tiêu đề Nhãn
- BIÊN KHẢO
- CÂU ĐỐI
- CỔ THI
- GIA CHÁNH
- GIẢI TRÍ
- HÌNH ẢNH HỘI NGỘ
- HÌNH ẢNH NAY
- HÌNH ẢNH XƯA
- HỘI HỌA
- KHOA HỌC
- LỊCH SỬ
- LỜI HAY Ý ĐẸP
- LƯU NIỆM
- NHẠC
- SỨC KHOẺ
- SƯU TẦM
- THƠ
- THƠ CẢM TÁC
- THƠ DỊCH
- THƠ DIỄN NGÂM
- THƠ NHẠC
- THƠ PHỔ NHẠC
- THƠ SƯU TẦM
- THƠ TRANH
- THƠ TRANH NGHỆ SĨ
- TIN BUỒN
- TIN VUI
- VĂN
- VŨ HỐI THƯ HỌA
- VƯỜN THƠ VIÊN NGOẠI
- XƯỚNG HỌA
- YOUTUBE
Thứ Bảy, 6 tháng 5, 2023
Thông Báo: Chùa Liên Hoa Vạn Phật Quá Trình Xây Dựng Và Khánh Thành
Hoài Thu
Đó đây tinh tú chợt du hành
Có phải hồn thu phơn phớt trỗi
khi làn sương tỏa dáng mong manh!?
Nhớ xưa Thu quyện vào hơi thở
trên cả bàn tay ấm tình đôi
Kỷ niệm còn đầy trong thương nhớ
Đời vẫn xoay vòng, Thu mãi trôi!
Tương lai mang giấc mơ hiện thực
Quá khứ ngập ngừng chút nhớ, quên
Lung linh kỷ niệm như ảo giác
khi lá vàng thu rụng bên thềm.
Ngồi bên khung cửa nhìn trăng muộn
thắp ngọn đèn khuya trên phố sương
như hỏa châu xưa lùa bóng tối
soi bước chinh nhân chốn sa trường.
Lòng chợt mênh mông trong đêm vắng
Ước một ngày vui buổi tao phùng
Mượn thoáng hương thu vừa đọng cánh
gửi Em lời ước hẹn tình chung.
Huy Văn
Gọi Tên Và Dừng Lại
Trăng - Thơ Xuân Diệu - Thuý Đạt Diễn Ngâm
Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá
Ánh sáng tuôn đầy các lối đi
Tôi với người yêu qua nhẹ nhẹ...
Im lìm, không dám nói năng chi
Bâng khuâng chân tiếc dậm lên vàng
Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang
Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá
Và làm sai lỡ nhịp trăng đang
Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh
Cho gió du dương điệu múa cành
Cho gió đượm buồn , thôi náo động
Linh hồn yểu điệu của đêm thanh
Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ
Lạc giữa niềm êm chẳng bến bờ
Trăng sáng, trăng xa , trăng rộng quá!
Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơ
Xuân Diệu
1936
Bên Dòng Cam Lộ
Mỗi năm viếng cảnh dạo trăng ngà
Thướt tha tà áo bay trong gió
Em là tiên nữ nét kiêu sa …
Em như thần tượng của đời ta
Mắt môi như sóng lượn thu ba
Ngân giang một dải trời nghiêng ngửa
Hùng anh đảo lộn cả sơn hà
Tóc em đẹp tựa áng mây bay
Cho anh vuốt nhẹ những hương say
Cho anh dìu bước em trên cỏ
Xạc xào hoa rụng dưới chân ai …
Ðêm giao thừa bên dòng cam lộ
Thả tình trôi dạt bến sông mê
Thiên thu mật ngọt như huyền thoại
Ðọng trong ta một chút hương thề …
Hằng Nga giáng thế phải chăng đây
Quỳnh tương ta cạn chén tình say
Trong lòng thoang thoảng mùi hương vị
Ngàn sau nhớ mãi chuyện ngày nay
Gió phơn phớt nhẹ làm lay động
Thuyền rồng vội lướt sóng sang sông
Dáng xưa đài các ngàn năm ấy
Ðậm tình xuân mộng giữa trời đông
Lòng anh phơi phới buổi hôm nay
Vô ưu tắm mát mộng thơ ngây
Nắng đùa trên tóc mây duyên dáng
Em về rạng rỡ cả trời mây …
Ngàn xưa nối lại chuyện ngàn sau
Trăm năm thệ ước chẳng phai màu
Mỗi năm anh kết hoa hồng thắm
Bạc đầu ta vẫn cứ chờ nhau
Vần bình đôi chữ gửi người thương
Tình anh như tuyết phủ chiều sương
Tim anh héo rũ theo mùa lũ
Bơ vơ như lạc cõi vô thường …
Nguyễn Phan Ngọc An
Abraham Lincoln vs. John F. Kennedy
Xin mời ghi nhận những điều sau...
Abraham Lincoln được bầu vào Quốc hội năm 1846.
John F. Kennedy được bầu vào Quốc hội năm 1946.
Abraham Lincoln được bầu làm Tổng thống năm 1860.
John F. Kennedy được bầu làm Tổng thống năm 1960.
Tên Lincoln và Kennedy mỗi tên gồm 7 chữ cái.
Cả hai đều rất âu lo với việc bảo vệ nhân quyền.
Phu nhân của cả hai Tổng thống đều mất con trai khi sống trong Nhà Trắng.
Hai Tổng thống đều qua đời vào một ngày thứ Sáu.
Hai Tổng thống đã bị giết bởi một viên đạn vào sau đầu.
Và Đây là một sự trùng hợp thú vị...
Họ của thư ký của Lincoln là Kennedy.
Họ của thư ký của Kennedy là Lincoln.
Hai Tổng thống đều bị ám sát bởi "người miền Nam".
Hai vị Tổng thống kế vị đều là "người miền Nam".
Họ của hai người kế vị đều là Johnson.
Andrew Johnson, người kế nhiệm Lincoln, sinh năm 1808.
Lyndon Johnson, người kế nhiệm Kennedy, sinh năm 1908.
John Wilkes Booth, kẻ ám sát Lincoln, sinh năm 1839.
Lee Harvey Oswald, kẻ ám sát Kennedy, sinh năm 1939.
Tên của hai sát thủ gồm ba chữ.
Tổng số chữ cái trong tên của họ là 15 chữ.
Lincoln chết trong nhà hát mang tên "Ford".
Kennedy chết trong chiếc xe có tên "Ford" Lincoln.
John Wilkes Booth trốn thoát khỏi rạp hát và bị bắt trong một nhà kho.
Lee Harvey Oswald trốn thoát khỏi một nhà kho và bị bắt trong rạp hát.
Booth và Oswald đều bị sát hại trước khi được xét xử.
Và bây giờ đây là sự viêc đáng ngạc nhiên nhất.
Một tháng trước khi bị ám sát, Lincoln đang đi nghỉ ở Monroe, Maryland.
Một tháng trước khi bị ám sát, Kennedy đang đi nghỉ cùng Marilyn Monroe.
=====
Và cuối cùng, điều quan trọng không phải là tổng số năm trong cuộc đời bạn, mà chính là cuộc sống như thế nào trong những năm bạn đã sống. '' - Abraham Lincoln
Những vấn đề của thế giới không thể được giải quyết bởi những người hoài nghi hoặc vô liêm sỉ mà tầm nhìn của họ bị giới hạn bởi những thực tế hiển nhiên. Chúng ta cần những người có thể mơ về những điều chưa từng hiện hữu''- John F. Kennedy
KHUYẾT DANH
Thương Tiếc Bạn Tôi
Thứ Sáu, 5 tháng 5, 2023
Đà Nẵng Chiều Thu
Đà Nẵng, chiều Thu đếm lá bay
Sương Thu lành lạnh, dáng vai gầy.
Nhớ em... anh thường muốn khóc
Đầy trang Nhật ký em có hay
Quán cốc chiều xưa nắng ngập đường,
Đôi ta thủ thỉ chuyện yêu đương..
Gió buồn nhí nhảnh, nay còn đó,
Anh lại lang thang, khắp phố phường.
Chợ Cồn nay vẫn thấy như xưa
Ngang qua phố chợ, nhớ hương thừa.
Đâu đây..tiếng em còn văng vẳng..
Dáo dác nhìn quanh, họ bán mua.
Sông Hàn thuở ấy vẫn màu xanh,
Trăng bóng Thu xưa ngậm nửa vành.
Ôi, dáng con đò buồn ray rức,
Tơ trời thương nhớ, mắt long lanh.
Phố xưa còn đó, em ở đâu!
Tây-hồ trường cũ, lệ ứa sầu.
Anh đi, đi mãi..buồn rơi rụng,
Mỏi mòn thương nhớ, Em hỡi về đâu..
Cáo Chung
Quê hương ngàn dặm biết đâu nhà
Thê lương che kín đời ly tán
Nước mắt ngược dòng mẹ khóc cha
Mỗi bước đường xa ra biển khơi
Ngân Hà chia cách biệt đôi nơi
Nung người nắng hạ sao mà lạnh
Dõi mắt chân mây hận ngút trời
Mỗi bước đường xa vội nhớ nhung
Rưng rưng mắt lệ phút tương phùng
Cố hương rồi sẽ vinh quang đến
Hùm cáo đời đời đã cáo chung
Kim Phượng
Lòng Đau Canh Cánh - Vẫn Vẹn Lòng Son
Quê hương từ độ vơi đầy
Lòng bâng khuâng nhớ những ngày yêu thương.
Đã đành lối mộng ngàn phương
Cánh chim muôn dặm còn hương nẽo về.
Đã đành thôi, Chuyện não nề
Nỗi lòng cát bụi còn tê tủi hờn.
Ngàn năm vẫn vẹn lòng son đất trời..
Florida, 29/4/2023.
Mặc Phương Tử
Biển Của Người Vượt Biển
Biển kỷ niệm của mỗi người mỗi khác,
Dù biển nào cũng màu xanh cát trắng,
Dù biển nào cũng vô tận bao la..
Biển của người Việt Nam tìm tự do,
Là bao gian nan là bao ác mộng,
Từ con sông nhỏ, dòng sông nước ngọt,
Đưa người ra biển, biển mặn mù khơi..
Sông và biển đã gặp nhau hòa hợp,
Tàu đi âm thầm không người đưa tiễn,
Biển đã xa sông, người đã xa nhà....
Biển của người vượt biển không là thơ,
Ngày và đêm cuộc hành trình mạo hiểm,
Mây trời xanh cũng làm người nghi vấn,
Ánh sao khuya soi muôn dặm hãi hùng.
Giữa biển trời chiếc tàu nhỏ lênh đênh,
Sóng gió yên người chưa yên lo sợ,
Bọn hải tặc hại người và cướp của,
Bao oan hồn vất vưởng ở biển Đông.
Giữa biển trời cuộc hành trình cô đơn,
Một chiếc tàu và bao nhiêu sinh mạng,
Họ trôi theo tiếng thét gào của biển,
Tiếng họ thét gào biển có nghe không?
Từng ngọn sóng cũng có mầm ác độc,
Từng ngọn gió cũng trở thành tàn nhẫn,
Tàu chòng chành chìm khuất giữa biển khơi.
Biển của người vượt biển là cuộc chơi,
Không ai biết được điều lành điều dữ,
Tàu khát vọng vượt qua từng hải lý,
Bến bờ vui ai sẽ đến ai không?
Bao nhiêu năm nữa biển vẫn màu xanh,
Đẹp cho đời thường cho người thơ mộng,
Bao nhiêu năm nữa biển còn dậy sóng,
Trong lòng những người vượt biển năm xưa.
( Tháng Tư- 2015)
Bài Thơ Hồ Trường ( Nguyễn Bá Trác) - Nỗi Uất Hận Lưu Vong (Nguyễn Thị Mắt Nâu) - The Poem " Hồ Trường( Long-Drinking Wine Container)" - By Nguyễn Bá Trác ( Hương Cau Cao Tân Dịch)
Nỗi Uất Hận Lưu Vong(Nguyễn thị Mắt Nâu)
Sức mạnh thơ văn thật diệu kỳ
Hào khí trong như ngọc lưu ly
Mênh mang khí phách người thi sĩ
Lướt gió tung mây chẳng sợ gì.
Và quả là như thế. Sức mạnh của thơ văn thật kỳ diệu. Ví như bài Hịch Tướng sĩ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, đã nung nấu ý chí ba quân tướng sĩ, quyết đánh đuổi quân Nguyên.
Hay là bài "Nam Quốc Sơn Hà" của Lý Thường Kiệt, đã cổ võ tinh thần binh sĩ trên dòng sông Như Nguyệt, đã đánh lui quân Tống, lấy lại non sông "Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư/ Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư", hịch này được coi như bản tuyên bố độc lập của nước VN.
Hay như áng thi văn của Hàn Thuyên dưới thời Trần Nhân Tông năm 1282 cũng vậy, làm bài văn tế vứt xuống dòng sông, đuổi con ngạc ngư đi mất
Thơ văn trác tuyệt, khí thế hào hùng
Sơn hà mệnh nuớc ấy của chung
Gặp khi quốc biến cùng gìn giữ
Bảo vệ giang sơn thỏa tấc lòng
Người ta bảo sức mạnh của ngòi bút có khi hơn cả một đoàn quân dũng mãnh "Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo".
Hay là uy thế của "Thề vung gươm tiến ra sa trường"...
Những áng thơ đã từng làm nức lòng kẻ hào kiệt. Cái điều này được thốt ra từ miệng kẻ thất phu, thì người ta bảo đó là NGÔNG. Nhưng người xưa có câu "Quốc gia hưng vong/ Thất phu hữu trách" Có nghĩa là ai ai cũng phải có trách nhiệm khi đất nước lâm nguy.
Trong hội nghị Diên Hồng âm thanh dõng dạc hô lên "Toàn dân nghe chăng sơn hà nguy biến/ Hận thù đằng đằng nên hòa hay chiến!!? Và các bô lão đồng loạt hô to trong Hội nghị Diên Hồng "Quyết Chiến". Đó là khí thế dũng mãnh và lòng yêu nước dâng cao trong lòng cả sĩ phu lẫn thất phu
Trong các tuồng tích cổ, hình ảnh tráng sĩ kiêu hùng lặng lẽ mài gươm dưới trăng, hay vung gươm hào sảng thốt lên mà rằng Anh hùng tử khí hùng nào tử - Là hình ảnh tráng sĩ hiên ngang, uỡn ngực, biểu lộ ý chí không bao giờ chịu khuất phục dù đứng trước lằn tên mũi đạn và cả trước cái chết. Xem cái chết tựa nhẹ lông hồng
"Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao/ Giã nhà đeo bức chiến bào/ Thét roi Cầu vị ào ào gió thu".
Than ôi thế sự đổi dời. Ngày nay có phải vì đời sống của thế kỷ hiện đại có quá nhiều phương tiện và tiện nghi hưởng thụ, mà chí khí đã hao mòn, hay vì quen hưởng thụ, mà đôi khi chỉ cần một miếng đỉnh chung, hoặc chỉ là lời phủ dụ lợi danh, dù chỉ là danh tiếng hão huyền, cũng đủ làm ý chí nam nhi thời văn minh nghiêng ngả, vong quốc, vong thân, vong bản, và dễ dàng gục ngã trước những hứa hẹn vinh hoa hư ảo. - Lòng người lắm trớ trêu: Đói thì thèm ăn. No thì thèm danh.
Tiện nghi vật chất với bạc tiền
Lòng người xoay chuyển hóa đảo điên
Vinh hoa phủ dụ người tham tiếng
Mờ cả lương tri trước bạc tiền
Một miếng đỉnh chung là quay quắt
Khuất phục ươn hèn trước tổ tiên
Quên cả giang sơn, quên nòi giống
Mờ cả lương tri sống ươn hèn
Vậy thì, Ai bảo là ngông thì cứ bảo. Nhưng bài thơ Hồ Trường, một thi phẩm nổi tiếng của danh sĩ Nguyễn Bá Trác, được sáng tác vào đầu thập niên 20. Là bài thơ tác giả đã mượn rượu, để ngất ngưởng nói lên tâm sự uất hận của chính mình và của nhiều người khác cùng có chung tâm trạng và hoàn cảnh
Bài thơ ra đời lúc tác giả lưu lạc ở Trung Hoa, đang đi tìm ý hướng cứu nước, lại vừa khi đứng trước hoàn cảnh trớ trêu giữa bản thân và đất nước. Đúng lúc như thế, người chí sĩ đã bắt gặp bài Nam Phương ca khúc, sao mà phù hợp với hoàn cảnh và tâm trạng bi thương đến vậy....mà thành ra ý thơ
** Bài thơ Hồ Trường và Nam Phương ca khúc, cho đến nay, đã có ít nhất năm bản in, các bản in không giống nhau. Nhưng vẫn giữ được hào khí trong thơ.
Và người ta bảo bài thơ Hồ Trường nổi tiếng này, được lưu truyền tính tới nay đã trên 88 năm. Để trong những buổi hội họp, nhiều hội đoàn đã đem ra diễn ngâm, khiến nhiều người Việt tị nạn xúc động buồn đau xé ruột. Thậm chí còn có người phẫn kích, la hét và vớ lấy cây gậy của người già, vờ giả làm gươm và ngông nghênh quay cuồng như tráng sĩ nước Yên sắp lên yên ngựa đi thích khách vua Tần.
Uất hận lưu vong nổi sóng cuồng
Của người kiếm khách ở bốn phương
Ngông nghênh khí phách anh hùng tử
Thịnh nộ uy hùng vọng cố hương
Người ta bảo NGÔNG là một phong thái quyến rũ trong cuộc sống, và nhất là trong văn học. Nó khẳng định cá tính sắc sảo, độc đáo, qua phong thái ngông cuồng mang tính kiêu hùng bất chấp.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là Trạng, vẫn muốn mình ngông hơn nữa, để tự nhận biết mình là ngông mà cười sảng khoái lên rằng "Lão ngông tự tiếu thái sơ cuồng", nghĩa là "Tuổi già, tự cười mình cuồng ngông". Hoặc trong câu: "Bàng nhân mạc tiếu cuồng si khách",nghĩa là: "Người bên cạnh chớ cười khách cuồng si" - Ngông chính là thái độ bất mãn của kẻ có tài không được thu dụng và sử dụng.
Tâm lý Ngông, là muốn vượt thực tế, để thỏa mãn một nhu cầu giải thoát - Nguyễn Công Trứ cũng ngông nghênh. Một chút rượu vào, là phẫn chí để từ hàng đại tướng xuống làm ông lính trơn. Ông ngang tàng đem ví cái đít con bò cái, với cái miệng của thế gian qua câu thơ "Xuống ngựa lên xe lọ tưởng nhàn/ Lợm mùi giáng tước với thăng quan/ Điền viên đạp đít con bò cái/ Sẵn tấm mo cày bưng miệng thế gian"
Trong văn học cận đại, người ngông nhất có lẽ vẫn là ông Tản Đà. Khi rượu vào, ông đã biến cái ngông của ông thành phong cách văn chương "Thơ lưng chất nặng tay buồn rỗi/ Bán áo mà mua giấy viết cuồng" - Tản Đà còn nổi giận khi bị người đời khinh khi, ông ngông nghênh đến độ viết thư đi hỏi con gái của Ngọc Hoàng làm vợ, đến nỗi Trời sai Nam Tào xuống điều tra xem xem lý lịch hư thực thế nào : "Nam tào tra sổ xét vừa xong/ Sổ đệ trình lên Thượng đế trông/ Bẩm, quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu/ Đày xuống hạ giới vì tội Ngông" -Rồi ông ngang nhiên tung tăng đem rao bán hết Giấc Mộng Lớn, đến Giấc Mộng Con.
Ông Tú Xương thì ngông kiểu khác, thế này mới khiếp chứ "Lúc túng toan lên bán cả trời/ Trời cuời thằng bé nó hay chơi"
Còn cái ngông của bài thơ Hồ Trường đuợc thể hiện trong hình tượng, trong thân thế sự nghiệp của tác giả và trong cả điệu thơ. Nó ngông cuồng như hình ảnh của một Lý Bạch, ngất nga ngất ngưởng nhảy ùm xuống nuớc ôm trăng chết đuối. Cũng như Lưu Linh, đã say khướt say nhè, lột bỏ cả quần áo, trần truồng mà la toáng lên rằng "Trời đất là nhà/ Nhà là quần áo/ Sao các người chui hết vào quần áo của ta "
* Và tác giả của bài thơ Hồ Trường là ai?
- Là Nguyễn Bá Trác, bút hiệu Tiêu Đẩu, sinh năm Tân tỵ 1881, làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (cùng quê với nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn). Miền đất nhiều tự hào vì mang lại niềm tự hào cho quê hương, phát sinh nhiều tài hoa văn học. Thuở nhỏ Bá Trác học ở Quảng Nam.
Cái đất Quảng Nam lắm người tài
Người tài nhưng cũng khổ trần ai
Mênh mang xứ khổ sinh hào kiệt
Địa linh nhân kiệt lắm nhân tài
Năm 1906, Bá Trác thi đỗ cử nhân, khoa Bính Ngọ ở Huế. Hưởng ứng lời kêu gọi của các nhà ái quốc trong phong trào Đông Du. Ông ra Hà Nội học tiếng Pháp. Và năm 1908, ông sang Nhật du học. Nhưng cũng năm ấy dưới sức ép của Pháp, chính phủ Nhật giải tán phong trào Đông Du. Ông phải sang TQ, rồi trở về Hà Nội VN.
Năm 1914, làm ở phòng báo chí, phủ toàn quyền Đông Dương, và làm chủ bút phần Hán văn, cho tờ Cộng Thị cho đến năm 1916. Ông đã từng theo cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh và Kỳ ngoại hầu Cường Để chống Pháp.
Ngày 10/7/1907, Pháp Nhật ký hiệp ước thương mại. Nhật vay 300 triệu quan Pháp, để có nhiều quyền lợi khác, và trục xuất các thanh niên Việt Nam đi theo phong tào Đông Du buộc phải về nước. Rồi cũng ngay năm ấy, chính phủ Nhật giải tán phong trào Đông Du
Biết ông có tài, năm 1916 Pháp cho ông làm nhà biên khảo ở phòng báo chí Phủ Toàn Quyền Đông Dương. Với mục đích kêu gọi thanh niên trí thức Việt Nam hợp tác với Pháp.
Phủ dụ thanh niên chống quốc gia
Lênh đênh hải ngoại sống xa nhà
Long đong hết Nhật rồi Trung Quốc
Trở về Hà Nội với xót xa
Chống Pháp Đông Du quay cuồng mãi
Trí thức Việt Nam nhiều bôn ba.
Năm 1917, dưới sự bảo trợ của trùm mật thám đông dương Louis Marty. Phạm Quỳnh sáng lập tờ Nam Phong tạp chí, Nguyễn Bá Trác đảm nhận làm chủ bút phần Hán Văn.
Sau khi thôi việc ở báo Nam Phong, ông vào Huế làm Tá Lý Bộ Học, qua các chức vụ: Tuần Vũ Quảng Ngãi, Thị Lang Bộ Binh, Tổng Đốc Thanh Hóa, Tổng đốc Bình Định
Tháng 8/1945, thì Việt Minh nắm chính quyền, đem ra xử bắn công khai ở Quy Nhơn, Bình Định
Ngoài nhiều bài viết trên tờ Nam Phong tạp chí từ 1917 đến 1932. Nguyễn Bá Trác biên soạn khá nhiều tác phẩm như:
-1/ Cổ Học Viện Thư Tịch, gồm 11 quyển, soạn cùng Nguyễn Tiên Khiêm.
-2/ Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu (1925).
-3/ Bàn về học thuật nước Tầu 1918.
-4 /Hạn Mạn Du Ký 1920 và 1921. Đông Kinh Ấn Quán, Hà Nội in lại.
-5/ Bàn về Hán học 1920.
-6/ Hương Giang mộng 1920.
-7/ Ngã An Nam Dân tộc Nam Tiến Chí 1921.
-8/ Mấy lời chung cáo của các nhà nho 1921.
-9/ Nguyễn Bá Học Tiên Sinh Chi Lược Sử Cập Kỳ Di Ngôn (1921).
-10/ Du Thanh Hoà ký (1921).
-11/ Hán học Văn học Khảo lược (1932)
- Tuy ông biên soạn nhiều như vậy, nhưng tuyển tập được nhiều người biết tới là Hạn Mạn Du Ký (Đi chơi phiếm). Một thiên ký sự bằng chữ Hán gồm 14 chương, về sau ông dịch sang Việt văn rồi cho đăng trên báo Nam Phong tạp chí từ số 38 đến số 43 vào năm 1920.
* Bài thơ Hồ Trường đã đăng trên Nam Phong Tạp Chí năm 1920. Một bài thơ mà trước đây những thanh thiếu niên có lòng yêu nước, đã ngâm diễn để chia sẻ nỗi lòng sầu hận về thế thái nhân tình, về tình thế nhiễu nhương trong thời lòng dân xôn xao với hiện tình đất nuớc.
Ngày xưa Quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách. Ngày nay Quốc gia lâm nguy, sĩ phu dường như còn đâu đó còn lơ mơ chưa thấy hết trách nhiệm của mình. Nếu có như vậy, âu có lẽ cũng là cái khác biệt của người thời xưa với người đời nay vậy !!
* Nguyên nhân sáng tác ở những lời mở đầu, Nguyễn Bá Trác cho biết như sau: "Tôi về nước đã 5 năm nay. Kể từ năm bước chân đi 1908, đến khi trở về Saigon giữa tháng 8/1914. Tính đốt ngón tay, một dạo phiếm du, thoáng chốc đã sáu năm có lẻ. Loanh quanh trong nước một năm. Tạm trọ ở Xiêm La mười ngày làm khách. Qua Nhật Bản một tháng. Rồi lại sang Trung Hoa. Bao nhiêu thương nhớ, qua tỉnh lớn như Ba Thục miền tây, U Uyên đất bắc, Quế Việt cõi nam... đều là chỗ mà mình đã lưu lại ít nhiều dấu xe dấu ngựa. Nay, chỉ là đem những đường lối phong cảnh đã đi qua trên đất khách, chép nhặt vài nơi thế thôi. Còn những chuyện chi chi thì không nói đến" .
Đất khách soi mòn gót lãng du
Nhật Bản Xiêm La bước mịt mù
Ngày tháng phiêu du nơi Trung Quốc
Uất hận lưu vong sầu âm u
Khao khát dừng chân về đất nước
Xứ sở xa khơi khói mịt mù
Khi đề cập đến tác phẩm này, nhà nghiên cứu văn học Phạm Thế Ngũ đã viết rằng: "Câu Việt văn khá mạch lạc, đôi chỗ đăng đối du dương. Những tình tiết ly kỳ của cuộc phiêu lưu trên đất lạ, đã đem lại cho sự việc nhiều điều hấp dẫn. Nhất là với các nhà nho của nước ta thời ấy, cũng từng mơ cái mộng Đông Du. Nếu không phát tiết, thì trí não cũng chứa đầy những kỷ niệm về danh nhân, và danh lam thắng cảnh Trung Hoa".
Ngày xưa rõ ràng Trung Hoa là thần tượng của các cụ nhà mình. Cả nữ giới cũng vậy. Cho nên đọc Hạn Mạn Du Ký thật là thú vị.
Bà Tương Phố cũng từng gối đầu trên Nam Phong tạp chí kê ở đầu giường để đọc du ký của ông Quỳnh (tức Phạm Quỳnh), và ông Trác (Nguyễn Bá Trác), để mộng du đất Pháp, đất Tàu.
Ông Dương Quảng Hàm khi làm sách Quốc Văn Trích Diễm 1925, dành hẳn cho thiên du ký của Nguyễn Bá Trác hai bài trích dẫn. Đó là bài Đường Đi Hương Cảng và Điếu Kim Lăng.... đủ thấy đọc giả đương thời yêu thích thưởng thức văn chương đến dường nào.
Một thuở thời nào rất hiếm hoi
Đọc giả hân hoan cất dành coi
Ngày nay thừa thãi không còn quý
Vương vãi cho nên hóa thành giòi
Và trong tập quốc văn này có khúc ca phương Nam do ông dịch, giúp ông thêm nổi danh.
Sau đây là bản phiên âm Hán Việt trích từ Nam Phong tạp chí của Duơng Bá Trạc do nhà biên khảo Phạm Hoàng Quân sao chép lại
"Trượng phu sanh bất năng phi can chiết hạm vị thế phù cương thường/ Tiêu dao tứ hải, hồ vị hồ thử hương/ Hối đầu nam vọng mạc vô cực /hề/ thiên vân nhất sắc đồ thương thương/ Lập công bất thành, học bất tựu, thiết tráng hữu cơ thời, hề, toại thị bách niên thân thế khu âm duơng/ Phủ chưởng cuồng ca vấn tư thế/ Mang mang thiên địa, an đắc tri nhất tri kỷ hề, thí lai đối chuớc hữu dư thương// ... Còn nữa nhưng tạm dịch nghĩa của đoạn này cái đã = Kẻ trượng phu, sống mà không vạch gan, bẻ cột, lo giềng mối cho đời/ Rong chơi 4 biển, quê hương ở nơi đâu/ Quay đầu trông về Nam, mịt mù vậy hỉ?/ Trời mây nổi màu xanh ngắt/ Lập công chẳng được, học không xong/ Trai trẻ có bao lâu/ Ngồi ngó trăm năm đuổi cuộc sớm chiều/ Ta quăng chén rượu đầy vào mưa núi tây một trận sao lênh láng/ Ta quăng chén rượu đầy đuổi theo gió bắc, gió bắc tung cát lăn đá bay nơi khác/ Ta quăng chén rượu đầy vào mây mù trời nam, trong mây mù có nguời há miệng điềm nhiên say tràn/ Trời đất dọc ngang đều mất hết, sao ta không say, chí ta thời ta làm/ Từ xưa nam nhi đuổi theo tang bồng/ Cớ gì sụt sùi sầu cố hương// - Khí phách nam nhi chí ở 4 phương "Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái/Cái công danh là cái nợ nần".... Nhưng rồi hầu như ai cũng thích mang nợ vào thân. Để thi hào Nguyễn Du lại thì thầm mà bảo "Đã mang lấy nghiệp vào thân/ Cũng đừng trách lẫn trời gần hay xa"
Nam nhi bốn bể là nhà
Cũng như con bướm la đà ngoài sân
Giang tay trời đất hóa gần
Rồi như cánh buớm phù vân là đà
* Hồ Trường (nghĩa đen chỉ là chiếc nậm rượu) được trích từ phiên bản Hán Việt trong tuyển tập Hạn Mạn Du Ký (còn nghĩa bóng là ký sự của cuộc đi chơi phiếm) được phát hành vào năm 1920 do dịch giả Dương Bá Trạc chuyển dịch, đăng trên Nam Phong tạp chí số 41. Mà cho đến ngày nay, bài thơ này đã làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực của các văn nhân, thi sỹ, của các học giả, và cả các nhà nghiên cứu lịch sử văn học, để mà diễn bàn và khảo cứu về nguyên bản của bài thơ. Cái tên Hồ Trường, cũng là do người đọc đã trích chữ trong lời ca mà gọi, chứ không phải do Nguyễn Bá Trác đặt ra. Bài này nằm ở chương 10 tập Hạn Mạn Du Ký.
Trong chương 10 này, tác giả cho biết đó là ở thời điểm khoảng năm 1912, câu chuyện kể rằng, khi ông lưu lạc đến Thượng Hải, ông gặp người đồng hương cùng chí hướng, người này có giọng hát thật hay (giọng Quảng Đông)
Thế rồi vào đêm nọ, hai người đi uống rượu, khi rượu đã ngà ngà. Người khách Nguyên Quân ấy, đứng dậy mà hát, sau này khúc hát ấy được gọi là Nam Phương Ca Khúc.
Vô tình ở bàn bên cạnh, có võ quan họ Lưu, nguời Trực Lệ, nghe hát, chạy sang hỏi bài hát ấy điệu gì, và đuợc Nguyên Quân trả lời rằng "Ấy là 1 điệu hát đặc biệt ở phương nam". Người họ Lưu mới sảng khoái thốt lên: "Ồ. Nghe tiếng bi mà tráng, nhiều hơi khảng khái. Nam Phương mà có điệu hát hay đến thế hay sao?". Và người họ Lưu kia, xin được chép ra giấy lời ca ấy để giữ mà xem.
Câu chuyện trong quán rượu với tâm sự khẳng khái qua lời ca, sảng khoái qua chung rượu, của người bi sỹ tha hương, khiến chúng ta mang mang hình dung hình ảnh trong các truyện kiếm hiệp của Kim Dung, đã một thời làm say đắm lòng người trước 75.
Ta tráng sĩ hề đường xa mờ bụi
Chí khí quật cường ngang dọc xá ngại chi
Nhìn quê hương xa cách nỗi sầu bi
Mang chí cả dấn thân vì sông núi
Chí nam nhi là non sông ngóng đợi
Trường giang kia dậy sóng ầm ầm
Ta mơ ngày thấy lại ánh quang vinh
Trời cao xanh quên nỗi bất bình
Ta sẽ hát trong ánh trăng huyền diệu.
Khi giới thiệu bản dịch Nam Phương ca khúc, Phạm Thế Ngũ đã viết: Trong Hạn Mạn Du Ký, đặc biệt nhất là có một bài ca dao do chính người bạn là tác giả đã gặp ở Thượng Hải, cũng cùng trong cảnh đào vong vì quốc sự, nên thường hay nghêu ngao hát những khúc ca mượn chén tiêu sầu nơi lữ điếm. Bài ca ấy khiến độc giả thời đó, nhất là những người thuộc lớp người cách mạng, ai cũng ưa thích và học thuộc để ngâm nga.
* Và sau đây là bản phiên âm Hán Việt trích từ Nam Phong tạp chí số 41 năm 1920. Bản dịch của Dương Bá Trạc do nhà biên khảo, Phạm Hoàng Quân sao chép, Nguyễn Bá Trác dịch từ bài Nam Phương ca khúc: "Trượng phu không hay xé gan bẻ cột phù cương thường/ Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha phương/ Trời nam nghìn dặm thẳm/ mây nước một màu sương/ Học không thành/ Danh chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc/ Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường/ Hồ trường! Hồ Trường! ta biết rót về đâu/ Rót về đông phương, nước bể đông chảy xiết sinh cuồng loạn/ Rót về tây phương, mưa tây sơn từng trận chứa chan/ Rót về bắc phương, ngọn bắc phong vì vụt, đá chạy cát dương/ Rót về nam phương, trời nam mù mịt, có người quá chén như điên như cuồng / Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, lòng ta ta hay/ Nam nhi sự nghiệp nơi hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.
* Theo ông Vũ Ngọc Phan trong cuốn nhà văn hiện đại, thì đến nay vẫn có lầm lẫn giữa Tiêu Đẩu Nguyễn Bá Trác và Tuyết Huy Dương Bá Trạc (Dương Bá Trạc là bào huynh của giáo sư Dương Quảng Hàm) cũng là nhà văn có tác phẩm ấn hành khoảng giữa thập niên 20 và cũng viết trên tờ Nam Phong Tạp Chí.
Rắc rối linh tinh cái bản quyền
Trùng tên khác dấu lại truy nguyên
An Nam tên chữ là như vậy/
Rắc rối nhưng rồi vẫn y nguyên
Bài thơ Hồ Trường đang lưu hành hiện nay là nghe trau chuốt nhất, và được nhiều người ưa chuộng, đó là bản trong cuốn băng cassette do chính ái nữ của tác giả thực hiện, qua giọng ngâm của Lệ Ba và Tôn Thất Hanh ở Canada phổ biến. Trong cuốn băng đó có lời của ái nữ nhắn nhủ hai con là: "Bài thơ Hồ Trường là bài thơ chí khí của ông ngoại, nhưng đó cũng là chí khí muôn đời của thanh niên". Khi soạn Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển, Dương Quảng Hàm có trích một bài nữa trong Hạn Mạn Du Ký của Nguyễn Bá Trác, đó là tập "Quanh Đường Vượt Ra Khơi" do nhà xuất bản Trung tâm Học liệu Saigon, ấn bản lần thứ muời vào năm 1968.
Chí khí can trường vượt biển khơi
Trường giang sóng vỗ ngời ngời biển xanh
Nam nhi chí cả tan tành
Tung mây lướt gió trời xanh nắng vàng.
- Qua bài thơ Hồ Trường, chúng ta thấy lời thơ lập đi lập lại, nhắc nhiều đến nguời phuơng nam. Nguời phuơng nam ở đây là chỉ người miền Lĩnh Nam Trung Quốc. Còn chữ "Chiết hạm" trong lời thơ có nghĩa là "Bẻ cột".
Điển tích "Bẻ Cột" xuất phát từ sách Hán Thư, truyện Chu Vân thời Hán Thành Đế như sau: Chu Vân tâu vua đòi giết An Xương Hầu Trương Vũ, vua nổi giận giết Chu Vân. Khi bị bắt lôi đi, Chu Vân uất ức bám tay vào cột điện, đến nỗi cung cột điện bị cong vòng vặn gãy. Thế mà khi cho sửa sang lại cung điện, ông vua đã ra lệnh giữ nguyên dạng phần cột bị gãy, nhằm mục đích giữ lại hình ảnh đó, để biểu dương 1 lời nói ngay thẳng và thẳng thắn. Và đời về sau đã dùng chữ "chiết hạm" để chỉ hành vi dũng cảm trong việc dám dùng lời lẽ can gián vua.
Chơi với vua như là chơi với cọp
Chẳng biết lúc nào cọp quào cấu nhe răng
Có lúc hiền lại có lúc hung hăng
Tâm sinh biến động lăng xăng khó lường
Còn chữ cương thường thì ai cũng biết là do chữ tam cương (vua tôi, cha con, chồng vợ). Và ngũ thường ( là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) ghép lại
Chúng ta chưa có Hàn Lâm Viện nên từ ngữ tiếng Việt không biết lấy đâu làm chuẩn. Nên tùy địa phương, nương theo thông thường mà xử dụng
Chữ Nôm, chữ Hán, chữ quốc ngữ, chữ La Tinh, đã phát sinh nhiều lầm lẫn, ví dụ như lúc đầu là "Thoi vật ông vải" từ lúc nào biến thành "ma vật ông vải".. rồi cứ thế thành "thành văn" của đại chúng
Dù thế nào bài thơ Hồ Trường đã tạo được cái hào hùng khí phách trong văn thơ giữa cánh đồng văn chương ủy mị than mây khóc gió của một thời lãng mạn chỉ viết tràn ra những lời rỗng tuếch ủ ê vô bổ, ví như lời trong bài Hành Phương Nam của Nguyễn Bính "Người ơi buồn lắm mà không khóc/ Mà vẫn cười qua chén rượu đầy/ Kinh Kha quán lạnh sầu nghiêng chén/ Ta với nhà ngươi cả tiếng cười/ Dằn chén hắt cao đầu cỏ dại/ Hát rằng phương nam ta với người"...
Ngày nay, có người vẫn phân vân Nguyễn Bá Trác có phải là tác giả của bài Hồ Trường không?
Nhưng mặc kệ, sau 1975, trên bàn nhậu sơ sài của những người thất chí, và của ai say sưa đâu đó, vẫn xuất hiện bài thơ mang tên Hồ Trường, dù bài thơ được ngâm lên với đủ chất giọng. Lời thơ kiêu bạc, pha lẫn hùng tráng, lại bi ai, khiến những ai thất cơ lỡ vận cũng một phen ngậm ngùi nghĩ đến phận mình. Ví dụ lớp người buông tay súng về quê làm ruộng. Những sĩ quan mãn hạn tù trở về đạp xích lô, ba bánh ...vv... Nghe bài thơ Hồ Trường, cũng cảm khái và thấy gần gũi với mình sao sao đó. Họ biết đến tên Nguyễn Bá Trác, nhưng thân thế nguời tác giả này thì không biết gì mấy. Nhưng những lời thơ chí khí và hùng tráng =Hồ Trương, Hồ Trường Ta biết rót về đâu / Chí ta ta biết lòng ta ta hay/ Nam nhi sự nghiệp ở hồ thỉ/ Hà tất cùng sầu đối cỏ cây//... Tâm can kẻ nam nhi lại bừng bừng rúng động, điên cuồng. Để hết chén này đến chén khác. Rượu rót vào lòng. Rượu chảy ra môi, cho tan nỗi nhục nhằn bi thiết. Tan nỗi buồn lưu vong vất vưởng.
Chí khí nam nhi đến lạ lùng
Lạnh lùng như gió thổi qua song
Thoáng đâu chùng nhão mềm như lụa
Ấm áp tột cùng trong long đong
Thê lương đứt quãng tơ chùng nhão
Nắn phím buông dây khẽ động lòng
- Nhà thơ Vũ Hoàng Chương từng bi thiết kêu lên "Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ/ Một đôi người u uất nỗi chơ vơ/ Đời phiêu bạt không dung hồn giản dị/ Thuyền thuyền ơi, xin ghé bến hoang sơ/ Men đã ngấm bọn ta chờ tắt nắng/ Treo buồm cao, cùng cất tiếng hò khoan/ Gió đã thổi nhịp trăng chiều hiu hắt/ Thuyền ơi thuyền theo gió hãy cho ngoan"
Thi nhân, chí sỹ, hào sảng hơi men. Ngất ngưởng trong hồn thơ, đau thương hiện tình đất nước, u hoài kiếp sống tha hương... tất cả là chí khí.
Nguời xưa chí khí vun cao
Ngất nga ngất nguởng tự hào trào dâng
Tình yêu tổ quốc xa gần
Tha huơng viễn xứ bâng khuâng đáy lòng
Yêu nguời yêu cả non sông
Quyết không tha hóa, chờ mong một ngày
Chờ mong một ngày quê hương đẹp tươi trở lại để cùng chung tay đắp xây nền văn hóa, như câu chuyện yêu văn hóa của một nhà văn hóa. Đó là chủ nhân nhà sách Khai Trí trên đường Lê Lợi của Saigon trước 1975
----> Ông Nguyễn Hùng Trương, mà người Saigon thời đó quen gọi ông là ông Khai Trí - Một người quảng bác, ít nói về bản thân mình, nên ít người biết ông là tấm gương sống động. Từ 2 bàn tay trắng mà thành nhà kinh doanh ngành sách lớn nhất và uy tín nhất miền nam trước 1975.
Ông Nguyễn Hùng Trương sinh 1926 tại Thủ Đức. Mất 11/3/2005. Sau 2 tuần nằm bệnh viện.Thọ 80 tuổi -Thân thế như sau: Thuở nhỏ ông thường nhịn ăn sáng, dành 2 đồng xu mẹ cho để mua báo đọc - Ông học trường Pétrus Ký Saigon, và được sắm một cái xe đạp cũ để cuối tuần đạp về nhà (Saigon Thủ Đức 12 cây số). Sách báo ông mua hầu hết là sách báo nước ngoài. Đầu năm 1940, ông đã lập được 1 tủ sách có giá trị. Bạn bè thấy ông có nhiều sách báo, nên hay nhờ ông mua giúp. Có lần có 5 người bạn nhờ mua sách, ông mua hẳn 10 cuốn để được hưởng quy định 30% hoa hồng của quán sách cho. Số sách dư lại, ông ký gửi ở quán sách, 3 hôm sau chủ quán hỏi loại sách đó còn không, thì đem tới tiếp, vì số sách gửi đã bán hết.
=Ham đọc sách từ khi còn trẻ/
Ý tưởng nhiều mới mẻ trẻ trung/
Kiến thức du nhập thung dung/
Tiết kiệm để dùng vào việc kinh doanh//
-Từ sự việc nho nhỏ đó, từ khi còn là học trò, ông nảy ra ý định mua sách báo nước ngoài về gửi nhà sách bán. Sách ông chọn là sách có giá trị và quý hiếm. Lúc đầu mua ít, sau bán chạy, ông mua tăng lên tới vài chục cuốn.
- Nhờ tiết kiệm, năm 1952, ông Khai Trí đủ vốn mở hiệu sách nho nhỏ ở số 62 đuờng Bonard (Lê Lợi), đó chính là nhà sách Khai Trí, mà ngày nay gọi là nhà sách Saigon.
-Đây là nhà sách đầu tiên ở Việt Nam bán theo kiểu tự chọn, khách có thể đứng đọc tại chỗ hàng giờ mà không phải mua. Các nữ nhân viên ăn mặc đồng phục, vui vẻ ân cần, đứng rải rác quan sát trông nom lịch sự kín đáo
-Vào thời ấy, đó là cách phục vụ khá mới mẻ, văn minh và đuợc khách hàng ủng hộ. Nhờ vậy nhà sách được mở rộng thêm hai căn liền kề nhau với nhiều tầng lầu.
=Phục vụ khách hàng khá văn minh/
Đầu tư suy nghĩ của riêng mình/
Mở mang khai trí là khai mở/
Con đường Lê Lợi càng thêm xinh/
Khai phóng tư duy về văn hóa/
Nhờ thế Saigon càng văn minh//
- Nhà sách Khai Trí còn phụ trách cả việc xuất bản với những đầu sách được chọn kỹ càng và phong phú - Một thú chơi nữa của ông Hùng Tương là sưu tầm sách báo. Chỉ riêng tờ Le Monde bằng Pháp ngữ, ông đã có từ số đầu tiên cho tới số báo 30/4/1975. - Ông cùng nhà văn Nhật Tiến chủ trương tờ báo thiếu nhi và soạn giả của nhiều sách giá trị --Trong 10 năm, từ 1993-2003, ông biên soạn 15 cuốn sách:
>Thơ tình VN.
>Thế Giới chọn lọc.
>Quê em mến yêu.
>Làm con nên nhớ.
>Chánh tả cho người miền nam.
>Huế mến yêu.
>Những bài thơ hay trong văn chương VN..
- Nhà văn Nguyễn Thụy Long, (tác giả cuốn Loan Mắt Nhung, cuốn tiểu thuyết mà sau này giới nghiên cứu miền bắc sau 1975, hết lời ca ngợi) - Có bài viết có nhan đề "Vĩnh biệt ông Khai Trí", trong đó nhắc đến cảnh buồn thương của ông sau 75.
=Văn hóa khác miền nên khác nhau/
Nhân sinh vì thế bị đổi màu/
Nhưng văn là đẹp là trong sáng/
Vì thế phải cùng nhau nâng cao/
Oan oan tương báo chiều hiu quạnh/
Sự nghiệp tiêu tan gió nghẹn ngào//
--- Ông Khai Trí qua đời vì sức già lực kiệt. Sau nhiều năm cố gắng xin lại tiệm sách đã bị tịch thu trong đợt bài trừ văn hoá 1976. Nhiều tác phẩm bị đốt. Nhiều văn nghệ sĩ bị bắt. Ông Khai Trí cũng bị coi là tội phạm vì kinh doanh văn hóa.
Ngày nay nhà sách Khai Trí của ông mang tên Phahasa giữa thành phố Saigon hoa lệ.
=Thế thái nhân tình cuộc đắng cay/
Nhân sinh phù phiếm giữa ban ngày/
Lý tưởng tiêu tan mang hờn tủi/
Nước mắt nhạt nhòe trong mi cay/
Xót thương một kiếp người tích cực/
Thấp thoáng mộng chiều như mây bay/
Đam mê sách báo đời mơ ảo/
Thời thế xoay vần bỗng trắng tay//
- Trong khung cảnh của một buổi chiều bâng khuâng nơi hải ngoại, khi dừng chân ở góc đường nào đó, chúng ta thử hình dung hình ảnh một người đàn ông đứng lặng câm, nhìn đăm đăm vào cửa tiệm sách Khai Trí. Đấy là người đàn ông đam mê sách báo. Cả một đời ham mê, và đóng góp tích cực cho nền văn hóa của một xã hội, tạm gọi là vàng son ngày cũ
- Cái bóng âm thầm lặng lẽ ấy, chắp tay sau lưng đứng nhìn đăm đăm vào cửa tiệm sách báo của chính mình... nay trở thành quá vãng. Rồi vài nguời buớc đến gật đầu chào, khe khẽ hỏi
-"Tiệm sách ra sao rồi? ".
Cái bóng xiêu vẹo ấy cuời rất nhạt, thở ra rất nhẹ và chép miệng thật mơ hồ:
- "Chắc phải đến năm 3000 thì may ra"
Ồ, ông ơi
= Sao ông không cố đợi nguời ta/
Hoàn trả ông trong kiếp sa bà/
Chưa chi đã vội sang bên kia thế giới/
Lủi thủi than phiền với hồn ma/
Cảm thương chủ sách nhà Khai Trí/
Xin kính dâng người một vòng hoa/
Tưởng niệm vong linh người quá cố/
Mong ông vĩnh viễn được an hòa/
Một chút nhớ nhung con đường cũ/
Lê Lợi hôm xưa về cùng ta/
Lệ dâng nước mắt chan hòa/
Ép dòng dư lệ nhạt nhòa cố nhân/
Văn chuơng văn học ân cần/
Nam nhi nhỏ lệ thế nhân vẫy chào/
Hồ trường một thuở bay cao/
Lưu vong u uất lệ trào bờ mi/
Cao xanh thăm thẳm còn ghi /
Rượu kia rót chén sầu bi ngàn trùng
"Hồ trường Hồ trường ta biết rót về đâu/
Nào ai tỉnh nào ai say/
Chí ta ta biết lòng ta ta hay/
Nam nhi sự nghiệp nơi hồ thỉ/
Hà tất cùng sầu với cỏ cây"...The Poem " Hồ Trường( Long-Drinking Wine Container)" - By Nguyễn Bá Trác
Translated from Vietnamese into English by Hương Cau Cao Tân on March 21st, 2023 in British Columbia, Canada
The Suffering of Deep Resentment in Exile
(By Nguyễn Thị Mắt Nâu)
O, how marvelous is the power of poems and prose writings Where clear spirit of magnanimity, crystal pearl, is showing Being immense is the poet’s purposeful uprightness Riding the winds, rummaging the clouds in fearlessness And it is truly so. The power of poems and of prose writings is so marvelous. For example, the Proclamation for Officers and Soldiers by Ethical Revival Lord General Trần Quốc Tuấn did nurture the fighting spirit of his army’s personnel in their determination to fight off the Yuan’s armies.
Or, the poem “The Mountains and Rivers of Southern Nation” by Lý Thường Kiệt, which did enthusiastically fire up his soldiers’ spirit on the water of Như Nguyệt River, drove back the Song’s army and regained lost land, and which, that contained such verses as “The Mountains and Rivers of Southern Nation where Southern Emperor resides/That in Heavenly Books, it is naturally and absolutely destined”, is deemed to be the Proclamation of Independence of the Vietnam nation.
Or, take the poem-and-prose writing of Hàn Thuyên (Academic Thuyên), composed in the year of 1282 during the reign of King Trần Nhân Tông, which also served the same purpose, where the writing was written in a form of eulogy and thrown into the river, chasing off alligators.
Pre-eminent poems and proses, magnanimous impetus The country’s mountains, rivers, destiny are common for us As nation’s misfortunes come, we safeguard it together And defend it, satisfying our patriotic nature
It is said that a pen’s power is sometimes stronger than that of an overwhelmingly brave, vast army who can “point their lances towards thousands of leopards’ lairs”.
It is the same when we consider the power and influence of the verse “We swear that we will brandish our swords, marching courageously into the battlefields …”
Those are the poems that have aroused the inspiration in the hearts of heroes and heroines. Yet if these have been uttered from the mouths of foolish men, then they are deemed to be ECCENTRICITY or RASHNESS. But people of old have a saying that states “When the country is in the danger of being dwindling and nearly lost to the enemy/ Then even fools will be held accountable for and be bearing the responsibility”, i. e. everyone is assumed to be responsible when the country is threatened by danger.
In the Diên Hồng Conference (War Referendum Conference), it was loudly shouted “Countrymen, listen up, can you see that the homeland is in a state of danger/ Since the spirit of hatred and revenge is boiling madly, then should we fight or surrender!!?” And the seniors did shout in unison in the Diên Hồng Conference “To determinedly fight”. That is the overwhelmingly brave spirit and the rising patriotic love in the hearts of both the noble and the not-so
noble.
In traditional opera plays, there is the image of a purposeful fighter who is quietly sharpening his sword under the moonlight, or who is brandishing his sword and carefreely uttering that The hero may die, his spirit may not - It is the image of an undauntedly dignified fighter who stands with thrown out chest, displaying his forever indomitable will as he is facing the lines of arrows or bullets, or even death. Death only means something that is as light as a bird’s feather to him.
“Yet to regard his body, Grand Mountain, as if it were a feather or a strand of hay/ So let’s leave home and wear war protective armor so proudly/ Whipping the horse to cross the Vị Bridge, while autumn wind is roaring impetuously”
Oh my, Life means it is changeable. It makes one wonder whether because there are so many means and conveniences for enjoying fulfillment in the life of current century that these things would wear out one’s dedication, or because of the habit of frequent indulgence that, when one is facing the temptation of luxurious living,
or when one is listening to the appeasing words of fame and profit, even though when it is only impracticable fame, that would still be enough to falter men of modern time’s will, making them lose their nature, themselves, their country, and causing them to easily fall into the trap of empty promises of illusory fame and reputation. Man’s heart is so ironical: We cry for foods in hunger, but then we crave for fame when our bellies are full.
Convenience, materials and gold and money
All these manipulate man’s hearts, making them crazy Fortune placates people who are craving for reputation Who when facing money sell short their conscience A form of luxurious living is devious by nature
Making one submissive and cowardly before his ancestors Forgetting his home country and his ancestry
Selling short his conscience and living so cowardly So then, if one thinks that is eccentricity, let it be. But the poem Hồ Trường (Long Drinking Wine Container) was a famous poetic writing of the renowned poet Nguyễn Bá Trác, composed in the beginning of the twentieth decade of the nineteenth century. It is a poem where the author employs wine to drunkenly express his own hearty resentment and to openly display that of many others who share the same feelings and situations.
The poem was composed during the time when the author was living in exile in China, and was searching for direction in his efforts to save the homeland while being caught in an ironical conflict between his situation and that of his homeland. The timing was perfect for the strong-willed scholar, who came across the song Southern Melody which fitted so nicely into his lamenting mood and situation, to be inspired to generate such poetic ideas.
** Until now, there have been at least five versions of the poem Long-Drinking Wine Container and of the song Southern Melody in circulation, and they are printed in five different prints. Yet they all
preserve in them the powerful sense of magnanimity. And it is said that this famous Hồ Trường poem has been passed by tradition for over 88 years. So it is brought out for recital in meetings of many associations, inducing the hearty sufferings and creating painful knots in the stomachs of Vietnamese refugees. There are even people who is so excited that he yells and picks up a senior’ s cane, and, pretending that he is holding a sword, he would twirl and brandish it as if he were the purposeful fighter of the country of Yên who is about to mount his horse for the mission of assassinating the Chin emperor.
Suppressed resentment in exile causes crazy waves of action From the swordsman who has come from four directions His swaggering uprightness sense is mindless of heroic death His majestic anger’s longing for homeland is firmly set
It is said that ECCENTRICITY is an attractive form in life, especially in literature. It affirms the sharp-witted, unique character through which eccentric form is valiant in defiance of everything.
Despite his being a Doctorate already, Nguyễn Bỉnh Khiêm still wants to be more eccentric so that he could consider himself eccentric enough to heartily laugh and utter the words “Lão ngông tự tiếu thái sơ cuồng", i. e. “In old age, one laughs at himself for being eccentric on his own”; or other words that are written in the following verse: “Bàng nhân mạc tiếu cuồng si khách”, which means: “Surrounding people should not laugh at the heavily eccentric patron” - Eccentricity is the very resentfully displaying attitude of talented people whose talents have not been recognized nor put to good use.
Eccentricity psychology is the want of surpassing reality, in order to satisfy the needs for being liberated - even Nguyễn Công Trứ is eccentric. Having consumed just a little wine, he then would drastically transform himself from a general into a plain private. He is so extraordinarily proud in comparing the cow’s butt with the mouth of secular gossipers through the verses “Horse dismounting and carriage riding make one feel that he is in leisure enjoyment/ Being fed up with rank demotions and mandarinic promotions/ While residing in retirement in the country’s garden, booting the cow’s butt/ Then using the readily dried petiole base to cover the secular mouths and keep them shut”
In modern literature, perhaps Tản Đà is the most eccentric poet. When he has drunk some wine, he would transform his eccentricity into literal form “With poems laden on my back and arms are so carefree/ I would sell my coats to buy paper for writing in eccentricity” - Tản Đà also becomes angry when he feels indignant
by people’s scorning; he is so eccentric that he even dares to write a marriage proposal letter asking for the Heavenly Emperor’s daughter’s hands in marriage, and that he pesters the Heavenly Court so much that the Emperor has to send Nam Tào, His Royal Assistant for Births, to investigate into Tản Đà’s biography for facts: “His Royal Assistant for Births has just finished his record investigation/ Here is the record submitted to His Highness for consideration/ Sire, there is a Nguyễn Khắc Hiếu by the name, really/ Who has been sent down to earth in exile for his crime of eccentricity”
- He then proceeds to joyfully and carefreely calling out for sale all his goods, from his Grand Dreams to his Little Dreams. Meanwhile, poet Tú Xương is eccentric in his own different style, which is so frightening “In hardship I intend to sell even the Heavenly King/ His Highness only smiles and says that the little boy is fond of playing”
But the eccentricity in the poem Hồ Trường is manifested in the image, in the biography, in the literal career, and even in the poetic style of the author. Its image is as eccentric as that of Lý Bạch, who, being drunk with wine, totteringly jumps without hesitation into the river, only to die of drowning while thinking he is embracing the beautiful Moon Queen. It is the same eccentricity of Lưu Linh, who, having been dead drunk, strips off his clothes, and remains naked while yelling loudly that “Heaven and Earth are my home so dear/ Home means clothing, it is so clear/ Why are you all crawling into my clothes, my dear”
* And who is the author of the poem Hồ Trường?
- He is Nguyễn Bá Trác, of penname Tiêu Đẩu, who was born in the Year of the Snake of 1881, in Bảo An Village, Điện Bàn Prefecture, in the province of Quảng Nam (same place of origin with composer Lê Trọng Nguyễn). It is the place that prides itself so much on being the pride of the homeland for having produced many literal talented
elites. Bá Trác was studying in Quảng Nam when he was little. There are many talented people in the Quảng Nam region Yet the talented is suffering greatly beyond imagination Immense place would produce men of outstanding talent In holy places, talented men are produced in abundance In 1906, Bá Trác passed Bachelor Examination in the Session of the Year of the Horse in Huế. He responded to the callings of the patriots who directed the Đông Du (Eastern Overseas Studying) Movement by moving to Hà Nội to learn French language.
In 1908, he travelled to Japan to study. But in the same year, under pressure from the French, the Japanese government disbanded the Đông Du Movement. He was forced to go to China, and later returned to Hà Nội, Vietnam.
Since 1914, he worked in the Media Office of the Indochina Plenipotentiary Mansion, and was Editor-in-Chief for Archaic Chinese Section of the Cộng Thị Magazine until 1916. He had accompanied Old Phan Bội Châu, Old Phan Chu Trinh, and the Foreign Affairs Attaché Mandarin Cường Để in their devoted fights against the French.
On July 10th, 1907, France and Japan signed a Commercial Agreement. Japan borrowed 300 million francs and, in order to gain other benefits, Japan expelled Vietnamese youths who participated in the Đông Du Movement and forced them to return to their homeland. The Japanese government also disbanded the Đông Du Movement in the same year.
Knowing his talents, in the year of 1916, the French commissioned him to be the researcher for the Media Office of the Indochina Plenipotentiary Mansion so they could appease Vietnamese
intellectuals and scholars into co-operating with France Appeasing the youth to fight the nations
Drifting overseas, living out of home in the distance Living unluckily from Japan to China in wandering Now returning to Hà Nội as his heart is suffering Fighting France with the whirling Đông Du Movement Hence Vietnamese intellectuals’ life is itinerant In 1917, under the umbrella of Chief of Secret Police of Indochina, Louis Marty, Phạm Quỳnh founded the Nam Phong Magazine and Nguyễn Bá Trác assumed the role as Editor-in-Chief for the Archaic Chinese Section.
After leaving his post at Nam Phong Magazine, he came to Huế to serve as Legal Assistant for Ministry of Education, holding these titles: Provincial Governor of Quảng Ngãi, Departmental Chief of Ministry of Military, Provincial Governor of Thanh Hóa, and Provincial Governor of Bình Định.
In August of 1945, when the Việt Minh assumed governmental power, they held a public execution by shooting of him in Quy Nhơn, Bình Định.
Besides writing many articles on Nam Phong Magazine from 1917 to 1932, Nguyễn Bá Trác also compiled quite a number of books such as:
1/ Cổ Học Viện Thư Tịch (Book Selections of Institute of Ancient Studies) which consists of 11 volumes, co-compiled with Nguyễn Tiên Khiêm.
2/ Hoàng Việt Giáp Tí niên biểu (The Hoàng Việt Year of the Rat Chronicle) (1925).
3/ Discourses on Chinese Academics (1918).
4/ Hạn Mạn Du Ký (Travelling Diaries on Restrained Discussions) (1920 and 1921). Reprinted by Đông Kinh Ấn Quán (Tokyo Press), Hà Nội.
5/ Discourses on Archaic Chinese 1920.
6/ Hương Giang Mộng (Perfume River’s Dreams) 1920. 7/ Ngã An Nam Dân tộc Nam Tiến Chí (Annamite Self in Southbound Forward Serials) 1921.
8/ Last Words of Proclamation of Confucianists 1921 9/ Nguyễn Bá Học Tiên Sinh Chi Lược Sử Cập Kỳ Di Ngôn (Nguyễn bá Học Esquire’s Fine Last Words Regarding Fundamentals of History (1921).
10/ Du Thanh Hòa Ký (Du Thanh Peace Agreement) (1921) 11/ Hán Học Văn Học Khảo Lược (Literal Compilations for Archaic Chinese Studies (1932)
Although his compiling work is abundant; but the most well known writing collection is Hạn Mạn Travelling Diaries (Leisure Travelling and Sightseeing). It was a descriptive collection written in
archaic Chinese consisting of 14 chapters which he later translated it into Vietnamese and submitted for publication on the Nam Phong (Southern Wind) Magazine from Volume no. 38 to Volume no. 43 in 1920.
* The poem Hồ Trường was published in the Nam Phong Magazine in 1920. It is a poem which previous patriotic youths have widely recited to express their resentful sorrows about people’s attitude and behaviour towards others, about the currently troublesome times when people were in an uproar over the country’s situation.
Previously, “When the country is in the danger of being dwindling and nearly lost to the enemy/ Then even fools will be held accountable for and be bearing the responsibility”. Presently, as the country is in the danger of being dwindling and is nearly lost to the enemy, yet it seems that the intellectuals are still unclear about what needs to be done and about what their responsibilities are. If it is true, then it simply shows the difference between people of old and those of present
* In his Introduction, Nguyễn Bá Trác told us about the reasons for his composition as follows: “I had returned to the country for 5 years. From the time I left in 1908 until the time of my return to Sài Gòn in the middle of August of 1914. When I mutely count the time by my fingers for the period of vagabond travelling, it has been already six years since. I was wandering within the country for a year. I temporarily resided in Thailand for ten days as a guest. I went to Japan for one month. Then I went to China. All the missing and longing, as I was travelling past the places of western Ba Thục, of northern U Uyên, or of southern Quế Việt, have left somewhat the traces of my goings. So I now only recall the sceneries of the places I have visited and of the roads I have travelled and record some selected few. I have not mentioned any of the other things.”
Strangers’ land have worn out the heels of the wanderer He crosses Japan, Thailand as the pacing is still blurred As the wandering time in China is under mental recollection The dark sorrow in exile would be his deep resentment As he craves for the paused moment of return to the country Homeland seems so distant, covered with smoke thickly When regarding this writing, the literal researcher Phạm Thế Ngũ wrote: "The Vietnamese sentences are quite coherent as there are some melodious parallel sentence pairs. The sensational details of the explorations in strangers’ land provide us many arresting things. It is especially so to the current Confucian readers, who have been dreaming about the Eastern Overseas Studying Dream. If that does not come out, then their minds would still be full of the memories of famous people and of famous landscapes and of beauty spots of China.”
In the old days, China was clearly the idol to our people of old. It is even so to women. So the reading of Hạn Mạn Travelling Diaries is very interesting.
Poetess Tương Phố has used many editions of Nam Phong Magazines as pillows, placed at the end of her bed, to read travelling diaries of Esquire Quỳnh (alias Phạm Quỳnh) and of Esquire Trác (alias Nguyễn Bá Trác), in order to travel France and China in dreams.
When he prepared the book Quốc Văn Trích Diễm (Fine Excerpts in National Script) in 1925, Mr. Dương Quảng Hàm reserved two articles for writings from the travelling diaries of Nguyễn Bá Trác. Those were the writings of Roads to Hong Kong and Kim Lăng Eulogy … so it is obvious how fond the current readers loved and enjoyed reading literature at that time.
There was such a time that was so rare, if ever When readers joyfully save materials for reading later But now they are no longer precious due to overabundance Being scattered all over so they transform into worms easily And in this very National Script Writing, there is the Southern Melody, translated into National Script, which helps make him more famous.
The following is the Vietnamese transliteration from the archaic Chinese version, excerpted from the article by Dương Bá Trạc in Nam Phong Magazine, which has been copied by researcher Phạm Hoàng Quân.
"Trượng phu sanh bất năng phi can chiết hạm vị thế phù cuơng thuờng/ Tiêu dao tứ hải, hồ vị hồ thử huơng/ Hối đầu nam vọng mạc vô cực /hề/ thiên vân nhất sắc đồ thuơng thuơng/ Lập công bất thành, học bất tựu, thiết tráng hữu cơ thời, hề, toại thị bách niên thân thế khu âm duơng/ Phủ chuởng cuồng ca vấn tư thế/ Mang mang thiên địa, an đắc tri nhất tri kỷ hề, thí lai đối chuớc hữu dư thương// ...”
There are more of it but let’s translate this paragraph first: “The noble man, while living but without exposing his courage in his liver, nor bending the post in his determined decision before death in order to care for and resolve life’s matters
But he just continues wandering aimlessly in the four oceans, searching for the whereabouts of his homeland forever As he turns his head towards the southern direction, hey, it is just so misty and distant
The clouds are rising in the sky of blue colour that is deepened He can neither create meritorious work nor finish his studying Yet how long can he stay young in his youth as away is it floating
He can only sits watching the hundred-year lifespan floating away in alternate mornings and evenings
I throw the full wine glass into the rain falling on the western mountain, which all over its ground is it spreading
I then throw the full wine glass into the northern wind and chase it as it blows, lifting the sand and stones and moving them to places
I throw the full wine glass into the dark cloudy southern sky, in which there are people who open their mouths wide and stay in unruffledly drunken state
All of my dreams of moving freely in the four directions of open sky are already lost, so why can’t I be drunk and be doing what I aim to do in things
It has been traditional for men to follow their great dreams in life
So what is the point of lamenting about and crying for the dear homeland, I wonder why.”
Men’s uprightness is manifested in roving freely over the four corners of the earth “Being a man means you employed bows and arrows to build your career in life/ And to consider fame and reputation as unwanted debts, never mind” …
Yet almost everyone seems to like being tied down with those debts. It has been such so that even the Grand Poet Nguyễn Du has to murmur softly that “Since you have voluntarily taken up your conditioned destination/Then blame it not when you wonder whether close or far is heaven”
To men, home is where all the for oceans are
It is like a fluttering butterfly in the yard
Spreading your arms wide, heaven and earth seem closer But then you would be like that fluttering butterfly as ever * The poem Hồ Trường (which physically means the wine drinking container), excerpted from the archaic Chinese – Vietnamese version in the Hạn Mạn Travelling Diaries (which means the diaries of a sightseeing), was published in the year 1920, and later was translated by translator Dương Bá Trạc, and published in the Nam Phong Magazine no. 41. Yet since its appearance, this poem had consumed so much paper and ink by writers, poets and poetesses, learned intellectuals, and even researchers of literal history in their discussions and studying of the original version of the poem.
Even the name Hồ Trường was not initially created by Nguyễn Bá Trạc, but rather was excerpted from some verse’s wording and was named as the title of the poem. This poem was in chapter 10 of the Hạn Mạn Travelling Diaries Collection.
In this 10th chapter, the author wrote that the timeline was about in the year 1912, and as the storey went, while he was wandering into Shanghai, he met with a country fellowman who had similar direction and who possessed an excellent voice speaking the Cantonese dialect.
Then in one night, the two of them went out drinking; as they became half drunk, that Nguyên Quân guest stood up and sang a song which later was called The Southern Melody.
Incidentally, there was a military mandarin from the next table, who was from Trực Lệ and had the last name of Lưu, and who heard the song and came to inquire about its name, to whom the Nguyên Quân guest replied: “That is a special Southern Melody.” The Lưu man then joyfully uttered: “It sounded sad yet heroic, with many undaunted stanzas. Why is there such excellent melody from the South?” And Mr. Lưu asked for permission to copy the song onto paper for safekeeping.
The story from the pub, which consists of the hearty heroism and carefree wine drinking of the lamenting wanderer, somewhat reminds us of the images in the martial stories of Kim Dung that have once doted on our minds and hearts before 1975.
I, the purposeful fighter, being dusty from long travelling Have indomitable will, mind it not the road, and roam freely Regarding distant homeland with sorrowful suffering With high expectation, for homeland’s sake, responding
Men’s will is what the homeland is waiting for
Even the long river would have its waves in an uproar I dream of the day of seeing again the light of glory When heaven forgets about the resentment from me I would sing in the moonlight so magnificently.
When he introduced the translation of the Nam Phương Melody, Phạm Thế Ngũ wrote: In the Hạn Mạn Travelling Diaries, there is a special folk song composed by the author, a friend, who he personally met in Shanghai, and who, because of the same situation of wandering in exile due to political reasons, frequently employed songs for singing in travelling inns with the hope of minimizing personal pains. That song was favoured and memorized by heart by current listeners in occasional reciting, and was especially favoured and memorized by groups of people who belonged to the revolutionary class
* The following is the transliteration from archaic Chinese into Vietnamese which is excerpted from the Nam Phong Magazine no. 41 of 1920 edition. The translation, done by Dương Bá Trạc and is copied by researcher Phạm Hoàng Quân, which Nguyễn Bá Trác has translated from the original Nam Phương Melody:
“The noble man, will not be frequently exposing his liver to show his courage, nor be bending the post in his determined decision before death, in order to support the Three Ethical Relationships Code and the Five Moral Virtues
So what’s the point in wandering aimlessly in exile in the four oceans, away from his homeland forever The southern sky is thousands of miles away over The clouds and the water are blended together in same misty colour
He cannot complete his studying
Neither can he establish his reputation, as his youth is lingering momentarily and white is his hair becoming So I clap my hands in my singing, and bend my head aside in my asking, as heaven and earth are immense ever Whoever is my soulmate friend, please come here and drink up with me this long-drinking wine container Long drinking wine container! Long drinking wine container! How can I know where to pour it or towards which direction
When I pour it towards the eastern direction, the water of the eastern oceans are flowing heavily, generating the turbulence
When I pour it towards the western direction, the western mountain rains are pouring one by one so immensely
When I pour it towards the northern direction, the northern wind is blowing hastily, moving stones and raising the sand so spreadingly
When I pour it towards the southern direction, the southern sky is so misty and distant, and there are people who are so drunk that they appear to be so eccentric and crazy
Who is the sober one, who is the drunken one; my will only I know well, my heart only I can comprehend much Men’s career is built on the skills of using the bows and arrows, so there is no need for carrying the sorrow and facing grass and trees as such.
* According to author Vũ Ngọc Phan, whose writing is in the book The Current Writers, there has been a mix-up between the authors Tiêu Đẩu Nguyễn Bá Trác and Tuyết Huy Dương Bá Trạc, who is a brother of Professor Dương Quảng Hàm; the latter is also a writer
whose books were published in the middle of the 20th decade and who also wrote in the Nam Phong Magazine.
Complex and complicated is the copyright situation Involving name duplication but words’ signs are different That is the nature of names in Vietnamese
As confusions remain as they would usually be
The current poem Hồ Trường, the most refined and most favoured in circulation, is the one which is recited by the voices of Tôn Thất Hanh and of Lệ Ba, Nguyễn Bá Trác’s own daughter, is recorded on cassettes, and is distributed in Canada. In the tape there is the author’s daughter’s message for her two children as follows:
“The poem Hồ Trường is not only the will and expectation of your maternal grandfather but also is the lasting will and expectation of the current youths.” While preparing the book Vietnamese Prose and Poetry Anthology (Việt nam Thi Văn Hợp Tuyển), Professor Dương Quảng Hàm did excerpt another poem from the same Hạn Mạn Travelling Diaries, the poem “Quanh Đường Vượt Ra Khơi” (Banking On The Way To The Open Ocean), and he had the book published by the Trung Tâm Học Liệu Saigon (The Saigon Studying Materials Centre), in the tenth edition in 1968.
O the hearty courage that dares to cross the vast ocean Where the ever blue ocean’s waves are slapping so often Men’s will and expectation are shatteringly broken minutely Cloud and wind ridings in blue sky, in golden sunray so easily.
- In the poem Hồ Trường, one can see “the people from the South” are mentioned repeatedly many times in its verses. This term “the people from the South” refers to those from the region of Lĩnh Nam, China. And the term “chiết hạm” in the verse means “bending the post”.
The classical reference “Bending the Post” originates from the book Hans Book, in the story of Chu Vân under the reign of Hán Thành Emperor, which is as follows: Chu Vân submits to the Emperor asking for the execution of the Baron An Xương Trương Vũ; this angers the Emperor so much that he decides to kill Chu Vân. When Chu Vân is dragged away, he grabs a post in the palace so tightly that it is bent and broken.
Yet when the Emperor renovates the palace, he orders that the partly broken post to be left untouched so it can preserve the implying image of integrity and honest saying. Hence this term “Bending the Post” is used by posterity to show a courageous act of a loyal subject who dares to advise the Emperor against his will.
Empirical acquaintance is like playing with a tiger It means not knowing when it would make you suffer Sometimes it is decent, other times so aggressively harmful Since its heart is unpredictable, you should be very careful
And the term “cương thường” is well-known to everyone; it is derived from the combined word of “tam cương ngũ thường”, The Three Ethical Relationships Code and The Five Moral Virtues, the former means “the three relatively moral relationships between 1. The king and his loyal subjects; 2. A father and his children; 3. A husband and his wife”; And the latter consists of the five moral virtues a person should strive to keep, i. e. Benevolence,
Righteousness, Rites, Knowledge, Trustworthiness.
Since we do not have an Institute of Academics, our Vietnamese language has not developed standards for it usage. So it is up to the local intellectuals to employ the language for use at their wills.
The Southern Script, the Archaic Chinese, the National Script, and Latin Script, all have created many errors and misunderstandings, e. g. the initial term “thoi vật ông vải” (The Shuttle is Wrestling with Mr. Cloth) has already and eventually transformed into “Ma vật ông vãi”, i. e. “Ghosts Wrestling with the Monk”. And these would gradually become the “official literature” for the common people.
Despite of everything, the poem Hồ Trường has created the magnanimity and uprightness in the vast field of mawkish literature of a once romantic period, which that “laments to the clouds and cries with the winds”, and which that can only produce uselessly sorrowful, empty words such as those in The Southern Voyage by Nguyễn Bính
“O man, I still cannot cry despite my feeling so sorrowful But I rather laugh out loud going through wine glasses that are full Like Kinh Kha, the commissioned assassin, who drinks in a cold inn You and I are joining together in a hearty laughing
I stress the bowl and throw the content the wild grass over And sing that in the South you and I are together
Nowadays, there are people who are still wondering if Nguyễn Bá Trác is the true author of the poem Hồ Trường.
Regardless of everything, after 1975, on sparse drinking tables of discontented people and of those who are occasionally drunk, there appear the same poem Hồ Trường, recited in so many varied formats and styles of voices. They sound somewhat so proudly vainglorious and heroic yet so woeful that they make the once down and-out people grieve for their own destiny and situation. People like those soldiers who have retired from holding weapons for shooting to taking up ploughshares for toiling the fields in the country. Or those officers, whose sentences have expired and who have come back to civil life pedalling tricycles to make a living, etc... When these people listen to the poem Hồ Trường, they would feel touched, and they somehow could identify with it. They may know the name Nguyễn Bá Trác, yet very few know well about this author’s biography. But when they listen to the strong-willed and grandiose verses such as “Long drinking wine container! Long drinking wine container! How can I know where to pour it or towards which direction
… my will only I know well, my heart only I can comprehend much
Men’s career is built on the skills of using the bows and arrows, so there is no need for carrying the sorrow and facing grass and trees as such” then their strong-willed innermost heart would be violently shaken and be flaring up with emotion. So they would drink up glass by glass. The wine is absorbed into the heart. It then flows out by the lips to melt away the dolefully humiliating burden. And to melt the lingering sorrow of wandering in exile
Men’s will is so strangely astounding
As cold as the wind, through the window is it blowing Yet it turns as rubbery and soft as silk all of a sudden
Or as incredibly warm in times of unlucky misfortune Desolation would sever the rubbery silk strand as such Tenderly press the frets, pluck the strings, feeling touched
- Poet Vũ Hoàng Chương has dolefully cried out:
“We have been born at the wrong time of the century A couple of us are spleenfully suffer the sense of solitary An errant life does not tolerate a soul of simplicity
O boat, O boat, please dock at the simple, distant dock in the country The wine has penetrated into the blood as we are waiting for sunset We hang the sails high and join in the fisherman’s lullaby The winds have blown in time with wavering moonlight so sad O boat, O boat, please yield to the winds, behave well accordingly”
Poets, strong-willed scholars, all are mildly and generously drunk. They are now tottering along in a poetic spirit, are suffering from current homeland’s situation, and are melancholic and nostalgic of an errant life of wandering in strangers’ land … all of these depend on their strong will.
The strong will of people of old is rising so loftily As they totter in feeling self-proud so contentedly Love for homeland is strong, whether close or faraway Feeling deeply dazed of homeland as they are away Love a person; love also his home and his country Determinedly avoid degeneration for the day of return-to-be That is the idea of waiting for the day of returning to the homeland when it is beautiful again, so we could join our hands together to do its literal rebuilding, just like the culture loving story of a culturist. He is the owner of Khai Trí Bookstore, located on Lê Lợi Street in pre-1975 period.
Mr. Nguyễn Hùng Trương, who the Saigonese of that time affectionately called Mr. Khai Trí, is a generous and compassionate person who rarely talks about himself; therefore, very few people know that he is a living model.
Starting from nothing, he has become the greatest and most prestigeous book investor in the South during the pre-1975 period. Mr. Nguyễn Hùng Trương was born in 1926 in Thủ Đức and he passed away on March 11th, 2005 after two weeks of staying in the hospital. He was 80 years old. - His biography is as follows: When he was little, he often skipped his breakfast, saved the money his mother had given to him so he could buy newspapers to read - He studied at Petrus Ký High School in Saigon, and was able to buy an old bicycle to return home in the weekends (The distance between Saigon and Thủ Đức is about 12 kilometers). The majority of books and magazines he bought were from overseas. Until the beginning of 1940, he already had had a valuable bookcase. His friends realized that he had many books and magazines so they frequently asked him to buy books and magazines for them. Once there were five of his friends who wanted his help in buying, so he decided to buy a whole lot of 10 books to receive the wholesale discount rate of 30% in commission, given by the bookstore. He left the unsold books on consignment at the bookstore and three days later the owner asked him to supply more of the same books because those on consignment had been sold.
Fond of reading since the time he was a youngster He who has many good ideas so fresh and better Who absorbs knowledge in a leisurely manner
And saves money to use in some business later - From such trivial matter, since he was a student, he had had the idea of buying books and magazines from abroad and then reselling them on consignment at domestic bookstores. The books he chose would be valuable and rare ones. He bought only a few at first, and then increased the amount to some twenty books when the selling was getting better.
By saving up money gradually, in time, he had enough money to purchase and open a small bookstore at number 62 on Bonard (Lê Lợi) Street in 1952, which later became known as the Khai Trí Bookstore before it was called the Saigon Bookstore nowadays.
- This bookstore was the first one in Vietnam which employed the self-serving format where customers could stand in place for hours reading books without having to buy them. There were female employees in uniforms here and there who received customers in a pleasant and caring manner while watching them discreetly and politely.
- At that time, such form of service was quite new, civilized and was strongly supported by customers. The result was that the bookstore was expanded into two joined compartments with many storeys.
Customer Service form is quite civilized
Such thinking and idea are from his own mind
Developing Khai Trí means opening the mind
And making the Lê Lợi Street better and nice
Liberating self-meditating culturally
So to make Saigon a better civilized place-to-be - The Khai Trí Bookstore was also responsible for the publication of carefully selected books of diversified and high quality. Another hobby of Mr. Hùng Trương was the collecting of books and magazines. Taking the French Le Monde Magazine alone, he had in his possession all editions from the first to the edition of April 30th, 1975.
- Together with writer Nhật Tiến, he founded a newspaper for youths and was the compiler of many valuable books. During the period of ten years, from 1993 to 2003, he compiled 15 books:
> Vietnamese Love Letters
> World Selection
> My Beloved Homeland
> What Children Should Remember
> Word Writing For Southerners
> Beloved Huế
> Beautiful Poems in Vietnamese Literature …
- Writer Nguyễn Thụy Long, (author of the book Loan Mắt Nhung “Velvet Eyed Loan”, the novel which northern researchers of post 1975 later utmostly and heartily praised)
And there was a writing titled “Farewell, Mr. Khai Trí”, which mentioned about his sad and sorrowful situation in post-1975. Different in region, different in culture
Personal viewpoints to be changed in colour
But literature is beautiful and should be transparent We ought to lift it up to higher elevation
Meditating on mutually wicked reactions in one sad evening Lifelong work is destroyed as the wind seems choking --- Mr. Khai Trí passed away from old age’s exhaustion after so many years of trying to get back his bookstore since its expropriation during the Cultural Purge in 1976. Many writings were burned in this period. Many more writers and artists were arrested. Even Mr. Khai Tri was considered a criminal for his running a cultural business.
Nowadays, his Khai Trí Bookstore employs the name Phahasa in the same resplendent Saigon capital
Men’s mutual behaviour and the world’s ways are bitter Human livelihood in daytime is fleeting, and is soon over Ideals are vanished leaving only resentment and sulking Eyes are burning as teardrops are falling
I pity him for his life full of active devotion
Evening dreams appear and then disappear in flying motion Indulging in books and magazines is indeed very dreamy As life is changed, one finds himself utterly poor and empty
- In a setting of a dazed evening overseas, while stopping at some street corner, let’s imagine an image of a silent man, looking fixedly at the gate of the Khai Trí Bookstore. That is the man who is passionate about books and magazines. He has a life full of passion, and has actively contributed to the culture of a society, which we might call the Society of the Good Golden Days.
- That same silent and quiet shadow, with his hands clasped behind his back, is still looking fixedly at the gate of his once own bookstore which has now become the past. Then some other people step up and quietly ask:
- “How is the bookstore now?”
That tottering shadow attempts a very faint smile, exhaling very lightly and chirping his lips so vaguely:
- We might have to wait for a chance perhaps until the year of 3000”
Oh, my man
Why can’t you try to patiently wait for them for a while When they return it to you in this very secular life Why do you have to go away to another world in a hurry Only to wander complaining among the ghosts so lonely My love and gratitude to the Khai Trí Bookstore’s owner As I present to him a simple wreath of flowers In remembrance of the soul of the man who passed away May you be forever in peace, come what may
A little missing for the old road of the old days Lê Lợi Street, where we have walked together on the way Tears are swelling in my eyes as they would be overflowing When I try to suppress them, your image is blurring I remember your caring spirit for the homeland’s literature That would make one cry and wave to you now and forever “Long Wine Drinking Session” once is flying highly, proudly Now only tears are overflowing in exile so spleeny Your story is received in heaven by the lofty Creator I am pouring the wine, feeling sadness in thousand layers
“Long drinking wine container! Long drinking wine container! How can I know where to pour it or towards which direction Who is the sober one, who is the drunken one; my will only I know well, my heart only I can comprehend much
Men’s career is built on the skills of using the bows and arrows, so there is no need for carrying the sorrow and facing grass and trees as such”
Translated from Vietnamese into English by Hương Cau Cao Tânon March 21st, 2023 in British Columbia, Canada