Ai chả hay biết làm văn phải có chữ. Chỉ một dúm chữ không thôi, chỉ phảy vài nét mà túm tó được thần thái, lột được hết hồn vía của con chữ. Thế mà gã không hay. Đèo bòng thêm gã mắc bệnh từ ám, mê muội với con chữ. Mỗi lần gã đi tìm chữ,...chữ lại làm như không có mặt trong cõi nhân gian này.
Vì thế gã vật lên cái tục tên: gã biết chữ nhưng chữ không hề biết gã.
Bởi đau đáu với văn chương, gã phải đi tìm ông dế mèn để mót chữ.
Gã ghé quán bia hơi ở phố Huế mà ông dế mèn gọi là “bia bơm”. Ông thường ngồi ở đấy lăn tăn chê nhiều người viết văn bây giờ thiếu chữ và dùng chữ rất ẩu. Làm văn thì phải học chữ. Tạng tiếng Việt ta có chữ “ăn nằm” rất hay, tránh nói thô. Cờ nhà chùa phải gọi là cờ “điều” chứ không phải là cờ đỏ, sơn đen phải gọi là sơn “then”, quần đen phải gọi quần “thâm”. Gã đến quán không gặp.
Tới nhà, gã gõ cửa và hỏi:
- Có ai ở nhà không?
Tiếng ông dế mèn vọng ra:
- Đi vắng rồi.
Thế là gã tìm ông ấm đất để kiếm ông dế mèn
Ghé quán nhậu văn chương bên vỉa hè, mắt gã đảo tít như rang lạc thì gặp ông thật. Trước mặt ông ấm đất là một đĩa lạc rang, một chai cuốc lủi và một đĩa tiết canh chó. Ông luận đĩa tiết canh đánh giỏi là “tiết canh xâu lạt” treo lên giây phơi quần áo ở sân.
Gã um thủ tiết canh xâu lạt treo để làm gì. Ông mắng gã như vặt thịt:
- Cậu làm văn mà sao ngu thế! Làm văn phải biết quan sát. Làm văn tức là kể một câu chuyện. Trong quá trình kể, có rất nhiều tình huống, nhiều chi tiết vụn vặt như đĩa thịt chó với rau thơm là… lá húng chó, là lá mơ mà trong Nam bộ gọi là…lá thúi địt
Rồi ông hỏi gã vác xác đi đâu thế. Gã thưa tìm ông dế mèn, tới nhà không gặp nên mò tới đây. Ông cười lủng lẳng:
- Ông dế mèn nói đi vắng vì ngỡ cậu đến ve con gái ông ấy đấy.
Gã bí rị muốn viết truyện ngắn, mà bí ngô, bí khoai. Ông bổm bảm:
- Giả sử cậu bảo tôi viết về ‘’Rượu’’. Thế là sẽ có truyện ngắn với nhan đề ‘’Cái chai’’. Hình ảnh sinh động làm nên tư tưởng, chứ không phải tư tưởng tạo ra...cái chai.
Ực cốc cuốc lủi một cái tót, chống cái ba toong, ông búi bấn:
- Hay nhất là đi thực tế trại bồi dưỡng sáng tác Quảng Bá gặp ông dế mèn đang dậy văn ở đấy. Mỗi người một khác: Tôi viết ký. Ông ta viết truyện ngắn.
Móc cái Iphone 12 bấm số ông dế mèn. Máy kêu tít tít. Vì hoài bão chết tiệt, vì túng bấn chữ để hóng cái viết, gã đèo ông ấm đất đi tìm ông dế mèn.
***
Đang phóng nhanh, gã biết chữ nhưng chữ không hề biết gã giảm tốc độ con @ còng, vì phía trước có ông chăn bò ngồi bên vệ đường. Gã thắng xe lại. Ông chăn bò vểnh vành nón lên nhìn, hai con mắt sắc lẹm, hiện rõ sự cân nhắc. Ông ấm đất nhận xét mắt như thế gì cũng biết, không gì qua mắt được, ông ấm đất hấm húi với gã: “Ấy là ánh mắt ông dế mèn”. Ông chăn bò gọ gạy hỏi: “Tìm ai đấy” - “Tìm ông dế mèn... nhà văn.” - “Mua văn à?” - “Không, chỉ học văn thôi” - “Đất nước ta nhiều trại văn để học lắm, Trại sáng tác văn học Đồ Sơn này, Trại dậy văn Tam Đảo này…”. Gã hỏi: “Vậy trại bồi dưỡng Quảng Bá ở đâu?”. Ông chăn bò chỉ về phía xa xa: “Đấy, một dãy xanh xanh tre lá ấy”.
Ngồi sau lưng, ông ấm đất vừa xỉa răng vừa nói chuyện nhậu văn chương:
- Ông dế mèn bảo viết văn chả khó gì, na ná như mổ lợn. Thao tác chính là lọc phần thịt, để trơ ra phần cốt tức cái nội dung của tác phẩm. Tính sáng tạo viết lách chẳng qua là sự nấu nướng những gì có sẵn thành một món ăn mới. Đó là một quá trình dàn dựng sự kiện nhân sinh vào một mâm cỗ ngôn ngữ. Nếu văn chương bị bày biện vụng về trên các mâm cỗ quá tràn ngập đồ ăn chưa được nấu, sống sượng. Sự tiêu hóa của người đọc sẽ bị ngộ độc hay bội thực. Cái dở của văn chương ta là nhiều chữ quá mà chẳng nói lên được điều gì. Ẩm thực là một quá trình văn hóa chuyển hóa từ nấu nướng là thịt, là cá, là gạo và bày biện món ăn với thật nhiều gia vị.
Như cậu biết đấy, người Bắc chuộng văn, người Trung làm thơ, người Nam viết báo. Người Bắc viết văn mang cái bệnh đểu, sâu sắc, ẩn dụ, bóng gió, nói cay, nói đắng, lấy cái gia vị của gừng, của ớt làm cái ngon miệng. Vì thức ăn chả có gì, như một chén cơm sống trộn tỏi với nghệ. Vậy mà người đọc cứ ào lên khen hay.
Gã rồ máy, để lại một làn khói vẩn vơ trên khóm mai vàng. Gã chợt nhận ra…một dãy xanh xanh tre lá ở phía…sau lưng mình. Bèn bòn mót: “Hỏi lần nữa xem sao”. Ông bơ bải: “Cái thằng mắt sắc lẹm dân Hà Đông đó cũng đếch biết đâu!”. Gã quay xe lại để gặp ông chăn bò: “Xin lỗi hỏi lại lần nữa, trại Quảng Bá nằm phía tay nào?” - “Ban nãy tôi chỉ phía tay nào?” - “Có chỉ tay nào đâu” - “Vậy ư! Vậy thì rẽ tay trái, tay phải cũng tới” - “Làm sao tới” - “Hỏi vớ vẩn”. Ông chăn bò lom lom nhòm con @ còng rồi vạy vọ: “Cứ lội bộ tàn tàn, tìm chiếc xe bò nào đó nhảy lên. Xe bò tự hành không có chủ đâu”. Ông chăn bò nói dón: “Xe bò chở rơm trong làng ra. Người ngoài này đón. Xong, chỉ cần dắt nó đến đầu đường, thả ra, tự khắc nó tự hành kéo xe về lại làng”.
Gã lại phóng xe, chạy gần nửa giờ vẫn không thấy chiếc xe bò. Gã hục hặc: “Thằng cha chăn bò chơi xỏ mình! Em nhớ là...là…”. Gã bỏ lửng câu nói, và hô hoán: “A! có thằng bé cõng em đằng trước kìa, đi hỏi già về nhà hỏi trẻ là chắc cú”.
Ông ấm đất đập đập vai gã và reo lên như ấm nước sôi: “Lũy tre xanh đây rồi”. Gã rẽ xe vào, con đường bê tông dẫn vào làng lũy tre xanh thao thiết như ông chăn bò chỉ. Gã góp nhóp: “Quái. Làng vắng hoe, chả thấy người”. Ông ấm đất nói, giọng chắc nịch, làm như mình đã từng sống ở đây: “Họ đi làm đồng cả rồi. Đây đúng là làng Quảng Bá.” Gã chạy xe chậm lại. Chó sủa vang. Chúng phóng ra cả đàn, nhỏ, to, đực, cái đều có. Ông bảo: “Đi ra ngay khỏi làng. Nhiều chó quá! Mà tôi lại ghét chó, nhưng tôi lại thích…chó luộc” - “Bác chỉ em đường ra nào?”.
Nghe thủng rồi, Ông ấm đất nói một câu tròn vành rõ chữ:
- Tôi chịu ông dế mèn dậy văn trên mặt bằng văn học chính quy. Ông đăng đàn phát biểu: Người viết nào cũng tìm cách tiến từ truyện ngắn sang truyện dài. Dừng lại ở truyện ngắn, sợ không phải là nhà văn. Họ viết truyện dài như phóng ngựa chạy, chẳng rõ mặt mày gì cả. Nhưng viết dài một chút, độ ba trăm trang trở lên, tôi cảm thấy có những phần đã phải độn rồi. Độn, lấy cái nọ đỡ cho cái kia, kéo nhau đi. Mệt!
Ông dế mèn thích truyện ngắn. Ông cho rằng truyện ngắn là một thể văn tập cho người viết, viết từng cái ngắn là vừa sức hơn cả. Chỉ với truyện ngắn, là nơi người ta có thể thử tìm phong cách cho mình. Người ta mới biết tận dụng từng câu, lo săn sóc từng chữ, rèn luyện đến việc dùng từng dấu phẩy, dấu chấm.
Chạy một thôi một hồi gã cũng đuổi kịp thằng bé cõng em. Thằng bé khoảng mười tuổi, đen nhẻm, đang địu đứa em thò lò mũi xanh. Gã giật mình vì con mắt thằng bé ma mãnh như ông chăn bò. Gã rà rà xe lại và dọ dẫm: “Ông chăn bò là gì với cháu?” - “Không biết” - “Thế cháu biết gì?” - “Bò”. Gã ớ ra vì ông dế mèn viết chuyện loài vật như bò chẳng hạn. Vậy là có “liên hệ” với ông dế mèn rồi, nên gã hỏi tới nữa: “Thế cháu biết ông dế mèn không?” - “Nhiều dế mèn lắm, mùa này bắt không xuể” - “Dế mèn viết văn ấy mà” - “Văn ở đây cũng nhiều như dế”. A! Thằng bé này cũng biết…văn chữ như gã, nên gã chắc như cua đinh là con ông dế mèn.
Gió hiu hiu, giữa sự dằn dỗi của trời đất, ông ấm đất đùn chữ:
- Ông dế mèn có lúc chủ trương viết những truyện không rắc rối. Hay nói khác đi là truyện chẳng cần có cốt truyện. Và viết càng nhạt càng hay (sic), có lần ông nói với tôi như thế. Nhưng đừng quên, đừng viết theo thị hiếu của người đọc mà bắt họ đọc những gì mình viết. Phải hé lộ những điểm thắt nút, gợi mở những gì sắp sẩy ra, những chi tiết tinh tế. Viết sao cho người ta đọc văn mình, đọc đi đọc lại, vẫn thấy hay. Có truyện đọc lần đầu hay. Đọc lại không thấy hay nữa. Văn phải đọc đi đọc lại…Cứ theo Nguyễn Công Hoan: Viết truyện tức là bịa. Nhưng phải dựa trên chuyện có thật, thật quá thì khô cứng nên phải hư cấu. Hiểu theo Nguyễn Công Hoan là…bịa như…thật.
Đột dưng ông bịa như thật và chỉ gã: “Có lão hót phân kia kìa”. Gã hom hõm dòm lão hót phân quấn khăn đầu rìu, quần sắn móng lợn, quang gánh đôi thúng. Tay cầm cái xương háng trâu, háng bò ắt để hốt phân. Thế nên gã chắc mẩm lão đây người làng Cổ Nhuế ở Hà Đông cùng quê với ông dế mèn phiêu lưu ký lưu lạc tới đây. Gã táp xe lại: “Bác cho hỏi thăm nhà ông dế…” - “Dế nào?” - “Dế mèn có râu ấy” - “Nói thối inh, dế nào mà chẳng có râu” – “Râu dế để ngo ngoe gáy đó” – “Đúng rồi, dế này có râu nhưng cạo nhẵn thín rồi” - “Sao vậy” – “Phát tâm Bồ đề đi tu” - “Đi tu?” – “Tu hú thì có” - “Tu chùa nào?” - “Chùa Một Cột.” - “Chùa Một Cột ở đâu?” - “Ai biết đó là đâu!”.
Bị ám ảnh đi tu với tu hú, gã ngước mặt lên dòm thấy có con tu hú thật. Nó có hai con mắt to như đeo kính lão, giống như con đà điểu lưng còng đang đậu trên ngọn tre.
Nhìn theo lão hót phân đi trên con đường làng, ông ấm đất gọ gạy:
- Ông dế mèn một lần nói với tôi dễ hiểu như tiếng Việt trong sáng. Sao cứ bịa ra những chữ khó hiểu: Ông ta rất chú ý học chữ. Ông phân biệt “mồm” với “miệng”. Nói “miệng” sang hơn nói “mồm”. Nhưng mồm miệng thì lại khác. Chữ như cái búa. Không có chữ, không tạo ra hình ảnh đập vào đầu người đọc. Cuối cùng phải tìm từ, một bài viết hay là có được một hai từ “đắc địa” nói lên được cái tâm địa của mình. Đó là cái thần của bài viết.
Gã lái xe về hướng mặt trời, vì bị chói mắt nên chạy lạc bu nó mất. Ông ấm đất nhắc khéo: “Nhớ rẽ trái, rẽ phải như thằng chăn bò chỉ nhá”. Gã lại nổ máy xe, rẽ trái, rẽ phải. Gã lau mồ hôi trán: Ông lại nhắc: “Rồi cũng ra khỏi làng thôi”. Bỗng không ông ấm đất cười cục cục như con gà trống về chuyện ông dế mèn:
- Ông ta bia rượu, gái ghệ chẳng kém ai, có 7 con. Vợ cứ đẻ sòn sòn. Tôi thì rất ghét người đẻ nhiều, vô kế hoạch. Đi đâu ông cũng tuyên truyền sinh đẻ có kế hoạch. Tôi bực với ông ấy: “Sao đẻ lắm thế?”. Ông ta có câu trả lời rất lạ: “Sướng con cu mù con mắt”. Rồi cười nhạt nhách: “Vì vợ tôi nó xấu”. Tôi không hiểu được ý ông muốn nói gì. Ông dế mèn lại hay đánh vợ. Quái thật! Chả lẽ vì vợ ông ấy…xấu! Hỏi ra ông ấy tống cho một câu gọn lỏn: “Ông không biết chứ đánh vợ xong, nó chiều mình lắm”.
Gã thêm một đận nữa thì chui tọt vào nghĩa địa...
Nỗi buồn chạm mặt là gặp một bà đang vái lấy vái để ngôi mộ mới đắp. Dựng xe, gã nắn no: “Vợ ông dế mèn chôn ở đâu” - Bà vỗ trán: “Chết thật rồi hử”. Và dóng dứ: “Không biết ông ta học ai chữ như...cái búa. Ông búa vào đầu vợ chết tốt”. Bà lây dây: “Mà hỏi làm khỉ gì vấy”. Ông nói nhỏ: “Rõ dở hơi, có chỗ chôn cũng giấu như mèo giấu cứt”. Gã cãi nhắng: “Vợ ông dế mèn chưa chết, biết mộ đâu mà chỉ”. Ông cười tít: “Cậu làm văn mà sao ngu thế! Làm văn phải biết quan sát. Cậu không thấy bà ta xấu lắm à”.
Ông có cái cười khinh đời, khinh mạn. Cái cười của ông không phải cười, mà chỉ là sự nhăn răng, nhăn nhó. Đột dưng ông ấm đất nhũn não:
- Trời phú cho ông dế mèn có khả năng sống trong nước đục, sống giữa những cái nhờ nhờ, tối tối mà vẫn sống được. Giữa đời sống, ông ta xoay sở có chục khuôn mặt khác nhau, táo tợn một cách kín đáo, để ý từng tí một, tinh tế trong những cái vặt. Trong văn nghiệp, ông nhẩn nha kể mọi việc, ghép chuyện nọ với chuyện kia, không thuyết phục ai, ấy thế mà lại đọc được. Cái chất văn của ông nó nằm trong một cái gì ẩn dưới chữ nghĩa. Truyện ông viết sau 1975 là chỗ sắc sảo, lọc lõi, nhất là sau 1986 với hồi ký mới thực sự là ông dế mèn với: Chiều chiều, Cát bụi chân ai, Ba người khác...
Vừa lúc bà đi về, gã biết chữ nhưng chữ không hề biết hỏi với: “Đây có trại bồi dưỡng Quảng Bá không” - “Không có trại, chỉ có làng thôi” rồi quay ngoắt đi. Gã lạc quan thấy rõ: “Dám cái nghĩa địa này là trại bồi dưỡng sáng tác lắm ạ”.
Bỗng có tiếng chó sủa vang. Cả đàn, nhỏ, to, đực, cái đều có, chúng đang theo bà đi về làng, ông ấm đất cười lăn tăn: “Thôi, quên cái trại dấm dớ ấy đi. Giờ tôi phải vào…chùa kiếm đĩa thịt chó cái đã...” rồi thả bộ theo đàn chó vào làng.
Gã nổ máy xe. Đám gà tre trong mấy cái mộ đất giật mình nhao lên một lượt kêu “tác…tác…”. Nhưng con @ còng lại kêu “tít…tít…”, và…tịt. Chắc vì hết xăng!
***
Gã biết chữ nhưng chữ không hề biết gã rời nghĩa địa…
Trời đất ánh lên những tia hấp hối của ngày nhưng chưa chịu…chết lịm. Cuối cùng xuất hiện một đốm đen cuối đường: một chiếc xe bò. Đúng là xe bò chở rơm trong làng ra như ông chăn bò chỉ và…chỉ cần dắt nó đến đầu đường, thả ra, “tự hành” nó về…Hà Nội. Gã đu lên nằm ngửa trên sàn xe và nhìn trời. Nao nao buồn tênh. Gã giơ tay vẫy vẫy chào…mấy cái mộ bia. Và nói lớn: “Chào!”
Đoạn gã hôn “chụt” vào bàn tay mình rồi quăng bàn tay ra xa...
Gã nghe thoảng mùi hương tàn khói lạnh. Trên sàn xe lung linh một bó nhang đỏ kệch cắm vào cái loong sữa bò. Gã nhẩm chừng chiếc xe bò từ nghĩa địa đi ra ắt là xe tang chở quan tài. Vì chả có rơm, rạ quái gì sất. Gã học ông ấm đất phải biết quan sát. Vừa lúc ông đánh xe bò quay lại bật quẹt, lúi húi che gió hút thuốc. Gã sững người vì hai con mắt sắc, sắc lẹm. Gã chợt thấy gần gũi với ông này vì ông trông ma lắm, ma đến tận xương thịt. Mà ma sống cao tay không biết sợ người là gì nên có mắt ở mọi nơi, ma dám ở trên xe bò lắm a! Cái quẹt nháng lửa. Gã bắt gặp đôi mắt ve vé, nhỏ, dài và hẹp của ai đó.…Bất giác gã nhành mồm ra la toáng lên: “Ông dế mèn…”.
Ông vẫn cái tật hấp háy mắt:
- “Hà…hà…chú bảo không ma sống sao được. Sau vụ Nhân văn, tội tôi còn to bằng mấy tội bọn ấy, thế mà chúng nó đều phải đi cải tạo tận Lào Cao, Yên Bái. Còn tôi cứ ở Hà Nội làm đến bí thư đảng uỷ Hội Nhà văn. Phải là ma để mà sống chứ!.
Ông dế mèn đốt thuốc, gương mặt lập lòe di ảnh. Ông hỏi: “Đi Hà Nội?” – “Vâng” - “Đi làm ăn?” – “Thăm bạn” – “Phố hay ngõ?” – “Phố” - “Đến đâu?” – “Trường dậy văn Nguyễn Du”. Ông tháo ống cống: “Trước tôi dậy ở đấy”. Ông hong hanh mắt: ‘’Dậy khỉ gì”. rồi hỏi gã: “Chú tới trường mấy lần rồi?” – “Lần này là lần thứ một trăm lẻ một” - “Hà…hà…Vậy là có ghệ ở đấy rồi” - “Không ghế không ghệ, em đi thăm ông bạn văn để ăn thịt chó, uống rượu cuốc lủi” – “Ai vẩy” – “Ông ấm đất”.
Con bò bước từng bước một. Xương hông nhô lên. Đầu cúi gục. Ông dế mèn trườn tới vỗ vào mông. Thuận tay lấy chai bia hơi và nói:
- Vậy hả! Vậy thì chú hãy coi chừng. Cáo cụ đấy. Ông này thì tôi biết quá! Rất khó chơi, rất kiêu ngạo, ngông nghênh quá lắm. Không bao giờ nói yêu ai, mến ai bao giờ. Ghét ai thì ghét ra mặt, nói thẳng, nói công khai. Tôi nói thật đấy…Đấy!”.
I xì như ông ấm đất gầm ghè hồi nãy, là ông dế mèn sống giữa những cái nhờ nhờ, tối tối nên để ý từng tí một, tinh tế trong những cái vặt. Ông khẽ đánh mắt một cái …
- Hà…hà…chú không biết chứ…chứ ông ấm đất yêu ai, quý ai không thích nói ra, nhưng ghét ai thì nói thẳng không chút dè dặt. Những người ông ghét khá nhiều, ấy là: Như Phong, Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Vũ Đình Liên. Như Phong chết rồi, ông còn gọi là thằng mặt lợn.
Qua ông, tôi biết ông rất quý Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nhưng ghét Vũ Đình Liên:
“…Tôi ghét cái anh Vũ Đình Liên. Tôi biết hồi trước anh ta có chơi bời gì đâu. Thế mà cứ nói dối là ngày xưa tôi cũng chơi bời cô đầu, cô đít, ra vào tiệm ăn, tiệm hút. Hay ho gì cái đó mà cũng phải nói dối, cứ “hư cấu” làm gì…”.
Được thể ông dế mèn kể chuyện cô đầu, cô đít:
Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương và tôi kéo nhau lên xe lửa làm chuyến giang hồ suốt cả tuần lễ. Vũ Hoàng Chương khi đó đang làm xếp ga nhưng vẫn bỏ việc đi chơi. Ở Bắc Ninh, Vũ Hoàng Chương đưa cả bọn ghé nhà cô đào hát có tiếng tên Tuyết Lành ở phố Niềm. Tối hát, ngày ăn bún ốc trừ cơm. Rong chơi ngày này qua ngày khác. Từ nhà hát cô đầu, sau này Nguyễn Bính qua người con gái ấy với chuyến đi định mệnh có câu thơ rồi đây sóng gió ngang sông, đầy thuyền hận, chị lo không tới bờ
Vui chuyện, gã biết chữ nhưng chữ không hề biết len chân vào chuyện là gã đang học chữ. Chữ đuổi bắt nhau, vật lộn nhau ngay trước mắt nhưng gã không hề thấy. Ngược lại, người ta nghe, người ta ngửi thấy chữ. Làm như những con chữ có thể bốc lên, tỏa ra. Nghe có hơi. Người ta gọi là hơi chữ. Gã thú thật chả là gã đang tập tễnh viết ký nhưng chữ nghĩa, văn vẻ cứ như có hơi,…có mùi thum thủm sao ấy.
Ông dế mèn ngửa cổ chai tu…chai bia hơi, khà một cái…
- Vậy thì chú cứ viết ký như ông ấm đất đi. Có người hỏi ông làm thế nào để viết ký cho hay, không nhạt. Ông ấm đất cho rằng phải có vốn văn hoá, vốn kiến thức. Kiến thức lịch sử, địa lý. Viết văn học sử thì không phải cứ có tài liệu nhiều là đủ. Phải viết có hồn. Có tài liệu và có hồn.
Còn bọn mới thì chả có tài liệu gì, cứ phóng ý ra thôi. Rồi vận dụng các ngành nghệ thuật. Mà nói chung nghệ thuật nào chẳng phải vay mượn nghệ thuật khác để thể hiện. Như không chỉ tả mặt mà còn tả cái gáy, cái vai, tả người cúi xuống, cái mông cong lên, bóng lên, là vô tình đã phải vay mượn anh điêu khắc rồi.
Ông hươu nhiều lắm. Lâu lắm... Gã không nghĩ mình ngủ trong lúc…mở mắt, vì thấy xe bò đang xuống dốc. Phía sau những mái nhà dường như đang im ngủ như gã.
Ông vẫn khề khà nói chuyện với chai bia hơi:
- Lại có người nhận xét ông ấy viết tùy bút lan man, trộn lẫn thời gian không gian, chuyện này xọ qua chuyện kia, không phải không đúng. Nhưng kể chuyện là lan man vì bài văn đâu phải bản báo cáo mà phải có các mục 1, 2, 3. Cũng không phải bài thơ Đường luật có đề, thực, luận, kết....Lan man là hiện tượng. Nó không có hại gì về bố cục. Viết tùy bút đưa ra kết luận rõ ràng, dứt khoát. Có cách viết không kết luận, để tự người đọc kết luận lấy. Tôi thích lối thứ hai này của ông ấm đất. (xem kết cấu cuối ta 7)
Vẫn theo ông ấm đất: Viết văn tức là kể một câu chuyện…Nhưng người kể chuyện không nên có giọng điệu giảng giải, không nên hướng dẫn cho độc giả. Mà cần tôn trọng sự thông minh và khả năng thẩm thấu tác phẩm theo cách riêng của họ. Bằng cách người viết phải viết một cách thông minh hơn mình…thông minh.
Cái đầu gã gật gù theo nhịp xe. Xe chạy vặt. Gã chập chờn để cái đầu lóc cóc theo bánh xe bò. Chán. Chấm hết. Gã suýt bật tiếng thở dài. Ông mang cái điếu cày ra hút. Hai bàn tay ông khum lại, be chặt đốm lửa và ve ve mắt liếc sang gã. Gã giật mình, khép vội mắt lại. Chó dại từng mùa người dại quanh năm, bỗng không gã buột miệng nói ông ấm đất đang chiếu trên chiếu dưới ở trong làng với con khoang, con mực.
Thế là ông dế mèn lêu bêu về ông ấm đất với chiếu hoa một cõi:
- Vậy sao! Ông ấm đất khí khái và khảnh ăn lắm. Nhưng không tạp uống. Như một lần đến đồi Kim Tân có một hàng miến gà. Xe dừng lại để ăn trưa. Ông không ăn, tuy tôi đã bảo nhà hàng làm cho một bát miến gà đặc biệt. Hồi chiến tranh chỉ có loại miến làm bằng bột đao, vào thời ấy, thế là đã sang lắm rồi. Ông lấy trong túi ra gói cơm nắm, xắt ra mấy lát, ăn với ruốc. Sau đó lấy bi đông rượu rót ra cái nắp uống. Khi đến nơi, anh em bầy tiệc lớn chiêu đãi. Tôi thấy ông ấm đất không có vẻ mặn gì, ông chỉ gắp vài miếng trứng tráng. Anh em phụ trách sinh hoạt thủ sẵn một chai vang ngoại đợi ông thì đưa ra. Trông thấy chai vang, ông ấm đất nói: “Rượu đàn bà, uống làm gì”, lại lấy bi đông rượu rót ra cái nắp. Chất cổ điển là ở chỗ đó. Tôi nói thật đấy…Đấy.
Gã vén mắt thấy cái điếu cày gật gù theo đầu con bò. Cuối cùng, gã ngủ nốt. Một giấc ngủ khô. Trong gió thoảng, gã nghe có mùi…phân. Nhỏm dậy thấy chiếc xe bò lùm lùm leo lên Cầu Đơ. Gã ớ ra đây là Hà Đông, quê của ông dế mèn (làng Nghĩa Đô) và ông ấm đất (làng Mọc). Cũng là đất thổ tả của làng Cổ Nhuế với nghề gánh phân. Ấy vậy mà hai ông dế mèn và ông ấm đất…lắm chữ quá thể! Gã mài óc nghĩ không ra.
Bên đường có nhà le lói đỏ đèn qua cánh cửa khép hờ. Ông dế mèn nhảy ra khỏi xe, bước về phía ngôi nhà nọ. Có tiếng chó hậc lên. Ông gõ cửa : “Xin cho hỏi Hà Nội đi lối nào?”. Có tiếng làu nhàu: “Hà Nội nào?” – Và tiếp: “Hà Nội chừng bao nhiêu tuổi?” – “Một ngàn năm”. Ông Hà Nội ba đời uống nước máy nhong nhóng mắt với gã...
- Viết ký, tùy bút phải đọc nhiều như ông ấm đất. Thượng vàng hạ cám, đọc tuốt. Đọc xong phải có cái ý của mình, ghi lại. Có chỗ phải đánh dấu vì hay, để đọc lại. Viết truyện, phải có nhân vật. Nhân vật truyện không bị gò bó trong không gian, thời gian. Ký không bắt buộc phải có nhân vật, hay đúng ra chỉ có bóng dáng của nhân vật. Nên nhân vật không cần có lý lịch rõ ràng. Ký ghi sự việc, ẩn ẩn hiện hiện thoáng một tý hình ảnh một nhân vật nào đó như…ông ấm đất đã từng. Không có tài không viết ký được. Ký là sự việc. Sự việc thì cũng phải có thằng người.
Với đối thọai của người ta. Kịch hỏi khác. Truyện hỏi khác. Văn khác toán. Toán chỉ có một đáp số. Văn lắm đáp số. Ông ấm đất mắng anh phê bình cứ đòi một đáp số.
Đến trần ai khoai củ này, ông dế mèn mắt nhau nháu…ra điều viết ký phải đọc tới nơi tới chốn, thượng vàng hạ cám, đọc tuốt. Ông hỏi gã đã đọc chuyện này chưa và chuyện là ông ấm đất thổ lộ “Sao những anh viết văn theo nhau chết, mà mấy anh phê bình cứ sống mãi”. Theo lời nhà phê bình văn học Hà Nội gần ông nhất viết: “Ba ngày trước khi ông qua đời, tay cầm điếu thuốc lá nhưng không hút, ông ra thêm câu nữa: “Khi nào tớ chết, đốt cho mình vài anh phê bình để xuống cõi âm cãi nhau cho vui”.
Đúng 3 ngày sau ông qua đời thật,…tay vẫn cầm điếu thuốc lá chưa đốt.
Đi thêm chút nữa nghe tiếng chó sủa. Từ xa, có một đốm sáng phát ra từ ngọn đèn treo dưới mái hiên ở căn nhà bên đường. Một người đàn bà đang sàng cái gì đó trong sân. Ông đánh tiếng. Người đàn bà bước ra. Con chó nhũng nhẵng sủa. Ông hỏi: “Phố Trần Hưng Đạo ở đâu” – “Nhiều Trần Hưng Đạo lắm, đợi vào hỏi đã”. Một người đàn ông để ria mép, ngậm píp, cầm ba-toong theo bà đi ra. Bà quay lại nói với ông này: “Có người hỏi thăm ông Trần Hưng Đạo“ – “Ông Trần nào? Tôi họ Nguyễn”.
Gã giật mình, ông đây trông quen quá lắm. Gã dòm kỹ hơn hóa ra là ông ấm đất mới chén thịt chó về. Ông ấm đất đang đờ đẫn cười và to nhỏ với ông dế mèn:
- Ừ thì như ông biết đấy…Chẳng ai có dũng khí được đâu, kể cả Phan Khôi, và tôi. Chẳng sợ rượu vào nói cà khịa, phiền, thế nên tôi đã nói với ông: “Không phải tôi sợ nói sai mà sợ nói đúng mới gay go”. Tôi vẫn được tiếng là ngang bướng. Vậy mà…
Vậy mà lần uống rượu với Đồ Phồn, tôi khóc: “Tôi được như thế này là vì biết sợ”.
Vồ được chữ “sợ”, ông búi bấn với gã:
- “Hà…hà…chú biết tại sao ông ấm đất sợ không?
Không đợi gã ngẫm nguội, ông dế mèn ngay thòng thõng…
- Cả đám kéo nhau từ Hội Nhà văn ra phố gần đấy có quán chả cá, trong đó có Kim Lân, và ông ấm đất. Theo Kim Lân, ông ấm đất vừa quạt chả vừa khoe: “Tôi đã viết xong một cái về phở. Tôi sẽ viết một cái nữa về chả cá”. Vì Tùy bút phở ông bị tai họa, bà chả cá bảo ông: “Cứ im im mà ăn nhá. Thiên hạ người ta ăn chán ra, ăn bao nhiêu cũng chả sao. Ông ăn được mấy tí mà đã bị kiểm điểm. Rõ khổ”. Theo Kim Lân, ông mang cái vạ vịt vì…ngòai phở vịt, phở ngan, phở ngỗng, phở thịt lợn, đến phở không có thịt, sau ai đấy thêm vào phở không người lái nên ông ấm đât mới bị kiểm điểm.
Ông dế mèn táp vào gốc cây bên đường vẩy vẩy làm một bãi thật to. Xong, trở lại xe. Ông hỏi gã: “Chú ngủ ngon không?”. Mắt dòm xa thấy một ngã ba, không biết rẽ trái khúc nào, gã thấy ông rối như gà mắc tóc, nửa như nói một mình, nửa như hỏi: “Đây là đâu ta?”. Tất nhiên gã biết chữ nhưng chữ không hề biết gã…không biết. Ông dế mèn lấy chai bia hơi quay trở lại với ông ấm đât. Cả hai cùng ngồi xuống gần rặng chuối bên hè. Ông ấm đất tay cầm chai cuốc lủi, tay vỗ vỗ đầu con chó nằm cạnh. Ông cười khặc một cái như chó khạc xương và nói với ông dế mèn: “Tôi từng được một ông sư đãi một bữa thịt chó độc đáo. Thịt chó ướp gia vị, đặt vào giữa bông sen…”.
Gã thiếp đi. Trong giấc mơ hoang, gã mơ thấy ông ấm đất dặn dò gã về Hà Nội gặp ông để viết ký chuyến đi thực tế này. Gã biết chữ nhưng chữ không hề biết gã đáp ký và tùy bút như thịt chó với lá mơ. Ông chép miệng và mắng gã chả biết chó gì. Vì ký là ký sự, là ghi chép, ít cảm tính. Tùy bút khác ký. Với tùy bút người viết mặc sức để ngòi bút…tùy tiện lan man mang tâm cảm của mình vào bài viết.
Gã định đáp ấy là gã đang học ở ông thì cái đầu gục xuống…
Con bò kéo chiếc xe như chiếc xe tang trên có bó nhang đỏ kệch cắm trong loong sữa bò và gã vào Hà Nội. Trong đêm tối, gã nghe tiếng móng bò gõ đều đều từng tiếng một trên mặt đường. Tiếng móng bò thanh, khô, gọn, gõ tiếng một “cóc…cóc…cóc…” thoáng như mõ sớm chuông chiều gọi hồn ai... Đêm tha ma mộ địa, gã sợ chiếc xe bò lạc lối chân ai về cõ u u minh minh thì...Thì chiếc xe bò biến mất, như thể một cỗ xe ma. Như ông dế mèn vừa biến mất như con ma sống, ma đến tận xương thịt.
Gã biết chữ nhưng chữ không hề biết gã ngờ ngợ nhà ông ấm đất có cây sấu, cây me thì phải. Theo gã thì không. Nhưng biết đâu với con bò lại khác. Rút cái I-phone 12 hỏi con bò. Màn hình hiện lên con bò đang bước ngoằn ngoèo, gã theo vệt trâu đái của…con bò đi miết, thì tới phố Huế có quán bia hơi. Hà Nội phố mới sáng sớm ông dế mèn đã ngồi ở đấy rồi. Nhòm thấy gã, ông nhẩy bổ ra hỏi gã vác mặt đi đâu thế. Gã đáp tìm ông ấm đất để học viết ký.
Nghe thủng rồi ông dế mèn mổ chữ như gà mổ mo cau rằng viết ký chữ nghĩa hẻo lắm, hãy viết truyện ngắn như ông. Nhưng viết truyện phải tìm chữ, một truyện ngắn hay là có được một hai chữ “đắt” nói lên được cái hồn, cái cốt của truyện ngắn.
Như với ông ấm đất, chả lẽ gã lại nói cũng đang bòn mót ông những chữ “đắt” để con chữ có hồn, có vía như…con tinh trùng ngọ nguậy trên trang sách. Với gã, viết chữ là…làm tình với chữ nghĩa. Vì vậy gã giơ tay chào…mấy vại bia bơm. Và nói: “Chào”.
Tiếp đến bên phố đông người qua, gã lẫn đẫn theo vệt trâu đái của…con bò tới trước cửa nhà ông ấm đất hồi nào không hay. Từ lề đường Trần Hưng Đạo, gã quan sát hai bên đường cây nào là cây me, cây sấu, cây gạo, cây bàng . Nhìn cửa nào là cửa chính, cửa phụ, cửa thật, cửa giả. Gã bò lên cầu thang để học chữ…
Gã gõ cửa và hỏi:
- Có ai ở nhà không?
Ông ấm đất thò đầu ra nói in hịt như ông dế mèn:
- ……………………..
Thạch trúc gia trang
Nhâm Thìn 2012
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
(thêm bớt 2014, 2021)
Nguồn: Nguyễn Hưng Quốc, Nguyễn Danh Lam, Ngô Phan Lưu, Tchekov, Nguyễn Đăng Mạnh, Vương Trí Nhàn, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Huy Thiệp, Trần Doãn Nho