tiêu đề Nhãn
- BIÊN KHẢO
- CÂU ĐỐI
- CỔ THI
- GIA CHÁNH
- GIẢI TRÍ
- HÌNH ẢNH HỘI NGỘ
- HÌNH ẢNH NAY
- HÌNH ẢNH XƯA
- HỘI HỌA
- KHOA HỌC
- LƯU NIỆM
- LỊCH SỬ
- LỜI HAY Ý ĐẸP
- NHẠC
- SƯU TẦM
- SỨC KHOẺ
- THƠ
- THƠ CẢM TÁC
- THƠ DIỄN NGÂM
- THƠ DỊCH
- THƠ NHẠC
- THƠ PHỔ NHẠC
- THƠ SƯU TẦM
- THƠ TRANH
- THƠ TRANH NGHỆ SĨ
- TIN BUỒN
- TIN VUI
- VĂN
- VŨ HỐI THƯ HỌA
- VƯỜN THƠ VIÊN NGOẠI
- XƯỚNG HỌA
- YOUTUBE
Thứ Bảy, 4 tháng 9, 2021
Sợi Nắng
Sài Gòn Trăm Nhớ Ngàn Thương

Hai tiếng Sài Gòn cứ vấn vương
Nhớ thôi trăm nhớ với ngàn thương
Nhớ hàng xóm cũ cùng con hẻm
Nhớ bạn bè xưa một mái trường
Nhớ buổi nắng mưa luôn bất chợt
Nhớ thời hưng phế thật vô thường
Nhớ trưa giả bộ về chung lối
Lẽo đẽo theo em đến cuối đường
Nhất Hùng
Cảm Thu
Chúng ta cùng thở trong một không gian
Nhưng ngọn gió nào chia hai lối rẻ
Ta mất ta khi về thành phố cổ
Biết làm sao đo hết mộ tình si
Thu vàng xưa nay thấm mầm ly biệt
Đá vẫn trơ trơ một cõi u minh
Bad Homburg* Bad Homburg nhiều nguồn suối mát
Khoáng chất khơi đầy rỉ rả nổi niềm riêng
Có ai rêu rao Sài Gòn lối cũ
Hề lưu vong nay mất hướng đi về
Thoi quay quay theo nhịp cầu simh tử
Ta cuộn tròn dăm ba phút phù vân.
Lê Diễm
Germany 23/10/2016
Bad Homburg tên một thành phố ở phía Nam dảy núi Taumus
Liên Bang Đức
Phong Đình Ngẫu Đề - Nguyễn Ức
Gọi Đò
Lục bình trôi nổi theo dòng sóng xuôi
Nhìn ai bước xuống con đò
Qua sông biết có đã dò nông sâu
Em dời bến khác không sầu
Ngó theo chết liệm biết đâu mà lường
Thương thì thương lắm rồi thương
Chúc cho ấm gối tình trường yên vui
Đò đưa bao chuyến bao người
Bao nhiêu tình lỡ miệng cười thương đau
Bao nhiêu nước mắt tuôn trào
Khi đò tách bến là bao lòng sầu
Đò ơi, hãy đợi có ta
Chung đò đôi lứa cùng qua bến tình.
Nguyễn Cao Khải
Đời Người

Bài Xướng:
Đời Người
Đời người ngẫm lại có bao lâu?Mới thoáng xuân xanh đã bạc đầu
Cái thuở ngây khờ đi quá vội
Mười năm thơ dại đã về đâu...?
Mười năm đèn sách tuổi hoa niên
Rồi lại mười năm chẳng lụy phiền
Lại nữa mười năm vương mối nợ
Ân tình...đánh mất thuở hồn nhiên...
Đến nữa...mười năm gánh trĩu oằn
Thê nhi, phu tử, nặng nghìn cân
Gạo, tiền, cơm, áo, bao nhiêu gánh?
Thời gian lặng lẽ mãi trôi dần...
Thoáng chốc mười năm lại đến rồi
Còn đây...mái tóc bạc như vôi
Thân mòn, gối mỏi, cơn đau yếu...
Cố níu thời gian đã mất rồi...
Mười năm...hỏi được mấy mười năm?
Một cõi phù du...với lỗi lầm
Giữ lại được gì? Sau gió thoảng?
Ngày về cát bụi...chỉ tay không...???
Bạc Liêu/4/7/2021
Hồng Vân
Cõi tạm ta bà khó ở lâu!
Đừng mơ với mộng thủa ban đầu
Sông dài, thác cuộn rì rầm đổ
Lo lắng chi nè mỗi thập niên
Tương lai mờ mịt khá ưu phiền
Trăng tròn lại khuyết nào thay đổi
Tháng rộng, năm chầy cứ thản nhiên
Dù cho trách nhiệm bủa vai oằn
Hạnh phúc êm đềm chớ bảo cân
Phơi phới tim hồng như trẻ lại
Niềm đau dĩ vãng chóng nguôi dần...
Nào ôn quá khứ bởi xưa rồi
Chẳng ngại duyên hài trắng tựa vôi
Bỗng chợt nghiêng mình qua cửa kính
Mắt Xanh Trong Tình Ca
Trong nhạc tình tân nhạc của Việt Nam thường hay có “mắt xanh.” Thực tế làm gì có người Việt Nam nào có mắt mầu xanh trừ khi đeo contact lenses mầu xanh hay là mắt của “con lai” hoặc là mắt của “con ma!” Như vậy “mắt xanh” nghĩa là gì?
Nghĩa thứ nhất “mắt xanh,” theo ý nhiều người cảm nhận, chỉ là ám chỉ người đàn bà còn trẻ và dĩ nhiên có mắt… đẹp.
Nghĩa thứ hai “mắt xanh,” nghĩa theo sách, là để chỉ sự bằng lòng hay vừa ý. Theo Điển Hay Tích Lạ của Nguyễn Tử Quang:
““Mắt xanh” do chữ “thanh nhãn,” tức là mắt ở giữa là tròng đen (hoặc xanh) hai bên tròng trắng.
Ông phản đối Nho giáo. Ông bảo: “Không có vua thì vạn vật ổn định; không có bề tôi thì mọi việc được trị; không có kẻ sang thì kẻ hèn không oán; không có kẻ giàu thì kẻ nghèo không tranh của. Ai nấy đều đủ ăn mà không cầu gì nữa.” Thật là một tư tưởng “vô chính phủ” nhưng cũng lạ là vua Tấn vẫn để ông ở yên.
Nguyễn Tịch lại có một thái độ lạ lùng. Khi tiếp khách hễ là hạng quân tử, là hạng người vừa lòng mình thì Nguyễn Tịch nhìn thẳng bằng tròng mắt xanh; trái lại khách là kẻ tầm thường, người không vừa lòng mình thì ông nhìn bằng đôi tròng trắng.”
Do điển đó, sau này người ta dùng chữ “mắt xanh” để chỉ sự bằng lòng, vừa ý và từ đó có chữ “lọt vào mắt xanh.”
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, lúc Từ Hải gặp Thúy Kiều ở thanh lâu, Từ Hải hỏi Kiều:
Bây giờ đến vài bản tình ca Việt Nam có “mắt xanh”:
Cũng xin viết thêm là bài viết này chỉ bàn đến “mắt xanh” còn “mắt biếc” thì nhờ quý vị nào đó viết dùm.
Thứ Sáu, 3 tháng 9, 2021
Xin Trả Lại Em - Sáng tác Liên Bình Định - Ca Sĩ Thanh Hoài
Nhớ Em Chiều Mưa

Mưa gọi tên em suốt chiều nay
Tóc ai ẩm ướt mắt môi gầy
Lá đếm từng cơn cô đơn gợn
Hồn ta quyện gió mải mê tìm
Mưa gọi tên em tiếng trầm buồn
Bàn tay hứng giọt nhớ giọt thương
Cỏ mềm quay quắt bao phiền muộn
Em có nghe mưa em có nghe…
Mưa gọi tên em những nhịp nhanh
Những chiếc lá xanh cũng rời cành
Đời quay cuồng giữa cơn lốc giật
Ước mơ biết mấy em bên anh
Ông Lão Chèo Đò
Tôi gặp Lão Chèo đò ngồi chờ khách
Lão, một lính già chiến bại hận đời
Giã từ vũ khí, Lão chèo đò sinh sống
Đội nắng mưa đưa rước khách sang sông
Lão chỉ nhận một chút ít tiền công
Để áo cơm qua Tháng đoạn Ngày
Lão cũng chẳng cần biết khách là ai
Kẻ cướp, Thầy Tu, quan to, dân dã.
Chuyện của người, Lão gác bỏ ngoài tai
Lão cẩn thận để tránh mang tai họa.
Có lắm khi ông lái đò than thở:
Nghề chèo đò rất bạc bẽo lắm thay !
Khách qua đò, bước đi không ngoảnh lại
Ông lái đò nhìn theo khách thở dài.
Một khi lữ khách sang sông
Mấy ai còn nhớ đến ông lái đò!
Lão Mã Sơn
Ve Sầu Xác Nhện
Đẹp Sao Màu Áo Mẹ Nâu!

Mẹ già vun mấy liếp rau
Chị về đứng dưới hàng cau, lệ nhòa
Thương sao dáng Mẹ hiền hòa
Tóc Me bạc trắng, mắt già nhìn chi?
Chị về có nỡ ra đi?
Cải xanh mơn mởn không bì áo nâu
Con xa, cháu ở đâu đâu
Mẹ già tần tảo, ngồi lâu, đau gì?
Nhớ Dì, cháu khóc, sầu thi
Chúc Dì mạnh khỏe nhất nhì thế gian.
Ý Nga,
Ông Lái Đò

Sông phù sa nước vẫn xuôi dòng chảy
Ông lái đò với kiếp sống lênh đênh
Ngày tiếp ngày theo sông nước mông mênh
Đưa rước khách sang sông ngày mấy lượt
Mỗi chiều về thả thuyền trên bến nước
Ông thẩn thơ nhìn đám lục bình trôi
Ngẫm cuộc đời ông cùng chỉ thế thôi
Lênh đênh mãi mặc thời gian mưa nắng
Cuôc trần thế trãi qua bao cay đắng
Sang sông rồi còn ai nhớ đến ông ?'
Thôi thì đành với kiếp sống long đong
Mặc con tạo xoay vần theo năm tháng...
Tiểu Thuyết Dã Sử Mỹ Nhân Tự Cổ Như Danh Tướng
của nhà văn HOÀNG XUÂN THẢO (cố bác sĩ Hoàng Ngọc Khôi)
Lời bàn: bác sĩ Nguyễn Thanh Bình
Thơ cảm đề: bác sĩ Trần Xuân Dũng.
Bìa vẽ: bác sĩ Mùi Quý Bồng
Các minh họa trong sách: 2 bác sĩ Mùi Quý Bồng & Lê Thành Ý
Tựa: bác sĩ Đặng Ngọc Thuận
Lòi cảm tạ: bác sĩ Thân Trọng An
Một tác phẩm giá trị do Hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada phát hành
Các bạn muốn có cuốn sách này, xin liên lạc với
BS Nguyễn Thanh Bình
Email: (batsach@hotmail.com)
TỰA

(Lãn Ông Lê Hữu Trác (Lê Thành Ý vẽ)
- Phần chính (tuyệt tác) nói về mối tình Bà Chúa Chè, một mỹ nữ đẹp tuyệt vời gốc nông thôn hàng ngày đi hái chè, được tiến vô cung đã làm Chúa Trịnh Sâm, một danh tướng quyền thế trongtay suốt cả một cõi sơn hà, say mê cuồng nhiệt như thế nào.Hãy lấy một thí dụ : Nghe lời đường mật thì thầm bên gối của Bà Chúa Chè, Chúa Trịnh Sâm đã phế bỏ con trưởng Trịnh Tông 18 tuổi văn võ toàn tài để phong con thứ Trịnh Cán mới 5 tuổiyếu đuối ốm đau ngay từ khi mẹ là Bà Chúa Chè sanh ra, làm Thế Tử sau này sẽ kế vị mình…
- Phần phụ (rất hàn lâm dài dòng văn tự, cắt đôi cuốn sách làm 2) dành riêng 2 chương cho Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, một danh y từ nơi ẩn dật ở Nghệ An được triệu ra triều để điều trị cho Thánh Thể Trịnh Sâm và Thế Tử Trịnh Cán.Thú thật là một Tây Y, tôi hoàn toàn không hiểu cách lý luận âm dương hụ hợ để chẩn bệnh, định bệnh và ra toa của Hải Thượng Lãn Ông. Vậy mà các đồng nghiệp đã có thể dựa vào những lời ghi chép rất khó hiểu từ 300 năm để nói rằng Trịnh Sâm bị dépression névrotique … còn Trịnh Cán bị néphrose, ascite!… Xin khâm phục!Trở lại phần chính công trình của đàn anh Hoàng Ngọc Khôi (Anh Khôi học trên tôi một lớp về Y Khoa song thật ra trên về mọi mặt, kể ra e rằng không hết) tôi phải nói là rất hấp dẫn vì tính cách hư cấu dựa trên lịch sử có thực, một phương cách để tôi học hỏi được nhiều điều về lịch sử trong giai đoạn nhiễu nhương của đất nước chúng ta trong thời gian ấy.Nhân đây tôi có nhận xét là cũng như triều đại các nước như Trung Hoa, Nhật Bản (có vua còn có chúa), trong những giai đoạn tranh chấp ngôi vị, quyền lực … Việt Nam ta có rất nhiều nhân vật dính líu vô mọi chuyện, mọi biến cố trong cung cấm, khiến thường nhân hậu thế chẳng biết đầu đuôi xuôi ngược ra sao mà lần (nhiều người, nhiều tên lại còn nhiều chức tưóc khá phức tạp nữa, lúc kêu danh này lúc gọi tên khác)Cho nên đọc MỸ NHÂN NHƯ DANH TƯỚNG, tôi mạn phép khuyến cáo độc giả nào có thiện ý đọc cho tận hiểu, tận cùng thì cần có thiện chí và nhẫn nại để đọc và nhớ cho kỹ, kiên trì mà hấp thụ một áng văn sử vô cùng giá trị.Riêng tôi về mặt này, xin có lời cảm tạ 2 ông bạn cố tri là các BS Nguyễn Thanh Bình và Thân Trọng An.
Đặng Ngọc Thuận
LỜI CẢM TẠ

(Thầy Đồ Kể Chuyện Ngày Xưa - Mùi Quý Bồng vẽ)
Thân Trọng An
(thay mặt Tập San Y Sĩ VN tại Canada)
Where Have All The Flowers Gone? (Pete Sêeger, 1958) - Những Đóa Hoa Giờ Ở Đâu, Chẳng Thấy?

Long time passing.
Where have all the flowers gone?
Long time ago.
Where have all the flowers gone?
Young girls have picked them every one.
Oh, When will you ever learn?
Oh, When will you ever learn?
Young girls
They've taken husbands every one.
Young men
They're all in uniform.
Soldiers
They've gone to graveyards every one.
Graveyards
They're covered with flowers every one.
Flowers
Young girls have picked them every one.
Pete Sêeger (1958)
***
Những Đóa Hoa Giờ Ở Đâu, Chẳng Thấy?
Những cô gái trẻ hái mất thôi
Những cô gái ấy sao không thấy?
Họ lấy chồng rồi các bạn ơi
Những người chồng trẻ ở muôn nơi
Biến mất không còn ở trên đời
Họ đã ra đi trả lời sông núi
Lính trận xa trường, hy sinh thôi!
Những nấm mồ ở đâu rồi nhỉ
Hoa mọc trên mồ, khó thấy thôi...
Và, hoa rồi cũng biến đi không thấy
Người góa phụ buồn nhặt hoa rơi!
Quách Như Nguyệt
24 tháng 8, 2021
(71) Almost Irish and Chris McMullan - Where have all the Flowers Gone - YouTube
(71) Where have all the flowers gone -The kingston trio(lyrics) - YouTube
(71) PETE SEEGER ⑪ Where Have All The Flowers Gone (Live in Sweden 1968) - YouTube
Thứ Năm, 2 tháng 9, 2021
Xin Được Tan Vào Nhau - Thơ Trần Ngọc - Nhạc Quốc Dũng - Ca sĩ Hạnh Nguyên
Dưới Giàn Hoa Cũ - Tuấn Khanh - Minh Châu
Vạt Nắng Hiền

Bạn rủ ta về thăm xứ bạn
Chân mây, suối núi, nước sông hồ
Ta về, một sáng mưa xuân ấm
Tìm lại hồn thơ thuở ấu thơ
Thấy vườn xanh cỏ, cây xanh lá
Thấy bạn hồn nhiên như khóm hoa
Lòng ta, xưa, một cành khô rũ
Bỗng vươn lên mạch sống chan hòa
Bấy lâu ta sống cù lao khép
Ta sống như loài ốc đảo hoang
Tâm bạn, tâm ta cùng rộng mở
Chào nhau, tay nắm chặt thiên đường
Ô hay! Quá nửa đời phong vũ
Mà sao chưa thấy mặt hồ yên?
Sáng nay vườn bạn xanh tươi quá!
Sao ta chưa là vạt nắng hiền?
Trang Châu
Thu Về Hôm Nao

(Mùa Thu Tới - Họa Sĩ Nguyễn Sơn)
Em thả tóc xanh bay theo mây đào
Em thắp hồn lên nâng cao ý nhạc
Trong lời ru biếc có ánh trăng sao
Này em nhé mắt nâu qua rừng thu
Trông bóng thời gian nhả tiếng sương mù
Chiều rơi lá chín thương em hương lụa
Anh nhặt thu về xây tím áng thơ
Này em hỡi dòng sông trôi xa xôi
Nhạc vỡ trong lòng nhạc ứa đầy vơi
Chiều sao hoang vắng vàng phai sắc lá
Anh viết tình thu trên môi em thôi
Phạm Anh Dũng
Bài Tình Thơ Mùa Thu
Trên sườn đồi, bên khe núi, vườn sau
Lá trên cây nay đã đổi sang màu
Đỏ tím thẩm hay úa vàng ảm đạm!
Khắp mọi nẻo sương lam giăng màu xám
Gió thu về thổi nhẹ chiếc lá rơi
Những lá kia cũng sắp sửa chia rời
Thân cây mẹ để rơi vào lòng đất
Nhìn cảnh ấy lòng chợt buồn chất ngất
Ngẫm cuộc đời nào có khác lá kia
Cũng xanh tươi, cũng héo uá, chia lìa
Là cát bụi lại trở về cát bụi!
Dẫu quyền thế, dẫu sống lâu trăm tuổi
Dẫu ngày nào má thắm nét xuân xanh
Dẫu cuộc đời lao khổ hoặc an lành
Rồi cũng phải ra đi hai tay trắng!
Như chiếc lá ngày nào còn trĩu nặng
Trên cành cao tạo bóng mát cho đời
Rồi Thu về, lá vàng úa, rơi rơi
Trên phố thị, lá biến thành loài rác!
Con người mãi vẫn đam mê tạo tác
Tham, Sân, Si, oán ghét, hận thù nhau
Có biết chăng rồi cũng đến ngày nào
Về lòng đất với bao nhiêu nghiệp tội!
Xin dừng lại đừng tạo thêm tội lỗi
Hãy trao nhau tình thân ái, thương yêu
Trao nụ cười, làm điều thiện cho nhiều
Thì hiện tại sẽ thân tâm an lạc
Làm việc thiện, tránh bớt làm điều ác
Tỏa tâm lành đến khắp mọi chúng sinh
Đối xử nhau xin dùng một chữ Tình
Thuận Thiên Lý, Nhân Hòa và Đạo Nghĩa!!
Sương Lam
Vấy Mực Vô Tình - Áo Trắng Em Tôi Và Mực Tím
Áo trắng ngày nào anh vấy lỡ tay
Vô tình tim nhảy nhịp sai
Làm em hồi hộp giữ hoài màu mơ
Rót tình thắm mực chép thơ
Từ đêm đến lúc tờ mờ hừng đông
Em nắn nót chữ tỏ lòng
Cánh thư lặng lẽ... vẫn trong hộc bàn.
Vì người pha mực chẳng màng ...
Áo trắng lỡ vấy vết loang ..... tím sầu
Kim Oanh
(Thương tặng Kim Oanh)
Áo trắng em tôi sáng sân trường
Thư viết màu mực tím dễ thương
Bâng khuâng ai nhận niềm hạnh phúc
Bên cành phượng vỹ mãi vấn vương.
Nắng sớm chiều buông thời gian qua
Tiếc rằng tình ấy đã bay xa
Ai mang hoa phượng tô môi đỏ
Giọt nắng tình yêu đã nhạt nhòa.
Em tôi yêu ai ai nào biết
Người ấy đi xa chẳng trở về.
Hoa phượng bên trường thành cổ thụ
Mực tím dệt thành thơ muôn phương.
Chiều nay em tôi ngồi ngẩn ngơ
MỘT THUỞ thương VẤY MỰC TÌNH CỜ
Áo tím thay cho màu mực tím.
Nhớ một thuở nào em tôi làm thơ.
Nguyễn thị Thêm
Trong Cõi Hư Không

Rồi thả lên trời, gọi bão giông
Mới thấy hồn tan câu thế thái
Và nghe đất loạn tiếng anh hùng
Đông tây thiên hạ thôi tung tán
Nam bắc xuân thu hết vẫy vùng
Chiến quốc thời nay ai là kẻ
Mang gươm đi xẻ dọc hư không
Trong cõi hư không cũng giả,chân
Nên em đôi lúc có mê lầm
Tưởng đâu bốc lửa soi kinh ngọc
Khiến mới se lòng lệch ý văn
Quỷ khốc đông tà, xem bải hoải
Thần sầu tây độc, ngó phân vân
Cao Mỵ Nhân
Tiếu Ngạo Giang Hồ Xứ Jordan Ở Trung Đông (Tiếp Theo)
Đây là bài số năm trăm tám mươi mốt (581) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ Oregon Thời Báo, Portland, Oregon.
Hôm nay người viết mời quý bạn cùng đi viếng thăm Petra, một kỳ quan thế giới hiện đại mà bất cứ khách du lịch nào cũng phải đến viếng thăm khi du lịch ở Jordan.
Ăn cơm trưa xong, chúng tôi trực chỉ đi đến Petra vì phải mất gần 4 tiếng đồng hồ lái xe từ Madaba đến thành phố Petra, kỳ quan thế giới hiện đại thế kỷ 21.
Đến Petra thì đã tối rồi, chúng tôi chỉ có thời giờ check in check in khách sạn Petra Moon Village Hotel và ăn tối rồi nghỉ ngơi cho khỏe để sang hôm sau đi viếng thăm Petra, vì là chương trình viếng thăm quan trọng nhất ở Petra.
Vé vào cửa của Petra từ 50 đến 60 JD khoảng $USD 70 đô Mỹ
Vợ chồng người viết rất vui khi được viếng thăm Petra ở Jordan, một kỳ quan thế giới hiện đại với những hang động được hình thành trong các núi.
Từ cổng Petra đến trước hẻm núi Petra, bạn phải đi qua một đoạn đường dài hơn một cây số. Bạn sẽ được ngắm những thắng cảnh đẹp thiên nhiên hay các di tích lịch sử và chụp hình lưu niệm. Các du khách lớn tuổi, nếu không muốn đi bộ thì có thể cưỡi lừa, cưỡi lạc đà, đi xe ngựa đến trước hẻm núi Petra. Dĩ nhiên là bạn phải tự trả tiền riêng cho những dịch vụ đặc biệt này.
Xin mời nghe ông Trần Nguyên Thắng, trưởng đoàn ATNT nói về Petra vẫn đầy đủ chi tiết hơn là người viết nghe đi kể lại nhé. Smile!
“…..Petra là một vùng núi đồi nằm về phía nam của Jordan, một tọa điểm nối liền giữa hai biển Red Sea (Hồng Hải) và Mediterranean (Địa Trung Hải). Đồng thời, Petra cũng gần như là điểm nối liền của hai lục địa Á Châu (miền Trung Đông) và Phi Châu (bán đảo Sinai). Nhờ vào vị trí thuận tiện như vậy, thời đó Petra trở thành giao điểm về thương mại và văn hóa hết sức quan trọng trong khu vực từ thế kỷ 1 trước công nguyên. Điều này hấp dẫn và thu hút tham vọng của các đế quốc luôn tranh chấp để chiếm giữ vùng đất Petra. Năm 2001 Petra đã được Swiss Corporation New 7 Wonders Foundation chọn làm một trong bảy kỳ quan thế giới.
Petra tuy có một thành phố một nằm trong khu vực du lịch nổi tiếng nhưng lại là thành phố không quá lớn. Cũng có khá nhiều khách sạn nhỏ được xây dựng gần trước cổng vào khu thưởng ngoạn. Những ai thích mạo hiểm và tìm tòi nghiên cứu về Petra thường sẽ chọn ở lại nơi đây vài đêm để tiện cho việc ra vào thung lũng. Từ cổng vào Petra cho đến trước hẻm núi hiểm trở Petra dài khoảng một cây số, du khách lớn tuổi nếu không muốn đi bộ thì có thể cưỡi lừa, ngựa hay lạc đà đi từ cổng đến trước hẻm núi Petra (nhưng khi dùng các dịch vụ này người du khách phải hết sức cẩn thận rõ ràng). Đoạn đường này gọi tên là Bal as-Siq, con đường mòn nối dài hai đầu thung lũng Moses (Valley of Moses) xuyên qua hai ngọn núi Jabal al-Khubtha và Jabal al-Jilf.
Những ngọn đồi nhỏ mang màu sắc vàng nâu đỏ vươn cao hai bên đường như nhắc nhở người ta về cái nóng bỏng của sa mạc; những hình dáng cong tròn của đồi núi cho du khách hình dung ra được “đường đi” của gió in lên núi đồi sa mạc qua cả một quãng thời gian cả vài chục ngàn năm. Bên cạnh đó là những hang động nho nhỏ do con người đào xới, không phải để người sống ở mà là những ngôi mộ xưa nơi người chết an nghỉ. Có ngôi mộ đục khắc như hình dạng Obelisk Tomb bên Ai Cập vẫn còn hiện hữu bên đường. Tuy nét đục khắc đơn sơ, không thể nào so sánh được với kiến trúc đền Abu Simbel của Ai Cập nhưng cũng cho người du khách cảm nhận được một nét phảng phất kiến trúc của người Ai Cập cổ xưa (hơn 3,300 năm trước) hiện diện quanh quẩn đâu đó tại Petra.
Trên đường đi vào thung lũng, người ta có thể bắt gặp những tảng đá to lớn Djinn Blocks được bộ lạc Nabataean xưa kia đục khắc theo niềm tin thần linh dân gian Ả Rập từ đầu thế kỷ thứ nhất. Tôi đã gặp những nghệ nhân đến đây, đứng dưới cơn nắng của tiết trời sa mạc tháng hai khá nóng, nhưng vẫn say mê vẽ hình ảnh “không gian của Djinn Block” mà hình như không màng gì đến cái nóng chung quanh.
Nói về hành trình du ngoạn hẻm núi Petra, người ta thường khởi đầu từ điểm Wadi Al Mudhlim (thung lũng Al Mudhlim). Đoạn đường này còn được gọi là As-Siq, dài hơn 1.2km. Trước cửa thung lũng, người ta cho hai chiến binh ăn mặc theo cung cách chiến binh ngày xưa đứng ngay điểm khởi đầu, dáng ra vẻ như là quân lính ngày xưa đứng canh gác, tạo cho du khách hình ảnh tưởng tượng về các trận chiến xưa kia.
Hẻm núi này có khúc chật hẹp nhưng cũng có khúc tương đối rộng, có khúc ánh nắng chui qua được khe núi, có khúc ánh nắng không còn ánh nắng mà chỉ còn ánh sáng bên trên hai vách núi (vì vách núi cao quá).. Hai bên con đường ngoằn ngoèo trong hẻm vực Petra là những vách núi cao đến 80m. Tuy hiểm trở như thế nhưng phong cảnh nơi đây lại rất hữu tình. Những màu sắc đỏ hồng vàng nâu trên vách núi, kèm theo màu sắc của đất cát và những hình thể sinh vật mà bàn tay tạo hóa đã vô tình uốn nắn cho các hẻm núi thiên tạo, khiến cho du khách những cảm giác thật lạ lùng bất ngờ.
Vượt qua khỏi hẻm núi As-Siq, du khách bàng hoàng trước một công trình kiến trúc đục khắc vào vách núi tuyệt đẹp hiện ra trước mắt. Đó là một kho tàng bảo vật vĩ đại Petra đẹp nhất của “kinh đô Petra cổ,” có tên là Al-Khazna. Đây có lẽ là một lăng mộ dành cho một vị vua nổi tiếng của người Nabataean, nhưng sau đó lại được dùng như một ngôi đền (temple) làm nghi lễ trong tôn giáo của người dân địa phương. Al-Khazna được xem như là một bảo vật, một kho tàng công trình thiết kế điêu khắc tuyệt hảo của bộ tộc Nabataean vào thế kỷ 1 trước công nguyên. Tôi cho rằng những kiến trúc đền đài bên Ai Cập mà ta thưởng ngoạn đều thua xa so với nghệ thuật đục khắc tinh xảo của ngôi đền Al-Khazna.
Các đền đài Ai Cập cho người xem cảm nhận được sự vĩ đại vào thời điểm cách đây hơn 3,300 năm, nhưng công trình kiến trúc Al-Khazna (cao 43m và rộng ngang 30m) lại cho người xem cảm nhận được sự tinh xảo của nghệ thuật đục khắc vách núi của nghệ nhân ở đây. Càng quan sát công trình điêu khắc này người ta càng cảm thấy sự hoàn hảo khéo tay của những người nghệ nhân xưa kia. Chỉ cần xem những cột đá tròn cao lớn được đục khắc kích thước đều nhau cũng đã đủ làm cho người thưởng ngoạn ngưỡng mộ. Al-Khazan không còn mở cửa cho du khách vào thưởng ngoạn như xưa nữa vì Al-Khazan cần được “nghỉ ngơi” và trùng tu trước làn sóng du khách đến đây mỗi ngày mỗi đông…..” (Trần Nguyên Thắng –ATNT Travel)
Mời xem Youtube do Photos Google Team thực hiện giúp người viết. Xin cám ơn Photos Google Team nhé. Smile!
Youtube Minh Sương Lam viếng Petra Jordan Vacation 2018
Sau khi dạo một vòng thăm Petra trời quang mây tạnh, thì mưa đến.Chúng tôi vòng trở lại phía trước đền Al Khazna để nghỉ ngơi và đụt mưa. Chúng tôi quyết định đi xe ngựa trên đường trở ra thay vì di bộ như lúc đi vào. Chúng tôi phải kỳ kèo trả giá từ 60 $USD cho chuyến đi ra xuống thành $30 USD. Sau cùng, chú tài chiếc xe ngựa đồng ý chở chúng tôi ra về với giá 30 đô Mỹ.
Xe chạy trên đường gồ ghề, nước mưa văng tùm lum vào người chúng tôi mặc dù chúng tôi có mặc áo mưa và xe ngựa được che kín như xe xích lô Việt Nam ngày trước.. Xe ngựa chạy dằn sốc đến nổi phu quân tôi phải nói: “Đi xe ngựa kiểu này, đàn bà có thai chắc cũng hư thai luôn vì sốc qua”.
Ra đến cổng bên ngoài, người tài đòi phải trả $40, chúng tôi không bằng lòng vì họ chịu giá 30$USD, bây giờ lại đòi thêm tiền. Cuối cùng, chúng tôi phải chịu trả 40$USD cho rồi, kể như cho tiền típ là xong ngay. Thật t ình chú tài xe ngựa này chèn ép và bóc lột du khách quá!
Trời mưa mỗi lúc một lớn, Chúng tôi vào một nhà hàng gọi đặt
mua
pizza và nước trái lựu để ăn trưa thì đã có lịnh phải lên
xe bus ngay. Khi ra ngoài bến xe thì được tin đã có nước lụt bên trong
khu Petra rồi Tất cả các du khách đều bị cấm vào thăm Petra. Quân đội
được huy động để cứu giúp những nạn nhân bị lụt.
Lũ lụt đất chùi làm nghẽn lối đi và ngập lụt đường xá dẫn đến Petra làm cho xe của chúng tôi phải chờ đợi và đổi lộ trình về lại khách sạn.
.
Ngày hôm sau, đoàn phải đổi chương trình thăm viếng các thắng cảnh vì đường xá vẫn còn bị cấm lưu thông ở một vài nơi.
Đoàn của chúng tôi thoát ra khỏi Petra kịp lúc đúng là được Ơn Trên che chở cho mọi việc an toàn. Thật may mắn thay!
Mời xem Youtube Petra Flood Nov 9-2018
https://youtu.be/7C3KcDIh-rk
Dễ sợ chưa? Nếu chúng tôi không rời Petra sớm một chút với chiếc xe ngựa "chặt chém với giá cứa cổ" thì chúng tôi sẽ hết hồn vì lũ lụt bất ngờ ở hang động Petra rồi.
Tạ ơn Trời Phật đã phù hộ chúng tôi.
Về đến khách sạn, mọi người đã mệt nhoài vì phải ngồi đợi chờ ở một nơi hẻo lánh và bị cúp điện quá lâu.
Trong buổi cơm tối tại khách sạn, chúng tôi vẫn được anh Trần Nguyên Thắng , trưởng đoàn, tổ chức một tiệc nho nhỏ với một mẫu bánh sinh nhật dễ thương có đèn cầy lấp lánh. Cả đoàn cùng vỗ tay, hát mừng sinh nhật "Happy Birthday to Sương Lam" vì hôm đó đúng là ngày sinh nhật của tô, November 9i. Thật đặc biệt nhỉ?
Xin cám ơn anh TNT, trưởng đoàn và các thành viên trong đoàn nhé.
Năm vừa qua trong chuyến du lịch Úc Châu, chúng tôi cũng được anh trưởng đoàn ATNT Travel và Holly Huệ, sư muội GL của tôi, chiêu đãi uống rượu vang, ăn bánh ngọt mừng "50 năm sống chung hoà bình" của chúng tôi vào tháng 10. Thật rất cảm động. Smile!
Sáng ngày Nov 10, chúng tôi giã từ Petra sau một ngày kinh hoàng về lũ lụt. Chúng tôi lên đường đến Amma, thủ đô của Jordan. Amman có thương xá không thua gì những thương xá lớn ở Mỹ. các cửa hàng trang trí với những bảng hiệu viết bằng tiếng Mỹ vì ông vua xứ này cưới một bà vợ là người Mỹ nên có tư tưởng phóng khoáng hơn những ông vua Trung Đông khác.
Các phụ nữ Hồi Giáo ở nơi đây rất xinh đẹp, rất tân thời dù vẫn đội khăn trùm đầu theo kiểu Hồi Giáo nhưng không cần phải che kín mặt mày như các phụ nữ Hồi Giáo của Khối Á Rập khác. Họ rất xinh đẹp, nhất là có đôi mắt rất đẹp. Họ nhanh nhẹn, cấp tiến, dạn dĩ,
Chúng tôi đi viếng thăm thành cổ Jerash, một di tích lịch sử La Mã còn sót lại ở Jordan. Từ Amman, thủ đô của Jordan, đến Jerash chỉ có 48km và đoạn đường đi đến thành phố Jerash bắt đầu thay đổi về phong cảnh xung quanh có lẻ nhờ dòng sông Jordan vây quanh,
Từ trên cao nhìn xuống, chúng tôi nhìn thấy dấu vết của một thành trì La Mã cổ mà tôi đã xem trên Tivi: đấu trường, những hàng cột hình oval, những điệu khắc tuyệt đẹp trên đá, Mặt trời đã lên cao, chúng tôi phải tìm bóng mát ngồi tránh nóng và tìm đường đi ra xe trước .
Sau khi viếng thành cổ Jerash, chúng tôi đến thăm Ajloun Castle thường được gọi là pháo đài Ayyubid, nằm trên đỉnh núi Jabal Auf cách thành phố Ailun khoảng 5km. Vì quá gần với thành phố Ajloun, nên người địa phương lấy tên thành phố để đặt tên cho lâu đài. Pháo đài được xây dựng vào năm 1184 đến 1185 theo kiến trúc Hồi giáo sớm bởi vua Izz al-Din Usama – cháu trai của vua Salah ad-Din al Ayyubi. Pháo đài nguyên thủy bao gồm 4 tòa tháp ở 4 góc. Nối liền với 4 tòa tháp đó lại với nhau là những bức tường thành xây bằng gạch dày. Bao bọc xung quanh pháo đài là những hào nước có chiều rộng khoảng 16m và sâu khoảng 12 – 15m.
Những điêu khắc bên trong lâu đài mang dấu ấn của thời kỳ Hồi Giáo sớm. Những hiện vật thu được từ pháo đài và được trưng bày trong pháo đài.
Chúng tôi ngụ ở khách sạn Grand Millennium 2 đêm trước khi lên đường đi Cairo, thủ đô của Ai Cập báng phi cơ .
Đến Cairo lúc 8:40 PM sau khi làm thủ tục nhập cảnh khá gắt gao vì lý do an ninh đặc biệt ở nơi đây, chúng tôi lên xe bus chạy về khách sạn Hilton Cairo Heliopolis Hotel khá đẹp . Tối đến, chúng tôi tự túc ăn tối với....mì gói đem theo vì còn no sau khi ăn buổi trưa quá thịnh soạn ở Jordan để tiễn đưa một số khách về lại Mỹ vì họ không viếng thăm Ai Cập.
Chúng tôi chỉ ở khách sạn ở Cairo có một đêm ngủ cho khỏe mà thôi vì sáng mai phải thức dậy sớm (3:30 AM) để ra phi trường đáp chuyến bay sớm lúc 5:45 AM đi Luxor (Ai Cập) sau khi nhận breakfast box của khách sạn làm sẵn cho đoàn. Mệt thật!
Thế là cuộc du hành trên đất nước Ai Cập bắt đầu kể từ ngày 11 đến ngày 19. Mời Bạn cùng đi với chúng tôi nhé.
Còn tiếp…. Xin mời bạn đọc tiếp bài kỳ sau về TNGH Ai Cập nhé.
Xin chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.
Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn
Sương Lam
(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi-MCTN 581-ORTB 1006-92221)
Thu Paris Hội Thảo Văn Học Nghệ Thuật
Ví dụ: Ở ĐH Văn Khoa Saigon, có ông đã dịch : hữu thể = être thì không đúng theo Phật Đạo vì:
** hữu = có và thể = sắc (forme) ==> hữu thể = tất cả mọi vật nhìn thấy được
** Theo philosophie occidentale: être = người và động vật (les humains et les êtres vivants) và les humains = étants (Heidegger)
Bài này được in ở trong sách giáo khoa Việt Nam Văn Học Sử Yếu, quyển một của Dương Quảng Hàm.
“Tiếp lời Bs Nguyễn Bá Hậu liên quan đến vấn đề " Tam sao thất bản trong tục ngữ ca dao ”, tôi xin góp vài ý tưởng vừa nhìn thấy. Tôi đồng ý với Bs Nguyễn Bá Hậu rằng”Về vần điệu cước vận ở câu hai (bề) không vần với cước vận của câu ba (mây)”. Nhưng bảo rằng « Sự lạc vận này làm mất giá trị nhạc tính của bài thơ. Ta có thể dùng danh từ (bầy) thay thế cho chữ (bề) vì ở nước ta cũng có nơi gọi bề tôi là bầy tôi”, thì tôi e rằng Bs Hậu hơi quá khắt khe và vội vã ; Vì rằng, theo mạch văn, thì dường như chữ “ bề” đã được tác giả ý thức và chủ ý chọn dùng, dẫu lạc vận, để tạo một hòa âm nghịch, làm đổi nhạc điệu, làm tăng nhạc tính và thu hút người nghe và người đọc hơn. Chữ Bề là một chữ thuần túy việt nam. Chữ Bề có nhiều nghĩa, như chiều hướng, chiều kích, như bề cao, bề sâu, bề dài, bề rộng, .. thứ bậc, như bề trên, bề ngang, bề dưới,..
Trong bài ca dao này, chữ Bề có ý nghĩa là khía cạnh, lãnh vực, như câu Kiều “So bề tài sắc lại là phần hơn”, hay câu Kiều khác “Công tư vẹn cả hai bề”.
Ngoài ra, cũng trong bài ca dao này, với “chữ trông” vừa có nghĩa “trông thấy”, vừa có nghĩa “ trông mong ”, chữ “nhiều bề ” trong câu “tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề ”còn có một ý nghĩa hành văn, giới thiệu những chiều hướng, những khía cạnh, những lãnh vực nhận thức trông thấy được, từ khung cảnh trời đất, qua những biến cố mây mưa gió, đến các sự kiện thời gian ngày đêm; và những chiều hướng ý chí hành động đạt được, từ ước nguyện tin tưởng đến quyết chí rèn « cho chân mềm thành cứng ”, và biến “ đá cứng thành mềm”.
Nếu vì hình thức máy móc muốn tránh lạc vận mà lấy chữ “bầy”, (theo ý nghĩa « bầy tôi ») thay vào, thì ý nghĩa của bài ca dao chẳng những thành lủng củng, mà thâm chí còn sai lạc. Trong ba yếu tố mỹ học của thơ, hai yếu tố chữ và vận là quan trọng. Nhưng yếu tố ý là quan trọng hơn cả.
BS Nguyễn Bá Hậu:
“Về khía cạnh thơ đường luật thất ngôn bát cú ta lấy mẫu bài thơ Làm Lẽ của Hồ Xuân Hương in trong tập thơ của nhà biên khảo Phạm Trọng Chánh:
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm khi mười họa nên chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không.
Muốn đấm ăn xôi, xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này nếu biết đường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.”
Bài thứ nhì khóc ông phủ Vĩnh Tường của Hồ Xuân Hương:
“Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi
Cái nợ ba sinh đã trả rồi.
Chôn chặt văn chương ba thước đất,
Tung hê hồ thỉ bốn phương trời.
Hạt sương dưới chiếu chau mày khóc,
Giọt máu trên tay mỉm miệng cười.
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi.”
“Cán cân tạo hóa rơi đâu mất,
Miệng túi càn khôn khép lại rồi.”
Về khía cạnh thơ lục bát số câu thơ tam sao thất bản quá nhiều nên tôi chỉ xét đến hai câu thơ sau đây của Nguyễn Du trong truyện Kim Vân Kiều mới được người ta cố ý thay đổi:
“Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời”
Chữ trời ở đầu câu được đổi bằng chữ đời làm cho ý nghĩa câu thơ của Nguyễn Du bị sai hẳn vì Nguyễn Du trong truyện Kiều là một nhà thơ duy linh tin có đạo trời. Nếu đem chữ đời vào câu thơ thì người ta cố ý biến Nguyễn Du thành nhà thơ duy vật chủ nghĩa. Thiết tưởng nếu Nguyễn Du sống lại mà thấy hai câu thơ này thì cụ sẽ tự than vản cho số mình chẳng cần phải đợi “tam bách dư niên hậu” nữa và dân chúng Việt Nam sau này sẽ đổi câu ca dao Lạy đời mưa xuống lấy nước tôi uống… Đời sinh đời dưỡng. Nhà thơ Nguyễn Bính cũng vậy trong bài Tương Tư ông viết:
Gió mưa là bệnh của Trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Nay nếu người ta cũng đổi chữ trời ra chữ đời thì hai câu thơ đó sẽ đọc như sau:
Gió mưa là bệnh của đời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Trong Lưu Hương Ký có bài thơ Hồ Xuân Hương tặng Cần Chánh Học Sĩ Nguyễn Hầu, hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân. Bài thơ cho biết : Chữ tình chốc đã ba năm vẹn. Hai người yêu nhau trong ba năm, đó là thời gian từ năm 1790 đến 1793, sau khi Nguyễn Du thành nhà sư Chí Hiên đi giang hồ ở Trung Quốc về sống với anh Nguyễn Nể đang làm quan nhà Tây Sơn tại Thăng Long, nhưng Nguyễn Du lại thường ở nơi Gác Tía, nơi nhà câu cá cũ của anh Nguyễn Khản cạnh đền Khán Xuân và Cổ Nguyệt Đường.gần đình làng Nghi Tàm ngày nay. Hai người hàng xóm yêu nhau thường cùng đi hái sen với nhau. Năm 1793 sau khi vua Quang Trung mất, Nguyễn Nể được cử vào dạy học cho vua Cảnh Thịnh mới lên mười. Nguyễn Du và em là Nguyễn Ức được anh giao phó trọng trách về xây dựng lại từ đường và làng Tiên Điền bị phá hủy năm 1790 sau cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh. Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du có tiễn đưa nhau tại đình đá sông Vị Hoàng, làm thơ đối đáp nhau trong thời gian này.
Năm 1796, Nguyễn Du toan tính vượt biên vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh đã đánh tới thành Diên Khánh, Nha Trang, Nguyễn Du toan vượt biên vào Nam thì bị trấn thủ Nguyễn Văn Thận bắt giam 3 tháng, ra tù Nguyễn Du trốn ra Thăng Long. đến Hồ Tây thì hay tin Hồ Xuân Hương bị mẹ gả cho Thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, Nguyễn Du viết hai bài thơ ký tên Chí Hiên oán trách nàng tệ bạc. Năm đó Nguyễn Nể đi sứ về, mai mối cùng Đoàn Nguyễn Tuấn cưới cô em gái út Đoàn Nguyễn Thị Huệ cho Nguyễn Du. Nguyễn Du về Quỳnh Hải dạy học cho đến khi vua Gia Long lên ngôi đem quân ra Bắc truy đuổi vua Cảnh Thịnh. Nguyễn Du chiêu tập học trò, đem bò ngựa lương thực ra tiếp rước vua Gia Long, gặp tại huyện Phù Dung trấn Sơn Nam, vua phong ngay làm Tri huyện nơi này, sự kiện giống như Phi Tử thời Chiến Quốc dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương được phong chức Phụ Dung, nên Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử, Nguyễn Hành bài Đi Săn có nhắc danh hiệu này.
Năm 1804 Nguyễn Du làm tri phủ Thường Tín, vợ mất, ông tìm về Cổ Nguyệt Đường gần đó mong nối lại duyên xưa, thi Hồ Xuân Hương đang làm lẽ Tổng Cóc Nguyễn Công Hòa, nàng đau ốm như nàng Tiểu Thành, xót thương Nguyễn Du viết bài Độc Tiểu Thanh Ký gửi nàng. Hai chữ Tố Như hiểu là Nguyễn Du là vô nghĩa, vì 6 câu đầu viết về nàng Tiểu Thanh, tự nhiên hai câu cuối tự hỏi ai khóc mình là lạc đề, vô nghĩa, nếu Nguyễn Du muốn ai khóc mình thì sẽ nói : Ngàn năm sau ai nhắc đến ta ? : Bách Tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp tố như. Tra tự điển Thiều Chửu : tố là tơ trắng là người ( phụ nữ) phẩm hạnh cao quý, như là như thế như vậy. Hiểu: Không biết rồi đây ba trăm năm nữa , Ai khóc người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh thì hoàn toàn phù hợp với ý sáu câu đầu bài thơ. Hai chữ Tố Như chỉ xuất hiện duy nhất trên bài Độc Tiểu Thanh Ký, do đó tôi cho rằng con cháu đời sau khi viết gia phả không hiểu mối tình Nguyễn Du Hồ Xuân Hương nên đoán bừa Tố Như là bút hiệu. Các người được thuê chép văn bản cho Trường Viễn Đông Bác Cổ chỗ nào nghi là Nguyễn Du cứ chép vào hai chữ Tố Như. Ví dụ thơ viết cho anh Nguyễn Du đề Ức Gia Huynh, viết cho em Ngô Gia Đệ cựu ca cơ. Thơ Nguyễn Nể viết cho em lại đề Hoài Thanh Hiên Tố Như Đệ, không ai viết cùng một lúc hai danh hiệu. Hồ Xuân Hương sau khi nhận được bài Độc Tiểu Thanh ký đã bỏ Tổng Cóc trở về làng Nghi Tàm, nàng có viết bài Chơi Tây Hồ Nhớ Bạn trả lời bài Độc Tiểu Thanh Ký.
Năm 1813 Nguyễn Du làm Chánh Sứ đi sứ sang nhà Thanh, Hồ Xuân Hương gửi thơ mừng và ra đón tại Thạch Đình sông Vị Hoàng nơi tiễn biệt ngày xưa, nhưng chàng đường đường là vị quan Chánh Sứ, muôn cặp mắt trông vào, nàng chỉ dám nhìn từ xa, Hồ Xuân Hương viết hai bài thơ Mừng gặp bạn trên sông Hoàng Giang, và Hoài Cựu chép trong Lưu Hương Ký.
Thơ truyền khẩu Hồ Xuân Hương chép theo văn bản Antony Landes, Giám Đốc Trường Thông Ngôn, trước khi có Trường Viễn Đông Bác Cổ năm 1892 ông thuê Lê Quý và Nguyễn Văn Đại chép thơ Hồ Xuân Hương. Hai ông này có đến làng Nghi Tàm gặp hai người con trai Tử Minh là người « không ruột nhưng mà thương quá ruột » nên chép được ba bài thơ Khóc Tử Minh của Hồ Xuân Hương. và toàn bộ các bài thơ truyền khẩu của Hồ Xuân Hương, các người con Tử Minh lúc này khoảng 70 tuổi. So văn bản này với các bài thơ Truyền Khẩu về sau tôi chú ý có nhiều chữ thay đổi ví dụ:
Trong bài Khóc ông Phủ Vĩnh Tường ( chức cũ của Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển) chồng Hồ Xuân Hương bị tử hình bị phe Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Án Thủ Dung vu cáo nhận hối lộ 700 quan tiền vì ép dân trở lại cày ruộng thay vì làm nghề biển. Cùng thời gian sự kiện này là Trung Quân chỉ huy toàn quân đội nhà Nguyễn, Nguyễn Văn Thành phải tự tử, con là Nguyễn Văn Thuyên bị án chém. Binh Bộ Thượng Thư Đặng Trần Thường bị xử thắt cổ, Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán tự tử. Hai câu: ‘ Cán cân tạo hóa rơi đâu mất. Miệng túi càn khôn thắt lại rồi.’Cán cân là hình ảnh nữ thần Công lý cầm cán cân trước các toà án thời Pháp thuộc, thời Hồ Xuân Hương dùng chữ: đồng cân, ‘mượn tay thi tướng nhắc đồng cân. HXH. ‘âm công nhắc một đồng cân cũng vừa;’ ND.
BS Nguyễn Bá Linh hỏi tiếp:
GS Trần Văn Thu đời năm 2019
BS Nguyễn Bá Hậu qua đời năm 2018
Nhà nghiên cứu Phật Học Minh Nhật qua đời 2019.