. Thất bại dành cho kẻ thiếu đức kém tài. Mãi về sau, có kẻ thấu hiểu: Hết thịnh rồi suy, hết suy rồi thịnh. Không có mệnh tốt mệnh xấu, chỉ có mệnh thăng trầm. Tùy thăng cao hoặc trầm thấp mà định số mỗi người lúc có lúc không. Bậc trí giả giữ mình không suy không thịnh, không thăng không trầm. Gọi là đạo.
Rồi có lúc Cuội biết được: Hia bảy dặm cũng mòn rách. Vợ đẹp chưa chắc là điềm lành. Công đức khiến tâm can giả tạo. Tiền bạc quyến rũ tiểu nhân. Giữa nhiễu nhương bất tận, họa hãm bốn bề, Cuội tìm thấy trăng.

2.
Ngày xưa, có vị lương y, tên Cuội.
Chữa bệnh bằng lá cây. Ông nói hay. Có người tôn làm thần thánh. Ông nói dối. Có người tin làm sư phụ.
Có nhiều cách nói dối: Nói gian. Nói gạt. Nói xạo. Nói láo. Nói thiếu. Nói khéo. Nói giả. Nói mua lòng. Nguy hiểm nhất, nói sai mà tin rằng đúng. Lấy gì bảo đảm lời thánh nhân là thật?
Viết là một cách nói. Viết gian. Viết gạt. Viết xạo. Viết láo. Viết thiếu. Viết giả. Viết mua lòng. Viết sai mà tin rằng đúng. Lấy gì bảo đảm sách thánh nhân là đúng? Lão Tử khuyên: Đừng nói. Nghĩa là đừng viết. Ông viết Đạo Đức Kinh.

Trăng dạy Cuội sự im lặng.
Trăng theo Cuội từ lúc sinh ra cho đến tuổi già. Xưa nay mấy ai để ý trăng. Đa số quên trăng tròn ngày nào, nói chi trăng đẹp hay xấu.
Trăng một mình trong đêm, thấm thấu cô đơn. Trăng một mình trên cao, kinh nghiệm hiu quạnh. Buồn bã như Cuội, nhìn trăng tức thì cảm thông. Phải chăng trăng chỉ có giá trị khi lòng sâu thẳm? Mãi về sau có người hiểu ra: Khi hồn đen tối, là lúc cần trăng sáng.

Chỉ có ông Lý Bạch chơi với trăng rất hả hê: Cử bôi yêu minh nguyệt, Đối ảnh thành tam nhân . . . Ngã ca nguyệt bồi hồi, Ngã vũ ảnh linh loạn (1) . . . Trăng dành cho thi sĩ mọi thời đại: Homer, Hocrate, William Shakespeare, Edgar Allan Poe, Walt Whitman, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Rabindranath Tagore, George Byron, Nguyễn Du, Bùi Giáng, Matsuo Basho, Yosa Buson, Kobayashi Issa . . . đều chơi với trăng.


Trước đó, lâu lắm, trăng chơi với Cuội.
Những đêm không mưa, không sương mù, trăng đến. Nheo mắt, mở mắt, mắt tròn xoe, trăng lục lọi những hồn lãng mạn. Trái tim cô đơn phản chiếu ánh trăng. Cuội dùng rìu múa với bóng mình. Dưới trăng bóng linh hoạt diệu thường, khiến Lý Bạch sau này bắt chước.
Những đêm trong sáng, trăng gọi tên từng cảnh vật, cây cỏ thức dậy bày tỏ sức huyền bí tuần hoàn. Luân hồi phát sinh từ tuần hoàn nhưng phải hẹn đời sau. Trăng gọi hồn mỗi côn trùng thưa thốt, dàn âm thanh được đất trời dùng làm nhạc đệm, cho hơi thở của người chiêm bao. Chỉ có kẻ thức đêm mới thán phục sự hòa âm tự phát. Cuội thức rất nhiều đêm, lắng nghe. Viết lại trên nền đất để khi mưa đến, xóa nhòa.
Không phải ai cũng hiểu trăng. Không phải ai cũng nghe trăng nói. Hàn Mặc Tử lắng nghe trăng: Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu. Trời mơ trong cảnh thật huyền mơ! Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt. Như đón từ xa một ý thơ. Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều, Để nghe dưới đáy nước hồ reo, Để nghe tơ liễu run trong gió, Và để xem trời giải nghĩa yêu (2).

Trước đó, lâu lắm, Cuội và trăng đã chuyện trò.
Cuội học trăng sự lắng đọng. Nhìn chăm chăm mặt trăng vài canh giờ, chợt như tan vào thinh không. Tìm những nơi ánh trăng đậu sâu thấp, cúi xuống càng nhiều càng nhẹ hẫng làm người. Hít thật đầy ánh trăng rằm, bật thở phào những ưu tư sáng chói. Về sau có người viết sách truyền bá Nguyệt Thiền.
Cuội cảm trăng.
Trăng cảm Cuội.
Trăng chân thành.
Cuội muốn ngưng nói dối.

Như người cầm cây quạt: Quạt mạnh, sẽ mau mệt. Quạt chậm, sẽ nóng nực. Quạt vừa đủ, hiu hiu, sẽ quạt lâu dài. Cuội cầm đời mình như cầm quạt mo nhưng thiên hạ tưởng Cuội là Bờm. Đành thôi, nhận lấy hòn xôi, tránh phiền hà trao đổi.
Những kẻ nói dối về sự thật, không đứng chung với Cuội.
Những kẻ tự tin nói thật về sự thật đã dối, không tin Cuội.
Người nghe nói dối nói thật, không biết dối hay thật, chê cười Cuội.
Người nói dối chuyện thật. Người nói thật chuyện dối. Không ai tin ai.
Nhưng nhân loại cần xử tội “Nói Dối,” tội nhân thiên cổ là Cuội.
Chuyện trăng nói, người không nghe. Chuyện Cuội kể lời trăng, người cho là dối. Chuyện người dối với nhau, họ cho rằng thật. Cuội chán nản.
Như một người cầm quạt, dù quyết tâm, dù cây quạt lớn, không cản được gió thổi, nhất là gió mạnh.
Trăng trên trời, Cuội dưới đất, cách xa vời vợi, cả hai cùng cô đơn. Đêm ngửa mặt nhìn trăng, nước mắt chảy không ướt môi. Cuội chán nản.

Người ta kể lại:
Cuội leo lên cây Chữa Lành Bá Bệnh
Ngồi rất lâu
Ngửa mặt nhìn trời
Chảy nước mắt
Bất chợt ướt cả quần
Cây rúng động, bật gốc, bay lên cung trăng

3.
Người muốn Cuội mãi mãi là Bờm, đổ tội cho vợ tiểu tiện gốc cây.
Người muốn Cuội muôn đời nói dối, cho lên trăng cao, không bao giờ trở lại.
Cuội là ai?
Ngày xưa, có người ngửa mặt nhìn trăng rồi khóc, tên Cuội.

Ngu Yên

Ghi:
(1) Trích “Nguyệt Hạ Độc Chước 1” của Lý bạch:
Cất chén mời trăng sáng, Mình với bóng là ba . . . Ta hát, trăng bồi hồi, Ta múa bóng rối loạn . . . (Tương Như dịch)
(2) “Đà Lạt Trăng Mờ,” thơ Hàn Mặc Tử

Tình Toán Học


Anh ngẩn ngơ trong đạo hàm nhất biến
Vô cực dương xin anh chớ quên thề
Tọa độ y đây điểm tựa phụ kề
Trên biểu  thức ngàn đời không ý nghĩa

Những đồ thị cuộc đời toàn mai mỉa
Cho không gian mình muôn thưở ngậm ngùi
Chiều biến thiên luôn luôn vẫn không vui
Đường biểu diễn cuộc đời ôi ngang trái
Định mệnh đẩy đưa đời ta hai nghiệm số

Trên lũy thừa anh lạc lõng bơ vơ
Trời bắt em giới hạn một duyên hờ
Trên quỷ tích là điểm giao thương nhớ
Tình em sao vẫn mãi là biến số

Nhưng anh hỏi tình yêu trong dạng thức
Cũng chỉ là hàm số đương thời
Vậy căn số anh ơi tình đại số
Đại số muôn đời anh ước mơ.

(Khuyết Danh)
 Tống Ngọc Nhan sưu tầm

Ngày Hè Ở Canada


Vào hè ánh nắng nhạt vàng
Mây xanh pha trắng nhẹ nhàng đẹp sao!
Chợt nghe tiếng gió reo chào
Kìa đôi chim nhỏ lượn nhào tập bay
Trưa lên nắng tỏa mê say
Mơn man hoa táo,nựng vài quả dâu

Bên sông thư giản ngồi câu
Nghe thông reo hát xanh lâu bốn mùa
Chiều tà bóng nắng thẹn thùa
Đi bơi,cắm trại nghịch đua điểm mười
Sân trường hai tháng nhịn cười
Học sinh du ngoạn học người khắp nơi
Mùa hè cảnh đẹp tuyệt vời
Tình nồng xứ lạnh ấm đời tha nhân...

Phượng Trắng
Winnipeg, Hè 7/2014

Thứ Sáu, 5 tháng 9, 2014

Trăng



Trăng duyên dáng
Lung linh trong sáng đẹp vô ngần
Gieo vào lòng bao cảm giác lâng lâng
Làm run rẩy con tim đang tìm mộng ảo

Trăng nên thơ
Như cuộc tình chớm nở
Tuổi xuân thì tuổi học yêu đương
Bao thương nhớ chất chồng lên nhung nhớ

Trăng mơ
Trăng thẹn
Trăng len lõi vào tận góc lòng ai
Khơi ngọn lửa đam mê hừng hực cháy

Để mai này
Đau xót mãi không thôi
Trăng đâu mãi tròn
Tình yêu đâu mãi vẹn

Dáng trăng gầy
Nhòa sâu trong bóng tối đêm đen
Để lại đó trống trải cô đơn cùng băng giá

Ánh trăng ngà
Giờ đây nào đâu nữa
Có còn chăng hình bóng buổi chia xa

Trăng nỡ vội tàn
Tình còn nặng mang
Sao lại lỡ làng vỡ nát mảnh trăng thanh
Gieo thương nhớ những đêm buồn hiu hắt lạnh

                                                  Quên Đi

Nắng Mai Ngày Ấy - Sách Tác Quách Nam Dung



Sáng Tác: Quách Nam Dung
Tiếng Hát: Văn Đức

Nhớ


Anh ngồi đọc lại thư em.
Nhớ tình yêu đến buổi đêm hôm nào.
Mưa phùn trời giận dấu sao.
Bờ kênh lạnh thế mà ta vẫn ngồi.
Xa nhau bao cái tết rồi.
Yêu thuơng đâu có đầy vơi lúc nào.
Đêm về mơ gặp chiêm bao.
Còn nguyên ký ức, lối vào nhà em.
Gặp nhau giờ chỉ nỗi niềm.
Người Nam kẻ Bắc vẫn tìm về nhau.
Nhớ nhau lưng áo bạc mầu
Nhớ màu áo, nhớ miếng trầu không xanh...

Hhai

Vu Lan Tưởng Nhớ


Rồi một sớm mẹ không còn nữa
Ngưỡng cửa đời con đứng bơ vơ
Vẫn trẻ thơ cần hơi mẹ ấm
Thèm vòng tay bồng ẳm ru đưa

Võng trưa hè ầu ơ kẽo kẹt
Con trẻ vùi tròn giấc ngủ say 
Hành trang này học ăn học nói
Gói mở lời nhân nghĩa hiếu trung

Mẹ nay trong cõi muôn trùng ấy
Biết lấy gì đền đáp ân sâu
Thế giới bao la muôn màu sắc
Rộng dung tình mẹ đậm sắc son

Tròn trăng tháng Bảy vằng vặc sáng
Vu Lan báo hiếu đấng sinh thành

Kim Phượng

Hồn Phố Cũ


Sài Gòn đó qua nhiều năm tháng
"Hòn Ngọc Viễn Đông" một thuở thanh bình
Nhà Hát Lớn thành phố xưa, Thương Xá Tax
Chợ Bến Thành sừng sững nét uy nghi

Góc riêng tư thành phố nhớ trong tôi
Nhiều nhiều nữa dáng hình xưa cổ kính
Nhưng than ôi!
Như áng mây giữa bầu trời nghiêng ngữa
Sài Gòn thay tên trên chính quê hương mình

Thương xá Tax hơn trăm năm hiện hữu
Nay ly tan vĩnh biệt với Sài Gòn
Lòng nghẹn ngào từng giây phút héo hon
Thành phố cũ kỷ niệm xưa còn đâu nữa!

Thấp thoáng chiều nào gió vờn sóng nước
Bến Bạch Đằng ru giấc mộng ngày xanh
Ánh nắng mất, lòng người luôn hoài niệm
Từng giọt sầu rơi thao thiết âm thầm

Buổi bình minh chùm lá xanh buông xõa
Một Sài Gòn hòa nhập khắp Đông Tây
Bước chân đi, tôi cuối đầu nhắc nhủ:
Nhớ thuở hồng hoang cảm xúc đong đầy

Hồn phố cũ chập chờn trên các nẻo
Nắng nghiêng mình bãng lãng dưới hàng cây
Đại lộ buồn mờ nhạt bởi áng mây
Đường xa lạ vì thời gian nghiệt ngã.

SG 2/9/2014

Đông An

Dạo Khúc Mưa Quen


Anh tất bật bỏ trường, bỏ lớp
Khi chiến chinh về góc sân trường
Em giã biệt giọt sương mi chớp
Quay lưng qua tránh vạt nắng buồn

Ngày về phép lá me quyện gót
Anh một mình chìm giữa đêm sâu
Gió hừng hực những ngày hạ cuối
Đã thôi về khi chớm vàng thu

Nghe ai hát tiễn chân con sáo
Bên kia sông mờ nhạt nắng chiều
Anh dấn bước ngẩng đầu cao ngạo
Sắc se cười cùng với quạnh hiu

Mai anh sẽ trở ra biên trấn
Chiến chinh hề có nghĩa gì đâu
Dẫu dũng lược hát vang giữa trận
Đời cũng êm như nước qua cầu

Chào em nhé một thời con gái
Kỷ niệm buồn tiếng hát lời êm
Một khoảnh khắc sẽ là mãi mãi
Tay tựa đầu dạo khúc mưa quen

Chớm Thu 2012

Yên Sơn

Sự Tích Đèn Kéo Quân


          Ngày xưa, gần đến dịp tết Trung thu, theo lệnh Vua, dân chúng nô nức thi nhau chế ra những chiếc đèn kỳ lạ nhưng không có chiếc đèn nào làm cho vua vừa ý. Bấy giờ, có một nông dân nghèo khó tên là Lục Đức mồ côi cha, ăn ở với mẹ rất hiếu thảo. Một hôm nằm mơ, Lục Đức thấy một vị thần râu tóc bạc phơ hiện ra phán rằng: "Ta là Thái Thượng Lãn Quân, thấy nhà ngươi nghèo khó nhưng ăn ở hiếu thảo với mẹ, vậy ta bày cho ngươi cách làm chiếc đèn dâng Vua".
         Hôm sau theo lời dặn của Thần, Lục Đức cùng mẹ lấy những thân trúc trắng cùng giấy màu để làm chiếc đèn. Thời gian qua mau, khi chiếc đèn làm xong là ngày rằm tháng Tám cũng vừa đến. Chàng vui mừng cùng mẹ đem chiếc đèn vào kinh thành dâng vua. Nhà vua xem, thấy chiếc đèn vừa lạ, vừa nhiều màu sắc lại biết chuyển động nên rất hài lòng. Khi Vua hỏi ý nghĩa của chiếc đèn, Lục Đức theo lời Thần tâu rằng: "Thưa bệ hạ, thân trúc ở giữa đèn là biểu hiện trục khôn, cái chong chóng quay sáu mặt biểu tượng cho sáu cá tính của con người: thương, ghét, giận, buồn, vui, hờn. Cái chong chóng quay luôn luôn, tượng trưng cho con người hay thay đổi cũng có căn do, đó là đạo làm người. Chong chóng quay luôn cũng nhờ ánh đèn soi sáng, cũng như con người tốt lành cũng nhờ đạo đức. Sáu mặt của chiếc đèn làm bằng giấy tươi sáng biểu hiện cá tính của con người".
         Vua truyền đem đèn cho dân chúng cùng xem. Đèn đốt lên làm quay chong chóng. Hiện lên sáu màu sắc rực rỡ là hình ảnh vua, quan, người, ngựa nối đuôi nhau. Tất cả những hình nhân trên đèn được làm bằng giấy. Vua ban thưởng cho mẹ con Lục Đức rất hậu và phong làm Vạn Hộ Hầu.
          Từ đó, mỗi khi đến Tết Trung thu, nhớ lại sự tích người con hiếu thảo Lục Đức, dân chúng đua nhau bắt chước chàng làm nên những chiếc đèn màu rực rỡ gọi là đèn kéo quân.



         Đèn kéo quân, hay còn gọi là đèn cù, là một loại đồ chơi bằng giấy có nguồn gốc từ Trung Hoa , ngày xưa phổ biến trong nhiều dịp lễ tết, nay chỉ còn xuất hiện trong dịp Tết Trung Thu . Đèn có đặt điểm khi thắp nến thì những hình ảnh được thiết kế bên trong sẽ hiện ra trên mặt đèn giống như rối bóng và xoay vòng theo cùng một chiều liên tục không dừng lại.

         Cây đèn kéo quân có mục đích ban đầu là để trẻ em nhớ về lịch sử cũng như giáo dục lòng yêu nước. nên hình ảnh trên cây đèn thường nói về việc nghĩa, về những đoàn quân lính xung trận ( nguồn gốc của tên gọi "kéo quân").Về sau người ta mở rộng nhiều đề tài khác như thêm ông quan trạng vinh quy bái tổ, cảnh tứ linh nhảy múa, bác nông dân làm ruộng, mục đồng chăn trâu…

(Theo Wikipedia)


Huỳnh Hữu Đức - Sưu tầm

Thứ Năm, 4 tháng 9, 2014

Thu Sầu


Lác đác trên cây lá úa vàng
Một mùa thu nữa mới vừa sang!
Bầu trời lãng đãng mây giăng mắc
Sông nước mênh mang sóng ngút ngàn
Ngày tháng vơi đầy khuôn nhật nguyệt
Hoàng hôn thoi thóp bóng thiều quang
Cúc tàn xơ xác bên hiên vắng
Đọc lá thư xưa lệ mấy hàng

Phương Hà
* * *
       (Từ bài “Thu Sầu” của Phương Hà)

Nhìn xác lá khô rụng úa vàng
Ngậm ngùi thương cảm mỗi mùa sang
Mưa luôn chực sẵn nơi trời thẳm
Bão vẫn ra oai tự biển ngàn
Đêm lạnh trùm chăn nuôi ước mộng
Ngày ui đợi nắng tỏa dương quang
Thu sầu từ dáng xa xăm cũ
Nối tiếp niềm đau lệ tản hàng

Nguyễn Đắc Thắng
2/9/2012
* * *
Hiu hắt heo may, rụng lá vàng
Nai về đèo vắng ngắm Thu sang.
 Mây mờ san sát che trời thắm
Cành úa co ro đón gió ngàn.
Nhớ Hạ non sông đầy nắng ấm
Tiếc Xuân trời đất ngập thiều quang.
Dêm dài, ngày ngắn mưa than thở
Giọt nhỏ, giọt to lệ nối hàng.

 
Quang Tuấn 
(6/9/2014)* * *
Hương Vị Nàng Thu

Nắng Thu dìu dịu phớt tia vàng
Xác lá nhà ai gió cuốn sang ?
Gợi nhớ người thơ tìm cảm hung
Khiêu thương lữ khách chốn xa ngàn
Đầu hiên,chiều tắt giăng sương khói
Cuối nẽo ,mây che ánh nguyệt quang
Hương vị nàng Thu nhiều ý tứ
Sao ta chỉ viết được đôi hang ???


Song Quang
 

Đường Xưa Lối Cũ - Sáng tác Hoàng Thi Thơ - Ca sĩ Duy Khánh

      Người đi xa quê một thời gian rất dài trong lòng lúc nào cũng mong có ngày về quê cũ,để gặp người mẹ tảo tần luôn chờ mong con về trong vòng tay mẹ thuở nào.
      Và . . . còn để gặp người con gái năm xưa đã ước thề.Nhưng khi về đến quê nhà . . .thì đã không còn mẹ người đã đi về cõi vĩnh hằng,và người thương đã theo chồng đi xứ khác để lại trong lòng người con xa quê một nỗi tiếc thương vô hạn cùng với nỗi buồn sâu đậm khi trở vế cố hương. . .


Sáng Tác: Hoàng Thi Thơ 
Ca Sĩ: Duy Khánh
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình

Riêng Ta!


Trong đời đừng nói..phải chi…
Thì ta đã được những gì ta mơ
Trong đời đừng phút ..chần chờ
Thì ta đâu phải bơ vơ giữa dòng

Tình yêu đừng tự..dối lòng…
Thì chân đâu vấp long đong đường trần
Tình yêu đừng phút ..tần ngần…
Tình ta đã đẹp được lần đầu tiên.

Cuộc đời dù lắm muộn phiền
Thì thôi giữ lại những gì…riêng ta!


Kim Oanh 


Phúc Đáp Riêng Ta


(Từ Riêng Ta của Kim Oanh)

Đời tôi thường nói phải chi....
Nên hay tuột mất những gì tôi mơ
Đời tôi lắm phút chần chờ
Nên tôi cứ mãi bơ vơ nỗi lòng


Vì yêu tôi phải dối lòng
Thế nên vấp ngả bò lê đường trần
Khi yêu tôi mãi tần ngần
Tình tôi chẳng vẹn một lần đầu tiên

Đời tôi chẳng có muộn phiền
Thì thôi giữ lại những gì riêng tôi

Ngô Quang Diệp

Cảm Tác Riêng Ta

    
 (Từ Riêng Ta của Kim Oanh)

.....Phải chi biết nói...phải chi,
Thì đâu để mất những gì ta mơ.
Nếu mà cứ cố chần chờ,
Giờ ta đâu phải bơ vơ giữa đường !

Tưởng yêu nên tự dối lòng,
Bây giờ phải chịu long đong đường trần.
Chỉ cần một phút tần ngần,
Thì đâu vấp ngã ngay lần đầu tiên

Cuộc đời đã đủ muộn phiền,
Giữ làm chi nữa nỗi niềm riêng ta...


Hai Lúa

Riêng Tư!


         (Từ Riêng Ta của Kim Oanh)

Trong đời phải nói cái chi…
Thì ta đã được những gì ta mơ
Dù cho đôi lúc chần chờ
Làm sao quên được vần thơ giữa dòng


Yêu ai nào dám dối lòng
Cho dù trắc trở long đong đường trần
Tình yêu nào phải ngại ngần
Tình yêu mãi mãi như lần đầu tiên


Đường trần dù lắm buồn phiền
Mình nên chia sẽ nỗi niềm riêng tư


Biện Công Danh

Thứ Tư, 3 tháng 9, 2014


Giấc Mơ Này


Ôi giấc mơ này
Rồi cũng sẽ tan
Ta còn gì không
Trái tim muộn màng
Ta còn gì không
Đôi chân đã mòn
Mơ hồ xa lắm
Vùng trời êm đềm
Ngoài hiên nắng vàng
Chìa vôi véo von
Ai xa muôn trùng
Ta chưa một lần
Sao ngày bâng khuâng
Sao đêm mơ mộng
Ta còn gì không
Trái tim muộn phiền
Ta còn gì không
Đôi tay rã rời
Mong được một lấn
Về mái trường xưa
Bên hiên đợi chờ
Gởi người giấc mơ
Thôi chẳng bao giờ

Khánh Hà

V. Đừng Hẹn


Cạn ly này buổi sáng
còn lại chút hình em
uống ngày tôi nắng xám
uống đời qua quán quen

Tôi ôm màu trăng hẹn
thả bên đường phố xưa
người đánh đàn ngủ bụi
đau biết mấy cơn mưa

Đi học làm khất sĩ
áo chưa vàng trang kinh
cũng tập tành đếm bước
niệm. quên đời quẩn quanh

Hẹn gì.em trăng lỡ
rơi xuống giếng ưu phiền
tay đàn tay búi tóc
hát. quên ngày đảo điên

Hẹn gì.tôi quán cốc
bày biện chút buồn vui
người qua.người đứng lại
chia tôi mớ ngậm ngùi

Hỏi đời.tôi quán cốc
bán buôn gì lạnh tanh
rượu tay người mới cạn
đót tôi cháy ngon lành

Hẹn gì.V.đừng hẹn
người bạc tóc đâu chờ
tiếng đàn buông dẫu khẻ
đâu níu lại bao giờ

Tiếng đời buông dẫu khẻ
cũng tan tành giấc mơ
tiếng đàn buông dẫu khẻ
cũng tơi bời câu thơ

Lâm Hảo Khôi

Thơ Tranh: Thiên Hương


Thơ & Thơ Tranh: Kim Quang

Cách Chửa Làng Bị Ong Chích


      Những ai làm việc trong vườn, cắt cỏ, tưới cây, đem thùng rác ra bên ngoài hoặc nấu ăn ngoài trời, hay làm bất cứ việc gì ngoài trời, cũng nên biết điều này. Tôi hy vọng các bạn không bị ong hay vò vẽ chích, trước khi có sẵn vài đồng pennies (xu) trong túi.
      Vài tuần trước đây , tôi bị ong chích khi đang làm việc ngoài vườn . Cánh tay tôi xưng lên, tôi phải đến bác sĩ. Bệnh viện cho tôi kem bôi và thuốc trị dị ứng . Ngày hôm sau, chỗ xưng phồng to thêm , và tôi phải đến gặp bác sĩ quen . Cánh tay bị làm độc cần thuốc trụ sinh. Bác sĩ nói « Lần sau nếu ông bị ong chích nữa, thì nhớ để đồng xu (pennies) lên chỗ bị chích trong 15 phút » .
      Buổi tối hôm đó, cháu gái tôi bị hai con ong chích. Tôi nhìn vết chích và thấy nó bắt đầu xưng lên. Thế là tôi lấy một đồng xu đặt lên tay cháu trong 15 phút. Sáng hôm sau, chẳng nhìn thấy vết chích nữa . Chúng tôi chỉ cho rằng cháu tôi không bị dị ứng thôi. Sau đó chính tôi lại bị ong chích nữa khi làm vườn , hai lần đều do con ong vò vẽ chích trên cánh tay trái . Tôi nghĩ rằng mình lại phải đến bác sĩ nữa thôi. Nhưng tôi lấy ngay một đồng xu đặt lên vết chích và đợi 15 phút. Sáng hôm sau, tôi không nhận ra nơi con vò vẽ đã chích tôi . Không bị đỏ lên cũng không bị xưng lên.
      Nếu bạn chia sẻ kinh nghiệm này với mọi người để tránh trường hợp tương tự. Bạn nên có sẵn vài đồng xu trong túi hay ngay tầm tay.
      Bác sĩ nói rằng « chất đồng trong đồng xu đã vô hiệu hoá nọc độc của ong ». Thật là hiệu quả.    Xin bạn nhớ như thế và vui lòng chuyển tin này đến các thân hữu, các con và cháu của bạn.

Yên Đỗ sưu Tầm

Thứ Ba, 2 tháng 9, 2014

Không Lẽ - Phổ Nhạc & Trình Bày Nguyễn Đức Tri Ân




Thơ, Phổ Nhạc & Trình Bày Nguyễn Đức Tri Ân

Tâm Sự Mùa Đông


Người đời cứ bảo Đông sầu
lại còn thả chữ làm rầu nhánh thơ
bốn mùa mây vẫn giăng mơ
mơ hoa, mơ nắng, lá chờ, lá rơi
vậy là bốn cõi rong chơi
gia đình, bè bạn, yêu đời, yêu nhau

Chỉ là đất thấp trời cao
trợt chân đất thấp nhảy nhào lên mây
thong dong quảy túi thơ đầy
thơ đâu có tuổi, cây thay lá đời
thơ theo mây, hỏi ông trời
bốn mùa đâu có đổi dời tình yêu?
cám ơn trời rộng có nhiều
nhiều vô số kễ những điều dễ thương

Mùa đông thì cũng tình trường
yêu tuyết, ghét lạnh, thương đường trăng soi
hoa mùa đông ở lòng tôi
ngắm hoa tôi thấy tim đời như thơ
mùa đông ơi tôi vẫn chờ
môi em lạnh quá tôi hơ lửa hồng!
Phạm tương như
Jun  11  2013

Một Thoáng Phù Tang


Cứ mỗi lần trở lại Nhật Bản là tôi có thêm một ấn tượng khác, những ấn tượng này chồng chất lên nhau cho tôi một kết luận là một xã hội văn minh cần xuất phát từ những con người văn minh trong đó dân trí và "quan trí" phải được tôi luyện qua một thời gian dài. Nhưng quá trình "trăm năm trồng người" của Nhật Bản không phải là con lộ du kích "đi tắt đón đầu" mà là một con đường dài lắm chông gai. Thời du học vài thập niên trước của tôi tại Nhật Bản không cho một ấn tượng gì sâu sắc về đất nước Phù Tang này, có lẽ vì thời gian ở đây không đủ dài, cũng như vì chuyện học hành chỉ vùi đầu vào sách vở rồi phải tất bật kiếm sống, cộng thêm một chút ham vui của tuổi trẻ, đã chiếm hết thời gian để có cái nhìn phân tích khách quan về sự hùng mạnh của Nhật Bản trong vài trăm năm qua.
Nhờ vào sự sắp xếp cẩn thận của người thân tại Nhật và internet, chuyến du hành Nhật Bản phần lớn bằng xe lửa siêu tốc Shinkansen đã đưa tôi đi qua hàng ngàn cây số, ngang dọc miền Tây Nam nước Nhật bao gồm ba đảo lớn Honshu, Shikoku và Kyushu. Trong vòng mười ngày, tôi đặt chân đến những thành phố lớn, thị trấn nhỏ, đi tham quan các di tích lịch sử, những khu du lịch thời thượng và đến tận vùng "hoang vu" quê mùa.

Xe lửa siêu tốc Shinkansen
Với cái vé Japan Rail Pass giá đặc biệt cho du khách nước ngoài, người ta có thể dùng xe lửa các loại đi khắp nơi, kể cả xe lửa siêu tốc (bullet train) Shinkansen, với số lần sử dụng vô hạn định trong một thời gian được qui định trước. Có thể nói xe lửa Nhật là một hệ thống giao thông công cộng hoàn hảo bậc nhất thế giới. Giờ đi giờ đến được thiết kế chính xác từng phút và áp dụng nghiêm chỉnh từ xe vài toa chạy chậm ghé từng nhà ga ở vùng quê tới xe lửa siêu tốc Shinkansen đi xuyên qua các thành phố lớn nhỏ ở chốn phồn hoa đô hội.

Xe lửa Shinkansen là một niềm tự hào của người Nhật. Hơn 44 năm qua (từ năm 1964), Shinkansen là một phương tiện di chuyển nhanh được thiết kế chạy trên đường ray cổ điển bình thường và chưa một lần xảy ra tai nạn. Từ đống tro tàn chiến bại của Đệ nhị Thế chiến, chính phủ Nhật Bản đã có một tầm nhìn chiếc lược khôn ngoan là đối với một quốc gia đất hẹp người đông, Nhật Bản cần một hệ thống đường sắt mới (Shinkansen có nghĩa là "tuyến đường mới") cho xe siêu tốc để gia tăng sự di động của dân chúng giữa các thành phố lớn và cũng để kích thích nền kinh tế qua giao thông. Để thực hiện dự án mang tính cách mạng này chính phủ Nhật đã kiên nhẫn thuyết phục Ngân hàng Thế giới cho vay 80 triệu USD (không bị cắt xén vì tham nhũng!) để xây đoạn đường sắt đầu tiên Tokyo - Osaka (600 km) và khánh thành năm 1964 vài tháng trước Tokyo Olympic. Thời gian đi lại giữa hai thành phố này giảm từ 7 tiếng xuống còn 3 tiếng. Ở thập niên 1960, đây là một kỳ tích của thế giới. Trong bốn mươi năm qua, tốc độ của xe Shinkansen tăng từ 200 km/h đến 250 km/h, 280 km/h và bây giờ 300 km/h. Đầu xe bây giờ đa dạng hơn, không còn hình dạng "đầu đạn" nguyên thủy nữa mà trở nên dài ra hình mỏ vịt. Theo sự quan sát của tôi thì đường ray không thay đổi nhưng đầu xe đã được thiết kế nhiều dạng khác nhau để gia tăng hiệu quả khí động lực học làm giảm sức cản không khí (Hình 1).
Hình 1: Xe lửa siêu tốc Shinkansen.

Đứng trên những nhà ga trung tâm như ga Tokyo, cứ năm mười phút là có một chuyến tàu Shinkansen đến hoặc đi, hay trên nhà ga tỉnh lẻ những đoàn tàu siêu tốc sầm sập chạy qua như mũi tên bay, chưa kịp chụp một bức ảnh thì tàu đã lao đi. Trong khoảng thời gian tôi du hành tại Nhật, công ty đường sắt Nhật Bản tuyên bố cho về hưu toàn bộ xe siêu tốc Shinkansen "Hệ Zero" đầu đạn tròn nguyên thủy. Chuyến xe cuối cùng không còn một chỗ trống. Hàng ngàn "fan" đứng đợi tại các nhà ga để từ giã chuyến xe cuối cùng và chụp hình kỷ niệm như là chia tay với một người thân và cũng để cảm tạ sự phục vụ tận tình của Hệ Zero trong 44 năm qua. Tình cảm người Nhật là như vậy.
Lịch sử phát triển đường sắt gắn liền với sự phát triển đời sống của người dân và nền kinh tế Nhật Bản. Cùng một nhịp điệu phát triển với xe siêu tốc Shinkansen, những chuyến tàu chậm địa phương cũng được nâng cấp toàn bộ. Xe lửa Nhật cũng đã có một thời kỳ mông muội sơ khai. Nhớ lại vài thập niên trước, bàn cầu toilet của những chuyến xe lửa nhà quê lên tỉnh chỉ là một lỗ trống thông ra bên ngoài. Có nghĩa là những sản phẩm bài tiết cứ thế đi thẳng xuống đường ray, "gởi gió cho mây ngàn bay". Vì vậy trước khi tàu dừng ở ga, ông trưởng tàu lúc nào cũng ân cần dặn dò hành khách ráng kiên nhẫn ngừng lại những hoạt động bài tiết! Nhưng đây là chuyện của quá khứ. Những chuyến tàu liên tỉnh giờ đây đèn đuốc sáng choang, ghế bọc da đẹp hơn ghế cấp business hàng không, toilet có cửa tự động, sạch sẽ rộng rãi như một en-suit trong khách sạn.

Kochi: Miền đất hào kiệt
Tôi và người thân đến thành phố Kochi (tỉnh Kochi) trong một ngày nắng ấm. Kochi là một tỉnh phía Nam của đảo Shikoku rất phong phú về nông và hải sản; phía nam nhìn ra Thái bình dương, phía bắc có rừng núi vây quanh. Shikoku là đảo nhỏ nhất trong bốn đảo chính, Honshu, Hokkaido, Kyushu và Shikoku tạo thành nước Nhật.
Mặc dù ở một địa thế không thuận lợi, nhưng miền đất Kochi (tên cũ là Tosa-han) này đã sản sinh ra hai nhân vật lỗi lạc khác giai cấp, sinh ra cùng thời, mang trách nhiệm lịch sử to lớn, cùng quyết định sự hưng vong và canh tân của Nhật Bản. Sakamoto Ryoma là một samurai trẻ tuổi mang ý chí cách mạng. Ông là một nhà thương thuyết tài ba đã hòa giải hai thế lực thù địch của hai tỉnh khác nhau (Satsuma-han và Choshu-han) cùng liên minh để tiến hành việc lật đổ chính quyền Mạc Phủ làm cuộc vận động Minh Trị Duy Tân (1867) lừng danh thế giới [1]. Ông bị tử thương trong cuộc mưu sát năm 33 tuổi. Cuộc đời bi hùng nhưng ngắn ngủi của ông được kịch hóa trong bộ phim tiểu thuyết lịch sử trường thiên và sẽ được phát hình trên kênh truyền hình quốc gia NHK vào năm 2010.
Nhân vật thứ hai là Nakahama Manjiro. Manjiro xuất thân ngư dân, bị đắm thuyền ngoài khơi lúc 14 tuổi (1841) được tàu Mỹ vớt mang về Mỹ và được một người Mỹ nuôi cho ăn học. Do một sự ngẫu nhiên và may mắn, ông là người Nhật đầu tiên đến Mỹ và cũng là người Nhật nói tiếng Anh đầu tiên. Ông có tên Mỹ là John, người Nhật gọi ông là "John" Manjiro. Mười năm sau, ông tìm cách trở về Nhật giúp nước, hoạt động trong ngành ngoại giao, thông dịch và hàng hải trong buổi giao thời giữa Mạc Phủ và Minh Trị. Ông cung cấp những thông tin vô cùng quan trọng về Mỹ cho chính quyền Mạc Phủ đương thời. Ông viết ra quyển tự điển "Anh ngữ Đàm thoại" đầu tiên cho đại chúng Nhật và dịch sách hàng hải tiếng Anh. Trong những anh hùng của Minh Trị Duy Tân, ông chỉ là một bóng mờ "văn nhân" nhưng có công lớn trong quá trình duy tân đất nước.
Ngày nay, người dân Kochi dựng tượng đài, bia đá, tổ chức ngày văn hóa, các giải thưởng mang tên hai ông để nhớ ơn hai người con Kochi lỗi lạc của dân tộc.

Kochi: Dòng sông xanh

Kochi nổi tiếng với những dòng sông lớn. Nói là sông lớn nhưng đó chỉ là những dòng chảy ngắn và nhỏ khi so với những chi lưu của dòng Mekong. Chúng tôi đến thăm dòng sông Shimanto. Người ta gọi Shimanto là "dòng sông xanh cuối cùng" của nước Nhật vì đây là dòng sông duy nhất không có đập nước. Từ thành phố Kochi đến Shimanto không hơn 120 km nhưng cũng phải vượt qua gần 50 cái đường hầm xuyên chân núi dài ngắn khác nhau, khi vài chục thước khi vài cây số. Dọc hai bên đường ô tô hay xe lửa là những thửa ruộng nhỏ vài chục mét vuông hay nhiều lắm vài hecta nối tiếp nhau bị ngăn chia bởi núi đồi. Địa hình của toàn thể nước Nhật cũng tương tự như vậy với 70 - 80 % bao phủ bởi rừng núi. Những cánh đồng ngút ngàn như đồng bằng sông Cửu Long không hiện hữu trên đất nước cằn cỗi này. Kỹ thuật đào đường hầm hay đào lòng biển của Nhật vì vậy đạt mức hàng đầu thế giới.
Dòng sông này không phải là Vườn quốc gia (National Park) mà chỉ là một nơi bình thường với ngư dân sống lác đác dọc hai bên bờ. Sự hiện đại hóa của nước Nhật để lại rất ít những hình ảnh hoang vu như cảnh vật dòng Shimanto. "Dòng sông xanh cuối cùng" cũng là một con sông ngắn với dòng chảy êm đềm. Ngư dân ở đây vẫn còn giăng lưới bắt cá hoặc lươn, một việc bình thường ở Việt Nam nhưng lại là những cảnh quan hiếm thấy tại Nhật. Cuộc sống bươn chải, lao lướt của thành phố khiến người Nhật phải tìm đến những miền hoang dã như dòng sông Shimanto để hòa điệu cùng thiên nhiên, tìm về cái yên tĩnh và mộc mạc của nước Nhật 50 hoặc 100 năm trước (Hình 2).
Hình 2: Dòng sông xanh Shimanto.
Chúng tôi thuê một chiếc thuyền đi dọc theo dòng sông. Dòng sông trong xanh trôi nhè nhẹ qua những cây cầu xi măng bắt ngang vừa đủ cho một chiêc xe hơi nhỏ chạy qua. Người dân ở đây gọi những cây cầu này là Chinka-bashi (Trầm hạ kiều = cầu chìm). Tôi tò mò hỏi ông lái thuyền sao gọi là cầu chìm, ông từ tốn trả lời "Dòng sông này mỗi năm ngập 2, 3 lần và ngập luôn cầu nên gọi là cầu chìm". Tôi hỏi tiếp "Sao không làm cao?", "Làm cao tốn kém lại không cần thiết, nếu ngập thì chỉ 2, 3 ngày là nước rút đi". Ông bảo vào năm 2005, một trận lụt khủng khiếp xảy ra, nước dâng cao 20 m chỉ cần thêm 1 m nữa thì tràn qua đê. "Anh có thấy cái nhà hai tầng xa xa đàng kia không?", ông nói, "Mực nước dâng cao qua khỏi nóc nhà đấy!". Cuộc sống hơi khó khăn vì lũ lụt thường xuyên nhưng ông bảo đây là quê hương và ông không muốn bỏ lên thành phố. Mùa Xuân, ngư dân giăng câu thắp những bóng đèn điện nhỏ để bắt lươn con về đêm. Những con lươn con sẽ được nuôi trong hồ cho đến khi trưởng thành. Món lươn nướng khoái khẩu và xúp lươn là một đặc sản trong vùng. Mùa Hè, dân thành phố kéo về đây để xem hàng vạn con đom đóm bay xung quanh bụi cây như những cây thông Christmas dọc theo dòng sông. Lâu lắm rồi tôi không nhìn thấy đom đóm và không biết bây giờ còn ở vùng quê Việt Nam?

Kochi: Ôn tuyền lữ quán
Nước Nhật bị công nghiệp hóa và người Nhật bị "stressed" cao độ. Có dịp, họ ùa nhau đi tìm sự thư giãn nơi mà họ có thể "yukkuri dekiru" (được thoải mái). Khi đi du lịch họ trú ngụ ở nhà khách truyền thống gọi là "ôn tuyền lữ quán" (nhà khách với suối nước nóng). Những lữ quán này có phục vụ trọn gói với phòng ngủ chiếu tatami, tắm suối nước nóng, ăn tối và ăn sáng theo phong tục Nhật. An Nam ta có "tứ khoái", nhưng tôi nghĩ Phù Tang hơn ta một "khoái", có đến "ngũ khoái"! Cái khoái thứ năm là thú tắm suối nước nóng. Nằm trong vòng lửa Thái Bình Dương, nước Nhật từ Nam chí Bắc đầy nguồn suối nước nóng, rải rác khắp nơi. Những "ôn tuyền lữ quán" mọc lên ở những địa điểm du lịch tạo ra khu thư giãn cuối tuần hay ngày lễ cho dân thành phố. Đây là nơi những cặp vợ chồng son cũng như những cặp vợ chồng luống tuổi, cụ ông cụ bà, hay là một nhóm đồng nghiệp lui tới cùng nhau thoải mái trong bể suối nước nóng, rồi sau đó tận hưởng các món cá, mực sống sashimi truyền thống, cùng khề khà chén chú chén anh qua cốc rượu sake. Nơi chúng tôi trú ngụ là một "ôn tuyền lữ quán" nổi tiếng Kochi với cái tên rất nên thơ "Thành Tây Quán" (Joseikan).
Các nghi thức hành xử (etiquette) trong bể nước nóng từ xưa đối với người Nhật đã trở thành một qui luật bất thành văn. Nhưng gần đây có lẽ lối thư giãn này hấp dẫn khách nước ngoài nên phải có "qui luật thành văn" phụ đề Anh ngữ, treo ở cửa ra vào. Rằng là bất kỳ nam phụ lão ấu phải hoàn toàn "như nhộng" không được mặc một thứ gì trên người kể cả đồ tắm; rằng là không được ồn ào, không được uống rượu, phải dội nước sạch sẽ trước khi ngâm mình trong bể; rằng là người có máu cao, mang thai chớ có liều lĩnh mà thọt cẳng vào. "Ôn tuyền lữ quán" nơi tôi trú ngụ thuộc hạng 5 sao nên ban quản lý càng chi tiết hơn về vệ sinh cá nhân. Rằng người nào có ghẻ nhọt thì không nên vào, nhưng ai mang bịnh trĩ thì cứ thoải mái không sao!

Bể nước được đặt trong một khoảng không gian rộng rãi, nước suối được mang từ ngoài vào chảy róc rách, được pha với nước lạnh để điều chỉnh nhiệt độ khoảng 42º - 45º C. Tôi tò mò tìm hiểu cái bảng phân tích treo bên cạnh bể; bảng liệt kê các chất khoáng chứa trong nước và các thứ bệnh như đau lưng, đau khớp, phong thấp, tay chân rỉ mồ hôi... mà nguồn suối này có khả năng trị liệu. Tôi từ từ ngâm mình vào nước, vừa lim nhim đôi mắt, vừa lắng tai nghe tiếng nước chảy để gia tăng sự đê mê trong bầu không khí đầy hơi nước, tận hưởng cái cảm giác râm ran của những làn nước nóng tưởng chừng như xuyên qua từng lỗ chân lông, đi vào từng thớ thịt. Bên cạnh cái bể lớn là cái bể nhỏ có cùng một nguồn nước nhưng treo thêm một cái bao rất to, hăng hắc mùi thuốc. Bảng phân tích cho biết cái bao này chứa 10 vị thuốc Bắc như đơn qui, trần bì (vỏ quít), cam thảo, quế, gừng..., chuyên trị năm ba thứ bệnh linh tinh khác. Kiểm điểm lại thì tôi thấy không bị mắc thứ bệnh nào, nhưng tiện chân nhảy vào cho mát da mát thịt. Sau khi tắm và ngâm trong suối nóng, tôi được trao cái áo yukata, một loại kimono nhẹ, mặc qua đêm và dùng cơm tối. Tôi súng sính mặc vào, choàng thêm một cái áo ngắn tay, ngắm tới ngắm lui, đi qua đi lại. Oai phong lắm lắm! Chỉ cần có thêm một búi tóc phía sau và cạo đầu chừa một chỏm tóc phía trước, bên hông vắt theo thanh kiếm dài katana là tôi biến thành samurai của thế kỷ 18!
Triết lý nhân sinh của người Nhật tập trung ở chữ "hòa" (hòa hợp, hòa bình). Sự giao tế giữa con người hay giữa con người với thiên nhiên xoay quanh chữ "hòa". Ngay trong ẩm thực, tôi cũng cảm thấy cái "hòa" khi ăn một miếng sashimi chấm nước tương với wasabi rồi uống một ngụm nhỏ sake (Hình 3, 4). Cái cay nồng của wasabi xông lên mũi chảy nước mắt dường như được "hòa" dịu bằng cái cay của hơi sake hâm nóng. Thêm cái dư âm lâng lâng, sảng khoái còn phảng phất sau cuộc ngâm mình trong bể nước suối "hòa" lẫn cái ngà ngà của men rượu, "mượn ba chén dập dìu trăng gió" [2]. Hai ba cái "khoái" cùng hòa hợp một lúc tạo ra hiệu ứng cộng hưởng đồng loạt (synergetic) cho ta một cảm giác tuyệt vời, không thể nào dùng lời tả hết…
Hình 3: Sashimi cá ngừ (katsuo), một đặc sản Kochi.


Hình 4: Một phục vụ viên của Thành Tây Quán.

Hiroshima: Bom nguyên tử
Tôi từ giã người thân và từ đảo Shikoku vượt Đại kiều (cầu lớn) Seto được bắc trên năm hòn đảo nhỏ nối liền hai đảo Shikoku và Honshu đi đến thành phố Hiroshima bằng chuyến tàu siêu tốc Shinkansen. Mới hai ngày trước, bầu trời mùa Thu trong xanh ấm áp bao nhiêu, thì bây giờ ảm đạm lạnh lẽo bấy nhiêu. Tôi nhìn bản đồ tìm về hướng Công viên Hòa bình. Ngọn gió đầu Đông mơn man thổi, những chiếc lá vàng bay lả tả như cánh bướm dọc theo một bờ sông nhỏ trong thành phố. Trong khung trời lãng mạn này, bỗng nhiên xuất hiện quang cảnh hoang tàn của tòa nhà bị bom nguyên tử. Ngày 6 tháng 8 năm 1945, quả bom nguyên tử đầu tiên đã nổ trên không cao 600 m trên tòa nhà này, để trơ lại cái vòm sắt và những bức tường đổ nát. Sức nóng tỏa ra từ quả bom làm sạm đen bề mặt bức tường tưởng chừng như mới xảy ra, mặc dù đã hơn 60 năm qua (Hình 5).

Hình 5: Tòa nhà bom nguyên tử (Di sản Thế giới).

Bên kia bờ sông là Công viên Hòa bình với Nhà Bảo tàng Hòa bình lưu trữ hình ảnh, hiện vật và tài liệu về hậu quả của quả bom nguyên tử Hiroshima. Ở giữa công viên, người ta xây một cái vòm tưởng niệm bằng đá hoa cương đơn giản không cao lắm (Hình 6). Đứng nhìn từ xa, cái vòm đá này như bao trọn tòa nhà bị bom ở phía xa xa, như che chở những linh hồn vô tội. Trong vòm đá người ta khắc một hàng chữ Nhật để tưởng nhớ cũng như để nhắn nhủ đến hàng trăm ngàn vong linh chết oan ức: "Xin hãy ngủ yên, vì lỗi lầm này sẽ không bao giờ lập lại".

Hình 6: Vòm tưởng niệm.

Trong cái lạnh cuối Thu, Công viên Hòa bình vẫn không vắng người. Hàng ngàn khách tham quan từ các nơi trên thế giới, những đoàn học sinh tiểu học, trung học từ mọi miền đất nước nườm nượp kéo về đây. Một nhóm học sinh mặc đồng phục chỉnh tề tay cầm một tập sách nhỏ, đứng trước tượng đài tưởng niệm "Thiếu nhi tử nạn vì bom". Tôi khẽ nhìn vào tập sách dày trên dưới 20 trang, thì ra đó là tập lịch trình tham quan, bài ca, tư liệu học tập và bài tập được thầy cô chuẩn bị cho chuyến đi. Dưới sự hướng dẫn của thầy cô, các cháu cúi đầu mặc niệm, sau đó đồng ca một bài tưởng niệm và tung hô hòa bình thế giới với tiếng nhạc đệm phát ra từ một máy cassette gần đó. Một cháu đại diện nhóm bước ra nói cảm tưởng của mình, sau đó là bài diễn văn ngắn của thầy hướng dẫn nói về ý nghĩa của chuyến đi. Mọi người đều trầm ngâm, không một tiếng nói chuyện cười đùa. Cuối cùng, các cháu mang những con hạc giấy origami xếp sẵn biểu tượng cho hòa bình được kết lại nhiều chùm đặt dưới tượng đài. Một buổi lễ ngắn nhưng thật là cảm động, đầy ý nghĩa.
Trong Nhà Bảo tàng, hiện vật do hậu quả bom nguyên tử gây ra được trưng bày với lời giải thích tỉ mỉ và những hình ảnh kinh hoàng gây trên cơ thể con người khiến người xem không cầm được nước mắt hay phải nhắm mắt bỏ ra ngoài. Từ trung tâm bom nổ đến phạm vi bán kính 1 km, người ta chết tức khắc vì sức nóng. Nhiệt tỏa ra từ quả bom nóng đến độ làm mềm gốm sứ và tan chảy kim loại trong vòng bán kính 600 - 700 m. Ta có thể đoán sức nóng ít nhất phải trên 1000 °C. Toàn thể những tài liệu hướng dẫn, lời ghi chú, giải thích ở Nhà Bảo tàng, tôi không thấy xuất hiện những ngôn từ mang tính chất khiêu khích, hiếu chiến như "tội ác", "hận thù", "đế quốc" hay "xâm lược".
Tôi chú ý đến bức hình của Albert Einstein chụp chung với nhà vật lý người Mỹ gốc Hung gia lợi, Leo Szilard, trong thời gian khi hai người cùng thảo bức thư đề nghị tổng thống Roosevelt làm bom nguyên tử (năm 1939). Bản copy của bức thư định mệnh này mang địa chỉ nhà riêng và chữ ký của Einstein được trang trọng để trong lồng kính. Có một đoạn quan trọng của bức thư được tô đỏ và dịch ra tiếng Nhật. Trong đoạn này Einstein nói đến khả năng làm một loại bom cực kỳ mạnh với sức tàn phá vô song chưa từng thấy và khẩn thiết đề nghị tổng thống Mỹ lập ra một chương trình chế tạo loại bom này. Đọc xong bức thư, Roosevelt không chần chừ do dự và chương trình cực mật Manhattan ra đời.
Việc Einstein đề nghị làm bom nguyên tử là một thường thức lịch sử, nhưng khi đối mặt với bức thư định mệnh này, tôi sốc. Tôi lặng lẽ bước ra ngoài thầm nghĩ Einstein không những là một thiên tài khoa học mà cũng là một con người đạo đức đầy tính nhân bản, ông tranh đấu cho công bằng xã hội, dân chủ, sự thật, nhân quyền suốt cả đời người. Là một người làm khoa học và hiểu rõ sức mạnh của công thức E = mc², phương trình cơ bản cho việc chế tạo bom nguyên tử, Einstein thừa hiểu đây là một loại vũ khí hủy diệt. Nhưng động cơ nào đưa đẩy ông vào cõi vô minh, khiến ông có thể viết một bức thư khuyến khích các chính trị gia lao đầu vào cuộc thí nghiệm trên cơ thể con người bằng phương pháp thảm sát tập thể đồng loại, tàn phá môi sinh, chưa nói đến những cuộc chạy đua vũ khí hạch nhân cho đến ngày hôm nay? Tôi thật sự hoang mang, không tìm ra câu trả lời.
Qua cửa sổ tầng hai của Nhà Bảo tàng, tôi nhìn thấy vòm tưởng niệm đá hoa cương và tòa nhà bị bom thấp thoáng đàng xa. Ánh sáng ban mai xuyên qua kẽ hở của những cụm mây dày mùa Thu làm rực sáng bãi cỏ xanh bên dưới; nổi bật lên những chiếc áo đồng phục màu vàng của đám trẻ con lớp mẫu giáo đang tung tăng theo cô giáo như đàn gà con theo mẹ. Tôi vừa xốn xang nhìn về một quá khứ kinh hoàng, vừa đăm chiêu chiêm ngưỡng một hiện tại an bình. Chưa bao giờ trong tôi lại nổi lên một tình cảm chán ghét chiến tranh đến thế...

Hiroshima: Miyajima
Hiroshima không phải chỉ có bom nguyên tử. Cách thành phố một giờ xe lửa và qua một con phà sẽ đưa ta đến đảo Miyajima. Đứng trên con phà, ta sẽ thấy cái cổng đền (tiếng Nhật gọi là torii) cao 15 m màu đỏ rực xuất hiện từ xa, đứng sừng sững như in trên nền màu xanh tươi của rừng núi phía sau. Đây là một kiến trúc đặc thù Nhật Bản và cũng là hình ảnh biểu tượng của đất nước Thái dương Thần nữ. Torii là cổng dựng trước những ngôi đền Thần đạo (Shinto). Kiến trúc những đền Thần đạo hay chùa Phật giáo mang một sắc thái đặc biệt Phù Tang. Với những nét chấm phá đơn giản, hình dạng và độ cong của mái ngói, chúng dễ dàng phân biệt được với những kiến trúc Trung Quốc (Hình 7, 8).

Hình 7: Cổng torii trong sương sớm (Di sản Thế giới).
Hình 8: Đền Thần đạo tại đảo Miyajima

Cổng torii và đền Thần đạo của đảo Miyajima nổi tiếng từ xưa vì nó được xây trên bãi biển vào năm 1168 và bây giờ là Di sản Thế giới. Một vị tướng quân cai trị vùng này thời đó có một ý tưởng là xây một ngôi đền "nổi". Bãi biển là một nơi lý tưởng để dựng đền vì mỗi lần thủy triều lên, chân đền ngập nước và cho một cảm giác "nổi" trên nước. Tôi đến nơi này vào một buổi sáng sớm khi thủy triều còn thấp. Nhiều phó nhòm chuyên nghiệp với dụng cụ nhiếp ảnh đắt tiền kiên nhẫn chờ đợi nước triều lên và hoàng hôn xuống để chụp được những bức ảnh nhiều màu sắc mang sự hài hòa giữa kiến trúc của con người, rừng núi và bầu trời của thiên nhiên.

Nagasaki: Thành phố lịch sử
Từ Hiroshima tôi tiếp tục cuộc hành trình đi về hướng Tây tiến về đảo Kyushu đến thành phố Nagasaki. Việc nối kết bốn hòn đảo chính bằng cầu hay đường hầm chạy dưới lòng biển là một kế hoạch manh nha từ thời Minh Trị Duy Tân. Đến ngày hôm nay, Nhật đã hoàn thành tất cả những kế hoạch này và đây là những công trình vĩ đại của lịch sử công nghệ xây dựng. Từ đảo Honshu qua đảo Kyushu một đường hầm dài gần 19 km xuyên qua lòng biển đã được thực hiện cho xe lửa siêu tốc Shinkansen có thể chạy đến 300 km/h.
Nagasaki là một thành phố cảng ở phía Tây Bắc đảo Kyushu, nằm ở một vị trí chiến lược gần bán đảo Triều Tiên, đại lục Trung Quốc và Đài Loan (Hình 9). Nagasaki là cái nôi của nền khoa học kỹ thuật hiện đại Nhật Bản, mang một ý nghĩa lịch sử sâu sắc trong việc canh tân biến nước Nhật từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một cường quốc ngang hàng với phương Tây ở thế kỷ thứ 19. Nagasaki là thành phố thứ hai bị bom nguyên tử. Khi người Nhật chưa hết bàng hoàng vì quả bom Hiroshima, thì ba ngày sau Mỹ bỏ quả bom thứ hai trên thành phố này.

Hình 9: Sông Nakajima chảy ngang thành phố.
Đàng xa là cây cầu đá Megane-bashi (cầu Mắt kiếng) lâu đời nhất do một nhà sư Trung Quốc xây vào thế kỷ 17.

Cũng như Hiroshima, Nagasaki đã hoàn toàn khắc phục hậu quả của vết thương nguyên tử và trở thành một thành phố hiện đại. Hiện nay, toàn tỉnh đang tham gia phong trào vận động chính phủ kéo tuyến đường xe lửa siêu tốc Shinkansen đến Nagasaki để tăng tốc nhịp độ kinh tế địa phương. Dù là một tỉnh ở cực Nam nước Nhật (có thể so sánh như Kiên Giang hay Cà Mau của ta), các cô gái Nagasaki cũng thời thượng không kém dân Tokyo. Một người bạn viết email hỏi tôi "Con gái Nagasaki có đẹp không?", không một chút do dự tôi trả lời rằng "Đẹp một cách thần thoại". Các cô gái trang điểm rất nhẹ, không nặng nề loè loẹt. Nhật Bản là nước có nhiều trung tâm giải phẫu thẩm mỹ cao cấp, nhưng phụ nữ Nhật dường như không thích chỉnh sửa bằng dao kéo. Ngược lại quí bà quí cô sẵn sàng trút hầu bao mua các loại mỹ phẩm Shiseido đắt giá để tạo cho những đôi mắt một mí Nhật Bản có một vẻ đẹp đặc thù, hay để làm nổi bật cái sóng mũi dọc dừa, cái cằm trái xoan, bằng sự điều hòa giữa các gam màu mỹ phẩm. Thời trang của các cô cho mùa Thu năm nay là đôi giày ống da cao đến gối, bó lấy đôi chân thon dài nhún nhảy, đi với cái mini-skirt trêu ngươi hay là cái quần short ngắn thật sát để lộ một phần đùi dài ít nhất 20 cm. Mỗi người mỗi kiểu. Các nhà thiết kế thời trang và công ty mỹ phẩm Shiseido quả là có nhiều sáng kiến moi tiền và phụ nữ Nhật cũng đáp ứng nhiệt tình, tiêu xài rộng rãi, đóng góp không ít vào nền kinh tế Nhật qua cái khoản chi tiêu làm đẹp.
Ngược dòng lịch sử, trở về quá khứ. Từ thế kỷ thứ 16, Nagasaki trở thành một cảng quốc tế giao thương với người Trung Quốc và các thế lực Âu Tây đương thời như Bồ Đào Nha và Hà Lan. Cũng từ Nagasaki, các đội thương thuyền Nhật Bản vượt trùng dương buôn bán với Trung Quốc, Việt Nam (Phố Hiến, Hội An), Campuchia, Phillipines, Thái Lan và đến tận Indonesia và Mã Lai. Các giáo sĩ Bồ Đào Nha sớm mang Kitô giáo đến truyền bá trên đất nước Thái dương Thần nữ và xây nhiều giáo đường trước khi chính quyền Mạc Phủ ra lệnh "tỏa quốc" (sakoku, tức là bế quan tỏa cảng), cấm đạo, trục xuất người Bồ Đào Nha và giết giáo sĩ. Số người Nhật theo Kitô giáo rất ít, nhưng không ở đâu trên nước Nhật dấu ấn của Kitô giáo đậm đà và sâu sắc như tại Nagasaki. Hàng chục giáo đường lớn nhỏ tại Nagasaki và những vùng lân cận vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Các vị nữ tu thường đi lại trên đường phố hay trên các phương tiện giao thông công cộng; một cảnh tượng hiếm thấy trong các thành phố Nhật Bản. Nhiều giáo đường trở thành Quốc Bảo (di sản quốc gia) được chính phủ hay các hội đoàn địa phương trùng tu liên tục (Hình 11). Người Trung Quốc cũng di dân đến Nagasaki từ thời mạt Minh và đến khi nhà Thanh thành lập số người Hoa gia tăng, mang theo tinh thần "phản Thanh phục Minh" chờ dịp lật đổ triều đình Mãn Thanh. Sự ngẫu nhiên lịch sử đã đưa đẩy Nagasaki trở thành giao điểm của hai nền văn hóa Đông và Tây, đi song song và bổ sung nhau, tạo thành một nét đặc thù văn hóa không tìm thấy ở các thành phố khác của Nhật.

Hình 10: Một giáo đường tại Nagasaki.

Trong buổi sáng đầu tiên lành lạnh của thành phố cảng này, tôi đi xe điện (tram, streetcar) tìm đến con đường lịch sử, Teramachi-dori (đường xóm Chùa). Gần 10 ngôi chùa cổ với số tuổi 300 - 400 năm được mang danh hiệu Quốc Bảo (di sản quốc gia), tọa lạc trên con đường hẹp và dài 2 km này. Chính quyền Mạc Phủ đương thời cho phép mỗi tông phái Phật giáo xây một ngôi chùa dọc theo con đường tiếp giáp với chân núi Kazarashira. Hai ngôi chùa Trung Quốc, Hưng Phước Tự (Kofukuji) và Sùng Phước Tự (Sofukuji) (Hình 11), ở đầu và cuối con đường có lẽ là hai ngôi chùa cổ nhất của Teramachi. Chùa được di dân người Hoa ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) trong thời gian đầu lập nghiệp xây dựng với vật liệu mang từ Trung Quốc. Hòa thượng Ẩn Nguyên (Ingen) từ Phước Kiến đến đây truyền bá Thiền Tông (1654), lập ra trường phái thiền Hoàng Bá và trở thành một vị Đại Sư được tôn kính rất mực của Phật giáo Nhật Bản.

Hình 11: Chùa cổ Trung Quốc, Hưng Phước Tự.

Nagasaki: Nàng công nương họ Nguyễn
Ở giữa con đường xóm Chùa là Đại Âm Tự (Daionji). Ngôi chùa này có ít nhiều liên hệ đến Việt Nam. Phía sau ngôi chùa là một nghĩa trang lâu đời dọc theo triền núi, có hàng ngàn, chục ngàn ngôi mộ chôn hài cốt của giai cấp quí tộc và giai cấp võ sĩ "samurai" vài trăm năm trước [3]. Dựa theo thông tin của một ông bạn tại Nagoya, tôi đến thăm chùa với mục đích tìm ngôi mộ của một vị công nương Việt Nam, con của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên được gả về Nagasaki năm 1619, kết hôn với Araki Sotaro (Hoang Mộc Tông Thái Lang), một thương nhân nổi tiếng đương thời và cũng là nhà hàng hải kiệt xuất thuộc dòng dõi samurai. Đại Âm Tự là một trong những ngôi chùa lớn tại Nagasaki. Tiếc rằng, trận hỏa hoạn năm 1959 đã thiêu hủy toàn thể ngôi chùa. Chùa được xây cất lại nhưng không còn vẻ cổ kính như xưa.
Tôi đi đến văn phòng chùa hỏi thăm địa điểm ngôi mộ cổ. Bà quản lý tử tế chỉ dẫn và nhanh nhẹn lướt qua một số tài liệu, in ra cho tôi một trang nói về phần mộ của dòng họ Araki. Thì ra, ngôi mộ được chỉ định là "Sử tích của thành phố Nagasaki". Tôi thầm phục cách lưu trữ tài liệu, phân loại và xử lý văn bản lịch sử của người Nhật. Chỉ trong vòng vài phút, một người quản lý bình thường của một ngôi chùa có thể tìm ra tên tuổi người quá cố qua đời vài trăm năm trước giữa hàng chục ngàn cái tên khác.
Theo lời chỉ dẫn, tôi leo lên hơn 200 bực đá dọc theo triền núi, quẹo trái quẹo phải, đi qua hàng trăm ngôi mộ cổ được sắp xếp thứ tự theo từng gia tộc, phần lớn đã rêu phong, những chữ khắc vào đá cũng đã phai mờ. Ở mỗi phần mộ tôi nhận thấy có bia đá nhỏ khắc chữ "Thổ thần" giữ mộ. Một tập tục Trung Quốc ảnh hưởng đến phong tục của người Nagasaki. Tôi không thấy những bó hoa tươi, dấu vết hương khói hay sự lui tới thường xuyên của con người, chỉ có những làn gió vi vu thổi qua ngọn đồi làm không gian vốn đã u tịch lại càng đượm thêm một màu thê lương. Có lẽ, vì là mộ cổ con cháu của người quá cố đã ly tán khắp nơi, không còn ai còn nhớ đến quá khứ và trở lại chăm sóc mộ phần. Mộ phần nhà Araki cũng dễ tìm, trước cổng mộ thành phố Nagasaki có dựng một bảng tóm tắt tiểu sử của ông Araki Sotaro và người vợ, một công nương Việt Nam với cái tên Nhật (?) Wakaku (từ Hán Việt: Vương Gia Cữu) (Hình 12, 13). Đứng trước ngôi mộ tôi chấp tay cúi đầu, hy vọng rằng sẽ có hài cốt của một công nương quyền quí nằm trong lòng đất này.

Hình 12: Mộ phần dòng họ Araki.

Hình 13: Bảng tiểu sử ông Araki Sotaro và vị công nương Việt Nam do thành phố Nagasaki dựng lên.

Tôi tìm hiểu thêm về mộ phần của Araki Sotaro qua thông tin trên trang copy từ sách tài liệu của nhà chùa. Được biết, Araki Sotaro sau khi thành hôn với công nương Wakaku ông tự đặt thêm một tên Việt Nam là Nguyễn Thái Lang. Công nương Wakaku nổi tiếng và được người dân Nagasaki gọi bằng cái tên thân mật là Anio-san (anio = A Nương theo từ Hán Việt, có thể dịch là "cô nương"). Công nương mất năm 1645, như vậy bà sống ở Nhật 26 năm, được ban pháp danh là Diệu Tâm. Một pháp danh rất là Việt Nam. Cũng theo trang thông tin này, hơn hai trăm năm sau vào thời Minh Trị mộ phần của Akira Sotaro và Anio-san được con cháu đời thứ 13 cải táng và mộ phần hiện tại chỉ có đời thứ 3, thứ 12, 13 và 14 (Araki Sotaro là đời thứ 1).
Cuộc đời của Araki Sotaro và công nương Việt Nam Wakaku sẽ có rất ít người biết nếu chỉ dựa vào bảng tiểu sử ở một nghĩa trang heo hút và tài liệu "đóng bụi" của Đại Âm Tự. Nhưng câu chuyện tình Nhật Việt này đã được mang ra trình bày và giải thích bằng hai thứ tiếng Nhật và Anh cùng với những mẩu chuyện khác về Nagasaki ở thế kỷ 17, 18 tại địa điểm tham quan lịch sử Dejima (đề cập ở phần sau). Tài liệu Nhật còn cho biết khi nàng Wakaku cập bến Nagasaki, một cuộc đón tiếp long trọng được tổ chức để đón cô dâu quí tộc đến từ Nam quốc xa xôi. Trang phục của cô dâu đã gây một ấn tượng đặc biệt cho người dân Nagasaki và từ đó về sau nó trở thành một tiết mục thời trang cho lễ hội (matsuri) hàng năm của thành phố đến tận ngày hôm nay. Trong khi đó, lịch sử Việt Nam không có một giòng chữ nào đề cập đến số phận của nàng công nương xa xứ họ Nguyễn.
Phải công nhận rằng người Nhật có cách quảng bá lịch sử rất sáng tạo và khoa học. Ở những địa điểm du lịch, họ dựng bảng giải thích các di tích với hình ảnh, bản đồ, niên biểu, và lời dịch tiếng Anh rất chính xác, gần đây thêm tiếng Hoa và tiếng Hàn. Đối với những sự kiện lịch sử lớn lao đặc biệt là vào thời Mạc Phủ và Minh Trị Duy Tân, họ nghiên cứu, sưu tập tư liệu làm những bộ phim tập trường thiên chiếu trên kênh truyền hình quốc gia NHK để tôn vinh một thời đại, một vương phi hay một nhân vật samurai anh hùng. Vì tính chất hấp dẫn của những bộ phim samurai lịch sử này, phim chưởng Hong Kong hay Trung Quốc với những màn đánh nhau loạn xị, vô cảm nằm ngoài thị hiếu của khán giả và không bao giờ xâm nhập được vào thị trường tivi và điện ảnh Nhật Bản. Ngoài ra, kênh truyền hình giáo dục NHK [4] có những giờ lịch sử được trình bày sống động theo lối "kể chuyện cổ tích" xen vào những khúc phim miêu tả (re-enactment) hay phim tài liệu ngắn rất cuốn hút người xem.

Nagasaki: Dejima
Dejima là một địa danh lịch sử của Nagasaki và của Nhật Bản. Nói đến lịch sử cận đại Nhật Bản thì phải đề cập đến Dejima. Cũng không phải quá lời khi gọi Dejima là cái nôi của khoa học kỹ thuật cận đại Nhật Bản. Trong suốt thời kỳ "tỏa quốc" (bế quan tỏa cảng) của chính quyền Mạc Phủ, nước Nhật tự cấm vận chính mình không giao thương với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Tuy nhiên, chính quyền Mạc Phủ khôn ngoan mở ra một "cửa sổ" nhỏ để nhìn thế giới. Đó là Dejima (Hình 14).

Hình 14: Mô hình toàn cảnh Dejima

Dejima là một hòn đảo nhân tạo rộng 15.000 m2 được chính quyền Mạc Phủ xây cất để cho người Hà Lan mướn và lập văn phòng của các công ty thương thuyền, nhà ở cho nhân viên. Người Hà Lan được phép đi lại vì họ chỉ buôn bán và không liên hệ đến các hoạt động truyền giáo. Trong những đoàn thương nhân này, có những vị bác sĩ đến đây để chăm sóc sức khoẻ của nhân viên và thủy thủ. Những sĩ phu yêu nước không phân biệt giai cấp từ Edo (Tokyo), Kyoto, Osaka, đã lũ lượt kéo về Nagasaki đến Dejima tìm gặp các vị bác sĩ này để "tầm sư học đạo". "Đạo" ở đây là Lan học (cái học của Hà Lan), có nghĩa là cái học của khoa học kỹ thuật Tây phương. Năm 1774 bộ sách y khoa về giải phẫu học tiếng Nhật đầu tiên và cũng là quyển sách khoa học đầu tiên, "Giải thể tân thư", ra đời dựa theo nguyên bản tiếng Hà Lan. Từ đó Lan học và phong trào dịch thuật lan rộng cả nước nhanh chóng như lửa rừng, đồng thời đẩy lùi cái học "ngũ thư, tứ kinh" vào bóng tối. Những môn học khác như thực vật học, dược học, nông học, vật lý, hóa học, toán học lần lượt được phổ biến. Thời thế tạo anh hùng. Vào đầu thế kỷ 19, những nhà Lan học lỗi lạc xuất hiện, lập trường học đào tạo nhân tài, đặt một nền tảng khoa học kỹ thuật cho cuộc vận động Minh Trị Duy Tân sau này.
Ngày nay Dejima không phải là hòn đảo nữa vì xung quanh người ta đã lấp đất lấn ra biển. Trên địa điểm cũ những ngôi nhà xưa được phục nguyên và sinh hoạt của người Hà Lan được tái hiện theo tài liệu lịch sử. Bộ sách "Giải thể tân thư" và bộ tự điển đầu tiên Nhật - Hán - Anh - Hà Lan viết bằng tay được trưng bày tại đây cho thấy sự cầu tiến và kiên nhẫn của các nhà Lan học. Trong phòng triển lãm, tôi chú ý đến cái đồng hồ quả lắc, ống nhòm thiên văn, cây súng trường, khẩu súng lục chế tạo vài trăm năm trước mô phỏng theo Hà Lan, Bồ Đào Nha, được cải thiện cho thích hợp với người Nhật Bản.
Tinh thần phân tích, suy diễn, cải thiện và khiêm tốn học hỏi thấm sâu trong tư duy người Nhật đã giúp họ phát triển mọi mặt. Vào thế kỷ thứ 8, người Nhật Bản sang nhà Đường (Trung Quốc) du học, vay mượn Hán tự làm văn tự của mình và cách tổ chức hành chánh của triều đình nhà Đường để an bang trị quốc. Họ cải thiện Hán tự và dùng cho đến ngày hôm nay mà không mang một chút mặc cảm vay mượn. Trái lại, họ đã đóng góp rất nhiều vào việc phong phú hóa Hán tự và hội nhập văn tự này vào ngôn ngữ khoa học thế giới. Kể từ khi Lan học xuất hiện, người Nhật đã dùng tiếng Hán để dịch những từ ngữ y học, khoa học tự nhiên và nhân văn. Những thuật ngữ như: vật lý, hóa học, số học, vi phân, tích phân, phương trình, quĩ đạo, lượng tử v.v…, hay trong khoa học nhân văn: kinh tế, chính trị, dân chủ, xã hội, chủ nghĩa, cộng sản, là những từ Hán Nhật mà sau này ông thầy Trung Quốc phải vay mượn lại "học trò" Nhật để bắt kịp thế giới.
Đến tham quan Dejima, tôi thấy thêm một lần nữa tinh thần phân tích, suy diễn, cải thiện và khiêm tốn học hỏi của người Nhật đã đưa đất nước này từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thiếu thốn tài nguyên đến địa vị một đế quốc quân sự và sau này một cường quốc kinh tế và khoa học kỹ thuật.
Hai ngày tại Nagasaki vẫn chưa đủ, nhưng đã đến lúc phải chia tay. Trước khi từ giã thành phố cảng lãng mạn này, tôi lững thững ra ngoài bến cảng nhìn Nagasaki lần cuối. Mây vẫn lướt thướt bay, sóng vẫn vỗ rì rào và núi vẫn sừng sững vươn lên. Một dãy sơn hà đã chứng kiến biết bao cảnh thăng trầm, biết bao tao nhân mặc khách, anh hùng hào kiệt đến đến đi đi. Ánh sáng bình minh của khoa học đã chiếu trên mảnh đất địa linh nhân kiệt này và những con người Nhật Bản cầu tiến đã sớm thức tỉnh nắm bắt lấy cơ hội làm ra những trang sử oai hùng cho đất nước.
Buổi chiều hôm đó lành lạnh, có nhiều mây mù và trời lất phất mưa. Tôi bỗng chợt bâng khuâng muốn đứng giữa bến cảng êm đềm hát to bài tình ca của một thời du học, "Nagasaki wa kyo mo ame datta" (Nagasaki trời hôm nay mưa cũng đã rơi)…

Mùa Giáng Sinh 2008
Trương Văn Tân

Phụ chú:
1. Có một sự trùng hợp lịch sử thú vị giữa Việt Nam và Nhật Bản trong cùng một thời kỳ. Ở giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh tại Việt Nam và chúa Trịnh nắm hết quyền bính ở Đàng Ngoài biến vua Lê thành nhân vật biểu tượng, thì tại Nhật Bản chính quyền Mạc Phủ (tên chỉ một thời đại) do một Tướng quân (Shogun) cầm đầu cai trị cả nước Nhật cũng biến Thiên Hoàng Nhật thành bù nhìn. Chính quyền Mạc Phủ đi qua nhiều thời đại được truyền tay qua những Tướng quân lỗi lạc, kéo dài gần 300 năm từ hậu bán thế kỷ 16 đến Minh Trị Duy Tân năm 1867. Đây là thời kỳ hòa bình lâu dài nhất trong lịch sử Nhật Bản. Nhận thấy chính quyền Mạc Phủ không còn thích hợp với thời đại, phe bảo hoàng của các thế lực quân sự tại Satsuma-han (han: phiên, tương đương tỉnh, bây giờ là tỉnh Kagoshima, nam Kyushu), Choshu-han (tỉnh Yamaguchi, tây Honshu) và Tosa-han (tỉnh Kochi, Shikoku) liên minh làm cách mạng lật đổ chính quyền Mạc Phủ tại Edo (Tokyo), trao trả quyền lực lại cho Thiên Hoàng và mở đầu thời đại Minh Trị Duy Tân (1867). Tiếc rằng, Việt Nam không có một sự kiện tương tự.
2. Thơ Nguyễn Công Trứ.
3. Vào thời phong kiến, người Nhật cũng theo truyền thống "sĩ, nông, công, thương", nhưng "sĩ" của Nhật là giai cấp "võ sĩ" (samurai).
4. Có lẽ Nhật Bản là nước duy nhất trên thế giới có kênh truyền hình giáo dục hoạt động song song với kênh tổng hợp. Ngoài những tiết mục dạy bổ túc cho học sinh trung học, kênh giáo dục còn có những tiết mục nhân văn, xã hội, nghệ thuật, ngoại ngữ đàm thoại cho đại chúng. Hàng tháng NHK xuất bản những tập sách nhỏ giá rẻ để học viên có thể theo dõi chương trình học một cách hiệu quả.