Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2019

Bài Tình Ca Cho Em - Nhạc Sĩ Ngô Thụy Miên - Tiếng Hát : Vũ Khanh


Nhạc Sĩ: Ngô Thụy Miên
Tiếng Hát: Vũ Khanh
Thực Hiện: Đặng Hùng

Tình Em Huyền Diệu


Em còn đó anh nỗi buồn trong mắt
Cõi lòng riêng hiu hắt cuộc tình sầu
Biết nói gì cho ân nghĩa mai sau
Tiếng thơ nhỏ mong manh hồn lửa ấm.

Giọng ai ca những ngọt ngào vương vấn
Nhạc vào thơ xao xuyến mấy cung buồn
Yêu thương nào san sẻ được vui hơn
Anh nghe thấy những mơ hồ trong gió.

Không yêu thương sao nay buồn mai nhớ
Sợ thời gian đưa đẩy gió đông về
Chút tơ tình vàng vọt cả cơn mê
Đêm thao thức đưa tình về bến mộng.

Đời sao cứ vẩn vơ tìm lẽ sống
Cuộc tình nào còn lại với thời gian
Cõi hư vô lạc lõng những cung đàn
Trong tiếc nuối âm vang đời loi lẻ.

Chút tình riêng cứ đầy vơi nặng nhẹ
Nghĩa ân nào san sẻ được cho nhau
Bởi tình yêu héo hắt tự ban đầu
Nên lời thơ cũng ôm sầu mấy đoá.

Em hãy giữ trái tim hồng vàng đá
Cho tình cờ khép mở chút hưong hoa
Yêu thương nào có lúc cũng mưa sa
Vẫn hy vọng đẩy đưa tình tuyệt diệu

Đón mùa thu mà sao lòng nặng trĩu
Sợ đường về thăm thẳm chẳng còn hoa
Anh một mình ôm ấp mối tình xa
Nhớ mùa xưa cho thơm nồng hương cúc

Thu đến nữa mơ về em hạnh phúc
Mùa hoa vàng thôi thúc nhớ bao nhiêu
Em yêu ơi tình đẹp giấc mơ điều
Đời còn chỉ chút hương chiều hoa cúc.

Hoa Văn


Trăng Sáng Và Biển Xanh


Đêm nay rằm, trăng sáng cưới biển xanh
Cô dâu đi có mây trắng che mành
Xe hoa bon qua non cao, đồi rộng
Và đón đưa có thủy tộc bao quanh

Áo cô dâu lấp lánh những vì sao
Nhạc giúp vui là gió thổi rì rào
Pháo reo mừng có sấm rền chớp giật
Rượu trăm năm rót từ suối trên cao

Giờ hợp hôn sóng biển cuộn sáng ngời
Trăng dập dồn theo cung nhạc chơi vơi
Bầy thủy ca tung vây theo nhịp sóng
Và cá ông tưới mát cả bầu trời

Rồi nửa khuya trăng vàng thiêm thiếp ngủ
Biển mơn man làn sóng nhẹ như mơ
Đêm ngà ngọc muôn năm trăng còn tỏ
Lấp lánh vàng cho thi hứng nhà thơ!

Locphuc

Thu Ẩm



Bài Xướng:
Thu Ẩm

Một thoáng heo may gợn sóng trà
Gợi bao nhung nhớ tháng ngày qua
Mùa thu lại đến thay màu lá
Rét mướt theo về tím sắc hoa
Xen giữa hương ngâu làn khói toả
Mờ trong đáy cốc bóng người xa
Bâng khuâng hồi tưởng lời giao ước
Nâng chén mà sao mắt lệ nhoà

Đoàn Ngọc Kiều Nga
***
Các Bài Họa:
Lá Sầu

Trời vừa ươm lạnh... trổ hoa Trà
Thương nhớ về ai! Kỷ niệm qua
Gió hát lời buồn xao xác lá
Quạ kêu bi thảm động lòng hoa
Xa nhau nào biết bao giờ gặp
Gần đó đâu ngờ cách trở xa
Đêm luống ngẩn ngơ tình chợt khép
Lá sầu ôm kín hạt sương nhoà

Kiều Mộng Hà
March 19th 2019
***
Hương Trà

Nâng tách hương thơm dịu vị trà
Một làn khói toả tiếc thu qua
Vườn sau mấy độ hồng đơm nụ
Sân trước bao lần cúc trổ hoa
Văng vẳng chuông ngân mưa gió thoảng
Mơ hồ sáo vọng núi đồi xa
Hỡi ơi năm tháng dài nhung nhớ
Hình bóng người xưa khó nhạt nhoà

Hồ Công Tâm
March 19th 2019
***
Thu Buồn

Nghe thoáng trong đêm hương ngát trà
Chạnh lòng thương nhớ bóng hình qua
Mây Thu hiu hắt mờ hương phấn
Nắng Hạ mơ hồ tươi sắc hoa
Hạnh phúc nồng nàn duyên thắm đượm
Đau thương tan tác tình chia xa
Sợi buồn rung rẩy mờ sương khói
Kỷ niệm ngàn năm chẳng xóa nhòa./.
                     
Toronto 19/3/2019
Nguyên Trần
***
Tơ Lòng

Heo may lành lạnh thoảng hương trà
Đáy cốc mờ mờ bóng thoáng qua
Vạn vật hòa mình thu lộng ngọc
Mây ngàn dẫn lối giấc mơ hoa
Chờ muôn nẻo đến từ ngàn dặm
Trao cả tơ lòng tận chốn xa
Từng ngón cô đơn đan dĩ vãng
Ôm theo kỷ niệm chữa phai nhòa

Kim Phượng
***
Giao Mùa

Một sớm tinh sương uống ngụm trà
Ngát thơm nhài cúc tiễn mùa qua
Đầu vườn phai sắc hương cây trái
Cuối xóm nhạt màu lá cỏ hoa
Có phải Thu giăng buồn luyến nhớ
Để rồi Đông đến dệt mơ xa
Dư âm vọng mãi trong tiềm thức
Cạn chén đầy vơi chẳng xóa nhòa.

Trần Quế Sơn
Illinois ;Oct-15-2010
***
Thu Nhớ

Một sớm heo may,một tách trà
Nhắp từng ngụm nhỏ ngắm ngày qua
Vườn thu xào xạc cây thay lá
Hiên vắng bơ thờ buớm nhớ hoa
Lãng đãng sương lan trong khói biếc
Mơ hồ ai gọi phiá trời xa
Trăm năm ghi khắc lời giao uớc
Son sắt trong tim chẳng nhạt nhòa

Nguyên Nhung
***
Thu Cảm

Mỗi sáng em pha một tách trà
Thơm tình nồng ấm mấy năm qua.
Vườn cây thu đến thay màu lá
Cụm cúc nắng lên hé nụ hoa.
Em vẫn yêu anh dù cách biệt
Anh còn thương mẹ dẫu ly xa.
Tình yêu vẫn mãi trong tâm khảm
Xa cách nhớ thương lệ nhạt nhòa!

Minh Lương
Cali. 16 / 10 / 2010
***
Quê Hương

Khóm trúc, bờ tre với chậu trà,
Bao năm mòn mỏi bấy thu qua,
Ngày về ngong ngóng vườn sai trái,
Đêm đến mơ màng đất trổ hoa.
Nợ nước giờ đây sầu biển cát,
Ơn nhà bao độ nhớ Trường Sa
Cao nguyên cũng đã phai màu đất,
Giòng Cữu Long Giang có lệ nhòa.

TTT
10/2010
***
Thu Buồn

Sáng ra thơ thẩn nhấp chung trà
Hiu hắt bên thềm Thu ghé qua
Chót vót Anh Đào đang úa lá
Chơ vơ Nguyệt Quế đã tàn hoa
Xứ người tuổi đến càng thêm ngắn
Quê Mẹ ngày về lại qúa xa
Mộng sự chan hòa qua sợi khói
Cửu Long tiếng sóng chẳng phai nhòa..!!

Nguyễn Minh Thanh
GA, 17-10-10
***
Đông Ẩm
(tặng Lê Trọng Nghĩa)

Mời nhau nhắp chén tịnh tâm trà
Rũ bỏ ngoài hiên mưa gió qua
Khói tỏa chơi vơi vờn ảo ảnh
Hương bay phảng phất gợn phù hoa
Người luôn vọng tưởng quê nhà cũ
Kẻ mãi lưu hành phố chợ xa
Đối ẩm chiều đông thanh khí quyện
Tình trai lữ thứ chẳng phai nhòa

Đoàn Chinh Nam
***
Đối Ẩm

Trưa nay đối ẩm cạnh khay trà
Tiễn hạ ta mời bạn thiết qua
Thấp thoáng sầu tư huơng dã thảo
Bang khuâng luyến nhớ rượu hoàng hoa
Mùa sang vuơng vấn tơ sương nhẹ
Kẻ ở mơ màng bóng nhạn xa
Vẫn lá vàng bay như bướm luợn
Mà sao hiu hắt cánh thơ nhòa

Hawthorne,19-10-2010
Cao Mỵ Nhân
***
Thưởng Thức Trà Ngon

Mời bạn ngồi chơi uống tách trà
Tuổi già hồi tưởng tháng ngày qua.
Nhìn trời buổi sáng thêm sinh khí
Ngắm cúc nắng thu lại nở hoa.
Khách quý hàn huyên dù xứ lạ
Trà ngon thưởng thức dẫu phương xa.
Mời nhau chân thật đừng chê trách !
Tri kỷ thương nhau chẳng nhạt nhòa!

Minh Lương Trương Minh Sung
Cali. ngày 20/10/2010
***
Thu Tha Hương

Cám cảnh tha hương độc ẩm trà
Ngậm ngùi hồi ức thuở can qua
Quê nguời mấy độ thu vàng lá
Đất mẹ bao mùa cúc trổ hoa
Lữ thứ chiều sương hiu hắt nhớ
Mây tần mai sớm mịt mù xa
Cây đa, gốc thị còn nghiêng bóng
Trên nóc hương quan nắng úa nhoà

22-10-2010
Song Ngọc
***
Đối Ẩm Đầu Thu

Sáng sớm tinh sương chế ấm trà
Khi người vừa mới bước chân qua
Giữ hương trong tóc xe duyên nợ
Đưa nước về nguồn tưới cội hoa
Đối ẩm đầu thu mừng hạnh ngộ
Độc hành cuối hạ ngại chia xa
Mạn sen thơm ngát tràn tâm thức
Đã mấy mươi năm chẳng xoá nhòa

Phan Khâm
23-10-10
***
Độc Ẩm -1

Có trăng càng cảm đậm hương trà
Hẹn đấy mà sao chẳng thấy qua ?
Thế bạn dăn chung tâm chợt ngộ
Đây vơi ít chén mắt không hoa
Càng yêu tha thiết khung trời mộng
Thậm nhớ triền miêm đất nước xa
Chẳng biết chừng mô ngày trở lại
Cho đau thương cũ sớm phai nhòa.

Thái Huy
18-10-10 (*) 
***Độc Ẩm --2

Ta tự mời ta một chén trà
Giữa nơi đất khách đón thu qua
Bấy nay bận rộn chăm lo việc
Tự hậu rảnh rang thưởng thức hoa
Vui thú điền viên dù bạn vắng
Sống đời an lạc dẫu quê xa
Mai kia mốt nọ thân gìa mục
Nước mắt còn đâu bảo nhỏ nhòa !

Thái Huy
19-10-10
(*) so vơi ngày nhận bữa nay (20-10-10)
***
Danh Trà

Mùi thơm mấy dặm hảo danh trà
Hỏi bác còn không em ghé qua
Khói tỏa lung linh chung nạm ngọc
Hương bay nghi ngút đĩa chèn hoa
Thi sao tả hết niềm ưu ái
Chữ cũng khôn bày nỗi xót xa
Đạo lý thênh thang ta đối ẩm
Tấm tình tri ngộ khó phai nhòa

Lê Bá Lộc

Pinehill Oct-22-2010
***
Trà Thu

Tinh mơ nhóm bếp nhấm chung trà
Nhấm nháp hương đời vội vả qua
Sen trắng hạ tàn chờ rũ cánh
Cúc vàng thu muộn khó đơm hoa
Tự do ngờ thực mà ra ảo
Dân chủ tưởng gần lại vẫn xa
Thương xót quê hương nghèo tủi nhục
Niềm đau tóc trắng chẳng phai nhòa

NDT
2010-11 
***
Lánh Đời

Một viên kẹo ngọt, một chung trà
Bạn hữu thân sơ hãy ghé qua
Bỏ lại đời thường thương với hận
Vào thăm vườn đẹp kiểng cùng hoa
Mộng đời đeo đuổi chừng vô tận
Bến đợi trông về cũng chẳng xa
Đi cuối quãng đời còn mấy bước?
Hơn, thua, được, mất, cũng phai nhòa

Thúy M
March 20th 2019
***
Trà Hoa Mộng

Vườn lạnh sương rơi trổ đóa trà
Đợi chờ nhung nhớ bóng hình qua
Mây bay ca hát lời tình tự
Gió thổi điệu trầm đẫm cánh hoa
Ly cách cuộc đời mong hội ngộ
Tương phùng giây phút chợt lìa xa
Đêm dài thao thức hồn ươm mộng
Nhật ký hồng mơ chữ nhạt nhoà.

3/19

Đỗ Thị Minh Giang
***
Trà Thu

Tinh sương ngõ vắng ẩm chum trà
Lá rụng bên ngoài mấy bữa qua
Mộng thắm đàn chim vờn bụi cỏ
Say mềm giọt nắng chiếu cành hoa
Màu Thu sắc nhuộm vừa nhen đến
Giấc Hạ hương lùa chợt bỏ xa
Nhặt mảnh hồn xưa mờ đáy cốc
Miên man kỷ niệm lệ rơi nhoà

Minh Thuý
14:09 - 31/03/2019

Tam Nguyệt Hối Nhật Tống Xuân - Giả Đảo (793 - 865)

Ngày 30 tháng 3, trong dòng thời gian của một năm nào đó, là ngày cuối của một mùa Xuân. Tiễn Xuân rồi Tiễn Bạn, lần lượt qua 2 bài thơ xưa. Xuân đi rồi Xuân sẽ trở lại, còn Người đi không chắc còn có ngày về. Chỉ biết, ngay lúc này, mãi còn đây, chút tình với nhau, trong tôi!


(1) Tam Nguyệt Hối Nhật Tống Xuân

Tam nguyệt chính đương tam thập nhật 
Xuân quang biệt ngã khổ ngâm thân
Cộng quân kim dạ bất tu thụy
Vị đáo hiểu chung do thị xuân

Giả Đảo (793 - 865)
***
Ngày Cuối Tháng Ba - Tiễn Xuân

Hôm nay ngày 30 tháng 3 là ngày cuối của một mùa Xuân rồi/ Trời Xuân lại sắp sửa bỏ cái gã thơ khổ ngâm này mà ra đi / Thôi thì anh ạ, đêm nay ta cùng thức trắng với nhau cho trọn tình với Xuân vậy/ Chưa nghe hồi chuông điểm sáng là vẫn còn Xuân ở với chúng ta mà. (Ô Temps! Suspends ton vol, et vous, heures propices! Suspendez votre cours: Laissez-nous savourer les rapides délices. Des plus beaux de nos jours ! (Le Lac - Alphonse de Lamartine 1790-1869) 

Tháng ba, ngày cuối, nắng trong ngần,
Sao nỡ bỏ tôi, gã khổ ngâm.
Anh ạ, đêm nay, ta thức trắng,
Trời chưa vội sáng vẫn còn xuân!

Phạm Khắc Trí
***
(2) Tam Nguyệt Hối Nhật Tống Khách

Dã chước loạn vô tuần
Tống quân kiêm tống xuân
Minh niên xuân sắc chí
Mạc tác vị quy nhân

Thôi Lỗ  (-853-)
***
Ngày Cuối Tháng Ba - Tiễn Bạn

Ở chốn thảo dã, rượu uống mời nhau, kể chi cạn chén mấy lần / Tiễn đưa nhau đi vào ngày cuối Xuân cũng là đưa tiễn cả một trời Xuân đi / Sang năm rồi Xuân sẽ trở lại / Chỉ xin đừng mang tiếng làm người không về. (Ôi chao! Xuân đi rồi xuân sẽ trở lại. Còn người, dòng đời bất định, ngày về cùng xuân còn mong được sao?)

Tình quê, rượu chuốc, kể chi tuần
Đưa tiễn nhau đi ngày cuối xuân. 
Năm tới, xuân về, nhớ đúng hẹn,
Chớ đừng mang tiếng kẻ lần khân! 

Phạm Khắc Trí

Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2019

Bao Giờ Biết Tương Tư - Phạm Duy & Ngọc Chánh - Ngọc Lan


Sáng Tác: Phạm Duy và Ngọc Chánh
Ca Sĩ: Ngọc Lan
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình


Tình Muộn




Nhung nhớ một người tôi mến thương
Nhiều khi thao thức cả đêm trường
Giọng oanh trầm ấm gieo mơ ước
Dáng ngọc yêu kiều gợi vấn vương
Ý hợp tỏ bày tựa tri kỷ
Tâm đầu chia sẻ ngỡ uyên ương
Cuối đời ngây ngất men tình muộn
Giữ bóng hình ai suốt đoạn đường.

Nguyên Trần

Toronto

Chiều Trong Rừng (Phần1)




Chiều Trong Rừng 

Biệt xứ lâu rồi quá nhớ ơi
Lang thang đến mãi tận chân đồi
Rừng hoang tĩnh lặng đi quanh quẩn
Núi vắng im lìm bước dạo chơi
Thơ thẩn ru hồn về cố quận
Ngẩn ngơ thả bóng ở quê người
Về chiều tuổi hạc còn chi hỡi
Tóc đẫm sương sa lệ bỗng rơi....

Tuyết Phan

29/11/2018
***
Bài Họa:

Đêm Ngồi Nhớ Đời Mình

Ác mộng đêm thường gọi ới ơi
Tỉnh nghe gió rít lộng hoang đồi
Dài cơn giong ruổi ngoài phiên chợ
Chẳng phút phiêu bồng giữa cuộc chơi
Lắm sợ tanh bùn lem phẩm giá
Lo gì bẩn bụi lấm thân người
Hai sương một nắng quen rồi khổ
Chỉ xót mưa buồn đáy mắt rơi !

Lý Đức Quỳnh
24/3/2019
***
Xuân Chiều Đất Khách

Xuân chiều đất khách nhớ ai ơi,
Quê cũ đồng xanh nắng phủ đồi.
Một bước đi xa đành để khổ,
Tấc lòng đau đớn phải nào chơi.
Bởi hờn trận bại sầu sông núi,
Vì buộc cờ thua lạc xứ người !
Tuổi hạc vẫn còn mong chuyển thế…
Trời nam vận đỏ sẽ dần rơi !

Liêu Xuyên
***

Khung Trời Kỷ Niệm

Đêm buồn thầm gọi cố nhân ơi
Anh đã đi rồi, bỏ cuộc chơi
Tí tách ngoài hiên, mưa gọi bạn
Ngậm ngùi bên gối, dạ mong người
Vẫn thương lối dốc quỳ chen mọc
Mãi nhớ khu vườn lá ngập rơi
Nơi ấy khung trời đầy kỷ niệm
Có ngôi nhà nhỏ ở ven đồi....

Sông Thu
***
Đường Chiều


Chỉ nghe vọng lại ấy ai ơi !
Xa khuất đầu kia tận cuối đồi
Mình đứng đây chờ như cút bắt
Em sang ngã đó thể trò chơi
Cảnh nay thu đã vàng đôi chỗ
Tình cũng đông qua nhạt dáng người
Gợi nhớ niềm riêng hương tóc thoảng,
Đường xưa cô lẻ bóng chiều rơi !

Thái Huy
24/3/2019
***
Chiều Trên Đồi

Hoa dại đầu xuân rực rỡ đồi
Một mình chiều xuống bước rong chơi.
Gập ghềnh sơn đạo chênh vênh đá
Uốn khúc đường đi quạnh quẽ người.
Trước mặt mơ hồ sương khói tỏa
Sau lưng nhàn nhạt ánh tà rơi.
Tần ngần lặng ngắm trời hồng thắm
Xao xuyến tâm hồn, cảnh đẹp ơi!

Mailoc
3-24-19
***
Thăm Bạn Hiền

Ga chiều nhộn nhịp lắm nàng ơi!
Mình hẹn cùng nhau dạo biển, đồi
Thích thú kề vai đùa chuyện vãn
Âm thầm đội nắng mải rong chơi
Ngỡ ngàng bấy nẻo vì xa xứ
Hụt hẫng nhiều phen bởi lạ người
Nhớ buổi chia tay lòng bịn rịn
Bên nầy tuyết vẫn nhẹ nhàng rơi...

Như Thu
***

Cố Hương

Xa xôi biền biệt, cố hương ơi
Sông biển thân yêu với núi đồi
Thành quách đền đài, ghi dấu vết
Danh lam thắng cảnh, thoả vui chơi
Ngậm ngùi tưởng niệm nơi quê mẹ
Lận đận buồn vui chốn xứ người
Mải miết lạc loài nơi góc biển
Khóc thầm thương nhớ những chiều rơi

Thanh Trương
***

Gặp Gỡ Trong Rừng

Thật quá tuyệt vời may mắn ơi
Lang thang chậm bước ngắt hoa đồi.
Bắt ve , hái quả tung tăng dạo
Huýt sáo , vầy sương lẩn thẩn chơi.
Ngơ ngẩn nhìn theo đuôi chú sóc
Mừng vui chợt thấy dấu hơi người.
Lòng dâng phơi phới , ô , lâm nữ
Dấn gót vô rừng , bỗng lệ rơi .

Trần Như Tùng 

Chiều Trong Rừng (Phần 2)




Chiều Trong Rừng 

Biệt xứ lâu rồi quá nhớ ơi
Lang thang đến mãi tận chân đồi
Rừng hoang tĩnh lặng đi quanh quẩn
Núi vắng im lìm bước dạo chơi
Thơ thẩn ru hồn về cố quận
Ngẩn ngơ thả bóng ở quê người
Về chiều tuổi hạc còn chi hỡi
Tóc đẫm sương sa lệ bỗng rơi....

Tuyết Phan

29/11/2018
***
Bài Họa:
***
Gởi Cố Nhân

Mảnh tình tôi gởi...cố nhân ơi!
Gặp gỡ nhau chi để nhớ người
Định mệnh an bài nơi số kiếp
Nhân duyên sắp đặt bởi tơ trời
Thầm thương cho lắm lòng luôn vướng
Càng nghĩ thêm nhiều lệ sẽ rơi
Hãy khắc vào tim hai tiếng ấy
Chứ đừng xem nhẹ một trò chơi

Songquang
3/25/2019
***
Tâm Sự

Cách xa nhớ lắm bạn lòng ơi
Thương mãi ngày nao ở xóm đồi
Bến nước bao lần cùng tắm gội
Sân đình những lúc đã đùa chơi
Sầu thân lưu lạc phương trời lạ
Tủi phận bơ vơ chốn xứ người
Ngoảnh lại mái đầu sương điểm bạc
Giọt buồn khoé mắt ngấn tràn rơi.

Trần Văn Hạng
***

Hương Xưa

Biệt tích âm thầm nhớ Huế ơi
Bao nhiêu kỷ niệm chẳng xa rời
Mưa Thu góc phố nhìn sương tản
Nắng Hạ đầu đường nhặt bóng chơi
Bến Ngự chiều nao xây mộng ảo
Kim Long sớm ấy dệt mơ vời
Anh đi bỏ lại hương ngày cũ
Dĩ vãng đêm về lệ muốn rơi

Minh Thuý
25/3/19
***
Mơ Làn Hương Cũ

Vẫn còn kỷ niệm…nhớ trời ơi
Vọng Cảnh Hương Giang tiếp núi đồi
Thừa Phủ đò đưa thời gặp gỡ
Ngự Bình xe đạp thuở rong chơi
Bồi hồi ký ức theo chân bạn
Khắc khoải tâm tư nhặt bóng người
Cứ mỗi hè qua trường lớp cũ
Thẫn thờ nhìn phượng lượm hương rơi

Như Thị-Lê Đăng Mành 
***
Nhớ Mùa Xuân Xưa

Còn nhớ xuân nào không nhỏ ơi ?
Theo anh bắt bướm ở ven đồi
Má hồng nhuộm đỏ màu dương rọi
Áo trắng bám đầy xác lá rơi
Tri kỷ đôi mình luôn giữ vẹn
Vợ chồng hai đứa chỉ đùa chơi
Mấy mươi năm lẻ ...xa vời vợi...
Em xuống thuyền hoa...lạc bến người !

Thy Lệ Trang
***

Chiều Qua Lối Cũ

Xa cách xưa rồi yêu dấu ơi !
Từng chiều tản bộ dọc bên đồi
Lòng đầy cảm mến trò tiêu khiển
Trí những say sưa cách bỡn chơi
Mây lượn loay quanh trao ánh mắt
Gió rung nhè nhẹ chuyển lời người
Nay như hụt hẫng và xao xuyến
Giữ lại được ư cánh lá rơi ?

Thái Huỵ
3/2019
***
Chiều Nhớ Xa Vời

Chiều quê ngồi bỗng nhớ ai ơi
Man mác mây trôi trắng núi đồi
Thưở ấy nồng nàn tay nắm chặt
Ngày xưa âu yếm gót đưa chơi
Tưởng làn tóc biếc mơ mùa cũ
Thương nụ cười duyên lạc xứ người
Xa cách ngàn trùng đau sóng gọi
Đêm trường thao thức giọt sương rơi

Trầm Vân
***
Bạn Thơ Bên Pháp

Mới đây biết bạn, Pháp xa ơi
Đất nước văn minh, thoải dốc đồi
Cuộc sống hài hoà nên học hỏi
Quảng đời hội nhập cũng rong chơi
Quê hương khắc khoải hồn nguyên quán
Đất khách bâng khuâng khí chất người
Vóc hạc da mồi ta quạnh quẽ
Tóc mai điểm bạc giọt buồn rơi ...(!)

Mai Xuân Thanh
Ngày 26/03/2019
***
Nhớ Tiếng Mẹ Xưa

Ru lời của mẹ tiếng à ơi,
Dắt díu trông con giỡn dưới đồi
Đất trống rừng thưa dư sức chạy
Cây dài lá rậm đủ sân chơi
Tuổi thơ ngà ngọc bên hiền mẫu
Lúc lớn thành niên cạnh thiếu Người !
Bóng xế hoàng hôn buồn tuổi hạc
Lòng này thổn thức giọt châu rơi…

Paris, 27/03/2019
Trịnh Cơ
***
Giấc Mơ Hồi Hương

Tha phương cầu thực, khổ ai ơi
Nhưng vẫn mang theo dáng núi đồi
Belgique một mình, sầu l thứ
Paris muôn nẽo, biếng rong chơi?
Lang thang lắm lúc, thương quê mẹ
Lận đận nhiều phen, hận xứ người
Chẳng biết bao giờ hồi cố quốc?
Gia đình đoàn tựu, lệ thôi rơi

Thục Nguyên

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2019

Thơ Tranh: Bạn Tới Nhà


Thơ: Chân Diện Mục
Thơ Tranh: Kim Oanh


Trừ Dạ Tác 除夜作 - Cao Thích 702-765


除夜作 

旅館寒燈獨不眠,
客心何事轉凄然。
鄉今夜思千里,

愁鬢明朝又一年。

Trừ Dạ Tác 

Lữ quán hàn đăng độc bất miên
Khách tâm hà sự chuyển thê nhiên
Cố hương kim dạ tư thiên lý
Sương phát minh triêu hựu nhất niên

Cao Thích 702-765
***
Bài Dịch:

Quán lạnh đèn khuya không ngủ được
Chạnh buồn cám cảnh kiếp tha hương
Cố hương giờ đã ngàn trùng cách
Mai lại thêm năm nữa tóc sương

Phạm Khắc Trí
***
Phỏng Dịch:

Quán lạnh chong đèn ngủ chẳng yên
Cớ chi dạ khách luống ưu phiền
Cố hương hoài nhớ xa ngàn dặm
Năm đến sầu lòng bạc tóc thêm

Kim Oanh

Cuộc Đời Ngắn Ngủi


Đời người ngắn lắm ai ơi
Hơi đâu để ý đến lời dèm chê
Chơi xấu người được thêm gì
Có chăng nghiệp quả nhiêu khê cuộc đời

Cuộc đời ngắn quá hãy cười
Hãy vui để thấy thảnh thơi tâm hồn
Hơi đâu mà tức giận hờn
Để ngày tháng lụn gió luồn xanh xao

Yêu thương như suối ngọt ngào
Như ngày gió mát xôn xao nắng hồng
Như ly rượu ngọt chia chung
Uống say tình nghĩa ta mừng nhau xanh

Cây đời vun xới an lành
Xới vun tình nghĩa dỗ dành niềm tin
E gì mưa gió nổi chìm
Yêu thương giăng chiếc võng mềm đong đưa

Yêu thương như tiếng chèo khua
Thứ tha như sóng vỗ bờ dịu qua
Con đò xuôi ngược gần xa
Sẽ tìm tới cõi an hòa bến xuân

Trầm Vân

Chùa Linh Sơn Đà Lạt



Xướng:
Chùa Linh Sơn Đà Lạt

Tỉnh lộ ngoằn ngoèo góc phố nhà
Sương mù mưa bụi đất thơm hoa
Xe lăn chầm chậm lên con dốc
Đường bộ ung dung tới Phật Đà
Sơn Tự khoan thai con đãnh lễ
Mái chùa thong thả cõi ta bà
Tu tâm dưỡng tánh lòng buông bỏ
Chuông mõ tụng kinh bóng xế tà

Mai Xuân Thanh
Ngày 25 tháng 10 năm 2017
***
Họa:
Linh Sơn Đà Lạt

Rừng tùng hùng vĩ bóng râm nhà,
Đà Lạt ngạt ngào với cỏ hoa.
Vi vút thông reo mơ thoát tục,
Ngân nga chuông mõ niệm di-đà.
Mái chùa êm ả trong kinh sớm,
Thiếu nữ đâm chiêu cạnh cụ bà.
Chiều xuống ngẩn ngơ lòng lữ khách,
Linh Sơn lẫn khuất bóng chiều tà!

Đỗ Chiêu Đức

Thứ Tư, 27 tháng 3, 2019

Thơ Tranh: Cô Quạnh


Thơ: Đỗ Bình
Thơ Tranh: Kim Oanh

Tình Trăng


(Trích Tập thơ Góc Nắng)

Từ lúc trăng non vừa nhú mộng
Có vầng mây sáng cuối trời xa
Thầm gieo ý tưởng trên muôn lá,
Thanh sắc đêm tàn chưa phôi pha.

Thời khắc đã chia màu dĩ vãng
Tình trăng mỗi lúc theo đường mây
Lên khơi cũng muốn soi lòng biển
Sợ ánh vàng nghiêng chở mộng gầy!

Hương sắc dẫu chưa lần giã biệt
Mà sao non nước lạnh mơ màng!
Chao ơi, bờ bến còn chăng nhỉ...
Hay chỉ còn ta với ánh trăng!?

Mặc Phương Tử

Long Thành, 2007

Plaisir D’amour (1748) - Jean-Pierre Claris de Florian (1755—1794)



Plaisir D’amour (1748)

Plaisir d’amour ne dure qu’un moment:
Chagrin d’amour dure toute la vie.
J’ai tout quitté pour l’ingrate Sylvie;
Elle me quitte et prend un autre amant.
Plaisir d’amour ne dure qu’un moment:
Chagrin d’amour dure toute la vie.
“Tant que cette eau coulera doucement
Vers ce ruisseau qui borde la prairie
Je t’aimerai,” me répétait Sylvie.
L’eau coule encore. Elle a changé pourtant.
Plaisir d’amour ne dure qu’un moment:
Chagrin d’amour dure toute la vie.

Jean-Pierre Claris de Florian
(1755—1794)

***
Bài Dịch:
Tình Hoài

Tình vui khoảnh khắc phù du
Còn chăng hoài niệm thiên thu sầu tình
Cuồng si yêu kẻ phụ tình
Bỏ tôi hiu quạnh một mình héo hon
“Dù cho biển cạn núi mòn
Suối kia còn chảy em còn yêu anh”
Thề nguyền thôi đã phai nhanh
Nước trôi — nàng đã đoạn đành xa tôi


Yên Nhiên

Mưa Chiều Miền Trung ( Vườn Thơ Thẩn)



Bài Xướng:
Mưa Chiều Miền Trung


Tầm tã chiều nao cũng đổ mưa
Nước bao nhiêu trút vẫn không vừa
Mịt mù phố chợ đường im vắng
Lướt thướt hàng cây lá sũng thưa
Lầm lũi người qua, chân vội bước
Âm thầm kẻ đợi, mắt buồn đưa
Bầu trời xám đục màu sương khói
Như đã bao đời, tự thuở xưa...

Phương Hà
***
Các Bài Họa:

Mưa Chiều Nay


Chiều trời oi bức chợt sa mưa
Nắm cát đưa linh cũng mới vừa
Chái bếp tồi tàn cơm tẻ nhạt
Căn nhà xiêu vẹo khách lưa thưa
Rì rào giọt bắn cành khô rụng
Lặng lẽ nhang tàn khói nhẹ đưa
Thời tiết sang mùa mau biến đổi
Như đời bỗng chốc hóa người xưa!

Cao Linh Tử
17/3/2019
***
Đêm Mưa Ngoại Ô

Ngoại ô thức giấc giữa đêm mưa
Tí tách buồn tênh mãi chẳng vừa
Lá phất sau hè như nhún nhẩy
Giọt rơi đẩu chái tựa đong đưa
Ngọn đèn cạnh cửa nằm yên trước
Chiếc bóng bên đường đứng tự xưa
Rỉ rả tàn canh chưa ngủ được
Tiếng gà gọi sáng thoảng lưa thưa

songquang
3/16/2019

M
ưa Đổ Ngày Về

Vẫn bước nhưng trời lại đổ mưa
Hàng cây lẳng lặng chút cho vừa
Em về lối cũ hồn thương cảm
Nắng đỗ hiên buồn vệt trải thưa
Ảo não rèm buông bầy nhện quấn
Âu sầu cửa lọt gió ngàn đưa
Chìm trong sắc huyễn chiều se lạnh
Nỗi nhớ quay tròn kỷ niệm xưa 

Mai Thắng 
190316

Mưa!

Đã mấy ngày rồi liên tiếp mưa
Biển đâu để đủ chứa cho vừa ?
Lợn trôi đàng lợn băng bằng sạch
Cây đổ theo cây lổng chổng thưa
Kẻ khóc thôn này như đám táng
Người than xóm đó hệt đò đưa
Trông trời ngó đất mà ngao ngán,
Phục hoạt sao đây khung cảnh xưa?

Thái Huy,
16/3/2019
***
Xóm Nhỏ Chiều Mưa

Nhớ chiều tầm tả xóm nghèo mưa,
Mái lá tốc theo gió chẳng vừa.
Nước dột nhà trên tràn xuống dưới,
Cây rung cành lá rụng dần thưa.
Cầu dừa ngập úng thân trôi nổi,
Sông rạch nước tràn đò hết đưa.
Trơn trợt tối tăm đường xóm nhỏ...
Mưa buồn mưa gợi nhớ xa xưa !

Đỗ Chiêu Đức
Mưa Mỹ 2019 nhớ mưa xưa
*** 
Tiếng Mưa Đêm

Nhớ mãi quê nhà những tối mưa
Buồn lên cao ngất nói sao vừa.
Giọt rào trên mái nghe sầm sập
Gió rít bên hè vẳng nhẹ thưa.
Tre trúc cựa mình luôn cọt kẹt
Tàu dừa sũng nước mãi đong đưa.
Khàn khàn ếch nhái ao hồ ngập
Xao xuyến mơ về tiếng nhạc xưa!

Mailoc

3-17-19
( Nhớ về Cao Lãnh những đêm mưa)
***
Mưa  Hội An

Đang nóng Hội An chợt đổ mưa
Không dù chạy vội núp nhanh vừa
Ngày còn đi bộ đường qua vắng
Chiều hết rong chơi phố lại thưa
Đất hẹp nhà buôn thân cận đón
Lầu cao quán xá kẻ xa đưa
Ban trưa nực nội chiều vân vũ
Lớp học thầy trò nhớ buổi xưa

Mai Xuân Thanh
Ngày 15/03/2019

Ký Ức Chiều Mưa

Réo rắt qua lòng những giọt mưa
Nỗi buồn rưng rức nói sao vừa
Hắt hiu bóng phố làn mây tím
Trơn trượt con đường cánh lá thưa
Ánh mắt người trao tình nhớ gọi
Cung đàn ai thả tiếng sầu đưa
Bầu trời xám xịt ngùi xa cách
Ký ức u hoài thoảng dáng xưa

Trầm Vân

***
Miền Trung Vọng Tiếng


Bóng người lầm lũi dưới màng mưa
Mong ấm dần lên tỏa sáng vừa
Góc phố đìu hiu đường vắng vẻ
Hàng cây trơ trụi lá lưa thưa
Chưa khô nước mắt đêm ly biệt
Vẫn nhớ nơi này buổi tiễn đưa
Mơ ánh trăng vàng khua sóng nước
Thèm nghe vọng tiếng những âm xưa

Kim Phượng

Mưa Chiều Miền Trung



Bài Xướng:
Mưa Chiều Miền Trung


Tầm tã chiều nao cũng đổ mưa
Nước bao nhiêu trút vẫn không vừa
Mịt mù phố chợ đường im vắng
Lướt thướt hàng cây lá sũng thưa
Lầm lũi người qua, chân vội bước
Âm thầm kẻ đợi, mắt buồn đưa
Bầu trời xám đục màu sương khói
Như đã bao đời, tự thuở xưa...

Phương Hà
***
Các Bài Họa:

***
Chiều Mưa Thị Nại*

Nhớ cảnh Qui Nhơn dạo dưới mưa
Bờ xa sóng biển dáng chưa vừa
Đổ vô thành phố trong cơn rét
Trôi ngập con đường dưới trũng thưa
Sát cạnh yêu đương còn ái ngại
Bên nhau quí mến vẫn đong đưa
Hạt rơi rỉ rả khi chiều tới
Hai đứa trao nhìn…. kỷ niệm xưa!

Paris, 16/03/2019

Trịnh Cơ
*Thị Nại,tên bãi biển Qui Nhơn
***
Mưa Không Dứt Hạt

Một chuỗi thời gian sũng nước mưa

Sáng trưa chiều tối chảy quên vừa
Ngày không dừng lại câu hò ướt
Đêm vẫn nghe hoài tiếng sóng thưa
Có lúc thầm thì bên tai lãng
Đôi khi thổn thức bến đò đưa
Thế rồi cả tháng trời âm ẩm
Hong mãi tâm hồn chẳng ráo xưa

Hawthorne 16 - 3 - 2019.

Cao Mỵ Nhân
***

Mưa Phùng Huế

Lạnh lùng bấc tẩm tái phùn mưa
Áo mặc nhiều thêm chẳng ấm vừa
Sướt mướt hàng cây đường phố vắng
Im lìm ghế đá bóng người thưa
Sông Hương sóng nhớ âm hòa vỗ
Núi Ngự thông buồn tiếng vọng đưa
Ngày phạc phờ trông,đêm lại vẫn
Bốn bề gió rít hồng hoang xưa!

Lý Đức Quỳnh
***

Mưa Nhớ Người

Nhớ thời ra trận gặp mùa mưa
Trùm tấm poncho ấm cũng vừa
Đốt thuốc trao tay vương khói mỏng
Can giờ đổi bạn vướng cành thưa
Mơ gom kỷ niệm khi chờ đợi
Ước nhặt cuộc tình buổi đón đưa
Xối xả nước dầm đau ký ức
Mây vờn tâm tưởng vọng người xưa

Như Thị
***
Mưa Qui Nhơn

Qui Nhơn chợt nhớ những cơn mưa
Nhớ quá đi thôi nhớ chẳng vừa
Bán đảo Phương Mai ngày gió lộng
Tháp chàm Bánh Ít bụi cây thưa
Bánh bèo Sư Phạm cay the lưỡi
Rượu ấm Gió Khơi mắt thoáng đưa
Trường Nữ trưa về trong nắng hạ
Sông Côn giọng hát… tiếng Em xưa!

Montréal, 16/3/2019

Lộc Bắc
***

Mưa Kỷ Niệm

Vô tình gặp gỡ dưới làn mưa

Thềm nhỏ người đông trú chẳng vừa!
Nhanh nhẩu trao dù em khẽ đón
Rụt rè nhoẻn miệng mắt ngầm thưa
Làm quen vài phút mong trời tạnh
Trò chuyện đôi lời ngỏ ý đưa
Quê khách chừ ôn thời tuổi dại
Sao hoài nhớ mãi bóng hình xưa!!!

Như Thu
***

Mưa Sài Gòn

Kỷ niệm Sài Gòn những trận mưa
Đường sâu ngập nước vẫn chưa vừa
Bên hiên săn sóc khăn lau tặng
Dưới mái ân cần mũ mát đưa
Khép nép bên nhau,e ấp hỏi...
Rụt rè cạnh sát, ngại ngùng thưa...
Duyên trời xui khiến, từ hôm đó
Như đã thề nguyền tự kiếp xưa

Thanh Hoà
***

Mưa Ngâu

Tháng bảy mùa ngâu những giọt mưa,
Khóc bao niên kỷ vẫn chưa vừa.
Đêm trăng Chức Nữ khung tơ biếng,
Bến hẹn Ngưu Lang ô thước thưa.
Sướt mướt dù hoa tìm mái núp,
Lê thê nón lá gọi xe đưa.
Suốt ngày tầm tã mây u ám,
Câu chuyện giai kỳ sông Hán xưa.


Nguyễn Thị Mỹ Ngọc
Mar.16/2019.
***
Quê Mình

Ai từng đến Huế gặp mùa mưa
Nước đổ sông sâu mấy chẳng vừa
Vì lụt hằng năm đeo đẳng mãi
Nên người ngày tháng cứ dần thưa
Thăm em gió bão tần ngần đến
Nhớ mẹ thuyền đò biếng nhác đưa
Khí hậu quả là hơi khó ở
Bây giờ khắc khổ vẫn còn xưa


Thuyền Viễn Xứ
***
Mưa Huế

Rỉ rả chiều nay những giọt mưa
Bao ngày tầm tả cũng chưa vừa
Gió lùa Vĩ Dạ, cô em lạnh
Đò vắng Sông Hương, lữ khách thưa
Mấy nhịp Trường Tiền, mờ nhạt xóa
Tiếng chuông Thiên Mụ, lạnh lùng đưa
Trơ vơ thành quách buồn hiu quạnh
Lắng đọng sầu vương bóng cổ xưa


Thanh Trương
***
Ước

Ngoài đồng ngọn cỏ ngóng chờ mưa
Trải hạ mầm lên mộng khó vừa
Đất bỏng,lươn quằn, chân kiến rộn
Cây oằn, lá đổ, nhị hoa thưa
Đồi cao khóm trúc bơ phờ vẫy
Bãi vắng thân cò thảng thốt đưa
Hỡi gió mây dồn tuôn một trộ
Câu hò lại nối những làn xưa

Phạm Duy Lương
***

Mưa Huế Bui Ấy

Thăm Huế đoàn mình hưởng buổi mưa
Tuyệt vời , đẹp quá , ý mong vừa ...
Máy bay hạ cánh,đường khô ướt
Xe đón chào người,tiếng gọi thưa.
Nhè nhẹ hạt buông trời mát mẻ
Dịu dàng gió lướt tóc đung đưa.
Phố phường phấp phới dù xanh đỏ
Nghe nói bây giờ vượt hẳn xưa.

Trần Như Tùng
***
Mưa Chiều

Chiều chiều thường đẫm những cơn mưa
Nước đổ miên man mãi chẳng vừa
Trời đất âm u, mây quánh đặc
Mặt đường sũng sĩnh, phố lưa thưa
Lòng đây dưng nhuộm niềm u uẩn
Ai đó thầm mong kẻ đón đưa
Rả rích nao buồn hơn trấu …cắn
Lệ nhòa lại quẩn chuyện …ngày xưa..

Cao Bồi Già
17-03-2019
***
Nhớ Mưa Huế

Vô cùng nhớ Huế những chiều mưa

Kỷ niệm chao ơi kể mấy vừa
Đại Nội im lìm đường ngõ vắng
Đông Ba lặng lẽ bóng người thưa
Vân Lâu bến nước hò im tiếng
Diệu Đế chuông chùa báo vọng đưa
Góc phố hôm nao mình sánh bước
Chừ tuôn giọt lệ chuyện ngày xưa

Minh Thuý
17 tháng 3 - 2019
***
Chiều Mưa

Chiều buồn ngồi ngắm cảnh trời mưa

Gió rít từng cơn lạnh chẳng vừa
Xào xạc lá đùa màn nước mát
Âm thầm hoa giỡn bức rào thưa
Lòng dâng nỗi nhớ ngày đoàn tụ
Tâm rộn niềm thương buổi tiễn đưa
Cuối xóm âm vang gà cất tiếng
Nao nao trong dạ chuyện tình xưa.

Trần văn Hạng
***

Mưa Ban Mê

Tôi nhớ Ban Mê lúc gió mưa

Bụi tung lá cuốn biết sao vừa
Ào ào nước trút bao đường vắng
Vội vã người về những bước thưa
Sấm nổ rền vang trời chớp nhoáng
Cây nhào nghiêng ngã nhánh đong đưa
Giờ đây hạt nhẹ lăn vào kính
Nước mắt tuôn dài nhớ Bản xưa!

Thiên Hậu
***
Lụt Huế

Suốt tuần trời trút những cơn mưa,
Lụt cuốn trôi nhà khiếp chẳng vừa.
Thừa Phủ bến đò, hành khách vắng,
Đông Ba họp chợ, bạn hàng thưa.
Nước dâng nhanh chóng, đài thông báo,
Gió rít ào ào, âm vọng đưa.
Dân Huế khóc than bao thống khổ,
Thiên tai Trời giáng dữ hơn xưa.

Chánh Minh
17/3/2019
*** 
Mưa

Dai dẳng cả tuần chỉ thấy mưa
Nắng buồn trốn góc lạnh chưa vừa
Phất phơ nhánh động, đường xe vắng
Lủi thủi người đi, lối khách thưa
Lả tả giọt rơi dầm phố nhỏ
E dè bước chậm giữ chân đưa...
Miền Trung chiều xám giăng tên nước
Sương gió thiên thời... tự rất xưa.

Đặng Xuân Linh
***

Lụt Bão Miền Trung

Nghe lòng thổn thức những cơn mưa

Lụt bão miền Trung nhớ chẳng vừa
Phố thị dìu hiu trời tẻ ngắt
Thôn làng ảm đạm bóng lưa thưa
Mùa màng mất sạch vì triều cuốn
Cảnh vật tan tành bởi lốc đưa
Sóng cuộn bao người ôi! thảm quá!
Xin đừng xả đập, giống năm xưa…

Đức Hạnh
18 03 2019
***
Quê Nghèo

Gió hạ gom mây lại tạo mưa

Thủy triều lên xuống nhỏ to vừa
Rác trôi lểnh khểnh, người đi ít
Cây ngã nằm ngang, xe chạy thưa
Thầm nghĩ trần gian nhiều khổ lụy
Mong sao cõi tạm bớt sầu đưa
Quê nghèo gánh nặng bao nhiêu thứ
Từ dáng lưng thon chữ S xưa!

Phượng Hồng
***
Huế Buồn Muôn Thuở

Nhớ hoài xứ Huế những ngày mưa
Lụt lội khô ran như mới vừa
Xót vợ khó nghèo ăn sắn hẩm
Thương chồng giá rét đắp chăn thưa
Thời nay khấm khá hay làm bộ
Buổi ấy cơ hàn ít đãi đưa
Khắc nghiệt quê nhà không thuận tiết
Dân tình cam chịu chẳng hơn xưa 

Hữu Hảo
***

Nha Trang

Nha Thành lắm lúc đợi cơn mưa

Để hưởng trời trong nhiệt độ vừa
Khách đến tham quan càng tấp nập
Người vào thưởng ngoạn chẳng hề thưa
Trên đường bách bộ tay cầm nắm
Dưới nước bơi thuyền lướt sóng đưa
Chuẩn bị chào mừng du lịch biển
Năm này chắc hẵn sẽ hơn xưa

Hoàng Từ
***
Một Kỷ Niệm Buồn

Có tiếc bao nhiêu cũng chẳng vừa
Bóng người đã khuất giữa màn mưa
Niềm thương dào dạt...giòng châu chảy
Nỗi nhớ đong đầy ...tiếng gió đưa
Thềm vắng...càng đau hồn đá lạnh
Song buồn ...thêm nhạt sắc rèm thưa
Cố nhân đi mãi không về nữa
Để ánh trăng chờ nơi bến xưa! 

Thy Lệ Trang
***
Mưa Ngâu

Vợ chồng Ngâu khóc mãi mùa mưa
Nước đổ bao nhiêu vẫn chẳng vừa
Lã chã châu rơi trên phố vắng
Sụt sùi Lệ chảy dưới song thưa
Ngưu Lang bến bắc không ai đón
Chức Nữ bờ nam thiếu kẻ đưa
Tháng bẩy âm u buồn ảm đạm
Trời già ghen sắc thắm từ xưa

Lạc Thủy Đỗ Quý Bái

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2019

Thơ Tranh: Mê Mải Thu


Thơ & Thơ Tranh:Kim Oanh


Sắc Lụa Vàng Thu


Bài Xướng:
Sắc Lụa Vàng Thu


Sắc lụa vàng thu đẹp não nùng
Hoàng thiên khéo tặng món quà chung
Lung linh gió sớm tươi màu biếc
Bảng lảng mây chiều đậm nét nhung
Mấy dặm quan hà nghiêng cánh nhạn
Bao lần bão tố vững thân tùng
Rượu ngon nhắp chén Hoàng Hoa Tửu
Cảm tạ hồng ân chốn cửu trùng

Nguyễn Đức Cung

Philadelphia mùa Thu 2011
***
Bài Họa:
Thu Vàng Sắc Lụa


Nét đẹp nghìn năm chốn Nhị Nùng
Theo đường Nam tiến dệt tình chung
Đơn sơ, chẳng thẹn cùng vương giả
Duyên dáng, không màng với gấm nhung
Một sắc thu vàng thêm thắm lụa
Bao mùa đông xám vẫn xanh tùng
Heo may thoáng nhẹ trên tà áo
Lay động hồn ai giữa vạn trùng

Nguyễn Kinh Bắc
Philadelphia mùa Thu 2011

Sang Mùa


Bài Xướng:

Sang Mùa


Trời chuyển sang mùa lá biếc ơi
Vàng thay rực sắc cả chân trời
Sao không trả lại mùa thu cũ
Và cả người chung nhặt lá rơi

Đã mấy thu qua vẫn kiếm tìm
Một hình bóng cũ giấu trong tim
Bao mùa thu chết thu đà chết
Người hỡi phương nào mãi lặng im

Lờ lững từng không những tháng ngày
Mùa hơi thở ấm lá vàng bay
Đàn đâu dạo khúc thu xưa ấy
Tan nát cõi lòng lẫn đắng cay

Kim Phượng
***
Bài Họa:

Mùa Thu Chết


Hỡi người năm ấy đáng yêu ơi
Thu xưa đã khuất khỏi chân trời
Lối cũ vàng phai không dấu vết
Sao người vẫn nhặt lá thu rơi?

Bóng dáng ngày xưa rất dễ tìm
Thiên thu chờ đợi mãi trong tim
Thời gian không thể làm quên hết
Lần cuối nhìn nhau đứng lặng im

Như ánh hoàng hôn lúc cuối ngày
Tình ta theo gió cuốn mây bay
Nhưng luôn để lại niềm đau đớn
Cho người yêu cũ mắt mi cay.

ChinhNguyen/H.N.T.
Mar.3.2
***
Tình Thu

Tình Thu tha thiết lắm Thu ơi
Rực rỡ rừng phong đẹp ngất trời
Ngàn tía muôn hồng chen lá biếc
Vàng gieo lác đác cánh hoa rơi

Sương mù che phủ biết đâu tìm
Yêu dấu từng lay động nhịp tim
Thuyền mộng trăng chìm in đáy nước
Mái chèo khua nhẹ mặt hồ im

Ôi mùa Thu cũ đã bao ngày
Én nhạn lưng trời chắp cánh bay
Ai có ngờ đâu tan tác mộng
Chia lìa đôi ngả mới chua cay!

Hồ Công Tâm
***
Sang Mùa

Sang thu bên ấy lá vàng rơi
Để hạ về quê nhuộm đỏ trời
Nhặt cánh hoa lòng trang sách cũ
Nhớ người nhớ cả cánh diều rơi

Tìm ai ai biết mãi mê tìm
Bạc dấu phong trần một trái tim
Thay lá bao mùa thu chửa chết
Cửa lòng mở rộng lẽ nào im.

Năm năm tháng tháng lại qua ngày
Ta đợi tơ trời lượn gió bay
Đuổi bắt hồn nhiên như thuở ấy
Thèm ôm một chút vị nồng cay.

Cao Linh Tử
12/3/2019
***
Mùa Thương Nhớ


Nhung nhớ lên màu nhung nhớ ơi!
Mắt em xanh biếc nhạt màu trời
Tương tư nhóm lửa tình xa vắng
Hoa lá ngỡ ngàng đêm rụng rơi

Hình ảnh người xưa anh dõi tìm
Hương màu tan tác lệ hoen tim
Giấc hồ phiêu lãng trăng huyền thoại
Biển đón tà dương con sóng im

Quạnh hiu cay đắng những bao ngày
Kỷ niệm một thời mây trắng bay
Giây phút bồi hồi cơn gió thoảng
Chén quỳnh anh nhấp đượm men cay

Nguyên Trần
Toronto 12/3/2019
***
Giao Mùa

Vàng bay chất đống lá thu ơi...!
Mống đẹp vòng cung ở cuối trời
Nhớ mãi ngôi trường xưa Đệ Nhất
Bồi hồi bạn cũ bóng chiều rơi...

Bao mùa lá rụng đã đi tìm
Hình bóng người xưa giấu giữa tim
Thầm lặng đơn phương mà vẫn nhớ
Ai hay biệt tích cớ sao im...

Thoi đưa năm, tháng biết bao ngày
Sương khói lạnh lùng lá rụng bay
Nhạc khúc du dương thu tạm biệt
Lòng ta lịm chết nếm chua cay...(!)

Mai Xuân Thanh

Ngày 27/03/2019
***
Cảm Tác:

Đêm Thu

Một mình
Lặng lẽ với đêm thu
Nỗi nhớ trào dâng
Đến mịt mù
Đêm thu hiu hắt...
Càng hiu hắt...
Nghe gió Thu về...
Buốt lá Thu...

dovaden2010 (DVD)




Đất Phương Nam 1- Từ Kas Krobei-Prei Nokor Đến Bến Nghé-Sài Gòn Và Chợ Lớn (Phần 4)


Từ Kas Krobei-Prei Nokor Đến Phủ Tân Bình: 

Mãi đến hậu bán thế kỷ thứ XVIII, thì vùng Cù Lao Phố vẫn còn là một giang cảng rất quan trọng của cả Miền Nam. Tuy nhiên, Cù Lao Phố là một giang cảng nằm sâu trong đất liền, cách bờ biển khoảng trên 100 cây số. Thời đó sở dĩ nó có được vị trí thuận lợi là vì nó là khu thương mại đầu mối, vì từ đó người ta có thể dự trữ và đưa nông lâm sản đi các nơi khác rất dễ dàng. Tuy nhiên, đến khi vùng miền Tây Nam Phần được khai phá và trải qua bao cuộc bể dâu thì Giản Phố bị tàn phá không còn xây dựng lại được nữa. 

Năm 1747, một thương gia người Phước Kiến tên Lý văn Quang nổi lên mong biến vùng nầy thành một khu tự trị của người Hoa; rồi tiếp theo đó là đại quân Tây Sơn vào đánh chiếm và thiêu hủy toàn bộ Giản Phố. Người ta phải dời vùng đất trung tâm về một nơi gần miền tây hơn, chính vì vậy mà khu Bến Nghé-Sài Gòn được chọn và đồng thời vùng Nông Nại bị lãng quên một cách nhanh chóng hơn. Bên cạnh đó, do công cuộc khai khẩn ruộng đất của lưu dân người Việt nên vào khoảng thế kỷ thứ XVIII, nghĩa là không đầy một thế kỷ sau đó cả một vùng rừng rậm hoang vu Prei Nokor đã biến thành một trung tâm sản xuất nông nghiệp và buôn bán phồn thịnh. Thêm vào đó, từ sau năm 1788 khi thành Gia Định (thành Qui) được xây dựng thì vùng Bến Nghé đã một sớm một chiều biến thành xứ thành thị vì Thành Qui rất thuận tiện, trên chợ dưới bến nên người thời đó còn gọi là chợ Bến Thành với cả một dãy dinh thự, kho lẫm, xưởng đóng ghe thuyền và tàu chiến. Đồng thời, hệ thống đường sá và phố chợ được xây dựng rất qui mô. Đây là khu chợ Bến Thành Cũ, chứ không phải là chợ Bến Thành ngày nay(48). 
Chẳng bao lâu sau cả vùng hoang vu Bến Nghé-Sài Gòn, tức là vùng Sài Gòn-Chợ Lớn ngày nay đã nhanh chóng trở thành trung tâm chính trị và kinh tế cho cả vùng miền Nam. Trong câu thứ hai của bài “Phú Cổ Gia Định” có nói rất rõ là ‘Kim Thành’, tức Thành Quy được xây tám hướng: càn khảm cấn chấn tốn ly khôn đoài(49). 

Thời đó Prei Nokor đã trở thành phủ Tân Bình, một vùng đất bao la bạt ngàn gồm 4 huyện, 8 tổng và 460 xã. Các huyện gồm huyện Bình Dương có 2 tổng là tổng Bình Trị và tổng Dương Hòa, huyện Tân Long có 2 tổng là tổng Tân Phong và tổng Long Hưng, huyện Phước Lộc có 2 tổng là tổng Phước Điền và tổng Lộc Thành, và huyện Thuận An có 2 tổng là tổng Bình Cách và tổng Thuận Đạo. Mặc dầu đất đai vùng nầy không tốt bằng đất đai các vùng Mỹ Tho, Long Hồ (Vĩnh Long và Bến Tre), Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Bạc Liêu), nhưng tiếng tăm của nó vẫn còn vang vọng đến ngày nay: “Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai.” Vào đầu thế kỷ thứ 19, hầu như đa phần các vùng đất chuyên canh đã được định hình tại các vùng trực thuộc phủ Tân Bình, như các vùng Hanh Thông (thuộc quận Gò Vấp) và Hanh Phú (nay là xã An Phú Đông) đã từng nổi tiếng là những xứ trồng cau của dinh Phiên Trấn. Người dân địa phương đã có kỹ thuật lấy hột cau thật nhanh và thật gọn bằng cách cứ để cho cau già và khô trên cây, rồi bóc lấy hột đem xuất cảng sang Trung Hoa và Tân Gia Ba. 

Tại Trung Chánh và Tân Thới Trung thuộc huyện Hóc Môn là hai nơi trồng trầu nhiều nhất trong xứ Gia Định. Vào đầu thế kỷ thứ XVIII thì vùng 18 thôn vườn trầu đã có nhiều cư dân hơn tất cả các vùng khác. Theo Gia Định Thành Thông Chí thì dân ở đây đều có sản nghiệp về trầu và cau. Ngày ngày đều có từng đoàn người gánh trầu và cau xuống bán ở chợ Sài Gòn và chợ Bến Nghé. Ngoài ra, từ giữa thế kỷ thứ XVIII, toàn vùng trực thuộc phủ Tân Bình như các vùng phía bắc và đông bắc của Sài Gòn Gia Định ngày nay, bao gồm Gò Vấp, Hanh Thông, Giồng Ông Tố, Phú Thọ, Hóc Môn, chạy dài lên Trảng Bàng, Khê Lăng, vân vân đã trở thành những vùng đứng đầu về sản xuất nông nghiệp, nhứt là trong canh tác lúa nước. 

Nhờ tọa lạc trên một vị trí hết sức thuận tiện nên bộ mặt của Phủ Tân Bình từ cuối thế kỷ thứ XVIII, đầu thế kỷ thứ XIX luôn thay đổi theo chiều hướng đi lên về cả thương mại lẫn nông nghiệp. Lúc đó J.B. Chaigneau đã có nhận xét như sau về Sài Gòn Gia Định: “Vùng nầy được chia làm hai vùng sản xuất nông nghiệp một cách rõ rệt: vùng cao sản xuất đường, vải, bắp; vùng thấp sản xuất gạo.” Song song với việc phát triển về nông nghiệp và thương mại, các chúa Nguyễn còn cố gắng thiết lập làng xã, thôn xóm, cũng như biến những khu vừa định cư xong thành những khu với sắc thái văn hóa riêng biệt cho người Việt. Mặc dầu không mang tánh chuyên môn như tại trung tâm Hà Nội có các hàng phố rất đặc biệt, những khu xóm tại phủ Tân Bình thời bấy giờ cũng tập hợp được nhiều người làm chung ngành nghề như các khu “Cầu Muối” là nơi buôn bán muối, “Cầu Kho” là nơi tàng trữ chứa đựng hàng hóa chờ được phân phối đi các nơi. Những nơi khác có tên “Xóm Lá” là nơi buôn bán lá lợp nhà, “Xóm Cốm” là nơi tập hợp những nhà làm cốm, “Xóm Chỉ” là nơi sản xuất chỉ sợi, “Xóm Bột” là nơi tập hợp những nhà làm đủ các loại bột, “Xóm Lò Siêu” là nơi sản xuất đủ loại nồi, siêu và ấm nước, “Xóm Chiếu” là nơi sản xuất đủ các loại chiếu, “Xóm Dầu” là nơi sản xuất đủ các loại dầu ăn, như dầu phụng, dầu mè, dầu dừa..., “Xóm Lò Vôi” chuyên làm vôi, “Xóm Câu” là nơi tập hợp những ngư phủ trong vùng, “Xóm Than” là nơi tụ họp các vựa than cho toàn vùng, “Xóm Đệm Buồm” là nơi sản xuất tất cả những loại đệm và buồm cho toàn vùng, “Xóm Lò Rèn” là nơi rèn đúc dao búa và cung tên giáo mác, “Xóm Lò Gốm” là nơi sản xuất những đồ gốm sứ, vân vân. Trong khi phủ Tân Bình và các vùng phụ cận đang phát triển, nhưng chưa được nổi bật thì cùng lúc ấy các trung tâm thương mại khác cũng đang được thành hình như khu Cù Lao Phố, khu Mỹ Tho Đại Phố và khu Cảng Hà Tiên, vân vân. Ngay từ thập niên 1880s, Cù Lao Phố đã chứng tỏ vị trí quan trọng của nó sau khi nhóm di thần nhà Minh là Trần Thượng Xuyên đến đây lập nghiệp. Những người Minh hương nầy đã biến Cù Lao Phố thành một trung tâm thương mại quan trọng vào bậc nhất của miền Nam thời đó với cảnh phố thị phồn vinh, khu thương mại tấp nập, và giao thương với người Hoa, người Nhật cũng như với người Tây phương. 

Cùng thời với Trần Thượng Xuyên ở Cù Lao Phố, phía Meso, Dương Ngạn Địch cho lập Mỹ Tho Đại Phố và phát triển không kém gì Cù Lao Phố. Và tại nơi tận cùng của miền Tây lúc đó Mạc Cửu đã hoàn thành việc phát triển cảng Hà Tiên, nhưng mãi đến thập niên 1830s thì cảng Hà Tiên mới thật sự trở thành một vùng trù phú với ghe tàu buôn bán tấp nập. Như vậy trong suốt quá trình Nam tiến của người Việt Nam, vùng Sài Gòn Gia Định và phủ Tân Bình nói riêng đã phải cạnh tranh một cách mãnh liệt với các trung tâm thương mại đương thời để cuối cùng chiếm lấy vị trí hàng đầu như ngày nay. 

Sở dĩ vùng Tân Bình nhanh chóng trở thành một trung tâm phồn thịnh của xứ Đàng Trong vì nó không xa biển như Cù Lao Phố và Mỹ Tho Đại Phố, nó ít khi bị người Xiêm đến quấy phá như ở Hà Tiên. Hơn nữa, ngay sau khi Cù Lao Phố bị tàn phá vào hậu bán thế kỷ thứ XVIII trong những trận ác chiến giữa quân Tây Sơn và nguyễn Ánh, cũng là một yếu tố quan trọng để vùng Sài Gòn Gia Định nhanh chóng biến thành một trung tâm thương mại sầm uất. Bên cạnh đó thương cảng Sài Gòn rất thuận tiện cho tàu bè ngoại quốc vào cập bến, với cửa biển Cần Giờ rộng và đủ sâu cho tàu bè đủ cỡ. Theo Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Sài Gòn là cảng sâu, rộng và yên ổn, thường ngày có thuyền buôn ra vào, làm chỗ hải hội rất đông đúc cho thành Gia Định, không đâu sánh được. Thật vậy, từ khi Dinh Phiên Trấn và phủ Gia Định ra đời vào năm 1698 thì vùng Tân Bình (Sài Gòn) và Gia Định đã nhanh chóng biến thành một trung tâm phố thị có mức phát triển tốt hơn cả Hà Nội và Phú Xuân vì ngay từ buổi đầu trung tâm Sài Gòn-Gia Định đã có một ưu thế mà cả Thăng Long lẫn Phú Xuân đều không có, đó là sự thông thương của nó với các vùng phụ cận và miền Tây bởi các con sông Tiền, sông Hậu, kinh Bảo Định (1765), kinh Ruột Ngựa (1772), rạch mới sông Tranh (1786), và rạch Vàm Bến Nghé, vân vân. 

Cuối cùng lịch sử phát triển đã cho thấy Sài Gòn-Gia Định luôn vươn lên và luôn nắm giữ vị trí chủ yếu trong nền ngoại thương của cả nước. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí đã mô tả chợ Bến Nghé với cảnh phố xá đông đúc, chợ Sài Gòn (tức Chợ Lớn ngày nay) với cảnh nhà cửa liền thềm với nhau, và đủ các sắc dân cùng nhau sinh sống liên tiếp đến 3 dặm. Ngoài ra, còn có rất nhiều chợ khác như chợ Bình An, chợ Bến Thành (sau nầy biến thành một trong những ngôi chợ trọng yếu vào bật nhất của Sài Gòn), chợ Nguyễn Thực (1727), chợ Điều Khiển, chợ Bến Sỏi, chợ Thị Nghè, chợ Tân Cảng, chợ Cây Đa Còm, và chợ Phú Lâm, vân vân. Vào cuối thế kỷ thứ XVIII thì người tây phương không còn xa lạ gì với vùng Sài Gòn Gia Định vì trên đường đi từ Âu Châu đến Mã Lai, Tân Gia Ba, rồi qua Ma Cao, và Hướng Cảng... họ luôn ghé Sài Gòn để mua hai loại sản phẩm chính yếu thời đó là gạo và đường để đổi lấy khí giới với Tây phương. 

Năm 1800, đời vua Tây Sơn Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản thứ 8, nhà vua cho đổi phủ Gia Định ra làm Trấn Gia Định. Đến khi Gia Long lên ngôi vào năm 1802, ông đã đặc biệt chú trọng đến việc phát triển thương mại trong thành Gia Định vì nguồn tài chánh của thành nầy đã đóng góp một phần rất lớn trong ngân quỹ của quốc gia. Sau năm 1802, Gia Định không còn là ‘Kinh Gia Định’ như thời Gia Long còn bôn tẩu nữa, nhưng Sài Gòn lúc nào cũng là trung tâm của cả miền Nam. Vì vị trí đặc biệt của nó, nên vua Gia Long đã trao cho viên Tổng trấn Gia Định một quyền hạn rất lớn. Về hình thức chánh quyền, Gia Định có hình thức của một triều đình thu nhỏ, điều mà không một chế độ quân chủ nào chấp nhận. Tuy nhiên, lúc mới lên ngôi, mọi việc chưa được ổn định, nên vua Gia Long đành phải chấp nhận phân quyền theo kiểu nầy. Lúc đó thành Gia Định thống lãnh 5 trấn(50), bao gồm toàn cõi miền Nam. Nhưng như chúng ta đã thấy sau nầy, ngay khi đức Tả quân Lê văn Duyệt vừa qua đời, là vua Minh Mạng bãi bỏ ngay cái tình trạng ‘triều đình thu nhỏ’ nầy tại Gia Định. 

Năm 1808, vua Gia Long cho đổi trấn Gia Định ra Thành Gia Định, bổ nhiệm Khâm Chưởng Chấn Nhơn Quận Công Nguyễn văn Nhơn làm Tổng Trấn, và Khâm Thượng Thư bộ Hộ An Toàn Hầu Trịnh Hoài Đức làm Hiệp Tổng Trấn(51), cho đúc ấn bạc có núm hình sư tử và cho dùng mực son để đóng dấu. Mô thức chánh quyền Thành Gia Định cũng giống như một chính quyền trung ương thu nhỏ, cũng có Tam Tào(52) và Tam Phòng(53). Lúc đó trấn thành đóng tại huyện Bình Dương thuộc phủ Tân Bình. Hồi nầy huyện Tân Bình vừa mới được nâng lên làm phủ Tân Bình, gồm 4 huyện: Bình Dương(54), Tân Long(55), Thuận An và Phước Lộc, những huyện nầy cũng vừa được nâng từ tổng lên làm huyện. Tuy danh xưng có thay đổi, song Sài Gòn vẫn là lỵ sở của cả thành Gia Định và Phiên An trấn. Năm 1808, dầu vua Gia Long đã cho nâng các huyện Tân Bình, Định Viễn, Phước Long, và Kiến An lên làm phủ, nhưng không bổ nhiệm quan Tri phủ; mãi đến năm Minh Mạng thứ 3 (1822), nhà vua mới bổ nhiệm các ông Hà Tôn Quyền làm Tri phủ Tân Bình, Phan Hiển Tánh làm Tri phủ Định Viễn, Võ Đức Khuê làm Tri phủ Phước Long, và Phan Bá Đạt làm Tri phủ Kiến An. Năm 1810, vua Gia Long cho đổi chức quan Lưu trấn ra Trấn phủ;năm 1813, nhà vua bắt đầu đặt chức tri huyện ở các huyện trong Gia Định Thành. 

Vào năm 1820, tức là năm đầu đời Minh Mạng, tổng trấn Gia Định Thành là đức tả quân Lê văn Duyệt đã cho mở cửa thương cảng Sài Gòn và hàng loạt tàu bè Tây phương đã cập bến Sài Gòn, trong đó có những thương thuyền của người Mỹ đã ghé lại đây mua đường và nhiều nông phẩm khác. Phải thành thật mà nói, sự phát triển vượt bực của phủ Tân Bình cũng như vùng Sài Gòn-Gia Định đa phần là nhờ ở những người Minh hương. Họ đã đến đây từ giữa thế kỷ thứ XVII và họ đã liên kết với nhau thành những bang hội rất có thế lực. Chính họ là những chủ vựa đóng vai trò rất quan trọng việc phân phối hàng hóa từ các nơi đưa về Sài Gòn-Gia Định. Thêm vào đó, dưới thời nhà Nguyễn, vua chúa nhà Nguyễn đã tuyệt cấm người Việt Nam đóng ghe tàu biển nhằm buôn bán với người ngoại quốc, nhưng triều đình chẳng những không cấm đoán người Hoa mà còn khuyến khích và hỗ trợ họ trong việc nầy. 

Ngoài ra, Hoa kiều còn được phép thu mua gỗ quý, gạo và đường để phân phối các nơi. Mãi cho đến ngày nay vẫn chưa có nghiên cứu chính xác nào về những nguyên nhân khiến các vua nhà Nguyễn không cho phép người Việt Nam hoạt động trong những lãnh vựa quan trọng nầy mà chỉ cho phép người Hoa. Có thể các vua nhà Nguyễn cho rằng người Hoa rất giỏi về thương mại nên khi cho phép họ làm những việc thương mại lớn lao nầy các ngài sẽ thu về một số tiền thuế lớn lao. Tuy nhiên, chính những chánh sách ưu đãi Hoa kiều nầy đã chẳng những chặn đứng bước phát triển của các thương nhân Việt Nam mà hậu quả của nó đã làm tê liệt toàn bộ thương nhân Việt Nam mãi cho đến ngày hôm nay. Dầu thế nào đi nữa, nhân dân Gia Định Thành dưới thời Tổng Trấn Lê văn Duyệt cũng đã an hưởng thái bình thạnh trị một thời. Đức Tả Quân Lê văn Duyệt đã áp dụng chính sách cởi mở về thương mại nên kinh tế vùng Gia Định thời đó phát triển rất nhanh. Ngài đã khuyến khích tàu bè ngoại quốc đến giao thương với thành Gia Định với những qui chế hết sức dễ dãi. Chính nhờ vậy mà dân chúng miền Nam thời đó được an cư lạc nghiệp.

Người Long Hồ
Anaheim ngày 3 tháng 8 năm 2011
Copyright © 2012 by Ngoc Tran. All rights reserved.
Links xem tiếp:

C- 

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2019

Tình Mười Lăm - Thơ Thy Lệ Trang - Nhạc Cao Ngọc Dung - Tiếng Hát Kyra Nguyên


Thơ: Thy Lệ Trang
Nhạc: Cao Ngọc Dung
Tiếng Hát: Kyra Nguyên

Bồ Tát Viên Thông



Bốn mùa lặt lá ven đường
Vẫn cơn gió dệt cát tường như xuân
Bi nguyện cứu khổ hồng trần
Mẹ vô sở trụ hiện thân vô cùng

Hạ nồng chưa hẳn tương phùng
Chiến tranh- dịch bệnh mở đường trầm luân
Hằng thắng bỉ thế gian âm
Tình thương ban rải thậm thâm đường trần

Thu phai chưa hẳn úa tàn
Lá vàng rụng để mầm mơn mởn về
Dẫu đời trôi nổi tung hê
Tâm không quái ngại đến về thảnh thơi

Đông chà rét quất tả tơi
Bờ tre gió rúc cứa rời rụng đau
Đàn trâu ớn cỏ héo sầu
Người lẩy bẩy đợi ga nào bình yên

Từ quán tịch tịnh trạm nhiên
Diệu trí thường chiếu Mẹ viên thông về
Thường soi sáng nẻo đường quê
Quán chơn tánh mọc bồ đề khai hoa

Thanh tịnh quán cõi ta bà
Hải triều quảng đại maha đại từ
Mùa vạn hạnh - lạc vô dư
Măt thương* vọng mãi sóng từ diệu âm

Như Thi- Lê Đăng Mành

* Từ nhãn thị chúng sanh
***
Các Bài Họa:
Ngày Kỷ Niệm Bồ Tát Đản Sanh
 
Tôi thờ thẫn dạo trên đường
Thư nhàn bức rộng ngắm tường sắc Xuân
Nghĩ thương về Mẹ dương trần
Rồi cầu Bồ Tát hiện thân độ cùng

Hạ hanh chưa chắc trùng phùng
Trần ai lắm nỗi khắp vùng trầm luân
Dương gian bể khổ mê tân
Nước nhành dương rưới, thậm thâm độ trần

Tiết thời lá đổi chi tàn
Sắc vàng lá ngự vào trang Thu về
Vòng đời chìm nổi ê hê
Không nghe không thấy...đi về thảnh thơi

Đông hàn rét thấm dạ tơi
Lá tre vẫy phất biệt rời thương đau
Trong thời vạn vật chín sầu
Chờ chờ, đợi đợi ga nào là yên?

Im lìm quán tịnh thiên nhiên
Quan Âm cứu độ viễn thông chiếu về
Toà Sen Mẹ toạ làm quê
Sáng soi người thiện huệ kề tâm hoa

Bồ đề khai mở ta bà
Diệu minh trong suốt thiết tha đại từ
Bốn mùa ban phúc vô ưu
Dưới trần luồn tưởng sóng từ diệu âm.

Đặng Xuân Linh
***
Ngộ Đạo Chân Tu

Tầm sư học đạo lên đường
Từng cơn gió thoảng như dường hơi Xuân
Từ nay xa lánh bụi trần
Về bên Bồ Tát,bỏ thân khốn cùng

Mừng người giác ngộ tương phùng
Hữu duyên gặp “Mẹ”,rời vùng trầm luân
NAM MÔ BỒ TÁT QUÁN ÂM
Con đường chánh giác ,thậm thâm thoát trần

Lá vàng đâu hẳn phai tàn
Rụng đi để lúc Thu sang mầm về
Lòng trần thoát tục hả hê
Quên đi lục dục,đường về thới thơi

Đông hàn tuyết đổ lạnh tơi
Xác phàm hứng chịu rối bời niềm đau
Lại còn vương vấn ưu sầu
Tìm đâu chổ dựa,chốn nào được yên ?

Chỉ nơi Tịnh Độ thiên nhiên
QUÁN ÂM BỒ TÁT ,Mẹ viên dẫn về
Một lòng sám hối chân quê
Từ đây nhận chuổi Bồ Đề điểm hoa

Rời xa cõi tục Ta Bà
Ni cô Khánh Thiện nhận ra nhãn từ
“Từ Vân Liễu” nguyện vô ưu
Xin lòng ngộ đạo,chân tu theo người

songquang
3/25/2019 tức 19 tháng 2
***
Niềm Tin

Nhặt từng hạt nắng bên đường
Ngắm nhìn hoa nở tỏ tường đầu xuân
Khắp nơi tươi sáng cảnh trần
Ngày vía Bồ Tát đem thân lạy cùng

Hạ hồng mấy cuộc trùng phùng
Nghiệp vương đã muốn tìm đường chuyển luân
Mẹ hiền Bồ Tát Quan Âm
Cúi đầu đánh lễ lạm thâm nghiệp trần

Thu rơi lá rụng điêu tàn
Và hồi sinh lại mọc xênh xang về
Cho dù lắm chuyện ê chề
Muốn quay lưng bước bên lề lơi thơi

Đông đầy gió bão sầu tơi
Bao hoàn cảnh đến không rời khổ đau
Nhân sinh nặng chứa nỗi sầu
Hoang mang cuộc sống nơi nào mới yên

Tìm ra cỏi tịnh an nhiên
“ Tầm thinh cứu khổ “ mãn viên đường về
Trần gian ngài xuống mọi quê
Độ người lương thiện đề huề nở hoa

Chúng sanh thị hiện Phật Bà
Người người khai trí thiết tha nguyện từ
Về miền tịnh lạc tiêu dư
Hồng trần bỏ lại tâm thiền pháp âm 

Minh Thuý
26/3/2019

Tiết Phụ Ngâm 節婦吟 - Trương Tịch


節婦吟

君知妾有夫,
贈妾雙明珠。
感君纏綿意,
繫在紅羅襦。
妾家高樓連苑起,
良人執戟明光裡。
知君用心如日月,
事夫誓擬同生死。
還君明珠雙淚垂,
恨不相逢未嫁時。

張籍

Tiết Phụ Ngâm*

Quân tri thiếp hữu phu,
Tặng thiếp song minh châu.
Cảm quân triền miên ý,
Hệ tại hồng la nhu.
Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi,
Lương nhân chấp kích Minh Quang lý.
Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt,
Sự phụ thệ nghĩ đồng sinh tử.
Hoàn quân minh châu song lệ thuỳ,
Hận bất tương phùng vị giá thì.

Trương Tịch
*Thơ cổ phong, thời Trung Đường
***
Dịch nghĩa:
Khúc Ngâm Của Tiết Phụ

Chàng biết em đã có chồng
Tặng em đôi hạt châu sáng
Cảm động trước tình đeo đẳng của chàng
Em buộc vào áo lụa hồng
Nhà em có lầu cao bên vườn hoa
Chồng em cầm kích túc trực trong điện Minh Quang
Vẫn biết lòng chàng trong sáng như mặt trời, mặt trăng
(Nhưng) em đã thề cùng sống chết với chồng
Trả lại chàng hạt châu sáng, hai hàng nước mắt ròng ròng
Ân hận rằng không thể gặp nhau lúc chưa chồng.

Dịch bằng thơ:

Khúc Ngâm Của Tiết Phụ

Chàng hay em có chồng rồi,
Yêu em chàng tặng một đôi ngọc lành.
Vấn vương những mối cảm tình,
Em đeo trong áo lót mình màu sen.
Nhà em vườn ngự kề bên,
Chồng em cầm kích trong đền Minh Quang.
Như gương, vâng biết lòng chàng,
Thờ chồng, quyết chẳng phụ phàng thề xưa.
Trả ngọc chàng, lệ như mưa,
Giận không gặp gỡ khi chưa có chồng.

Ngô Tất Tố
***
Thơ cảm tác
Tình Lỡ

Biết chân em vướng chỉ hồng
Tơ tình anh vẫn tỏ lòng cùng ai
Động lòng đeo đẳng dằn dai
Hồn quay về lại những ngày xa xăm
Vườn nhà hoa thắm hằng năm
Duyên chồng nghĩa vợ đã thâm sâu rồi
Dù tình người sáng rạng ngời
Tôi xin sống hết một đời phu thê
Lệ rưng trả lại cơn mê
Kiếp sau hẹn gặp ... xin thề cùng nhau!

Anh Tú
March 15. 2019

Thiết Mộc Lan



Gỗ sắt thông linh trổ búp ngà!
Thiên Hương tỏa ngát khắp gần xa:
Trà Mi khó sánh bề phong nhã!
Thược Dược đành thua vẻ thướt tha ...
Phú quý tin lành đem tận cửa
Tài danh điềm tốt nở cùng nhà.
Mười phương tú khí về quy tụ
Khiến Thiết Mộc Lan sớm nẩy hoa 


Lạc Thủy Ðỗ Quý Bái
***
Thiết Mộc Lan

Giữ thắm màu xanh dấu ngọc ngà
Vững vàng sắt gỗ tiếng bung xa.
Đất màu cằn cỗi không thèm lụi
Mưa nắng phũ phàng cũng phải tha.
Dáng vẻ phong sương đâu kém bách
Tâm tư trong sáng giúp vang nhà.
Thiên hương ngưng tụ trao trần thế
Thơm ngát dài dài dịp trổ hoa .

Trần Như Tùng



Đất Phương Nam 1- Từ Kas Krobei-Prei Nokor Đến Bến Nghé-Sài Gòn Và Chợ Lớn (Phần 3)


Từ Kas Krobei-Prei Nokor Đến Phủ Tân Bình: 

Năm 1708, Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên, chúa Nguyễn chỉ nhận trên danh nghĩa, nhưng vẫn để cho dòng họ Mạc trấn giữ đất Hà Tiên. Mùa Đông năm 1735, đời Lê Cảnh Hưng thứ 14, triều đình xứ Đàng Trong sai Cai Đội Thiện Chánh Hầu làm Thống Suất, Ký Lục Nghi Biểu Hầu Nguyễn Cư Trinh làm Tham Mưu điều khiển tướng sĩ 5 dinh(43) đi kinh lược đất Cao Miên, quan quân đồn trú ở xứ Bến Nghé, lập nên dinh trại, gọi tên là Đồn Dinh(44), lo luyện tập binh sĩ tính kế mở mang vùng biên địa. 

Năm 1753, nhân cơ hội vua Chân Lạp là Nặc Ong Nguyên lấn hiếp người Côn Man, chúa Nguyễn bèn sai Nguyễn Cư Trinh dẫn binh 5 dinh(43) họp binh tại Bến Nghé(45), để lo dàn xếp và lãnh lệnh chúa Nguyễn ở lại tiếp tục khai khẩn đất hoang và lập khu dinh điền mới. Năm 1754, quân Gia Định chia làm hai đạo, Nghi Biểu Hầu đem kỳ binh từ sông Bát Đông tiến phát, quân Nam đi đến đâu quân Chân Lạp thua đến đó. Sau đó quân của Nghi Biểu Hầu hợp cùng với binh của Thiện Chánh Hầu tại vùng Tiền Giang. 

Năm 1756, vua Chân Lạp là Nặc Ong Nguyên xin nhượng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp cho xứ Đàng Trong để tạ tội, đồng thời xin cống nạp lễ vật còn thiếu ba năm trước đó. Từ đó coi như phần lớn đất đai của xứ Thủy Chân Lạp đã nằm dưới sự kiểm soát của Việt Nam. Trong khi đó Mạc Cửu và con là Mạc Thiên Tứ tiếp tục khai khẩn những vùng Hà Tiên, Phú Quốc, Long Xuyên (Cà Mau), Rạch Giá, Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (Sóc Trăng và Bạc Liêu). Năm 1755, tại vùng Gia Định các ông Trịnh Hoài Đức, Ngô nhơn Tịnh và Lê quang Định cũng lập ra thi xã, thắp sáng ngọn đuốc văn hiến nơi góc trời cực Nam của tổ quốc. Năm 1757, Nặc Ong Nguyên băng hà, chú của Nặc Nguyên là Nặc Ong Nhuận dâng thêm các phủ Trà Vang và Ba Thắc để được chúa Nguyễn phê chuẩn cho lên ngôi. 

Đến năm 1776, vùng Cù Lao Phố và toàn vùng Prei Nokor đã phát triển trên một qui mô rộng lớn, sinh hoạt thời nầy được Lê Quí Đôn ghi lại trong Phủ Biên Tạp Lục như sau: “Ở mỗi địa phương, mỗi nơi có từ 40 đến 50 hoặc từ 20 đến 30 nhà giàu. Mỗi nhà có từ 50 đến 60 người giúp việc ruộng rẫy, từ 300 đến 400 trâu bò, cày bừa gặt cấy rất rộn ràng. Gạo được bán ra Phú Xuân để đổi lấy hàng Bắc như tơ lụa, trừu, quần áo, vải bô.” 
Cùng năm 1776, quân Tây Sơn chiếm vùng Cù Lao Phố và truy đuổi Nguyễn Ánh ra khỏi thành Gia Định. Năm 1778, đa số người Hoa ở vùng cù lao Phố đã bị quân Tây Sơn đánh đuổi đều ngược dòng sông Bến Nghé lên khu Chợ Lớn ngày nay. Tại đây họ lại xây dựng phố sá và tiếp tục buôn bán như xưa. Người Hoa gọi vùng nầy là ‘Đê Ngạn’, người Phúc Kiến phát âm là ‘Tầy Ngon’, và người Việt lại đọc trại là ‘Thầy Ngòn’. Có lẽ đọc như vậy riết rồi lại trại ra là ‘Sài Gòn’. Thành phố nầy được người Việt Nam gọi là Chợ Lớn từ khi người Pháp xây dựng hai ngôi chợ: Chợ Lớn(46) và Chợ Nhỏ(47). Kỳ thật, khu được mệnh danh là ‘Sài Gòn’ về sau nầy đích thực là khu ‘Bến Nghé’ ngày trước. 
Đến năm 1779, khi toàn bộ lực lượng Tây Sơn đang chuẩn bị kéo quân ra Bắc phù Lê diệt Trịnh, thì Nguyễn Ánh kéo quân về lấy lại thành Gia Định. Như vậy, kể từ năm 1623, ngày mà đồn binh và trạm thâu thuế đầu tiên của xứ Đàng Trong được dựng lên trên vùng đất nầy đến năm 1779, cùng đất nầy đã trải qua nhiều gia đoạn thăng trầm, phát triển cũng có, mà chiến tranh hủy diệt cũng có. Chính tại đây đã xảy ra những cuộc chiến tranh ác liệt giữa nghĩa quân Tây Sơn và quân đội của Nguyễn Ánh, có lúc quân của Nặc Ong Chân cũng kéo quân qua đánh phá, nhưng vùng Sài Gòn-Gia Định vẫn tiếp tục phát triển, và ngày càng phát triển thật nhanh. Đến cuối thế kỷ thứ XVIII, đầu thế kỷ thứ XIX, vùng Sài Gòn-Gia Định đã nghiễm nhiên trở thành một trung tâm kinh tế và chính trị của xứ Đàng Trong. Lúc Nguyễn Ánh trốn chạy nhà Tây Sơn, ông đã chọn Gia Định làm kinh đô của xứ Đàng Trong (Kinh Gia Định). 
Đến năm 1780 thì Mạc Thiên Tứ chính thức dâng đất Hà Tiên (bấy giờ bao gồm các vùng Hà Tiên, Phú Quốc, Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cần Thơ). Đến đây coi như cuộc Nam tiến đến chót mũi Cà Mau và Hà Tiên đã hoàn tất. Trong thời gian nầy, Nguyễn Ánh cho phép dân chúng tự do khai hoang và sở hữu phần đất mình đã khẩn được, rồi sau đó tự ý khai báo để đóng thuế. Chính vì thế mà những dân xiêu tán đã nhanh chóng qui tụ về đây tiếp tục khai hoang lập ấp. Và cũng chính vì thế mà chẳng mấy chốc mà một Prei Nokor, nằm trong một thôn nhỏ trong rừng già, chung quanh toàn là ao chằm trũng nước, đầy muỗi mòng, đỉa vắt, đầy hoang thú... đã biến thành những khu chuyên canh, cũng như những khu vực làm nghề chuyên môn, giống như những làng nghề tại miền Bắc, như các xóm Củi, xóm Dầu, xóm Than, xóm Giá, xóm Vôi, xóm Bún, xóm, Rẫy, xóm Bàu Sen, và xóm Lò, vân vân. (những địa danh nầy đến ngày nay vẫn còn rất phổ biến trong dân gian Sài Gòn). Và cuối cùng, Prei Nokor đã biến thành trung tâm kinh tế và hành chánh cho toàn miền Nam. 

Nói về cuộc Nam tiến thì ngoài quan Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh ra, Nguyễn cư Trinh là người có công rất lớn trong việc đánh dẹp cũng như bình định lãnh thổ. Về phía người Minh Hương ngoài 2 ông Mạc Cửu và Mạc Thiên Tứ ra, còn có các ông Trịnh Hoài Đức, Ngô nhơn Tịnh và Lê quang Định cũng có công rất lớn. Về cương vực của toàn thành theo Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, phía đông nam Gia Định giáp với biển, có tất cả 17 cửa biển lớn: Xích Ram, Tắc Ký, Cần Giờ, Đồng Tranh, Lôi Lạp (Soai Rạp), cửa Đại, cửa Tiểu, cửa Ba Lai, Băng Côn, Ngao Châu, Cổ Chiên, Ba Thắc, Mỹ Thanh, Hào Bàn (Gành Hào), Long Xuyên, Kiên Giang và Hà Tiên. Các cửa nhỏ thì nhiều gấp đôi. Tuy vậy, các cửa nầy do bùn cát nên khi mở khi lấp, khi cạn khi sâu, dời đổi bất thường. Ở đây sông ngòi chằng chịt như mắc cửi, nếu không phải là dân địa phương quen thuộc ắt không biết đường đi. Phía tây bắc giáp với Cao Miên. Đông bắc giáp với phủ Bình Thuận. Thành Gia Định có nhiệm vụ trông coi các việc binh dân, thuế dịch và hình án của 5 trấn Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên, đồng thời cũng trông coi luôn trấn Bình Thuận ở phía Bắc. Phàm việc binh thì do thành Gia Định chỉ huy, còn các việc khác thì các trấn tự sắp đặt lấy. 
Prei Nokor vào những năm cuối cùng của cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn, không bị ảnh hưởng nhiều của chiến tranh, vì kể từ năm 1788 quân Tây Sơn phải dồn hết nỗ lực để chiến đấu chống ngoại xâm từ phương Bắc, nên không còn để ý đến việc đánh Nguyễn Ánh ở phương Nam nữa. Sau năm 1789, người anh hùng áo vải đất Qui Nhơn không muốn tiêu hao tiềm lực nhân dân sau bao nhiêu năm chinh chiến triền miên, nên sau chiến thắng Đống Đa, Nguyễn Huệ đã không kéo quân vào Gia Định tiêu diệt Nguyễn Ánh. Nếu ngày đó Đại Đế Quang Trung không vì hạnh phúc và sự an vui của nhân dân, mà kéo quân vào thẳng Gia Định, thì thử hỏi Nguyễn Ánh có cách gì chống đỡ được sức mạnh vũ bão bách chiến bách thắng của đại quân Tây Sơn hay không? Chắc chắn là không rồi. Thế rồi cơ trời vận nước phải ngã nghiêng nên xuôi khiến vua Quang Trung phải yểu mệnh. Ngài băng hà vào năm 1792, lúc vừa tròn 40 tuổi, ngài băng hà vào lúc nhân dân và đất nước đang rất cần ngài. Sau khi vua Quang Trung băng hà, cục diện hoàn toàn đổi thay. Ở miền Nam, Nguyễn Ánh ra sức củng cố thành Gia Định, xây dựng kho lẫm, xưởng đóng thuyền chiến, xưởng chế tạo vũ khí, vân vân. Hồi nầy thương cảng Bến Nghé thu hút tàu bè của thương nhân ngoại quốc lui tới buôn bán đông đảo. Phố xá sầm uất, chợ búa tấp nập đã khiến cho vùng Prei Nokor-Bến Nghé trở thành trung tâm chính trị và kinh tế cho toàn vùng. Trịnh Hoài Đức đã ghi về Bến Nghé trong Gia Định Thành Thông Chí như sau: “Nơi đây dân cư đông đúc; phố chợ san sát; nhà tường nhà ngói liên tiếp cùng nhau... Tàu ghe hải dương đến buôn bán qua lại, cột buồm liền lạc, xưng là xứ đô hội, cả nước không đâu sánh bằng.” Vào năm 1821, Finlayson đã ghi lại trong “Journal de voyage”, được đăng trong “Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises” vào năm 1939 như sau: “Không ngờ ở miền xa xôi nầy lại có một thành thị to và rộng như vậy... Cách xếp đặt phố xá ở đây còn phong quang thứ tự hơn niều kinh đô Âu châu.”


Người Long Hồ
Anaheim ngày 3 tháng 8 năm 2011
Copyright © 2012 by Ngoc Tran. All rights reserved.
Links xem tiếp:

C-