Xưa kia, trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, cùng với thói quen trồng lúa nước của người Việt, giỏi dùng thuyền, người Việt thường để chân trần. Vào cuối thế kỷ thứ X, vua Lê Đại Hành còn có lúc cởi trần, đóng khố, đi chân đất, đến đời nhà Trần người dân đều đi chân không, da chân rất dày khiến họ trèo núi rất nhanh nhẹn và không sợ chông gai. Chỉ có người quý tộc mới đi giầy bằng da, nhưng khi đến cung điện thì lại phải tháo giầy. Nói chung người Việt xưa kia ít dùng guốc.
Thế nhưng theo sử sách thì đôi guốc đã xuất hiện ở Việt Nam khá sớm. Các sách cổ của Trung Quốc như Nam Việt Chí, Giao Châu Ký có ghi rằng, Bà Triệu ở thế kỷ thứ III có đi guốc bằng ngà voi. Ngày trước ở nông thôn, vào những ngày giá rét, phụ nữ và đàn ông chỉ khi nào đi dự hội hè đình đám thì mới đi guốc tre, guốc đi trong nhà thường được người đàn ông đẽo bằng gỗ, có mũi uốn cong cong để bảo vệ ngón chân, quai dọc thì tết bằng mây chứ không phải bằng quai da đóng ngang như kiểu guốc thời cận đại.
Trước kia ở Phú Yên (Nam Trung Bộ), đôi guốc bình dân nhất là đôi guốc do người dân quê tự đẽo lấy. Loại guốc này cao hơn đôi guốc sản xuất để bán, mũi hơi cong lên, trước mũi có dùi một lỗ thủng từ trên xuống, phía sau dùi một lỗ ngang. Quai guốc là một sợi dây, có thể dùng vải xe lại mềm, êm cho khỏi đau chân. Guốc xỏ quai lỗ ngang, đưa tới trước rồi đưa xuống lỗ phía dưới, giống như quai dép Nhật thời nay. Chỗ cong lên tránh cho quai không bị giáp đất để khỏi bị mòn nhanh, chóng đứt.
Bên cạnh guốc tự đẽo, ở tỉnh này cũng đã có bán guốc gỗ dành cho đàn ông và phụ nữ. Guốc cho phụ nữ hơi eo ở chính giữa, còn guốc đàn ông thì không eo nên gọi là guốc xuồng.
Guốc sản xuất ở Phú Yên không sơn, giữ nguyên màu trắng của gỗ, thường là cây lồng mực. Còn guốc nhập từ Huế thì có sơn hoặc đều một màu hoặc sơn hai màu (thường là màu đen và màu nâu), thường phía lòng bàn chân là một hình tam giác màu nhạt.
Xưa kia chỉ những người khá giả mới đi guốc sơn, một số nơi gọi là guốc dòn, vì thế người ta mới nói “Chân giầy chân dòn” để chỉ những người giàu có và sang diện. Cho mãi đến năm 1940, học trò nam trường công ở tỉnh Bến Tre mặc bộ bà ba trắng, chân đi guốc. Trước năm 1945, guốc sản xuất ở kinh đô Huế gọi là Guốc Kinh. Đây là loại guốc làm từ dừa hay gỗ nhẹ, sơn trắng, mũi thêu và kim tuyến.
Ở Hà Nội có kiểu guốc gọi là phi mã, đế cao dành cho phụ nữ, hay được quảng cáo trên báo chí hồi những năm 40:
Bấy lâu đáy bể mò kim
Kiểu giày phi mã nay tìm đã ra
Sang đến năm 50, 60, người ta đem guốc mộc được sản xuất ở làng Đơ Đồng (tức Yên Xá, thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội), ở Kẻ Giày (xã Liên Trung, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây) về số nhà phố 12 Hàng Gà, nay chuyển về phố BạchMai ở Hà Nội để sơn, xì hoa và sau đó mới đem đi bán. Đi guốc dưới màu xanh của những hàng cây sấu cổ thụ đã là nét đẹp một thời của những thiếu nữ thủ đô.
Vào cuối những năm 70, bên cạnh guốc gỗ, guốc nhựa đã ra đời. Cùng với giầy dép chức năng chính của đôi guốc là để trang trí cho đôi chân. Tuy vậy cũng có trường hợp đôi guốc được khoét rỗng gót để cất giấu vàng bạc và các thứ nữ trang
quý hiếm khác mỗi khi đi đâu xa.
Nếu như chiếc nón, chiếc yếm là những vật gợi cảm hứng cho hồn thơ dân gian và thường được nhắc đến trong các câu ca dao tục ngữ, thì đôi guốc hầu như bị các thi sĩ dân gian lãng quên.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng đôi guốc đã gắn bó với đời sống người Việt lâu đến thế nào. Thậm chí có thời gian việc dùng guốc, làm guốc đã bị lắng xuống. Cho đến bây giờ thì cái thú dùng guốc đã được khôi phục trở lại. Mấy năm gần đây sự phục hưng này đã chứng tỏ một điều rằng quan
niệm về cái đẹp đang ngày càng đa dạng hơn, và việc dùng guốc trở lại đã phần nào gìn giữ và trân trọng những gì được gọi là vật dụng giản dị của lớp người xưa.
Guốc gỗ thời hiện đại được sơn vẽ, thiết kế theo thời trang và thẩm mỹ hiện nay.
Đôi guốc ngù ngà
Kỳ trước, các bạn đã thấy ta tranh giành nghề guốc với người Trung-Hoa. Nhưng thật ra, loại guốc ấy chính là của họ phát-minh ra. Ta đã thắng, nhưng thắng trong việc bắt chước.
Đôi guốc đặc-biệt Việt-Nam khác xa: đó là guốc ngù.
Không biết ở Bắc và Trung có guốc ngù hay không, chớ guốc ngù ở Nam ngày xưa độc-chiếm thị-trường.
Guốc ngù được khai-sanh ở Sàigòn. Dĩ-nhiên là như vậy. Ở thôn-quê các cụ đi đất với hai bàn chơn không, có tiệc-tùng, lễ-lạc, các cụ đi giày.
Guốc ngù cũng đại-khái giống guốc ngày nay nhưng không có quai.
Một cây trụ nhỏ được chôn ở đầu guốc để người đi guốc kẹp lại giữa hai ngón chơn cái và ngón chơn kế đó.
Trụ cao lối hai phân rưỡi, đầu trên to (đó là cái ngù) hơn đầu dưới để chiếc guốc không ở lại khi chơn bước tới, vì sự kẹp bằng ngón chơn không đủ sức làm dính guốc vào chơn.
Ngù của guốc bình-dân bằng đồng cho êm chơn, thành-thử đôi guốc rất là nặng.
Các cô đánh ghen, đập nhau bằng ngù đồng, phun máu đầu có vòi. Đó là thứ khí-giới ghê-gớm của phụ-nữ Sàigòn thuở ấy.
Guốc thường thì như vậy, nhưng các bà các cô nào có chịu như vậy đâu. Trời sanh các bà các cô ra để làm đẹp cho ta ngắm thì ngàn năm các bà các cô vẫn làm dẹp, muôn năm trước, muôn năm sau.
Ngày nay, cứ sáu tháng một là các bà các cô đổi mốt giỏ xách tay đi chợ hết dây sợi nhựa to, đến dây sợi nhựa nhỏ, món đựng cá, đựng rau, mà các bà các cô còn thi-vị-hóa nó, huống-hồ chi là guốc, bởi guốc thuộc vào y-phục, trang-sức đấy.
Vậy các bà các cô phát-minh ra ngù ngà, vẫn y hệt như ngù đồng nhưng làm bằng ngà.
Bấy giờ thì đánh ghen không dữ-tợn như trước nữa, bởi ngà voi tương-đối mềm hơn đồng nhưng được cái là mang guốc ngù ngà, đôi chơn trắng đẹp hơn, các ông bớt lập phòng nhì, nên cũng khỏi phải đánh ghen nữa.
Chỉ phiền là các ông bị phá-sản. Một bà sắm đến bốn đôi guốc ngù ngà, một đôi thông-thường để đi trong nhà, một đôi chạm sơ-sịa để đi chợ, một đôi chạm rắc-rối để đi xem hát và một đôi chạm thật mỹ-thuật có nạm vàng để đi dự tiệc thì quỹ gia-đình đã hao-hụt biết bao nhiêu !
Ôi, quí bà quí cô ơi, ngày xưa không có Chanel số 5, sáu trăm đồng một lọ nhỏ bằng ngón tay cái, quí bà quí cô cũng đã tìm được cách làm cho phái đực rựa của chúng tôi thất-điên bát-đảo rồi thì ngày nay bọn mày râu của chúng tôi còn xuội râu đến đâu nữa !
Nhưng đã tu-mi nam-tử, lãnh-đạo đàn bà từ mấy mươi ngàn năm rồi, phái khỏe nhứt-định phải thắng.
Một tờ nhựt-trình, không nhớ rõ là tờ nào, đăng bài khảo-cứu láo rằng chất ngà voi chạm vào da thịt ta lâu ngày, hút máu người dùng ngà voi, để « lên nước ».
Còn bé quá, tôi không biết làng báo, nhưng chắc là báo ấy hôm đó bán chạy như tôm tươi, bởi đức phu-quân nào cũng mua về một số cho các bà coi.
Quả-nhiên các bà sợ-hãi, bỏ ngù ngà, và bỏ luôn ngù đồng, chỉ mang guốc quai và mang giày thôi.
Ắt hẳn ông chủ-bút tờ báo ấy đã mang nợ vì ngù guốc của bà chủ-bút nên mới lăng-xê tin vịt đó ra, và thì ra, báo-bổ ngày xưa cũng đã biết lăng-xê tin vịt rồi đó.
Tiện đây, cũng xin cho quí bà quí cô ngày nay biết rằng máy uốn tóc hút máu người, nước hoa Chanel số 5 gây bịnh ung-thư da, áo đầm làm cho quí bà quí cô ho lao, giày muyn khiến quí bà quí cô đau khớp xương, áo dài may bằng Soie Bangkok sẽ làm quí bà quí cô cùi phung hủi, năm tới đây coi cải-lương ngồi thượng-hạng sẽ mắc bệnh gù lưng, đòi đi Đàlạt là nhà quê, ăn nho tươi một ngàn hai một kí-lô sẽ bị ung-thư lưỡi, xem vô-tuyến thu-hình sẽ nổ con mắt, sắm máy lạnh nó nổ thì sập nhà, sắm máy giặt sẽ rụng tóc thành sói đầu. Tóm lại, quí bà quí cô mà tiêu xài như cái đà ngày nay, thì nếu quí bà quí cô không mắc những chứng bịnh trên thì bọn mày râu chúng tôi sẽ mắc bịnh điên mất.
Hồi Ký Bình Nguyên Lộc