Thứ Bảy, 2 tháng 8, 2014

Mưa Tình Tháng Bảy



Dìu dặt tiêu đưa áo não sầu
Nặng lòng đau trổi khúc bi thương
Ước nguyền tơ tóc bao ngang trái
Đôi lứa trời đày mỗi ngả chia

Tháng Bảy về mưa tình giọt ngâu
Ngọt bùi làn nước mắt rơi mau
Dòng sông ngăn cách xa vời vợi
Ô Thước cầu đau nối nhịp buồn

Giây phút tương phùng thôi nhớ mong
Bóng đêm đày đọa những ngày trông
Mưa tình ray rức giờ ly biệt
Tháng Bảy sông Ngân lạnh bến chờ


Kim Phượng
13.8.2013

Ca Khúc Qua Sông - Thơ Lý Thừa Nghiệp - Nguyên Thông Văn Giảng Phổ Nhạc


Thơ: Lý Thừa Nghiệp
Nhạc: Nguyên Thông Văn Giảng
Tiếng Hát: Trang Mỹ Dung

Tháng Bảy Nhỏ Lệ Tình Ngâu


Chiều tháng bảy sụt sùi suối lệ Ngâu
Mưa lầy bước em trên dốc tình sầu
Ngọn gió vô tình lùa bay hương tóc
Thổi hạt mưa buồn đọng hoen mắt nâu

Mưa tháng bẩy dầm dề nỗi nhớ nhung
Cho hồn tê tái niềm đau khắc khoải
Giọt sầu vụn vỡ mảnh cắt lạnh lùng
Lòng em mưa đổ người nào đâu thấu

Như Chức Nữ bên dòng sông định mệnh
Tiếng đàn nỉ non oán khúc sầu mưa
Tơ lòng thổn thức ngàn cung phím nhớ
Não nùng trong đêm xót những âm thừa

Hỏi trời sao đành rẻ thuý chia uyên
Cho trăm năm bến vẫn mãi đợi thuyền
Cho tương tư sầu riêng em nặng gánh
Chờ đàn Ô Thước nối vòng nợ duyên

PTMC

Tiểu Vũ Vi
15/07/08


Tình Ngâu


Mưa nhớ thu buồn những giọt ngâu
Đôi bờ lưu luyến phút ban đầu
Se duyên hai bến mong tương ngộ
Ô Thước sông Ngân kết nhịp cầu

Quên Đi

Thơ Tranh: Quá Giang Nỗi Buồn



Thơ: Trầm Vân
Thơ Tranh: Kim Quang

Dạ Khúc Mưa - Từ Kế Tường


Một lần bất chợt nghe mưa
Cố tình để chút âm thừa dội lên
Tiếng khua động bóng hình em
Ngời ngời viễn cách đêm đêm bước về

Cúi đầu thương ngọn gió se
Thương ta kiếp trước đâu dè ngày nay
Gõ đàn lên kịp mấy dây
Khóc trong dạ khúc, lòng đầy hương xưa

Ai ngoài cây cỏ xa mờ
Trăm năm mắt lệ nằm chờ ánh trăng
Ta ngồi trong cõi nhân gian
Búng tay mấy nhịp nghe tràn nỗi đau

Thôi đành như nước chân cầu
Ngược, xuôi cũng một bóng câu qua trời
Một lần tạ hạt mưa rơi
Vờ quên đóng cửa gọi chơi bóng người. 

Từ Kế Tường
Suối Dâu sưu tầm

Ngưu Lang Chức Nữ - Từ Huyền Thoại đến Hiện Thực

1 - Huyền Thoại


Câu chuyện cảm động lòng người từ cổ chí kim truyền lại về chuyện tình ngang trái của đôi nam nữ trên cung đình, dựa trên các ngôi sao có thật trên bầu trời. Nhân dịp sắp đến ngày mùng 7 tháng 7 âm lịch, chúng ta hãy tìm hiểu về câu chuyện này và các ngôi sao này trên bầu trời nhé.
Ngưu Lang - Chức Nữ hay Ông Ngâu - Bà Ngâu là câu Truyện Cổ Tích, có hai phiên bản, một của Việt Nam và một của Trung Quốc. Truyện cổ tích này có liên quan đến các sao Chức Nữ(Vega) và sao Ngưu Lang (Altair), dãy Ngân Hà và hiện tượng mưa Ngâu diễn ra vào đầu tháng Bảy âm lịch ở Việt Nam. Trong truyện cổ tích Trung Quốc cũng có nhắc tới Ngưu Lang (牛郎) vàChức Nữ (織女) nhưng nội dung câu chuyện cũng như các dị bản thì không giống với truyện của Việt Nam.

Phiên bản Trung Quốc
Chàng chăn bò trẻ tuổi có tên gọi Ngưu Lang (chàng chăn bò, là sao Ngưu Lang) nhìn thấy bảy cô tiên xinh đẹp đang tắm trong hồ và đang đùa giỡn vui vẻ với nhau. Được cổ vũ bởi người bạn đồng hành tinh quái là một con bò đực, chàng đã lấy trộm váy áo của họ và chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra. Các nàng tiên đã cử cô em út và xinh đẹp nhất có tên gọi là Chức Nữ (hay cô gái dệt vải) ra để lấy lại váy áo. Nàng đành phải làm theo, nhưng do Ngưu Lang đã nhìn thấy thân thể trần tục của Chức Nữ nên nàng đành chấp thuận lời cầu hôn của chàng (đúng như câu "Nam nữ thụ thụ bất thân" của lễ giáo phong kiến). Nàng đã chứng tỏ mình là một người vợ tuyệt vời, còn Ngưu Lang là một người chồng tốt và họ đã sống bên nhau hạnh phúc. Nhưng Thiên Hậu (trong một số dị bản là mẹ Chức Nữ) nhận ra rằng một kẻ tầm thường (tức Ngưu Lang) lại dám cưới một nàng tiên đẹp và bà đã điên tiết (trong các dị bản khác, Thiên Hậu bắt Chức Nữ quay lại làm công việc dệt các đám mây ngũ sắc trên bầu trời vì nàng đã không làm công việc đó kể từ khi lấy chồng). Rút cái kẹp tóc của nàng ra, Thiên Hậu đã vạch ra một con sông rộng trên bầu trời để chia cắt đôi tình lang mãi mãi (vì thế tạo ra sông Ngân và trên thực tế người ta nhìn thấy các sao Ngưu Lang và Chức Nữ nằm ở hai bên của Ngân Hà).
Chức Nữ phải vĩnh viễn ngồi trên một bờ sông, buồn bã dệt vải, còn Ngưu Lang chỉ nhìn thấy vợ mình từ xa và phải chịu trách nhiệm nuôi hai con (tức hai ngôi sao bên cạnh nó là Aquila -β và -γ).
Nhưng có một ngày, tất cả các con quạ cảm thấy thương hại họ và chúng bay lên trời để làm cầu (Ô kiều) để đôi vợ chồng có thể gặp nhau trong một đêm, là đêm thứ 7 của tháng 7 âm lịch .Tuy nhiên vì thương tiếc cho đôi vợ chồng Ngọc Hoàng đã đặc xá cho Ngưu Lang và Chức Nữ mỗi tháng được gặp nhau một lần và đồng thời cũng trong thời gian đó Ngưu Lang đã tìm được quả "Hoa Tiên" (là quả mà Hằng Nga đã từng ăn) vì vậy Ngọc Hoàng cùng với Vương Mẫu đã cho Ngưu Lang và chức Nữ cùng ở bên nhau nuôi con mãi mãi không bao giờ chia lìa. Truyền thuyết này có thể là gốc cho thành ngữ Tắm Tiên(theo Wikipedia)

Truyện Cổ Việt Nam

Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng Thượng đế, vì say mê một tiên nữ phụ trách việc dệt vải tên là Chức Nữ nên bỏ bê việc chăn trâu, để trâu đi nghênh ngang vào điện Ngọc Hư. Chức Nữ cũng vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng giận dữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông

Sau đó, Ngọc Hoàng thương tình nên ra ơn cho hai người mỗi năm được gặp nhau một lần vào đêm mùng 7 tháng Bảy âm lịch. Khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hóa thành cơn mưa và được người dưới trần gian đặt tên là mưa ngâu.

Thời bấy giờ sông Ngân trên thiên đình không có một cây cầu nào cả nên Ngọc Hoàng mới ra lệnh cho làm cầu để Ngưu Lang và Chức Nữ được gặp nhau. Các phường thợ mộc ở trần thế được vời lên trời để xây cầu. Vì mạnh ai nấy làm, không ai nghe ai, họ cãi nhau chí chóe nên đến kỳ hạn mà cầu vẫn không xong. Ngọc Hoàng bực tức, bắt tội các phường thợ mộc hóa kiếp làm quạ lấy đầu sắp lại làm cầu cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Vì thế cứ tới tháng bảy là loài quạ phải họp nhau lại để chuẩn bị lên trời bắc Ô kiều. Khi gặp nhau, nhớ lại chuyện xưa nên chúng lại lao vào cắn mổ nhau đến xác xơ lông cánh. Ngưu Lang và Chức Nữ lên cầu, nhìn xuống thấy một đám đen lúc nhúc ở dưới chân thì lấy làm gớm ghiếc, mới ra lệnh cho đàn chim ô thước mỗi khi lên trời làm cầu thì phải nhổ sạch lông đầu. Từ đó, cứ tới tháng bảy thì loài quạ lông thì xơ xác, đầu thì rụng hết lông.

Có dị bản khác cho rằng tên gọi của Ô kiều là cầu Ô Thước do chim Ô (quạ) và chim Thước (chim Khách) kết cánh tạo ra.
2 - Trên Thực Tế
Hình chụp quầng khí quanh sao Chức Nữ
Sao Chức Nữ (α Lyr / α Lyrae / Alpha Lyrae hay Vega hoặc Vêga) là ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Thiên Cầm (Lyra), và là sao sáng thứ 5 trên bầu trời đêm. Nó là sao sáng thứ 2 ở bầu trời phía bắc sau Arcturus, và thông thường có thể nhìn thấy ở gần thiên đỉnh khi quan sát ở các vĩ độ trung bình (40-50) về mùa hè ở bắc bán cầu.
Nó là "ngôi sao gần" cách hệ Mặt Trời chỉ có 25,27 năm ánh sáng, và cùng với Arcturus và sao Thiên Lang (Sirius), là những ngôi sao "hàng xóm" của Mặt Trời sáng nhất. Sao Chức Nữ là một đỉnh của Tam giác mùa hè.
Lớp quang phổ của nó là A0V (Sao Thiên Lang là A1V, tức là ít mãnh liệt hơn một chút) và nó là sao thuộc chuỗi chính với các phản ứng hạt nhân chuyển hiđrô thành heli trong lõi của nó. Vì các sao càng mạnh thì sử dụng nguồn nguyên liệu nhiệt hạch càng nhanh, thời gian đang tồn tại của sao Chức Nữ chỉ khoảng 1 tỷ năm, bằng 1/10 của Mặt Trời. Sao Chức Nữ có bán kính 2,5 lần lớn hơn, 3 lần nặng hơn và 50 lần bức xạ mạnh hơn Mặt Trời.
So sánh kích thước Sao Chức Nữ bên trái và Mặt Trời
Sao Chức Nữ có một lớp bụi và khí hình chiếc đĩa vây quanh nó, được phát hiện bởi IRAS vào giữa những năm thập niên 1980. Nó hoặc là dấu hiệu của sự hiện diện của các hành tinh hoặc là các hành tinh của nó sẽ sớm được tạo ra. Đĩa mẫu hành tinh, như có thể suy ra từ tên gọi của nó, được tin là sẽ dẫn đến sự hình thành của các hành tinh nhưng cũng có thể tồn tại một thời gian dài sau khi các hành tinh đã hình thành nếu không có các hành tinh khí khổng lồ giống như sao Mộc.
Vào khoảng năm 14.000, sao Chức Nữ sẽ trở thành Sao Bắc cực, do hiện tượng tuế sai của các điểm phân. Xem bài Polaris để có thêm thông tin.
Các nhà thiên văn học chuyên nghiệp sử dụng sao Chức Nữ để xác định thang độ sáng tuyệt đối. Khi thang độ sáng được quy định thì giá trị cường độ sáng của sao Chức Nữ rất gần với 0. Vì thế độ sáng biểu kiến của Chức Nữ, theo định nghĩa, được chọn là bằng 0 trên mọi bước sóng (nó không được sử dụng gần đây do độ sáng biểu kiến ngày nay chủ yếu được định nghĩa theo thuật ngữ của thông lượng chiếu xạ từ sao). Nó cũng có phổ điện từ tương đối phẳng trong vùng ánh sáng (các bước sóng từ 350 đến 850 nanomét, phần lớn các bước sóng này mắt người có thể cảm nhận được), vì thế thông lượng là xấp xỉ bằng 2000-4000 Jy. Thông lượng bức xạ của Chức Nữ giảm nhanh chóng trong khu vực hồng ngoại, và nó xấp xỉ 100 Jy ở bước sóng khoảng 5 micromét.
Sao Chức Nữ là chủ thể của nhiều cái 'đầu tiên' trong Thiên văn học; năm 1850 nó là ngôi sao đầu tiên được chụp ảnh, năm 1872 nó là ngôi sao đầu tiên có quang phổ được ghi lại. Nó cũng được tranh cãi có phải ngôi sao đầu tiên được đo lại biến đổi vị trí góc của mình, trong các thực nghiệm đầu tiên của Friedrich Struve năm 1837. Cuối cùng, nó là ngôi sao đầu tiên có loại xe ô tô được đặt tên theo, khi Chevrolet sản xuất xe 'Vega' năm 1971.
Trong tiếng nước ngoài, tên gọi Vega có nguồn gốc từ tiếng Ả Rập - từ waqi có nghĩa là "rơi rụng", trong thành ngữ نسر الواقع an-nasr al-wāqi‘ có nghĩa là "chim kền kền rơi". Là một phần của chòm sao Thiên Cầm (Lyra) nó tượng trưng cho chuỗi ngọc quý trên thân cây đàn cầm.
Sao Chức Nữ ở tọa độ 18h 36m 56.3364s, +38° 47′ 01.291″ đấy nhé
... thế còn phu quân của ngôi sao này thì thế nào nhỉ ?
Sao Ngưu Lang (α Aql / α Aquilae / Alpha Aquilae / Atair) là ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Thiên Ưng (Aquila) và là sao sáng thứ 12 trong bầu trời đêm, với độ sáng biểu kiến 0,77.
Thể tích của Ngưu lang lớn gấp đôi mặt trời! Bề mặt Ngưu lang nóng tới 9.000 độ C (mặt trời: 7.000 độ C) và cường độ ánh sáng mạnh gấp 10 lần của mặt trời. Cách Chúng ta khoảng 16 năm ánh sáng
Sao Ngưu Lang là một đỉnh của Tam giác mùa hè. Nó là sao dạng "A" hay sao trắng cách Trái Đất 17 năm ánh sáng và là một trong những sao gần nhất có thể nhìn thấy bằng mắt thường.
Trong một số ngôn ngữ nước ngoài, chẳng hạn như trong tiếng Anh, nó có tên là "Altair" hay "Atair" có nguồn gốc từ tiếng Ả Rập để chỉ "con chim đang bay", từ thành ngữ نسر الطائر an-nasr aţ-ţā?ir "đại bàng bay".


Đáng chú ý nhất của sao Ngưu Lang là tốc độ tự quay cực nhanh của nó; bằng cách đo độ rộng các quang phổ vạch của nó, người ta đã xác định là ở khu vực xích đạo của nó thì nó tự quay một vòng hết khoảng 6 1/2 giờ (các tài liệu khác đôi khi cho là 9 hay 10,4 giờ). So sánh với ngôi sao của chúng ta, tức Mặt Trời, thì nó phải mất hơn 25 ngày một chút để tự quay hết một vòng. Với sự tự quay nhanh như vậy, sao Ngưu Lang có lẽ có hình cầu dẹt: đường kính tại xích đạo ít nhất khoảng 14% lớn hơn so với đường kính tính theo hai cực.
Sao Ngưu Lang, cùng với Beta Aquilae và Gamma Aquilae, tạo thành một đường nổi tiếng các sao, đôi khi được nói đến như là mỏ của con đại bàng (tức chòm sao Thiên Ưng).

So sánh kích cỡ sao Ngưu Lang và Mặt Trời
Sao Ngưu Lang ở tọa độ 19h 50m 46.9990s, +08° 52′ 05.959″ nhé
Đôi nam nữ này cùng với Sao Deneb tạo nên một tam giác mùa hè đấy. Vậy tam giác mùa hè là gì nhỉ ? Tìm hiểu thêm luôn nào

Tam giác mùa hè trên bầu trời
Tam Giác Mùa Hè là một mảng sao (asterism) gồm các sao tạo ra một tam giác tưởng tượng của bầu trời nửa Bắc bán cầu, với các sao ở đỉnh là sao Ngưu Lang (Altair), sao Deneb, và sao Chức Nữ (Vega). Tam giác này nối ba ngôi sao sáng nhất của ba chòm sao: chòm sao Thiên Ưng (Aquila), chòm sao Thiên Nga (Cygnus) và chòm sao Thiên Cầm (Lyra).

Thuật ngữ tiếng Anh này được nhà thiên văn Anh Patrick Moore phổ biến trong những năm của thập niên 1950, mặc dù ông không phát minh ra điều này. Nhà thiên văn Áo, Oswald Thomas, miêu tả các sao này như một Tam Giác Lớn (Grosses Dreieck) vào cuối thập niên 1920, về sau ông gọi là Tam Giác Mùa Hè (Sommerliches Dreieck) vào năm 1934. Mảng sao này (asterism) đã được Joseph Johann Littrow để ý đến, ông miêu tả nó như là "tam giác dễ thấy" trên các tài liệu trong bản đồ của ông (năm 1866), và Johann Elert Bode đưa chùm sao này vào sách bản đồ của ông năm 1816, mặc dù chưa có tên gọi.

Tam Giác Mùa Hè vào các tháng hè, nằm trên đỉnh đầu của người quan sát đứng ở Bắc bán cầu tại các vĩ độ bắc 40-50 độ, nhưng cũng có thể nhìn thấy vào mùa xuân hay mùa thu. Từ nửa Nam bán cầu, nó xuất hiện phía trên, lộn ngược trên bầu trời, nhưng rất thấp trong các tháng mùa đông.

Và đây là hình ảnh tưởng tượng về các chòm sao tam giác mùa hè nè
(Trích theo http://thienvanhoc.jimdo.com)
(vutrutrongtamtay.com)
Kết luận
Qua những bài sưu tầm trên, nếu theo huyền thoại của Trung Hoa, Ngưu Lang và Chức Nữ sau thời gian xa cách, lại được gần nhau mãi mãi. Còn trên thực tế, Chàng Ngưu và Ả Chức cách nhau đến 16,5 triệu năm ánh sáng. Nếu cả hai muốn đến với nhau bằng tốc độ của ánh sáng, cũng phải mất hơn 8 năm mới gặp nhau. Còn nếu cả hai di chuyển với vận tốc 100 km/giờ thì than ơi phải gần 60 triệu năm mới gặp lại nhau. Như thế thì tội nghiệp cho hai kẻ yêu nhau quá phải không Quý Vị. Thôi thì chúng ta đồng ý cho Ngưu Lang và Chức Nữ vẫn có phép tiên, để mỗi năm hai người được gặp nhau một lần như truyện cổ tích Việt Nam, cho những nhà thơ còn thả hồn vào chuyện tình mưa ngâu tháng 7. Một chuyện tình đẹp, buồn trong hồn thơ Việt.

Huỳnh Hữu Đức Tổng Hợp và Biên Soạn

Tháng Bảy Mưa Ngâu


Lại về tháng Bảy mưa ngâu
Dòng tình xao động đục ngầu phù sa
Gọi từng cơn mộng trôi qua
Trên cao đỉnh gió nhớ nhòa mưa bay

Nhẩm từng kỷ niệm trên tay
Nghiêng cành phượng đỏ qua ngày đam mê
Môi em bối rối câu thề
Đỏ bừng nhan sắc bóng hè lắc lư

Để rồi tháng Bảy tương tư
Mưa lung linh thả quanh bờ liêu trai
Đêm khuya vọng tiếng gót hài
Giấc mơ tình ái nghiêng ngoài vào trong

Rồi ngày tình bước long đong
Em xa vời vợi nửa vòng đất xoay
Nắng phương ấy mưa bên này
Nắng mưa xô lệch vòng tay rã rời

Về theo tháng Bảy mù khơi
Đàn ai lạc phím thơ rơi lạc vần
Tình trôi trên đỉnh phù vân
Gặp nhau chi để đời trầm luân đau

Trầm Vân

Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2014

Mùa Hạ Còn Đâu - Phú Quang - Anh Tú

      Mùa Hạ đã qua sao em còn mang áo hồng, em đã thoảng qua anh trong một muà hạ cháy bỏng, bây giờ em đã đi rồi, em đã làm nỗi đau trong anh càng nhiều thêm.
      Thôi hãy để mùa hạ đó yên nghỉ em nhé.


Phổ Nhạc: Phú Quang
Tiếng Hát: Anh Tú
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình

Vạt Nắng Mong Manh


Thương sao vạt nắng nhỏ nhoi
Vàng phai ngơ ngác nổi trôi lững lờ

Lá rơi lạc nẻo tình thơ
Rắc quanh ngõ vắng ngẩn ngơ bên đường.

Say lòng lữ khách vấn vương
Như ru từng giọt nắng buồn đong đưa

Mây chùng thấp xuống cho vừa
Mưa mềm bước nhỏ nhẹ khua lối về.

Hương thu bàng bạc tái tê
Sợi tơ miền nhớ câu thề gió bay

Se hồn dâu bể tình phai
Thắt hồn nửa mảnh trăng hoài thiên thu.

Mưa thu mờ tỏ nông sâu
Sóng hoàng hôn ngã bến sầu sông Tương.

Đông An
(Saigon 07/10/2013)

Thu Về - Em Ở Đâu?


(Từ Vạt Nắng Mong Manh của Đông An)

Chiều trên sông thấp thoáng
Có vài chiếc thuyền câu
Nhấp nhô theo gió thoảng
Đưa con sóng qua cầu.

Trên đường – vài lá rụng
Nắng vàng đã nhạt phai
Mùa Hạ đi lững thững
Xõa tóc bước khoan thai.

Nhớ em mùa Thu muộn
Trong tay bước trên đường
Dưới tàn cành hoa phượng
Trên lối nhỏ mù sương.

Anh ngồi băng đá nầy
Đêm lạnh dưới trăng gầy
Chờ em từ kiếp trước
Ngỡ hồn như mây bay.

Trời buồn mang niềm nhớ
Người yêu thuở ban đầu
Mây bồng bềnh nức nở
Thu về - em ở đâu ?!

Dương Hồng Thủy
(Cần Thơ 25/07/2014)


Hoa Cỏ Mong Manh


( Từ Vạt Nắng Mong Manh của Đông An)

Làm thân hoa cỏ cố nhoi
Hứng giọt sương sáng tơ trời lững lơ

Lá sầu vẽ nốt vần thơ
Đan tình thu nhớ ngu ngơ bên đường

Chờ người lữ khách vấn vương
Khúc hòa cung ái đêm trường vọng đưa

Trăng sa đủ soi cho vừa
Sóng mắt gợn ánh đong đưa người về

Gió rét song vắng tái tê
Bóng câu khuất nẽo hẹn thề vụt bay

Tượng sầu hoa héo tàn phai
Ngóng vời hóa đá hình hài thiên thu

Thủy chung chôn kín mộ sâu
Biền biệt cách trở mưa Ngâu bắt cầu

Kim Oanh
Tháng 7/2014


Thơ Tranh: Tình Xưa


Thơ & Thơ Tranh: Nguyễn Đức Tri Ân

Tháng Tám Tạ Từ


Phải nói với em những lời giã biệt
Khi buồng tim ta như vỡ tan rồi
Bóng dáng em yêu chìm theo ảo ảnh
Góc phi trường buồn em đã xa xôi

Thành phố ta về buồn như cúi mặt
Hàng cây chơ vơ hiu hắt ánh đèn
Cơn gió lạnh lùng cuốn từng kỷ niệm
Ta đi âm thầm tìm bước chân quen

Không cần nhìn nhau nói câu từ tạ
Khung trời tình xanh biếc mãi trong lòng
Chỉ có hồn ta đau như dao cắt
Em thật xa rồi ta mãi hoài mong

Ở đây không gian mùa hè tháng tám
Nắng vẫn lung linh chòm lá xanh màu
Phượng tím nồng nàn trên từng con phố
Ừ thôi em về ..........mình đã xa nhau

Khiếu Long


Thứ Năm, 31 tháng 7, 2014

Tiễn Biệt Nhà Văn Anh Vân - Kim Phượng - Dương Thượng Trúc




Thơ: Kim Oanh
Điếu Văn: Kim Phượng
Giọng Đọc: Dương Thượng Trúc

Cho Người Vừa Nằm Xuống




        Sáng nay trên cành con chim thôi cất tiếng hót mà đưa một điệu ru…ru Người vừa nằm xuống.
        Sáng nay trên cành một chiếc lá vừa lìa xa, rơi…rơi cùng Người vào cõi thiên thu.
        Sáng nay tôi ngồi lặng thinh, cảm nhận hơi ấm lăn dài trên đôi má, khóc… nước mắt thay lời từ biệt tiễn Người đi.

        Mới hơn một năm, chỉ hơn một năm quen biết thôi, dù chưa một lần gặp mặt, nhưng là sự gặp gỡ trong tâm hồn, bởi thân tình thật thà, đầm thấm. Lúc đầu biết nhau, bằng những từ thật khách sáo “hân hạnh quen biết…”, hoặc giữ kẻ “sợ lỡ lời…” hay lời phê bình văn thơ chẳng dám nói thật lòng “…cũng được”. Thế rồi chẳng bao lâu, Người tôi quen biết không là một nhà văn Anh Vân nữa mà đã trở thành một Người bậc đàn anh.
        Anh là một nhà giáo, tốt nghiệp từ trường Sư Phạm Vĩnh Long. Mang dòng họ Quách, nhưng lúc nào anh cũng nói với tôi “Anh là người Việt Nam!”. Chiến tranh tràn lan, rời bảng đen phấn trắng, khoác chinh y, chàng thanh niên họ Quách đi vào cuộc chiến. Thân trai thời loạn bằng những năm dài làm bạn với núi rừng, đầm lầy. Bỗng  cuộc chiến tàn vội và anh đớn đau chọn kiếp lưu vong, đến hơi thở cuối chưa một lần đặt chân trở lại quê hương.
        Dưới con mắt nhân gian, anh là một Nhà Văn, một Chủ Bút Anh Vân, Quách Tố Vương, nhưng với tôi Anh là một Nhà Mô Phạm phi thường, phi thường trong nghĩa cử của Anh, một thiên chức nhà giáo mà ít ai có được. Anh đã lặn lội, kiếm tìm, rồi từ xa xôi tôi nhận được một số sách dạy Việt ngữ với nhiều trình độ khác nhau. Theo lời Anh “ Anh là mẫu người thích làm việc xã hội tức là anh yêu tha nhân vì vậy thấy em làm việc xã hội, anh quý em vô cùng. Anh không còn khả năng dạy học nữa thì em hãy thay anh đem văn chương tiếng Việt dạy cho đám trẻ, đó là điều mình nên làm cho thế hệ mai sau.”

         Mấy mươi năm trước, sau những ngày quân hành vất vả, có dịp trở lại Vĩnh Long, ngồi trên chiếc xe jeep thả tầm mắt lãng tử vế cổng trường Tống Phước Hiệp mà ngẫn ngơ với những tà áo trắng…
Cổng trường Tống bâng khuâng đời dậy sóng!
 Giờ đây, sau mấy mươi năm, bằng trái tim nhà giáo tiềm ẩn trong con người cựu quân nhân, Anh bước vào Trang nhà Tống, như một tay làm vườn thiện nghệ, Anh tưới nước khích lệ, cắt tỉa cành nhánh thơ văn thừa, bắt sâu chính tả đang đụt khoét hoa lá. Đã vậy, Anh còn mang vào vườn hoa nhà Tống những loài cây quý hiếm, đó là những tác phẩm văn, thơ của các cây bút vang danh tại hải ngoại cũng như ngòi bút cổ thụ nơi quê nhà trước đây. Nhìn vào trang Diễn Đàn Tống Phước Hiệp, ai cũng nhận ra một sắc thái kỳ bí…khi thấy những cây bút kỳ cựu nằm cạnh bên những nhà văn, nhà thơ “tí hon” chúng tôi. Những cây bút non nớt này như cây con từ trong vườn ươm mới được mang ra dưới ánh sáng mặt trời. Lẽ thường tình, nhà văn thơ nổi tiếng phải đặt tác phẩm mình ở những nơi tương xứng, nhưng các anh đã làm một điều khác thường đáng hâm mộ. Anh Vân và các bạn văn thơ của anh đã tỏ rõ được sự khiêm nhường đáng cho chúng tôi kính trọng và tôn vinh.


        Mai này…
        Làm sao một hình ảnh thầy giáo Quách Ngọc Vân không thấp thoáng, mỗi khi tôi đứng trước lớp, cầm quyển sách trên tay, trao lại cho các em học sinh Việt Nam những hạnh nguyện của Anh!?
        Làm sao một mảnh hổ Quách Ngọc Vân gặm hờn trong củi sắt, trăn trở nhìn về  quê hương mà không ảnh hưởng gì đến tôi bởi nỗi đau lưu vong!?
        Làm sao bước vào Trang nhà, tôi tìm lại được người giữ vườn cho trường Tống Phước Hiệp, cho người Vĩnh Long, nhưng Người ấy không là dân Vĩnh Long!?
        Mai này… tro xác thân Anh sẽ hòa vào đất đá, trên ngọn núi cao nào đó ở Mỹ Châu, nhưng ánh mắt viễn phương của anh sẽ mãi mãi xa xăm hướng về quê mẹ.
Anh Vân! Có những điều chỉ riêng anh biết, nhưng tôi, các bạn nơi trang nhà Tống Phước Hiệp, không thể không biết Anh, người Đàn Anh đã giữ an bình cho người Vĩnh Long, trước sau vẫn như một, từ quê nhà cũng như nơi hải ngoại.
        Chúng tôi có thể mất một anh Quách Ngọc Vân, nhưng kỷ niệm anh đem đến, để lại sẽ còn và mãi mãi vẫn còn.
Nhớ về Anh …

Nước mắt rơi! Thôi đành xa rời
Nước mắt tuôn xin tạ ơn Người
Giọt ngắn dài là tiếng lòng tôi
Người xa Người …thôi cũng đành thôi!


Kim Phượng
Úc Châu 31/7/2010

Thơ Tranh: Bâng Khuâng Tình Của Lính

Tưởng Nhớ ngày Anh Vân ra đi vĩnh viễn 31/7/2010


Thơ & Thơ Tranh: Khúc Giang
31-7-2010

Tiễn Bước Xa Xăm


     (Tiếc Thương Anh Vân 31/7/2010)

Khúc nhạc tình réo rắc thanh âm
Lướt theo mây gửi gió cung trầm
Lời tha thiết hòa trong khuya lắng
Ngân tiếng lòng tiễn bước xa xăm

Người về đâu đầu non thăm thẳm
Tay buông lơi tình cạn ước mơ
Lần bước đi bóng tối mịch mờ
Sương giăng lạnh chơ vơ triền dốc

Vuốt đôi mi nước mắt ngừng rơi
Khúc nhạc xưa ru giấc ngủ đời
Vòm trời mới Thiên Thai nhẹ bước
An bình nước Chúa hưởng thảnh thơi

Kim Oanh

Vùng Tưởng

        ( Nhớ mãi Anh Vân )
Hàng mi ngủ say
bất động
da thịt mùa đông
hơi thở đứng trên môi khô khát
bút rơi
bài thơ tình dang dở
tôi nhặt lên viết tiếp vần sau
trong tiếng nấc chạy vòng hốt hoảng
để lại cho đời
“quê hương ngàn dặm”
thơ
truyện

Anh Vân
từng trang tĩnh lặng
xếp gầy thời gian
một thời áo lính
điếu thuốc xẻ mười
ru nhau giấc nhỏ
trong chiến trường địa ngục
thơ học trò vừa chạy vừa xem
chừ
trong lòng đất
tiếng dế khóc cầu hôn
tôi đứng lặng tiễn nụ cười vô tận
người bạn thơ văn
 
Cúi đầu
ngôi sao xa lấp lánh đón: Anh Vân

 Lan Cao
8/2010


Vĩnh Biệt Anh Vân


Tôi an phận từ nội tâm
Cũng xin em hát một lần ru tô
      (Nghĩ về cuộc đời khi vĩnh biệt Anh Vân)

Mẹ ru tôi thuở vào đời
Ca dao mẹ hát đầy vơi nỗi niềm
Trăng ru tôi kiếp phù sinh
Mù sương nước mắt mộng tình vây quanh

Gió ru tôi ngủ trên cành
Nghiêng chao phiến lá mong manh giữa trời
Sông ru sóng vỗ đôi bờ
Biết bao trong đục ai chờ đợi tôi?

Biển ru tôi giữa trùng khơi
Hồn tôi căng gió đắm đời nhớ quên
Cỏ ru tôi nỗi buồn tênh
Đường xa bụi đỏ gập ghềnh lối xưa

Mây ru tôi, trời đổ mưa
Tim lòng thổn thức, tình chưa ngõ lời
Em ru vật đổi sao dời
Nắng ru lửa hạ héo đời quạnh hiu

Tôi ru tôi tuổi xế chiều
Lời thơ tôi hát, tiếng tiêu ru đời
Mai này tôi bỏ cuộc chơi
Em ơi ! Hãy hát một lời ru tôi

Phạm Tương Như
Aug. 08 10


Mây Trời Ngọc Bích Nhớ Riêng Mình

     
   ( Nén nhang tiễn Quách Đại Huynh )

 Anh như Cúc dại bên đường
Vân phong vẫn cứ góp hương cho đời.

Tinh anh thể phách sáng ngời
Rong chơi nhập cuộc giữa thời nhiễu nhương.
Anh là mây tự ngàn phương
Trời cao giỡn mặt Tố Vương Quách này!

Cạn rồi ly rượu trên tay
Đôi đồng tiền rớt vào mê say nào
Quách Huynh ơi! nhớ hôm nào
Xuôi Nam thăm bạn vẫn hào sảng xưa

Vẫn còn tờ báo mới vừa
Gieo thơ trào phúng dấm chua ghẹo đời
Vào ra rừng tiếu lâm chơi
Lại là như thiệt giỡn người thế gian

Một mình phiêu bạt chẳng tàn
Truân chuyên mấy độ vô vàn đắng cay
Vẫn cười với men rượu say
Vẫn là phong vũ mộng bay tới trời.

Vậy mà, một sát na thôi
Qua cầu sinh tử, cuộc chơi chưa tàn
Vội đi - sao vội tan hàng
Đêm dài ác mộng sang trang phút này

Một đời chữ nghĩa mê say
Mây trời ngọc bích phơi bày ruột ruột gan.
Anh Vân hay Quách Ngọc vân
Đã là huynh đệ xa gần có nhau.

Làm sao chia được niềm đau
Khi anh về cõi ngàn sau vô cùng .
Quách huynh ơi! nước rưng rưng
Anh Vân sông nhớ Tố Vương núi chờ.

Dường như đã là thu mơ
Người như xác là phất phơ giữa đời
Vậy mà lại bỏ cuộc chơi
Còn đây Huynh Đệ lệ rơi nhớ người

Thôi thì chén rượu chưa vơi
Đệ xin cạn hết thay lời tiễn đưa.
Biết bao nhiêu chén cho vừa
Ngậm ngùi đời vẫn thiếu thừa phải không!?

Thôi thì mượn lời hiệp thông
Kinh cầu ngàn chuổi ai mong bao giờ.
Nhang tàn nến lạnh ngẩn ngơ
Lòng đau như cắt đôi bờ tử sinh.

Lệ khô vẫn khóc riêng mình
Lạy này gom hết chí tình dâng Huynh.
Hãy ngủ yên mộng an bình
Thế nào cũng gặp chỗ bình minh vui.

Túy Hà

Thơ Tranh: Tiếc Thương


Thơ: Khánh Hà
Thơ Tranh: Kim Oanh

Đưa Tiễn Một Đồng Đội



Bàn tay bắt dịu mềm nồng ấm
Cảm nhận nhau đàn khúc thơ văn
Xưa đồng đội cùng lằn chiến tuyến
Dẫu tôi anh biển trời đôi ngã

Có xa không! Thương quá Quê Hương
Dặm trường đau còn dài gian bước
Tiếp nối hoài kẻ trước người sau
Chăm sóc vườn màu trăm hoa nở

Anh ra đi!
Không riêng trời Cali bỡ ngỡ
Khắp Châu cùng mộng vỡ đầu Thu
Quân Khu mấy anh về an giấc
Nấc nghẹn nhìn chết lặng thời gian

Hy vọng bay về chốn Thiên Đàng
Trận chiến tàn ấp ủ trên cao
Rồi mai lấp lánh một vì sao
Soi đường dẫn bao người ở lại

Anh Vân mất! Vẫn còn.....tồn tại...

Pleiku 2-8-2010
Lê Kim Hiệp


Thứ Tư, 30 tháng 7, 2014

Lục Bát Huệ Thu



Ta nằm ôm gió chờ mưa
Nắng Cali đốt buổi trưa mịt mù
Ðọc dòng LỤC BÁT HUỆ THU
Lòng trôi nổi giữa lời ru ban đầu
Cám ơn ngôn ngữ ca dao
Dẫn ta qua những ba đào cõi THƠ
Trái tim già bỗng bất ngờ
Ngu ngơ như thuở dại khờ biết yêu
Ta nằm ôm nắng chờ chiều
Trời Cali nhớ cánh diều quê hương
Ðọc dòng lục bát tha phương
ơi vần, ơi điệu, sáu thương, tám sầu...
Cám ơn Ðà Lạt sắc màu
Tặng đời một đóa hoa đào tinh khôi
Ta nằm đếm giọt mưa rơi
Còn đâu lục bát một thời vàng son?

Phạm Hồng Ân


Thiên Hương


Ngưỡng mộ vô cùng hai sắc hoa
Giai nhân tỏa sáng thật mặn mà
Điểm chút sương chiều thêm lộng lẫy
Thiên hương bát ngát tận phương xa

Trọng bậc anh thư chẳng kém ai
Văn chương thi phú rất biện tài
Tỉ muội khởi nguồn chung chí hướng
Lẫy lừng hữu xạ tự nhiên hương

Kim Quang


Trời Mơ


Cánh Phượng trên tay thôi em thả xuống
Ta cuối đầu nhặt lại ép vào thơ
Một năm mười năm trăm năm tình cờ mở lại
Vẫn thắm nồng rực rỡ cả trời mơ

Trương Văn Phú

Quỳnh Giao: Tiếng Ca Mở Nẻo Lam Kiều


      Tôi biết tiếng hát Quỳnh Giao từ khi tôi vào trường Cao Tiểu Vĩnh Long (Collège de Vinh-Long) vào năm 1950. Lúc đó cô chỉ là một cô ngọc nữ xinh tươi với cái tên là Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang, lấy cái tên Đoan Trang của mình làm nghệ danh. Cô hát chung với ông anh Bửu Minh của mình (lấy nghệ danh là Anh Minh). Cả hai là con chung của nữ danh ca mt và hoàng thân Nguyễn Phúc Ưng Quả. Ông Ưng Quả là thầy dạy của Thái tử Bảo Long, một bậc trí thức nổi bật trong hoàng tộc thuở đó, đã từng viết nhiều tờ báo tiếng Pháp do người Pháp chủ trương.
Quỳnh Giao là hậu duệ của ngài Tuy Lý Vương Miên Trinh. Vương cùng ông anh khác mẹ là ngài Tùng Thiện Vương nổi tiếng về thi ca. Dòng dõi của vương, về bên nữ có vài bà tôn nữ giỏi thơ văn như Công Tằng Tôn Nữ Tri Túc (bút hiệu là Cỏ May, Cỏ Tháng Giêng), Công Tằng Tôn Nữ Tri Thức (bút hiệu là Hoàng Du Thụy), Công Huyền Tôn Nữ Nha Trang (bút hiệu là Thanh Nhung). Riêng Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang khi đến tuổi cài trâm lại lấy nghệ danh là Quỳnh Giao. Và khi ra hải ngoại, cô bắt đầu cầm bút viết phê bình văn chương, viết những bài tưởng niệm các nhạc sĩ vừa qua đời hay vinh danh các nhạc sĩ còn tại thế.

Tôi đã say mê cô ngọc nữ Đoan Trang cùng cậu kim đồng Anh Minh song ca bài “Dưới Nắng Hồng” của Đoan Trang. Eo ơi, cả hai mới sáu bảy tuổi chứ mấy, khi hát mà còn ngân nga rựa ràng nào khác cặp song ca Bích Chiêu & Tuấn Ngọc vốn là hai chị em ruột (chị gái và em trai). Và khi Đoan Trang lớn lên để trở thành cô xuân kiều xinh tươi thì tôi quên hẳn cô vì lúc đó cô theo đuổi việc sách đèn và học môn dương cầm tại trường Quốc Gia Âm Nhạc. Đến khi cô trở thành thiếu nữ đoan trang thuỳ mị với nghệ danh Quỳnh Giao thì tôi được nghe cô hát trên đài Sài Gòn và đài Quân Đội, khi thì song ca với Mai Hương, khi thì tam ca với Mai Hương và Như Thủy (em gái Nhật Trường), và sau hết tam ca với Mai Hương và Phương Nga, Làm sao tôi quên được Mai Hương, Quỳnh Giao và Như Thủy tam ca bản “Hồ Lãng Bạc” của Xuân Tùng; ở điệp khúc cả ba ca thật xôn xao như sóng lớp lớp bủa vào mạn thuyền nghe đã hết sức!

      Vào năm 1971, tôi mới được diện kiến Quỳnh Giao tại đài Sài Gòn. Cô có dắt cháu Dương Ngọc Bảo Cơ (con gái duy nhất của cô) theo. Cô bé bước đi lẫm chẫm xinh xắn như một quả tim. Còn Quỳnh Giao thì giữ dáng dấp một cô thiếu nữ 16. Chiếc áo dài của cô bằng lụa tằm hơi dầy nhưng mềm mại ửng màu nguyệt bạch, cách tô chuốc son phấn quá phơn phớt, quá gượng nhẹ của cô làm tôi tưởng chừng đó là một nữ sinh viên hơn là một ca sĩ. Tuy nhiên ở chỗ giáp nhau ở cổ áo, cô có cài chiếc trâm nhỏ hình tròn cỡ cúc áo có nạm chuỗi hột lấp lánh. Trong cuộc phỏng vấn cô, tôi tán gẫu với cô nhiều hơn là đặt câu hỏi. Tuy nhiên khi bài phỏng vấn đăng trên tuần san Minh Tinh, cô rất hài lòng. Và cô mời tôi đến tư thất cô cho biết. Thuở đó cặp uyên ương DNH & Quỳnh Giao ở chung với dì cô là bà quả phụ Đỗ Thế Phiệt (giáo sư trường Quốc Gia Âm Nhạc). Tuy là sống dưới mái nhà với bà Đỗ, nhưng cả hai có giang sơn biệt lập với chỗ ở của bà. Cho nên những khi tôi đến viếng cô thì không bao giờ tôi gặp bà.

      Trước ngày 30/4/75 vài hôm, gia đình Quỳnh Giao di tản qua đảo Guam rồi định cư trên tiểu bang Virginia. Còn tôi, phải đợi đến hai năm sau mới định cư trên đất Pháp. Bên kia Đại Tây Dương, Quỳnh Giao dạy tư gia môn dương cầm. Trên đất Pháp, tôi làm báo, viết báo. Và mãi tới năm 1983, tôi bắt đầu viết văn trở lại. Tới năm 1986, nhờ nhà thơ nữ Vi Khuê cũng ở Virginia mà Quỳnh Giao và tôi nối lại giao du. Vào năm 1989, tôi qua bên Washington D.C. ra mắt quyển “Giai Thoại Hồng”, có ở chơi nhà vợ chồng cô một ngày một đêm. Thuở đó cô còn chung sống với anh DNH ở thành phố Annandale. Rồi sau đó, chín năm sau, tức là vào năm 1999, tôi trở qua Washington D.C. ra mắt quyển “Theo Chân Những Tiếng Hát” thì cô không còn ở Annandale nữa; cô đã ly dị anh H. từ lâu, hình như vào năm 1990 thì phải và đã thiên cư qua bên California.

      Vào một sáng giữa thu lành lạnh, nhưng nắng đẹp tuyệt vời như bạc lỏng, Quỳnh Giao lái xe đến nhà bạn của tôi tức là Tiến sĩ Phạm Văn Hải (khi viết văn ký bút hiệu Hải Vân Phạm Văn Hải) ở trong vùng thơ mộng nhất của thành phố Falls Church để đưa tôi đi ăn trưa tại tiệm mì Kim Sơn. Chúng tôi có nhiều chuyện để kể cho nhau nghe, chuyện ca giới lẫn chuyện văn giới, chuyện những văn nghệ sĩ còn kẹt ở quê nhà cho nên chẳng ai ăn hết tô mì. Sau đó cô đưa tôi về tư thất cô nằm trong khu tráng lệ của thành phố Fairfax. Nhà cô sạch bóng, cách chưng dọn thật trang nhã. Tại phòng khách có treo tấm ảnh phóng đại của cô chụp chung với người bạn lòng của cô. Đó là anh Nguyễn Xuân Nghĩa, một chính khách và cũng là một học giả.

      Cách xa nhau 9 năm, trong khoảng thời gian ấy, chúng tôi thư từ qua lại chỉ có vài lần. Nhưng khi thực hiện được dĩa nhạc nào, Quỳnh Giao cũng nhớ gửi tặng tôi. Gặp lại cô ở Virginia, tôi thấy cô đẹp dễ sợ. Trước đó, nhan sắc cô chỉ dễ coi mà thôi. Cô trội hơn các ca sĩ khác ở vẻ cao sang thanh thoát của một tôn nữ, ở kiến thức văn chương nghệ thuật theo truyền thống “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Nhưng bước vào tuổi ngũ tuần, cô hiện thân là một trung niên mỹ phụ. Thần thái cô sáng rực lên. Gương mặt với cặp má hơi thỏn của cô thuở nào thì giờ đây lại đầy đặn thêm ra. Cặp lưỡng quyền tuy thế vẫn không mất, vẫn còn rõ nét để tạo cho cô một vẻ duyên dáng nồng mặn. Bởi vì không có lưỡng quyền rõ nét, khuôn mặt người đàn bà sẽ trơ trẻn và phèn phẹt như tảng bánh đúc thế nào ấy! Cặp mắt cô được tô viền đen, sáng rờn rợn, sáng uy nghiêm.

      Trong lúc chuyện vãn về ca nhạc, Quỳnh Giao không dùng những danh từ chuyên biệt dành cho âm nhạc, mà dùng những ngôn từ rất là “bà già trầu” đã được tôi nạm lác đác trong quyển “Theo Chân Những Tiếng Hát” của tôi. Không hiểu có phải cô muốn làm đẹp lòng tôi mà nói những tiếng quê mùa? Hoặc là cô thấy ngôn ngữ chuyên biệt dành cho âm nhạc trở thành những pho cẩm thạch vô hồn khi bàn chuyện với một tác giả ưa viết truyện miệt vườn như tôi? Hay là trong lúc nói chuyện với người bạn cố tri, cô thấy ngôn ngữ “bà già trầu miền Nam” lại gợi cảm hơn? 

      Hồi còn ở quê nhà, trên Tivi tôi chưa thấy ai hát bản “Xuân Và Tuổi Trẻ” của La Hối (do Thế Lữ phổ lời) tươi vui rạng rỡ như Quỳnh Giao, dù khi diễn tả bài này cô không nhún nhẩy, không phô trương mắt liếc miệng cười. Hát mà lẳng nhức lẳng nhối, điệu đà, ỏn ẻn như mấy cô vợ bé nũng nịu với chồng là không có cô. Ở ngay tiếng hát cô, khán thính giả đã thấy mùa xuân tươi sáng và tuổi trẻ hạnh phúc ở trong đó rồi. Còn bản “Giòng Sông Xanh” của Johann Strauss (do Phạm Duy phổ lời Việt) nữa chi. Cô hát sao mà nhẹ nhàng, thênh thang, trơn ngọt, ngân bằng nguyên âm (vocaliser) thật sướng tai! Từng chuỗi ngân dài như dải lụa rập rờn trong gió tuôn ra không chút nắn nót.

      Thuở đó, Quỳnh Giao hơi gầy, hơi kiều nhược, nhưng giọng cô lại khá mạnh. Mỗi sáng cô uống một cốc nước cam vắt pha mật ong để cho trơn cổ mát họng trước khi tự luyện giọng bằng cách vocaliser từ thấp lên cao, từ cao xuống thấp những vần a, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư… Đó là lối luyện chân truyền của các ca sĩ Tây Phương.

      Quỳnh Giao hát thật là điêu luyện, ai cũng biết. Quỳnh Giao tốt nghiệp môn dương cầm trường Quốc Gia Âm Nhạc, có ngón đàn tươi và sành điệu, chắc chẳng ai quên. Nhưng mấy ai biết được sự thủy chung và ý tình thắm thiết của cô đối với ca hát? Ca hát là tôn giáo của cô, là mục đích mà cô đeo đuổi hơn ba phần tư cuộc đời, dù khách sành điệu của cô quá ít, dù kẻ biết được cái chân giá trị của giọng hát cô chẳng được bao người đi nữa.Ở ngoài đời, Quỳnh Giao có cung cách thật cao sang, cho nên cô giữ gìn tiếng hát cô quý phái theo. Cô đưa tình cảm vào giọng hát có chừng mực. Người chưa sành điệu khó cảm thông nổi giọng hát của cô vì đối với họ nó hơi làn lạt, chưa đủ ngọt say sưa như mật ong, mà cũng không đắng đậm như mật gấu. Tuy nhiên cô không hát quá chân phương như Mộc Lan hay như Anh Ngọc. Tình cảm trong giọng hát của cô phơn phớt và dịu nhẹ. Cô cũng dùng nét láy thật mềm để trang sức cho giọng hát mình thêm nét gợi cảm, để nữ tính cô được bộc lộ một phần nào. Hình như cho tới bây giờ, Quỳnh Giao vẫn giữ giọng thiếu nữ non mềm và tươi mươn mướt, một giọng trong ngần và trắng lóa như pha lê. Từ khi ra hải ngoại, khi hát ở những chỗ hơi trầm, tiếng cô hơi khào khào một chút, thật gợi cảm như giọng thiếu phụ. Tuy nhiên, rồi đâu cũng vào đó, tiếng hát cô cũng trở về cái giọng thánh thiện và trinh khiết gợi nên hình ảnh thiên thần cánh trắng.
      Giọng Quỳnh Giao thuộc loại kim (soprano). Khi hát ở những chỗ ngang ngang thì nó quá dịu mềm làm cho chúng ta nghĩ tới hình ảnh các cô khuê nữ kiều nhược. Khi lên cao, giọng cô tuy không xé lụa như giọng Ánh Tuyết, tuy không lảnh lót chuông ngân như giọng Thùy Nhiên năm nào, nhưng vẫn chắc, vẫn dẻo, vẫn thoải mái và thống khoái. Cô lại còn ưa chuyền hơi, từ tiếng chót câu đầu cô ngân nga thật dài rồi bắt qua tiếng đầu của câu sau với một làn hơi óng ả vóc nhung tơ và dồi như nước sông mùa lũ, nghe mà cảm thấy đã cái lỗ tai biết dường nào!


      Từ năm 1986 cho tới bây giờ, ngoài hai băng nhạc “Hát Cho Kỷ Niệm 1” và “Hát Cho Kỷ Niệm 2”, Quỳnh Giao thực hiện cho riêng mình những dĩa nhạc “Khúc Nguyệt Quỳnh”, “Tiếng Chuông Chiều Thu”, “Chiều Về Trên Sông”, “Ngàn Thu Áo Tím”, “Hành Trình Phạm Duy”. Lại còn dĩa nhạc “Tìm Nhau Bốn Mùa” mà cô hát chung với Kim Tước và Mai Hương nữa chi!

      Quỳnh Giao thường hát những bài chọn lọc, có phẩm chất cao. Cô không chiều theo thị hiếu của khán thính giả tạp nhạp. Cô nhắm vào khách sành điệu ít oi, dù nghìn người chỉ có một người đi nữa. Cô hát những bản có nhiều chỗ lên cao để cô có thể biểu diễn giọng kim cao vút và sáng nguy nga, sáng lồng lộng của mình như “Chiều Về Trên Sông” của Phạm Duy, “Tiếng Dương Cầm” và “Mưa Trên Phím Ngà” của Văn Phụng, “Hẹn Một Ngày Về” của Lê Hữu Mục, “Tiếng Thời Gian” của Lâm Tuyền, “Hoài Cảm” và “Thu Vàng” của Cung Tiến. Bản “Sao Đêm” của Lê Trọng Nguyễn và bản “Đường Chiều Lá Rụng” của Phạm Duy tuy không có chỗ lên quá cao nhưng vẫn là hai bản khó hát, các ca sĩ có kỹ thuật non kém sẽ hát tuột giọng, đâm hơi, lạc giọng… Nhưng vốn có kỹ thuật thâm hậu, Quỳnh Giao hát rất đúng giọng, không sai một bán cung, rất điệu nghệ, càng nghe càng khoái.

      Càng lớn tuổi, cô càng luyện giọng siêng chăm hơn nên làn hơi cô thêm mạnh, chuỗi ngân càng đẹp tuyệt vời. Rõ ràng là đây là rượu bồ đào càng để lâu càng nồng ngát say sưa.

      Tiếng hát cao vút không gợn đục bởi tình cảm sướt mướt của Quỳnh Giao một khi cất lên như đưa tâm hồn khán thính giả đến tận nẻo Lam Kiều in trên mây xanh nổi chập chùng mây trắng để họ bước vào cõi tiên.


Hồ Trường An
(Chân Dung Những Tiếng Hát)
Từ nguồn Cỏthơm

Thơ Tranh: Mưa Pleiku


Thơ:  Lê Kim Hiệp
Thơ Tranh: Nguyễn Đức Tri Tâm

Thứ Ba, 29 tháng 7, 2014

Vẫn Còn Có Anh


Vẫn còn có anh bên đời
Dẫu mai anh bỗng xa xôi ngàn trùng
Còn anh trong nỗi nhớ nhung
Trong dài ngày tháng trong từng phút giây
Rong chơi  qua cuộc đời này
Hơp tan tan hợp bèo mây thôi mà
Trăm năm dài dược bao xa
Đôi khi khoảnh khắc cũng là thiên thu
Hai  nơi biền biệt xa mù
Trông vời gọi với cho dù đã xa

Khánh Hà

Khung Trời Nhỏ


Tiễn anh đi em gầy gò tuổi ngọc
Rạt rào lòng, nước mắt nhỏ âm-u
Ươm tình yêu cho tròn cuộc ngục tù
Ở nơi ấy anh nào đâu có biết
Nhìn phương anh, chim trời bay biền biệt
Gục đầu vào khuôn sáo nhỏ tình yêu
Ngập đường về hoa cỏ cũng đìu hiu
Gót chân nhỏ kéo mòn trên giốc đá
Ung dung bước trong ngút ngàn xa lạ
Yến xa rồi, con oanh nhỏ cô đơn
Em chờ anh trong năm tháng tủi hờn
Người yêu hỡi có bao giờ xa xót
Yến xa rồi, oanh buồn oanh thôi hót
Êm đềm nào trong kỷ niệm đôi ta
Những ngày vui anh mang cả đi xa
Mang theo hết những hình hài yêu dấu
Im lặng đứng giữa trời chiều nắng dột
Nguyện cầu cho anh mãi mãi bình an
Hãy nhớ về cô em nhỏ miền Trung
Đang vò-võ tháng ngày mong anh đó

Yên Sơn
081970
(Trích trong tập thơ: Cho Quê Hương – Tôi – Và Tình Yêu
Xuất bản 1998)

16 Cách Cột Khăn Choàng


Yên Đỗ sưu tầm

10 Bí Ẩn Thú Vị Về Hàn Quốc


Văn hóa Hàn Quốc từ ẩm thực cho đến âm nhạc, các chương trình truyền hình đang xâm chiếm châu Á. Tuy nhiên, không ai phải cũng biết những sự thật thú vị về nền văn hóa này.
1.  Văn hóa uống rượu 


Uống rượu là một phần quan trọng trong xã hội Hàn Quốc. Đó là cách mọi người giao tiếp và tìm hiểu lẫn nhau. Ít nhất mỗi tháng một lần, thậm chí mỗi tuần một lần, người Hàn Quốc đi ra ngoài ăn uống với đồng nghiệp của mình. Những sự kiện này được gọi là "hoesik" và thường uống nhiều rượu. Hàn Quốc có rất nhiều quy tắc khi nói đến uống rượu. Nếu một trưởng bối rót cho bạn bạn một ly rượu, bạn phải giữ chén thành kính bằng hai tay. Và nếu bạn rót rượu cho một người lớn tuổi hơn, bạn cũng phải giữ chai rượu bằng hai tay. Chỉ có người cao niên hoặc người có địa vị cao hơn mới có thể sử dụng một tay.
Luôn phải giữ lại một chút rượu trong chén, và không bao giờ đổ đồ uống xuống đất. Không có giới hạn cho một buổi "hoesik." Mọi người tiếp tục uống và uống và tất cả các trong khi la lớn: "Kon-Bay( có nghĩa là “Chúc mừng!") và thức dậy vào sáng hôm sau, để ăn một bát súp thịt heo được gọi là "haejangguk” để giải rượu.

2. Kiêng kị màu mực đỏ



Mọi đất nước đều có sự mê tín dị riêng của mình. Trong khi phương Tây lo lắng về con mèo đen, muối đổ, con số 13 thì Hàn Quốc lại sợ “mực đỏ”. Ở Hàn Quốc, người ta cho là nếu ai bị viết tên bằng bút màu đỏ thì là người không được may mắn và sẽ gặp nhiều tai ương, thậm chỉ sẽ chết.
Vì vậy, tại sao người Hàn Quốc lại sợ bút màu đỏ? Người Hàn Quốc tin rằng màu mực đỏ có thể xua tan ma quỷ và bảo vệ người chết, nhưng nếu viết tên của một người sống trong màu đỏ, sẽ có được tác dụng ngược lại. Vì vậy, người Hàn Quốc kiêng kị  ký hợp đồng, viết thư, hoặc viết thông báo bằng màu chữ đỏ mà thay vào đó sử dụng hoàn toàn bằng màu đen.
3.Tôn trọng cái bắt tay 


Người sáng lập tập đoàn Microsoft, Bill Gates đã bị một số phương tiện truyền thông Hàn Quốc chỉ trích khi ông vừa bắt tay Tổng thống Park Geun-Hye vừa để một tay trong quần. Ngay lập tức các tờ báo lớn của Hàn đã đăng bức ảnh này cùng với dòng chú thích: "Sự khác biệt văn hóa, hay một hành động thiếu tôn trọng?". “Cái bắt tay thiếu tôn trọng? Cái bắt tay bình thường?”.
Hàn Quốc là đất nước rất coi trọng nghi thức nho giáo và đặc biệt nhạy cảm đối với niềm tự hào dân tộc. Tại Hàn Quốc, bắt tay đôi khi cũng là một hành động bình thường trong giao tiếp nhưng trong một số trường hợp, họ có thể bao hàm sự vượt trội. Nếu bạn đang bắt tay với một người ngang hoặc ít tuổi hơn thì có thể hãy sử dụng một tay. Nhưng nếu bạn đang gặp gỡ một người nào đó nhiều tuổi hơn hoặc ở vị trí cao hơn, bạn phải sử dụng cả hai tay). Vì vậy, nếu bao giờ khi bắt tay với một ông chủ Hàn Quốc, bạn cũng phải đỡ bằng hai tay và mắt luôn phải nhìn thẳng

4. Giáo dục của Hàn Quốc 




Sinh viên Hàn Quốc được cho là rất thông minh. Hàn Quốc có tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cao khoảng 93 % ( trong khi Mỹ chỉ có 77 %) , và có hệ thống giáo dục tốt thứ hai trên thế giới. Tất cả điều này đều là nhờ các "hagwons” . Hagwons là các nhà quản lý và giáo viên công tác tại các trường học thêm tư. Giáo dục tư nhân trở thành một ngành công nghiệp khổng lồ trong suốt thập niên qua khi các bậc phụ huynh tìm mọi cách để tạo điều kiện cho con có lợi thế trong một xã hội mà sự thành công được định nghĩa rất hạn hẹp, thông thường chỉ là vào một trong ít trường nổi tiếng sau đó có sự nghiệp trong cơ quan chính phủ hoặc tập đoàn lớn.
Chính phủ nước này ước tính có 95.000 hagwons và 84.000 cá nhân cung cấp dịch vụ dạy kèm và còn nhiều người khác cung cấp các dịch vụ ngoài tầm kiểm soát của các nhà giám sát thuế. Các bậc phụ huynh thường chi khoảng 1.000 USD/tháng cho mỗi đứa trẻ ở hagwons và cũng thường xuyên, học sinh ở các học viện như vậy cho tới tận đêm. Phụ huynh sẽ nhận được tin nhắn thông báo khi con cái họ tới trường vào mỗi buổi chiều, sau đó lại là một tin nhắn khác thông báo sự tiến triển trong học tập của học sinh.

5. Cuộc đối đầu Hàn Quốc-Nhật Bản 

Trong quá khứ, Nhật Bản đã từng xâm lược bán đảo Triều Tiên và cai trị với một chế độ hà khắc. Đặc biệt trong chiến tranh thế giới lần thứ II quân đội Nhật bắt gần 200.000 phụ nữ Hàn Quốc làm nô lệ tình dục trong các nhà thổ trên khắp Trung Quốc và hàng ngàn người Hàn Quốc đã bị tra tấn trong các đơn vị 731 nổi tiếng.
Nhiều thập kỷ sau đó, nhiều người Hàn Quốc vẫn còn giữ mối hận thù và cảm thấy rằng Nhật Bản đã không xin lỗi về tội ác chiến tranh trên.Vấn đề phức tạp hơn bởi liên quan đến tranh chấp với một nhóm các hòn đảo ngoài khơi bờ biển của mà Hàn Quốc gọi là Dokdo còn Nhật goi là Takeshima. Năm ngoái, một công ty chuyên về khảo sát là Gallup đã có cuộc thăm dò để xem quốc gia nào bị người dân Hàn Quốc xem thường nhất. Kết quả cho thấy 44,1% người Hàn Quốc chọn Nhật Bản và chỉ 11,7% chọn Bắc Triều Tiên.
6. Đấu tranh váy




Hàn Quốc là một đất nước rất bảo thủ, vì vậy thời trang "không quần" đang thịnh hành ở đất nước này đã khiến nhiều người ngạc nhiên. Các cô gái thường xuyên mặc váy ngắn và quần short, ngay cả phụ nữ làm kinh doanh thường xuyên mặc váy ngắn để làm việc. Từ năm 1963 đến năm 1979, Hàn Quốc dưới quyền của Tổng thống Park Chung-hee, bố của Tổng thống hiện tại của Hàn Quốc Park Geun-Hye, quần áo của phụ nữ Hàn được quy định rõ ràng. Nếu ai mặc váy ngắn hơn 20cm hoặc cao hơn đầu gối sẽ bị coi là phạm pháp. Đặc biệt tại các trường học phải nghiêm chỉnh thi hành luật lệ này, các giáo viên thường xuyên phải đo váy trước khi đến lớp.
7. Công viên nhà vệ sinh



Du khách tới thành phố Suwon, phía Nam thủ đô Seoul sẽ phải “ngã ngửa” trước một trong những công viên chủ đề độc đáo nhất thế giới: công viên Văn hóa toilet. Công viên này được lấy ý tưởng xây dựng để tướng nhớ vị thị trưởng cũ của thành phố là Mr Toilet, ông Sim Jae-Duck. Ông là người nổi tiếng là một người đam mê mọi thứ liên quan đến nhà vệ sinh và đã dành cả cuộc đời thực hiện chiến dịch cải tiến nhà vệ sinh công cộng ở Hàn Quốc. Sự thật là ông đã được sinh ra ngay trong phòng vệ sinh nhà mình! Ông thậm chí còn xây ngôi nhà của mình với hình dáng của một chiếc… bồn cầu. Ngày nay, ngôi nhà này đã được sử dụng để làm khu bảo tàng trong công viên chủ đề có một không hai này, càng thu hút sự chú ý của du khách tới tham quan.
8. Phẫu thuật thẫm mỹ 

Theo một cuộc khảo sát năm 2009, cứ 5 người phụ nữ Hàn lại có 1 người phẫu thuật thẩm mỹ. Không giống ở nước khác, phẫu thuật thẫm mỹ là chuyện hết sức bình thường ở Hàn Quốc. Từ nữ sinh cho đến người mẫu, hoa hậu ở xứ Kim chi đều hài lòng với việc này. Ngay cả đàn ông ở Hàn Quốc cũng cho rằng, nếu xuất hiện với một dung mạo bắt mắt cũng có lợi cho sự nghiệp của họ hơn. Hầu hết phụ nữ Hàn Quốc đều muốn có một chiếc mũi nhỏ, cằm V-line, đôi mắt to long lanh. Nhưng cái gì cũng có giá của nó, ngoài chi phí đắt đỏ, những hậu quả, di chứng của việc phẫu thuật cũng đang làm phụ nữ Hàn Quốc lao đao.  


9. Đấu bò 

Đấu bò ở Hàn Quốc là một văn hóa truyền thống, nhưng khác với Tây Ban Nha, ở đây không áo choàng màu đỏ, không kiếm sĩ, chỉ có 2 con bò đực lực lưỡng so tài với nhau. Những con bò này đến từ 500 trang trại trên khắp Hàn Quốc, phải có sừng lớn, cổ dày và thân mình thấp. Chúng cũng có chế độ ăn đặc biệt bao gồm cá, bạch tuộc sống và rắn.  Trước khi vào đấu, các ông chủ thường cho con bò của mình uống rượi soju và vẽ tên hoặc ký hiệu của mình lên trên con bò. Trận chiến chỉ kết thúc khi một trong hai con bò bỏ đi. Khác với chọi trâu ở Việt Nam, con trâu thua cuộc thường bị xẻ thịt thì con bò thua cuộc ở Hàn Quốc chỉ bị cho uống rượu say mèm.

10.  Robot tiêu diệt sứa



Nghe như tên của một bộ phim khoa học viễn tưởng nhưng  đó là những gì đang xảy ra ngoài khơi bờ biển của Hàn Quốc. Mỗi năm, Hàn Quốc thiệt hại khoảng 300 triệu USD vì nhiều vụ sứa tấn công gây hại cho con người và các loài sinh vật biển. Chính vì vậy mà các nhà nghiên cứu thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Cao Hàn Quốc (KAIST) đã phát triển Hệ thống Robot Loại bỏ Sứa (JEROS) có khả năng bắt gọn và tiêu diệt các đàn sứa.  Những con robot đầu tiên có thể tiêu diệt khoảng 400 kg sứa trong một giờ. Trong khi đó những con robot phiên bản mới có thể thực hiện tương tự với 900 kg sứa trong cùng khoảng thời gian đó.

Thái Nguyễn Sưu tầm