Thứ Bảy, 24 tháng 7, 2021

Cây Sung (Tên Pháp Là Figuier)


Cây sung tên Pháp là Figuier. Tuy cùng họ sung nhưng không giống trái sung của Việt Nam, vì rất ngọt (ở Châu Âu Sung Turquie ngon nhất ).
Tui trồng cây Sung trong chậu ngoài balcon lầu 6. Cây con tui mua cao khoảng 3 tấc, 1 năm sau thì nẩy 3 nhánh và cao hơn 1m.
Mùa Đông vừa qua tui đã cắt bỏ 2 nhánh.Nay mọc lại thật nhiều nhánh khác sum suê, nhưng chưa thấy trái.
Trái Sung mọc ngay cạnh nách cuống lá. Nếu thích thì trồng thử đi các Bạn, rất dễ trồng và không đòi hỏi nhiều chăm sóc.


Năm 2019 , tui mua cây sung ở Lidl 3,90 euros . Năm 2020 thu hoạch được gần 10 trái. 


Mùa Đông vừa qua tui cắt bỏ tất cả nhánh cây sung, trừ 1 nhánh hơi xa. 
Năm nay, nhánh còn lại cho hơn 30 trái còn nhỏ 


Mấy hôm nay trời nóng nực, có 1 trái đã chín 

Bạn nào có trồng sung, chắc cũng thấy như tui:” khoảng vài hôm trước trái sung chỉ to cở ngón chân cái, màu xanh, nhưng khi chín đổi thành màu nâu tím và to cở cườm tay.

HQ.tkd

Tình Mùa Đông

 Nụ hồng trước gió đung đưa
Tiết đông giá lạnh cho vừa lòng ai
Mình ta sớm tối u hoài
Nhìn theo lá rụng đôi tay chờn vờn
Cánh chim nương gió từng cơn
Dặt dìu đưa đẩy chẳng sờn lòng son
Tình ta bền chặc chẳng mòn
Đâu đây vẳng tiếng mất còn trăm năm

Nguyễn Cao Khải

Tôi Không Là Văn, Thi Sĩ


Tôi không dám nhận mình là “văn sĩ”
(Cũng chẳng mong được gọi như vậy đâu!)
Thế giới văn chương muôn sắc muôn màu
Tôi chỉ là một người hay “kể chuyện"

Là thế đấy, vì tôi yêu tha thiết
Cuộc sống xung quanh với những buồn vui
Xao xuyến trong tôi một áng mây trôi
Nghe tiếng mưa rơi, sao đêm bàng bạc

Giữa dòng đời, khi lên ghềnh xuống thác
Có nhỏ nhen, có rộng lượng thứ tha
Tôi đã viết những chuyện của người ta
Và chuyện của mình, bao điều muốn nói

Dù còn đó những bon chen, giả dối
Tôi thích nhìn đời hài hước, đẹp tươi
Tiếc gì đâu một câu nói, nụ cười
Hoa vẫn nở dưới trời xanh rực rỡ

Tôi góp mặt làm bông hoa bé nhỏ
Tạ ơn Người, ta sống để yêu nhau
Tạ ơn Đời, tôi đa cảm đa sầu
Tôi viết say sưa, dạt dào cảm nghĩ

Tôi cũng không nhận mình là “thi sĩ”
(Chẳng bận tâm đến điều ấy làm gì!)
Thơ của tôi dù theo gió bay đi
Cũng cho tôi vài phút giây mơ mộng

Tôi là chính tôi, không nhìn ngang dọc
Không ngọt ngào sáo ngữ rộn ràng kêu
Như buổi chiều căng gió ôm cánh diều
Tôi thảnh thơi đón hương đồng mùa gặt

Tôi là chính tôi: như trong đời thật
Không với trời cao, không theo bóng ai
Chữ nghĩa thênh thang như con đường dài
Tôi vẫn đi tìm tri âm tri kỷ

Đơn giản thế thôi: tâm hồn nghệ sĩ
Văn hay Thơ, tôi cũng sẽ hết mình
Cảm xúc đầy vơi, với cả chân tình
Gởi người chưa quen và người thương mến

Tôi chẳng mơ... “văn thi sĩ” nổi tiếng
Nhưng suốt đời vẫn thích viết Văn Thơ.


Edmonton, August 1/2019

Kim Loan


Biển Dại - Sáng Tác: Nguyễn Thanh Cảnh - Ca Sĩ: Cao Huy Thế

 

Sáng Tác: Nguyễn Thanh Cảnh 
Ca Sĩ: Cao Huy Thế

Mong Con Ngày Cuối Tuần



(Tặng các cụ già Việt Nam trong Nursing Home)

Nhà mẹ là Nursing home 
Ăn ngày ba bữa cháo cơm đủ đầy 
Giường nằm nệm ấm mùa này 
Cái gì cũng có … nhưng lây lất buồn
Chung quanh bạn chẳng xóm làng
Ít khi có ánh nắng vàng thu đông.
Ngày ngày mẹ nhớ Việt Nam 
Nhớ bờ tre trúc nắng hồng thêu hoa 
Ăn thì ... tương mắm với cà
Mấy con cá lẹp ... cả nhà cùng ăn 
Cơm niêu nước lọ đã quen 
Mùa này vườn có cải ngồng ra hoa
Mây thu man mác la đà 
Ao bèo cá ngậu - giữa trưa nắng đào
Đêm về đom đóm thi nhau 
Lập loè bay khắp sân sau sân ngoài 
Mưa lớn ễnh ương vui vầy 
Vui vì chúng có cặp đôi vợ chồng ...

Riêng mẹ - nhà Nursing Home
Hai hàng nước mắt chảy ròng từng đêm 
Thức ăn lạ, chẳng Việt Nam
Răng rụng móm mém ... mong con cuối tuần 
May ra chỉ có cuối tuần 
Mẹ mong từng bữa hết nằm lại ra 
Ra hiên trông sáng trông trưa,
Cuối tuần con bận... Bao giờ con thăm?

Thư Khanh


" Quê Hương" Vũ Trụ Thơ Của Thi Sĩ Trần Quốc Bảo - Lại Quốc Hùng


Tâm Thư
(thay Lời Tựa)

Anh Bảo quý mến,

Em rất cảm kích khi anh có nhã ý dành cho em (một cậu em họ, nhỏ tuổi hơn anh nhiều trong gia đình họ Lại, em của chị Lại Bạch Hường, hiền thê yêu quý của anh) , vinh dự được viết lời giới thiệu tập thơ “QUÊ HƯƠNG” của anh, dù anh biết em chỉ là một giáo sư Triết, không trực tiếp dính dáng đến văn chương, tuy trước năm 1975, em đôi lúc cũng có dịp giảng dạy môn Quốc Văn khi nhà trường thiếu giáo sư cho môn này. Anh nói với em: “ Anh có thể nhờ bạn hữu viết lời tựa cho tập thơ của anh, nhưng anh muốn có kỷ niệm trong gia đình, một kỷ niệm sâu đậm giữa hai anh em mình…”

Vì vậy, thay vì viết “Tựa” theo lối thông thường, em xin phép được viết dưới hình thức một “Tâm thư” gửi đến anh, nói lên tâm tình của em khi đọc thơ anh và như vậy, gián tiếp gửi đến quý độc giả, bạn bè, thân hữu của anh, vài nhận định chủ quan của em về thi tập “Quê Hương”. Đúng hơn, những gì em viết dưới đây cũng giống như một lời “Bạt” để cuối tập thơ.

Như em nói ở trên, chuyện dạy môn Quốc Văn cũng đến với em vào năm 1974, khi em được đổi về Sàigòn, dạy học ở trường trung học Tây Sơn, một ngôi trường mới xây, nằm khoảng giữa xa lộ từ khu ĐaKao đến trường Bộ Binh Thủ Đức. Em là giáo sư Triết, nhưng vì trường chỉ có hai lớp đệ nhất ban A và B, không có ban C, nên anh bạn giám học nhờ em phụ trách giảng môn Quốc Văn Lớp Đệ Nhất, một chương trình mới hoàn toàn, được áp dụng kể từ niên khóa 1974-1975, ấn định bởi nghị định số 1445-VHGDTN-KHPC—HV ngày 29-6-1974. Ngày đó, vì là một chương trình mới toanh, một chương trình đa dạng, phong phú, nên em đã phải bỏ thời giờ rất nhiều để tìm tài liệu giảng dạy từng chương, từng đoạn của chương trình môn Quốc Văn mới này.

Sở dĩ em đề cập đến chuyện này trong Lời Tựa giới thiệu tập thơ của anh vì khi in xong 100 bài thơ anh gửi cho em, nhìn qua mục lục tập thơ, em nghĩ ngay đến nội dung của chương trình môn Quốc Văn Lớp Đệ Nhất năm xưa, một nội dung gắn liền với con người của anh, của em, của những con người Việt Nam được hun đúc trong những dòng tư tưởng lớn đã được chương trình này đề cập: Tư tưởng thuần túy dân tộc trong văn chương bình dân, tư tưởng bắt nguồn từ đông phương (Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo), tư tưởng bắt nguồn từ tây phương (tư tưởng lãng mạn, ảnh hưởng của Tự Do, Dân Chủ, ảnh hưởng của Thiên Chúa Giáo). Em thiết nghĩ đây cũng là một đường hướng, một phương cách để đọc thơ anh.

Nếu 100 bài thơ của anh là đúc kết cô đọng những kinh nghiệm sống của một đời người, trải qua bao biến đổi thăng trầm, thì tìm hiểu con người và thơ của anh, qua lăng kính của những dòng tư tưởng trên, cũng giúp cho người đọc dễ dàng tiếp cận với nguồn thơ đa dạng và phong phú của anh.

Vâng, trước tiên, nhà thơ Trần Quốc Bảo là đứa con của tư tưởng bình dân, của ca dao, tục ngữ, ơn nghĩa với tổ tiên, xây dựng và gìn giữ đất nước. Bài thơ mở đầu “Quốc Tổ Hùng Vương” đã vang lên như một lời nhắc nhở con dân Việt hãy nhớ nguồn cội của mình, nhớ đến tổ tiên, cha ông chúng ta:

Dù ai lưu lạc đường xa,
Nhớ ngày Giỗ Tổ, tháng Ba, mùng Mười
Tổ Hùng Vương, mười tám đời
Trường tồn thiên địa, rạng ngời trăng sao.
*****
Giống nòi Quốc Tổ khai sinh
Công ơn lập quốc, định hình núi sông
Chim có Tổ, người có Tông
Việt Nam nguồn gốc, con Rồng, cháu Tiên

Ảnh hưởng của ca dao cũng in sâu vào tiềm thức, lời thơ của tác giả trong những bài “Ru Con”, đặc biệt bài “Ru Con, Canh 4”, dù lời thơ được đặt trong hoàn cảnh đau thương của nước Việt Nam hiện nay:

À ơi,
Hạ hời ơi
Canh tư con ngủ cho ngoan
Ru con lòng mẹ nát tan thảm sầu
Đắng cay nhìn khắp năm châu
Việt Nam mình có phải đâu ngu hèn
Vẫn dòng Hồng Lạc-Rồng Tiên
Giang sơn như gấm hoa miền Á Đông
Biết bao liệt nữ anh hùng
Biết bao tuấn kiệt, kiếm cung văn đàn
Thế mà Nước mất nhà tan
Quốc dân gánh chịu muôn vàn khổ đau
Sĩ phu… sao chịu… cúi đầu???
Anh thư hào kiệt.. lánh đâu hết rồi???
Da vàng máu đỏ con ơi!,
Có nghe lời mẹ ru hời năm canh???


Ảnh hưởng của văn chương bình dân, của lời ru, câu hò đến con người Viêt Nam là chuyện đương nhiên. Nhưng từ ngàn xưa mỗi con dân Việt Nam đều tiếp nhận nguồn mạch Nho giáo; hình ảnh một thầy đồ vẫn phảng phất đâu đây. Ảnh hưởng Nho giáo này rất sâu đậm nơi anh và đã được Tiến Sĩ Trần An Bài ghi nổi bật trong lời tựa của cuốn “Một Thời Mộng Hoa” gồm có các bài thơ được phổ nhạc của anh: “Thi sĩ Trần Quốc Bảo được sinh trưởng trong một nề nếp nho phong. Thân sinh ông là cụ Trần Văn Phác- Cử Nhân Hán Học. Thi sĩ Trần Quốc Bảo được thân phụ dạy kèm chữ Hán từ nhỏ. Khi lớn lên, ông chăm chỉ tự học và đọc nhiều sách Hán văn, chuyên về Triết học Á đông và Đường Thi. Ông là một trong số rất ít các nhà văn thơ đương thời, còn thông thạo chữ Nho và chữ Nôm”. Nguyên tuyển tập “Hàn Thi - Đường Thi Tuyển Dịch” của anh, do Bút Việt Văn Đoàn xuất bản năm 2019, gồm 135 bài Hàn thi và Đường thi do anh tuyển chọn và dịch một cách công phu, tài hoa, cũng đủ nói lên tính cách “thâm nho” của anh. Em xin đan cử một bài, bài “Dịch Thủy Tống Biệt”, một bài thơ rất nổi tiếng của Lạc Tân Vương thời Sơ Đường (618-713):

Dịch Thủy Tống Biệt 易 水 送 别
Thử địa biệt Yên Đan 此 地 别 燕 丹
Tráng sĩ phát xung quan 壯 士 髮 衝 冠
Tích thời nhân dĩ một 昔 時 人 已 沒
Kim nhật thủy do hàn ! 今 日 水 猶 寒

Tiễn Biệt Tại Sông Dịch

Vĩnh biệt Yên Đan tại bến này
Uất hờn tráng sĩ ngút ngàn mây
Người xưa tích cũ nay đà khuất
Sông nước còn vương lạnh tới nay
(Bản dịch Trần Quốc Bảo)

Trần Quốc Bảo không dịch sát nghĩa câu thơ thứ hai “Tráng sĩ phát xung quan” (Tóc tráng sĩ dựng lên giương mũ) , nhưng câu thơ dịch cho ta thấy cái hào khí, sự căm hờn sôi sục, dâng cao “ngút ngàn” của Kinh Kha bên bờ sông Dịch, trước khi ra đi với nhiệm vụ hành thích bạo chúa Tần Thủy Hoàng. Hai chữ “vương lạnh” cũng nói lên sự tê tái, xót xa của người đời nay khi nghĩ đến người tráng sĩ năm xưa ra đi mà nhiệm vụ bất thành, không ngày trở lại. Bản dịch thật hay.

Đọc mấy câu mở đầu của bài thơ “Tiếng Gọi Quê Hương”, ai không nghĩ đến ảnh hưởng của Đường Thi trong thơ anh:

Quốc phá gia vong vạn cổ sầu
Chúng mình mất hết chỉ còn nhau
Lời thề sông núi tâm hoài niệm
Tiếng gọi quê hương dạ xót đau.


Dù muốn hay không, con người Việt Nam luôn thấm nhuần đạo Nho. Tam Cương, Ngũ Thường, cách tiếp nhân, xử thế của bao anh hùng, hào kiệt, những con người đã có công dựng nước, giữ nước, trải qua bao nhiêu biến cố thịnh suy và để lại cho chúng ta giải giang sơn gấm vóc hiện nay. Ảnh hưởng đó không dễ gì phai mờ, dù có bao những đợt sóng tràn vào với những ý thức hệ khác nhau.

Hơn thế nữa, trong huyết mạch của dân tộc ta, làm sao không có ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo. Đạo Từ Bi, Tứ Diệu Đế, thuyết nhân quả, luân hồi v.v… đã in dấu sâu đậm trong con người Việt Nam, trong văn chương, nếp sống của chúng ta. Dù là một nhà thơ theo đạo Công Giáo, nhưng thi sĩ Trần Quốc Bảo đã có những vần thơ thấm nhuần hương khói nhà Phật trong bài “Trảy Hội Chùa Hương”

Chùa Giải Oan, chốn tịnh thần
Vào đây rũ sạch bụi trần, Tình ơi!
Trong chùa, có tảng-đá-trời (Thiên Thạch)
Nứt ra khe nước, chảy hoài triền miên.

******
Trong Chùa Tượng Phật Quan Âm
Từ bi ngự tại trung tâm điện thờ
Cùng ngàn pho tượng cổ xưa
Bên hàng thạch nhũ ảo mờ linh thiêng.

Thi sĩ nhớ lại những kỷ niệm êm đẹp xa xưa khi trảy Hội Chùa Hương, thời của những khách thập phương đi tìm những giây phút “thoát trần” trong một khung cảnh tôn nghiêm, trang trọng. Nhưng giờ đây, mọi sự đã đổi thay, Chùa Hương đã biến thành một nơi thô tục, buôn bán thánh thần và thi sĩ họ Trần đã phải thốt lên:

Chùa Hương nay đã đổi đời
Không còn thanh tịnh của thời thuần lương
Lòng hằng vương vấn Chùa Hương
Bao nhiêu kỷ niệm nhớ thương đong đầy
Mong sao đất nước đổi thay
Ta về tìm lại những ngày thần tiên

Vâng, ngoài chuyện tìm đến cửa Phật để tâm thân an lạc, con người Việt Nam nhiều lúc cũng muốn thoát ly, tìm lại những giây phút thiền định, xa lánh bụi trần, và cao hơn nữa, sau khi đã vật lộn với vòng danh lợi, sau khi đã đem thân mình phục vụ tổ quốc, đem xương máu tô thắm non sông, thi sĩ họ Trần, cũng như vị thánh tiên Nguyễn Bỉnh Khiêm khi xưa, đã có những giây phút muốn phiêu diêu cùng cây cỏ, tiêu dao cùng mây trời, sông núi, hưởng một chút nhàn, vô vi của đạo Lão. Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:

Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

thì nhà thơ Trần Quốc Bảo đã có những câu thơ gợi một cảnh nhàn của kẻ tha phương vui thú điền viên, ươm cây, ươm cỏ, ươm cả kỷ niệm, trong bài “Mảnh Vườn Kỷ Niệm” thật ý nhị, đượm tình dân tộc:

Mảnh vườn nho nhỏ ở sau nhà
Một nửa trồng rau, một nửa hoa
Hồng tím, cúc vàng chen xích thược
Đậu xanh, dền đỏ cạnh thìa là
Cải cay che giữa dăm dàn muống
Mướp đắng bò quanh mấy luống cà
Mượn thú ươm cây, ươm kỷ niệm
Ngắm vườn, tìm lại chút hương xa.

Rồi chính anh đã dịch bài Hàn Thi “Hưu Hỷ” của Nguyễn Bỉnh Khiêm thật đẹp đẽ, mênh mang, thanh thoát như sau:

Danh toại công thành hưu hỷ hưu
Đằng nhân thế cố nhất hư châu
Phong lai giang quán lương nghi hạ
Nguyệt đáo thư lâu minh chính thu
Hồng nhật đông thăng tri đại hải
Bạch vân tây vọng thị thần châu
Khê sơn diệc túc cung ngô lạc
Nhẫn phụ tiền minh vạn lý âu

Vui về Hưu

Công danh đã vẹn nghỉ hưu thôi
Phó mặc thuyền đời chuyện nổi trôi
Biết Hạ khi bờ sông hóng gió
Hay Thu lúc đọc sách trăng soi
Tây phương mây bạc kìa non Thánh
Đông hướng vừng hồng đó biển khơi
Mộng với hải âu bay vạn lý
Sông hồ thỏa chí trọn đời vui

Để rồi có lúc “Nhớ Hà Tiên”, tìm về chốn thiên nhiên để vui cùng cảnh đẹp với nàng thơ trong hội Tao Đàn khi xưa:

“Thập cảnh Hà Tiên” rất mộng mơ
Mac-Thiên- Tích xuất thần đề thơ
Tao đàn lưu bút Chiêu-Anh- Các
Địa lý lừng danh tự thuở giờ.
*******
Hà Tiên còn mãi nét hoang sơ
Du khách về thăm ắt chẳng ngờ
Chiêm ngưỡng Châu-Nham, vùng Đá Dựng
Lạc vào tiên cảnh, tưởng như mơ


Con người Trần Quốc Bảo, ươm mình trong tư tưởng văn chương bình dân, triết lý Nho, Phật, Lão, nhưng là một người công giáo nên có lẽ ảnh hưởng Thiên Chúa Giáo là ảnh hưởng mạnh mẽ nhất nơi thi sĩ. Đọc lại tiểu sử của anh, em thấy anh đã từng giữ chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Richmond, Virginia (1996-2001) và chức Cố Vấn cho Hội này từ năm 2002 đến 2016.

Một con người, chăm lo việc Chúa, việc đạo, phục vụ cho cộng đồng dân Chúa hơn 15 năm thì phải là một con người có một đức tin vững vàng, lấy việc “mến Chúa, yêu người…” như tôn chỉ của cuộc sống, lẽ sống của mình. Trong tập thơ này, em đã tìm thấy 5 bài thơ anh viết về Lễ Giáng Sinh: “Noel Phát Diệm”, “Tìm Sao”, “Xin Ngôi Sao Lạ”, “Lời Nguyện Đêm Noel”, “Mỗi Lần Nghe Nhạc Giáng Sinh”. Theo chân anh, em đi tìm “Ngôi Sao Lạ”

Phép lạ nào cho yêu ma tận diệt?
Ơn phúc nào cho Tình Thương chan hòa
Đến bao giờ thanh bình trên đất Việt
Đến bao giờ Đấng Cứu Thế hiện ra?
Chẳng lẽ... chúng mình mãi mãi là
Những kẻ đi tìm Ngôi Sao Lạ?
Lạy Chúa
Chúa ở gần hay xa (!) … ?...


Hỏi để hỏi vậy thôi, chứ tín hữu Trần Quốc Bảo vẫn luôn luôn sắt son tin tưởng vào Thiên Chúa và Mẹ Maria đề “Dâng Hoa Tổ Quốc” với lời cầu xin thống thiết:


Nay Nước mất, nhà tan
Quê hương điêu tàn
Toàn dân sống đời tăm tối
Chúng con dẫu muôn vàn tội lỗi
Vẫn chạy đến cùng Đức Mẹ Maria
Dâng bông hoa Tổ Quốc
Xin ơn bầu cử thứ tha
Nhân từ cứu vớt
Đưa Viêt Nam qua giờ phút nguy nan.


Thơ đạo của thi sĩ họ Trần không đau đớn, quằn quại như thơ Hàn Mặc Tử, nhưng trong dòng thơ Công Giáo, anh vẫn tiếp nối dòng thơ chan chứa niềm tin vào đấng Cứu Thế, Mẹ Maria như các nhà thơ Xuân Ly Băng, Phạm Đình Tân, Hồ Dzếnh v.v…với những lời thơ chân thành, đầy cảm xúc linh thiêng.

Là một Ky-tô hữu, nhưng cũng là một sĩ quan, một chiến sĩ của QLVNCH, với 25 năm phục vụ trong quân ngũ, được ân thưởng Bảo Quốc Huân Chương – Đệ Ngũ Đẳng của Tổng Thống VNCH năm 1974, nhà thơ Trần Quốc Bảo hãnh diện đã đáp lời gọi của sông núi, gia nhập hàng ngũ của bao thanh niên Miền Nam, anh dũng đứng lên bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của Cộng Sản Miền Bắc. Chắc chắn những tư tưởng Tự Do, Dân Chủ từ thời Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh vẫn len lỏi trong huyết mạch của nhà thơ họ Trần, để rồi ông viết rất nhiều bài thơ yêu nước, yêu đồng đội, nhất là các chiến sĩ vô danh.

Ôi Quê Hương ta, non sông hùng vĩ
Dân tộc ta, dòng máu hùng anh!
Hàng triệu người là Chiến Sĩ Vô Danh
Hồn linh hiển trên Quốc kỳ phấp phới
Lịch sử Việt Nam ngàn năm nhớ tới
Người Anh Hùng
Người Chiến Sĩ Vô Danh

********
Đầu năm nhớ Chị, nhớ Anh
Những người Chiến Sĩ Vô Danh thuở nào
Kính cẩn, tôi giơ tay chào
Nụ hôn thương mến gửi vào thiên thu

Dĩ nhiên, ngoài những ảnh hưởng kể trên, đã là môt nhà thơ, một cây đàn muôn điệu, làm sao nhà thơ Trần Quốc Bảo có thể tránh khỏi ảnh hưởng của trào lưu Lãng Mạn phương tây, nối tiếp mảng thơ trữ tình của Thế Lữ, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng v.v… Những bài thơ “Thuyền Mơ”, “Một Thời Mộng Hoa” v.v… đã nói lên những giây phút thần tiên mà tác giả đã trải qua với người trong mộng:

Con thuyền mộng đưa ta về bến cũ
Anh dìu em vào những giấc mơ xưa
Cánh đồng chiêm vạt nắng hồng quyến rũ
Dòng sông xanh vẫn đầy ắp đôi bờ….
.....
Anh lại hôn em và cài lên tóc
Những ngọt ngào thắm biếc nụ tầm xuân
Như thuở ban đầu, bỗng dưng em khóc
Mắt lệ đong đầy cảm xúc ái ân…
....
Gặp nhau từ thuở mộng hoa
Yêu thương tràn ngập đôi ta ngỡ ngàng….
....

Xin em cặp mắt nai tơ
Cánh hồng ngọt lịm bên bờ môi son
Cho anh ôm xiết vai tròn
Để qua cơn mộng vẫn còn có em…

Đấy, một nhà thơ phong cách cổ điển, mà khi viết thơ tình thì cũng dào dạt những cảm xúc lãng mạn, tình tứ, chan chứa yêu thương, như chúng ta đang đọc Lamartine, Victor Hugo hay Vũ Hoàng Chương:

Em đã nao lòng anh mê man
Đôi mắt đầu môi tình chứa chan
Đêm thường mơ đêm ngày đợi ngày
Nhưng không hề nói cho nhau hay
(Vũ Hoàng Chương – Yêu mà chẳng biết)

Anh Bảo quý mến,

Trên dây là em mới tìm hiểu con người anh, qua những vần thơ của anh, dựa theo nội dung của một chương trình môn Quốc văn mà em đã đề cập ở trên. Nhưng đến đây, em vẫn tự đặt cho mình câu hỏi : “ - Trần Quốc Bảo là ai? - Thơ văn đích thực, cốt yếu của thi sĩ họ Trần là gì? - Đâu là Cõi Thơ Trần Quốc Bảo? ”

Em thấy không khó để tìm câu trả lời : “ - Trần Quốc Bảo là thi sĩ của “Tình Yêu Quê Hương, Đất Nước” sâu xa, vô bờ bến, lúc nào cũng nặng tình với nước nhà, với vận mệnh dân tộc, nhất là khi nước mất, nhà tan”.

Trong tập thơ “Quê Hương”, chữ ‘Quê Hương’ đã được lập đi lập lại bao nhiêu lần với những bài thơ như: “Quê Hương Tôi Bây Giờ”, “Cúi Đầu Tạ Với Quê Hương”, “Mơ Một Quê Hương”, “Tiếng Gọi Quê Hương”, không kể những bài như “ Giấc Mộng Hồi Hương”, “Dâng Hoa Tổ Quốc”, “Chuyện Buồn Nước Tôi”, “Con Đường Việt Nam”, “Tết Nhớ Quê Xưa”, “Tết Nhớ Quê Hương”, “Tạ Ơn Đất Mẹ”, “Tạ Ơn Biển Mẹ” v.v… và những bài viết về các quân nhân, liệt nữ VNCH, những chiến sĩ vô danh, những con người đã hy sinh cho lý tường Dân Chủ, Tự Do, Tự Cường của Miền Nam …

Mấy ai đã ôm ấp giải đất Việt Nam mỹ miều trong trí óc, tâm hồn như nhà thơ họ Trần. Trong bài “Mây Xưa”, thi sĩ ôm giải giang sơn chữ S trong lòng, cũng như giang sơn gấm vóc đang quyện vào tâm thân thi sĩ. Thi sĩ chỉ mong mình là giải mây bay về để được chiêm ngắm tất cả vẻ đẹp của quê nhà.

Chiều về lặng ngắm mây bay,
Phiêu du sao lạc phương này mây ơi!
Nhìn mây quen quá đi thôi
Phải chăng quê ở khung trời Việt Nam?
Mây bay từ Ải Nam Quan,
Qua Đồng Đăng, xuống Lạng Sơn, Kỳ Lừa
Luyến lưu trên đỉnh Vọng Phu
Có nàng Tô Thị ngàn thu ngóng chồng
Mây Hà Nội, mây Hà Đông,

Gió đưa mây tới Hải Phòng, Kiến An,
Hưng Yên, Phát Diệm, Nho Quan,
Đường mây vạn lý, Trường Sơn chập chùng.
Trải dài sông núi miền Trung,
Sầm Sơn, Lệ Thủy, Cửa Tùng, Phú Vang.
Lênh đênh trời Huế mơ màng
Ải Vân bàng bạc giăng ngang lưng đèo.
Nha Trang rực rỡ ráng chiều
Cam Ly ẩn hiện phiêu diêu mây ngàn,
Miền Nam nắng đẹp chứa chan,
Mây từ Hồng Ngự, Tân An bay về
Saigòn, Gia Định, Nhà Bè
Bềnh bồng trôi dạt Cẩu Kè, Vĩnh Châu,
Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mâu,
Ngàn mây điểm sắc tươi màu Quê Hương
Chao ôi Thiên Địa phong sương,
Phù vân tản mạn viễn phương giang hồ,
Hợp tan như thực như mơ,
Cánh mây lưu lạc bao giờ hồi hương?

Ôm ấp trong tâm hồn bao hình ảnh tươi đẹp của quê hương như vậy, làm sao thi sĩ không canh cánh trong lòng khi vận nước đổi thay. Tất cả những cái đẹp, cái thanh thoát, kiều diễm, hay u hoài, trầm mặc, linh thiêng của giải giang sơn gấm vóc ông cha để lại, đã bị đổi thay, tàn phá, tô son, điểm phấn một càch thô tục, giả tạo do những bàn tay của những kẻ chiếm giữ đất nước ngày nay, những kẻ chỉ nghĩ đến chiếm đoạt, lợi nhuận, vơ vét, hơn thua, tiền bạc. Nhà thơ không ngờ cuộc biến đổi lại xảy ra nhanh thế. Và giờ đây, làm kẻ lưu lạc xa quê hương, với tuổi đời chồng chất, thi sĩ cảm thấy bất lực, chua xót, cay đắng, chỉ biết xin “Cúi Đầu Tạ Với Quê Hương”:

Rượu xuân nghiêng chuốc chén buồn
Thơ xuân lại rót cô đơn cho đời
Đường vào huyền sử đôi mươi
Bốn phương ai oán một trời xót xa

Lang thang không nước không nhà
Sống nhờ ở đậu cho qua tháng ngày
Ngu ngơ như tỉnh như say
Bao nhiêu mộng ước tầm tay vuột dần

Bây giờ lá rụng đầy sân
Biết còn tình tự với xuân lời gì
Đêm dài che khuất đường đi
Tối tăm thù hận bờ mi tủi hờn

Mắt nhìn không có linh hồn
Thân lưu đầy giữa vũng buồn chơi vơi
Đắng cay lên những môi cười
Nén đau trong tiếng thở dài thê lương

Cúi đầu tạ với Quê Hương
Tôi còn một nửa đoạn đường chiến binh
Từng đêm mình điểm danh mình
Nghe sông núi gọi đăng trình xôn xao

Mỗi xuân thêm bạc mái đầu
Nghiêng hồ trường chuốc về đâu bây giờ
Ưu phiền lại rót vào thơ!...


Đây là một bài thơ gói ghém tất cả tâm sự của thi sĩ Trần Quốc Bảo. Xuân đến, đáng nhẽ phải là một ngày hội, một ngày vui, ngày đoàn tụ cùng gia đình, người thân, để đón chào một cái gì mới, một cơ hội, để tân niên khai bút, thì giờ đây, nhà thơ chỉ đang cô đơn với chén rượu sầu ở một phương trời xa quê hương đất nước. với thân phận của kẻ tha phương. một kẻ “không nước, không nhà”. Bao “mộng ước tầm tay” thời trai trẻ với “Đường vào huyền sử đôi mươi”, thì xuân này, nhìn lại, làm được gì, còn lại gì? Hầu như chỉ là số không, chỉ còn là “cô đơn, ai oán, xót xa, tối tăm, thù hận, tủi hờn, đắng cay, ưu phiền...” Tác giả, nhớ đến bài thơ “Hồ Trường” của Dương Bá Trạc với bản dịch quốc âm trứ danh của Nguyễn Bá Trác khi xưa, cũng tự hỏi “Nghiêng hồ trường chuốc về đâu bây giờ?” Hỏi như vậy, nhưng ít nhất, Dương Bá Trạc, qua lời dịch của Nguyễn Bá Trác còn có thể nghĩ về một đất nước còn đó “Trời nam nghìn dặm thẳm, mây nước một mầu sương” . Tuy say túy lúy, thấy mình “học không thành, danh chẳng lập” nhưng còn cái hào sảng, ngóng trông một ngày trở về vùng vẫy vì “ Nam nhi sự nghiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây”

Trần Quốc Bảo thì sao?
Trẩn Quốc Bảo vẫn “nghe sông núi gọi đăng trình xôn xao” đó, thế mà lực bất tòng tâm, tuổi đời chồng chất, răng long, đẩu bạc… và biết là mình hầu như trở nên vô dụng, không còn hy vọng gì, không thể đi hết “nửa đoạn đường chiến binh” còn lại.

Tâm sự của tác giả đã in đậm vào từng câu thơ, từng con chữ, từng hình ảnh được chọn lọc chắt chiu, kỹ lưỡng. Xuân đến đấy mà thấy “lá rụng đầy sân”. Lúc tỉnh mà lại thấy mình “ngu ngơ”; mắt còn nhìn đó, mà sao “không có linh hồn”. Môi cười ư, không, chỉ là nét tàn tạ, héo úa. đắng cay và chén rượu chỉ là những giọt “ưu phiền rót vào thơ’. Chắc hẳn thi sĩ nhớ đến hình ảnh của ông đồ khi xưa trong thơ Vũ Đình Liên. Biết đâu mình cũng đang dần dần tan biến. Một mùa xuân nào đó… mình cũng sẽ về với cỏ cây, nhập vào những “người muôn năm cũ” để rồi hồn chơi vơi về với quê hương đất nước trong bùi ngùi, bi hận và luyến tiếc.

Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?

Anh Bảo quý mến,

Tuy những dòng thơ trên là những vần thơ cay đắng và chua xót của một con người nặng tình với quê hương đất nước, nhưng đọc bài thơ chót của anh với tựa đề “Trọn Đời Tạ Ơn”, em cũng mừng thầm và thấy ấm áp khi anh, nhìn lại cuộc đời mình, dù có gập ghềnh, chông gai, bao thay đổi lên xuống, nhưng vẫn có thể tạ Ơn Trên, Ơn Mẹ, Ơn Cha, Ơn Thầy, Ơn Bạn, Ơn vợ hiền và nhất là:


Tạ ơn: Trăng, Nước, Cỏ, Cây
Từng đêm say đắm, từng ngày mộng mơ
Tạ ơn cung Nhạc, dòng Thơ
Để hồn lãng mạn, thẫn thờ đam mê

Xin tạ ơn mảnh Đất Quê
Sắt son vẫn một lời thề trong tim
Cầu mong Vận Nước chuyển mình
Tôi về hôn Đất, tạ tình Quê Hương!


Như vậy là anh đã sống một cuộc đời đáng sống, một cuộc đời sống cho đất nước, cho tha nhân, chu toàn việc đời, việc đạo, và lại có thời giờ dành cho “Nàng Thơ” yêu quý, nàng “Thơ Thuần Túy”

Cõi mộng huyễn chỉ có Thơ là thực
Bởi vì Thơ ngự trị ở trong tim
Thuở hồng hoang như những vết chân chim
Đem vô lượng khắc sâu vào vĩnh cửu


Vậy mà, khi các con hỏi anh về thơ của bố, anh vẫn khiêm nhường thổ lộ:

Các con hỏi bố, thể thơ gì?
Bố chẳng quan tâm luật lệ chi
Miễn trải hồn thơ trên giấy trắng
Đó là ký thác những tư duy


Vâng, qua 100 bài thơ trong tuyển tập “Quê Hương” này, không những anh đã ký thác những tư duy, tình cảm của anh, nhưng một phần nào anh cũng đã nói lên tư duy, tình cảm của nhiều người. Đọc thơ anh, nhiều người cũng có thể tìm thấy chính mình như nhà thơ Victor Hugo có lần viết trong lời tựa tập thơ “Chiêm Ngưỡng” (Les Contemplations) của ông như sau:

Vậy cuộc sống của một con người là gì? Vâng, và cuộc sống của những người khác nữa. Không có ai trong chúng ta có hân hạnh được sống một cuộc sống riêng của mình. Cuộc sống của tôi là cuộc sống của bạn, cuộc sống của bạn là cuộc sống của tôi, bạn sống những gì tôi đã sống; số phận là một. Hãy cầm lấy tấm gương này, và hãy nhìn bạn trong đó. Người ta đôi khi phàn nàn về các nhà văn nói về cái tôi. Hãy nói với chúng tôi về chính chúng tôi, họ kêu la với các nhà văn như vậy. Than ôi! Khi tôi nói về tôi, tôi nói về bạn. Tại sao bạn không cảm thấy điều đó? À, bạn điên rồi đó, khi tưởng là tôi không phải là bạn!

(Est-ce donc la vie d’un homme ? Oui, et la vie des autres hommes aussi. Nul de nous n’a l’honneur d’avoir une vie qui soit à lui. Ma vie est la vôtre, votre vie est la mienne, vous vivez ce que je vis ; la destinée est une. Prenez donc ce miroir, et regardez-vous-y. On se plaint quelquefois des écrivains qui disent moi. Parlez-nous de nous, leur crie-t-on. Hélas ! quand je vous parle de moi, je vous parle de vous. Comment ne le sentez-vous pas ? Ah ! insensé, qui crois que je ne suis pas toi !)

(What is this the life of a man? Yes, and the lives of other men. None of us has the honor of having a life of his own. My life is yours, your life is mine, you live what I live; Destiny is one. So take this mirror, and look at it. Sometimes we complain about writers who talk about the ‘me’. Tell us about us, we shout at them. Alas! When I tell you about me, I tell you about yourself. How can you not feel it? Ah! fool, who think that I'm not you!)

Như vậy, như em đã trình bày ở trên, đọc thơ anh, em, cũng như các độc giả thơ của anh cũng tìm lại được phần nào con người, tâm tình và những chặng đường của đời mình. Có thể không hoàn toàn giống nhau, nhưng, những ước mơ, hoài bão của tuổi trẻ, những đấu tranh, bươn trải tuổi trung niên, những nuối tiếc, cay đắng của tuổi già, tất cả vẫn xen kẽ nỗi vui, nỗi buồn, niềm hân hoan, hy vọng hay hờn tủi, thất vọng. Ánh sáng và bóng tối đan quyện nhau làm thành bức tranh của mỗi cuộc đời, đem so ra với những mảng tranh khác vẫn có những đường nét và mầu sắc phần nào giống nhau.
Và như vậy cũng đủ mãn nguyện

Một lần nữa, em, và cũng xin được thay mặt các độc giả thân mến của anh, chân thành gửi đến anh, thi sĩ Trần Quốc Bảo, lời cảm tạ sâu xa về tặng phẩm thi tập “Quê Hương” quý báu này, và xin chúc anh, dù vào tuổi chín mươi, được “bách niên giai lão” và vẫn giữ được mạch thơ lai láng, tiếp tục gửi lại cho hậu thế, nhất là các thế hệ trẻ người Viêt hải ngoại, những món quà tinh thần rất đáng trân trọng.

Cũng xin quý độc giả xa gần lượng thứ cho chúng tôi, nếu vài hàng nhận định trên còn nhiều chỗ thiếu sót, không diễn tả đầy đủ tất cả những điều hay, nét đẹp chứa đựng trong tập thơ ‘QUÊ HƯƠNG’ này.

Thân quý,

Em: Lại Quốc Hùng
Elk Grove. Hạ Tuần Tháng Tám, năm 2020

Lại Quốc Hùng

 

Thứ Sáu, 23 tháng 7, 2021

Tổ Ấm


Hình 1 và 2: Chồng đem mồi về nuôi vợ. Vì vợ nằm trong tổ trông nom con.



Hình 3, 4 và 5: Cha đem mồi về nuôi con.

Hình Ảnh: Nguyễn Thành Tài
***
Cảm đề từ Ảnh:

San sẻ cho nhau những mặn nồng
Tình chồng nghĩa vợ mãi trăm năm
Chuyền nhau sức sống vui an hưởng
Mớm dưỡng nuôi con, úm chỗ nằm

KimOanh


Cánh Thư Tình

 


Gởi anh trăm chữ hoài trông
Viết sao cho hết nỗi lòng vấn vương
Biết bao kỷ niệm còn hương
Khung trời cách biệt hai phương, vẫn chờ
Chờ anh trong giấc mộng mơ
Trong đêm vọng nguyệt, trong thơ hữu tình
Đường xưa in bóng chúng mình
Lặng sâu tiềm thức, hiện hình không nguôi
Bài thơ anh viết tặng người
Nửa đời vương vấn, nửa đời tương tư
Nửa nào chất chứa tâm thư
Nửa nào che phủ sương mù chưa tan
Đưa em về động suối ngàn
Để ta nhắc lại muôn vàn nhớ thương


Chúc Anh

Nhất Phiến Băng Tâm


Mấy năm trước đây có dịp về Cần Thơ gặp lại bạn cũ trò xưa, khoảng thời gian 1968-75, khoảng thời gian tôi được chuyển về dạy Toán ở trường Phan Thanh Giản ̣ Buổi tối họp mặt giữa sân trường, cảm xúc vỡ oà, tôi đã vô tình phá lệ "trái tim cha mẹ, tấm lòng thầy cô là muôn đời bất khả tư nghị" ̣ Bài Nhất Phiến Băng Tâm đã được đọc cho mọi người nghe, trong nước mắt chảy ngược vào lòng ̣ Ôi chao xót xa ̣ Thương lắm chút tình thầy trò của chúng tôi trong thời loạn! PKT, CGS Toán PTG 1968-1975


Nhất Phiến Băng Tâm
PKT - Mây Tần

Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ,
Chót thân nhà giáo vốn ngây thơ ̣
Ba chìm, bảy nổi, một đời lỡ
Vẫn khóc, vẫn cười với nắng mưa!

Xa xứ bao năm trời cách biệt,
Gió sương đất khách nói sao vừa ̣
Trò yêu, bạn qúy, ai còn mất
Đầu bạc ngồi buồn, nhớ tuyết xưa ̣

Em ạ, thầy em, giờ vẫn vậy,
Vẫn khờ, vẫn dại, vẫn ngây thơ ̣
Lòng như băng tuyết trong bình ngọc,
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ!

Tri Khac Pham
Phụ Chú :"Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ" trích trong bài Phù Dung Lâu Tống Tân Tiệm của Vương Xương Linh:
Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô
Bình minh tống khách Sở sơn cô
Lạc Dương thân hữu như tương vấn
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ

(Đại ý: Đêm Ngô mưa lũ đón / Sáng Sở núi buồn đưa / Bạn cũ ai thăm hỏi / Lòng quê vẫn tuyết xưa)


 

Tuổi Dại Khờ



Bài xướng:

Tuổi Dại Khờ

Anh mãi yêu em tuổi dại khờ
Những chiều tan học nón bài thơ
Tình hồng đang thắm làn môi đỏ
Áo trắng còn đầy cặp giấc mơ
Những tưởng đồng tâm chung bóng nguyệt
Nào ngờ lỗi nhịp lẻ dây tơ
Thiếu em cuộc sống thành hoang vắng
Ôm trái tim côi vẫn đợi chờ

T.N.L
***
Bài Họa

Tình Đơn Phương


Thuở mới biết yêu, sao thật khờ
Yêu thầm, tưởng tượng tình như thơ
Ngày vơ vẩn thả hồn xây mộng
Tối vật vờ buông trí dệt mơ
Cầu Xích Thằng gầy duyên kết tóc
Khấn Bà Nguyệt nối chỉ se tơ
Một hôm nàng sóng đôi người khác
Buồn nhói tim, mưa vẫn đứng chờ

Nhất Hùng
***
Vẫn Ngây Khờ

Yêu nhau thuở tuổi thật ngây khờ
Ước nguyện đời hoa dệt gấm thơ
Hạ đến đôi lòng gom góp mộng
Thu về một dạ xẻ chia mơ
Từ khi nghĩa đậm xe bền tóc
Đến lúc tình sâu kết chặt tơ
Anh mất chưa từng an hưởng phước
Cho em lủi thủi sống thương chờ

Thanh Song Kim Phú
CA July/15/2021

Linh Triệt Thiền Sư

(Thân tặng ÔC và nhóm LTCD 21)

Linh Triệt 靈澈 (746-816) là một nhà sư rất lổi lạc thời Đường, hiệu là Nguyên Trừng, tên tục Tính Thang, quê ở Hội Kê (nay là Thiệu Hưng, Chiết Giang). Ông xuất gia ở chùa Vân Môn, Hội Kê lúc nhỏ và tu ở chùa Trúc Lâm, Nhuận Châu, nay là Trấn Giang, Giang Tô. Tuy tiếp thu Phật học, ông chăm chỉ đọc sách, có năng khiếu thi văn. Vào cuối thời Kiên Trung, ông sống ở Ngô Hưng Hà Sơn, du giảng và ngao du với hai nhà sư và cũng là nhà thơ: Linh Nhất 靈一 và Kiểu Nhiên 皎然. Các ông thường xướng họa thơ với nhau.

Trở lại phía nam, đến Lư Sơn, và sau đó là Việt Châu. Ông xướng họa thơ với Lưu Trường Khanh, Hoàng Phủ Tằng... Vào năm Đức Tông Hưng Nguyên đầu tiên (784), Kiểu Nhiên đã viết một cuốn sách cho Bao Cát và Lý Thư, hai nhà lãnh đạo của giới văn học đương thời, và bài thơ của ông đã được đánh giá cao. Vào thời điểm đó, các nhà thơ như: Kiểu Nhiên, Lưu Trường Khanh, Quyền Đức Dư, Liễu Tông Nguyên, Lưu Vũ Tích, Lữ Ôn Đẳng, đều có giao du với ông.

Vào năm Trấn Nguyên thứ sáu (790), ông lại đến Trường An, nổi tiếng và được nhiều người biết đến. Vào cuối năm Trấn Nguyên, Lưu Ngữ làm Trung Quý tức giận, ông bị vu cáo oan, nên bị chuyển đến Đinh Châu, và sau đó được ân xá về Đông Ngô. Đầu năm Nguyên Hòa, ông thăm lại Giang Tây, sau đó đến Giản Châu, Hồ Châu. Vào năm Nguyên Hà thứ 4 (809), ông sống ở Sơn Đông Lâm chùa Lộc Sơn và trở về Giang Tây. Cuối cùng Ông đuợc mời đến chùa Khai Nguyên ở Huyền Châu và mất tại đây năm Nguyên Hòa thứ 11 (816).

Ông làm khoảng 2.000 bài thơ, trong đó 300 bài đã được các đệ tử tổng hợp lại thành 10 tập Linh Triệt Thi Tập灵澈诗集. Ngoài ra thơ của Ông còn được sưu tầm trong 50 năm từ Đại Lý đến Nguyên Hòa để hát thưởng cho dân chúng, và được biên soạn thành 10 tập Thù Xướng Tập 酬唱集. Ông giỏi về Luật Học, và là tác giả của 21 tập Luật Tông Dẫn Nguyên 律宗引源

Nhưng tất cả đều bị thất lạc. Không có tập nào tồn tại cho đến ngày nay.Toàn Đường Thi 全唐詩còn giữ được 16 bài thơ của ông và một số đoạn viết.

Lưu Trường Khanh 劉長卿 Liú Cháng Qīng

Nguyên Tác:             Phiên Âm:

送靈澈上人 Tống Linh Triệt Thượng Nhân
蒼蒼竹林寺 Thương thương Trúc Lâm tự
杳杳鐘聲晚 Yểu yểu chung thanh vãn
荷笠帶斜陽 Hà lạp đới tà dương
青山獨歸遠 Thanh sơn độc quy viễn

Lưu Tùy Châu Tập - Đường - Lưu Trường Khanh 劉隨州集-唐-劉長卿 và Ngự Định Toàn Đường Thi ( mộc bản) Quyển 147 Lưu Trường Khanh cho 2 bài thơ của Lưu Trường Khanh: Tống Linh Triệt Thượng Nhân và Tống Phương Ngoại Thượng Nhân.

Các sách khác cũng cho mộc bản tương tự: Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁,Ngự Định Bội

Văn Trai Vịnh Vật Thi Tuyển - Thanh - Trương Ngọc Thư 御定佩文齋詠
物詩選-清-張玉書,Giang Tây Thông Chí - Thanh - Tạ Mân 江西通志-清
-謝旻,Thạch Thương Lịch Đại Thi Tuyển - Minh - Tào Học Thuyên 石倉
歷代詩選-明-曹學佺.

Bên dưới chỉ thảo luận bài Tống Linh Triệt Thượng Nhân, còn bài Tống Phương Ngoại Thượng Nhân dành lại cho các bạn muốn tìm hiểu thêm. Bài thơ này được Thi Viện đăng dưới tựa Tống Thượng Nhân.

送方外上人 Tống Phương Ngoại Thượng Nhân
孤雲將野鶴 Cô vân tương dã hạc Mây đơn cùng hạc hoang
豈向人間住 Khởi hướng nhân gian trụ Há ở mãi trần gian
莫買沃洲山 Mạc mãi Ốc Châu san Chớ mua Ốc Châu vậy
時人已知處 Thì nhân dĩ tri xử Chỗ người biết rõ ràng.

Ốc Châu: núi ở phía đông bắc huyện Tân Xương, Chiết Giang, xưa nhà ẩn sĩ Chi Độn đã thả chim hạc tại nơi này.

Ghi chú:

thượng nhân: người có đạo đức cao; người bên trong có đạo đức và trí tuệ, bên ngoài có đức hạnh; con cháu gọi cha mẹ hoặc ông bà. thương thương: màu xanh đậm

Trúc Lâm Tự: chùa ở Nhuận Châu, nay là Trấn Giang, Giang Tô. Nay có chùa Trúc Lâm trên núi Thái Sơn ở Yên Đài, Sơn Đông, và chùa Trúc Lâm ở Vũ Hán, Hồ Bắc yểu yểu: mờ nhạt, mông lung, xa cách hà lạp: nón làm bằng lá sen, có vành rộng tà dương: phía tây của ngọn núi, buổi chiều tà thanh sơn: núi xanh, nơi ẩn cư, tên núi Thanh Sơn/Thanh Linh Sơn, ngày nay ở đông nam Đang Đồ, An Huy. Sư Linh Triệt ở chùa Trúc Lâm đến thăm thi nhân Lưu Trường Khanh. Chùa ở khá xa nên chỉ nhìn thấy màu xanh thăm thẳm và tiếng chuông vọng lại từ xa. Khi sư ra về trời về chiều nắng đã dịu, nhưng vẫn còn chiếu trên chiếc rộng vành. Khung cảnh cô tịch, sư đi một mình về núi xanh.

Dịch Nghĩa: Tiễn Sư Linh Triệt

Chùa Trúc Lâm trong đám cây xanh xanh rậm rạp
Chuông chiều nghe văng vẳng từ xa thẳm
Chiếc nón lá vành to nhuộm ánh nắng xế
Một mình về núi xanh xa xôi.

Dịch Thơ: Tiễn Sư Linh Triệt

Chùa Trúc Lâm xanh rậm
Hồi chuông vọng thật xa
Một mình về núi vắng.
Vành nón hứng nắng tà.

Vùng Trúc Lâm cỏ cây xanh thẳm
Chuông chùa văng vẳng thoảng dư âm
Nắng chiều đổ xéo trên vành nón
Núi xanh đơn độc bước âm thầm.

On Parting With Buddhist Master Ling Che by Liu Chang Qing

The Bamboo Forest Temple looked dark dark green,
From far away resounded the late afternoon temple bell.
The broad rim hat carried the light setting sunshine,
Alone he returned to the blue mountain, his retreat.

On Parting With The Buddhist Pilgrim Ling Che by Liu Changqing

From the temple, deep in its tender bamboos,
Comes the low sound of an evening bell,
While the hat of a pilgrim carries the sunset
Farther and farther down the green mountain. 300 Tang Poems

On Parting with the Buddhist Master Ling Che by Liu Changqing

O green, so green: your Bamboo Forest Temple,
From afar, come faintly: its bell’s evening tolls.
Broad hat on your back, while the sun is yet to set,
Alone you return to your distant green hills abode.

Translated by Andrew W.F. Wong (Huang Hongfa) 譯者: 黃宏發

Ngoài bài tứ tuyệt trình bày bên trên, Lưu Trường Khanh còn làm ít nhất 3 bài thơ Đường luật khác trong tựa có nhắc đến sư Linh Triệt:

. Bài tứ tuyệt với tựa: Thù Linh Triệt Công Tương Chiêu 酬靈徹公相招
. Bài thất ngôn bát cú với tựa: Tống Linh Triệt Thượng Nhân Hoàn Việt Trung 送靈澈上人還越中,
. Bài ngũ ngôn bát cú với tựa: Tống Linh Triệt Thượng Nhân Quy Tung Dương Lan Nhược 送靈澈上人歸嵩陽蘭若.

1. Bài Thù Linh Triệt Công Tương Chiêu 酬靈徹公相招 đăng trong Ngự Định Toàn Đường Thi và các sách: Lưu Tùy Châu Tập - Đường - Lưu Trường Khanh 劉隨州集-唐-劉長卿, Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁, Vạn Thủ Đường Nhân Tuyệt Cú - Tống - Hồng Mại 萬首唐人絕句-宋-洪邁, Đường Thi Kỷ Sự - Tống - Kế

Hữu Công     唐詩紀事-宋-計有功.

Nguyên tác:  Phiên âm:

酬靈徹公相招 Thù Linh Triệt Công Tương Chiêu
石澗泉聲久不聞 Thạch giản tuyền thanh cửu bất văn
獨臨長路雪紛紛 Độc lâm trường lộ tuyết phân phân
如今漸欲生黃髮 Như kim tiệm dục sanh hoàng phát
願脫頭冠與白雲 Nguyện thoát đầu quan dữ bạch vân

刘长卿酬灵彻公相招书法欣赏
Lưu Trường Khanh Thù Linh Triệt Công Tương Chiêu Thư Pháp Hân Thưởng

Ghi chú:

Công tương: chỉ công khanh quan tước
Trường lộ: đường dài, đường xa
Phân phân: đa dạng, kỳ lạ
Như kim: hiện tại
Hoàng phát: tuổi già, người già, trở nên vàng trắng
Thoát quan: xả mão, giải mão, từ bỏ quan chức về ở ẩn

Khi Lưu Trường Khanh được bổ nhiệm làm Tư Mã Mục Châu, sư Linh Triệt có đến thăm ông. Lúc Linh Triệt trở về Ngạc Châu, LTK làm tặng bài Tống Linh Triệt Thượng Nhân Hoàn Việt Trung bên dưới. Sau đó Linh Triệt có mời LTK đến chơi đất Việt nên LTK có làm bài thơ Thù Linh Triệt Công Tương Chiêu này. Qua bài thơ, ta có thể nhìn thấy tình bạn thân thiết giữa họ. Khó dịch tựa bài thơ cho chính xác. Tựa có nói đến sư Linh Triệt, nhưng toàn bài thơ chỉ nói LTK đi thăm sư Linh Triệt và trên đường về. Câu 1 và 2 tả âm thanh và cảnh vật. Câu 3 và 4 nói ý nguyện từ quan hưởng nhàn. Chỗ nào nhắc đến Linh Triệt?

Dịch nghĩa: Mời Sư Linh Triệt

Đã lâu không nghe tiếng suối reo trong khe đá,
Đi một mình trên đường xa tuyết phủ đầy.
Hiện tại ta muốn để tóc vàng (bạc với tuổi già) dần dần,
Với ý nguyện sớm bỏ mão từ quan vể vui chơi với mây trời.

Dịch thơ: Trên Đường Về

Lâu lắm không nghe tiếng suối reo
Đường xa tuyết phủ cảnh đèo heo.
Tuổi già mái tóc dần dần trắng,
Bỏ mão từ quan nguyện sớm theo.

On The Way Home by Liu Chang Qing

For a long time, I have not heard sound of the creek in the stone ravine,
Walking alone on the long road covered with snow.
For now I want to let my hair turn white slowly,
Willing to take off my hat, retire from official appointment and enjoy watching white clouds.

2. Bài Tống Linh Triệt Thượng Nhân Hoàn Việt Trung 送靈澈上人還

越中 lấy từ Ngự Định Toàn Đường Thi Quyển 151 Lưu Trường Khanh 御 定全唐詩巻一百五十一劉長卿 và còn được đăng trong các sách: Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖 祖玄燁, Ngự Định Toàn Đường Thi Lục - Thanh - Từ Trác 御定全唐詩錄 -清-徐倬, Văn Uyển Anh Hoa - Tống - Lý Phưởng 文苑英華-宋-李昉.

Nguyên tác: Phiên âm:
送靈澈上人還越中

Tống Linh Triệt Thượng Nhân Hoàn Việt Trung

禪客無心杖錫還 Thiền khách vô tâm trượng tích hoàn
沃洲深處草堂閒 Ốc Châu thâm xứ thảo đường nhàn
身隨敝屨經殘雪* Thân tùy tệ lũ kinh tàn tuyết
手綻寒衣入舊山 Thủ trán hàn y nhập cựu san
獨向青溪依樹下 Độc hướng Thanh Khê y thụ hạ
空留白日在人間 Không lưu bạch nhật tại nhân gian
那堪別後長相憶** Na kham biệt hậu trường tương ức
雲木蒼蒼但閉關 Vân mộc thương thương đãn bế quan

Dị bản: *lý履thay vì lũ屨 **dạ夜 thay vì hậu後

Mộc bản trong sách Lưu Tùy Châu Tập - Đường - Lưu Trường Khanh 劉隨州
集-唐-劉長卿 và Doanh Khuê Luật Tủy - Nguyên - Phương Hồi 瀛奎律髓-
元-方回 không cho dị bản nào. Ngoài ra bạn nào sử dụng văn bản của
Thi Viện cần lưu ý: chữ đầu câu 7 đọc sai ra hình邢 thay vì na那.

Ghi chú:

Việt Trung: nguyên là 8 huyện thuộc tỉnh Thiệu Hưng vào thời nhà Đường
Thiền khách: người tu thiền, đây chỉ thiền sư Linh Triệt
Vô tâm: không kế hoạch, không thành kiến, không quan tâm, ngôn từ Phật giáo: thành tâm thoát khỏi tà niệm trượng tích: gậy có tra những vòng thiếc hay đồng của nhà sư
Ốc Châu: núi ở phía đông bắc huyện Tân Xương, Chiết Giang thảo đường: nhà cỏ, nhà tranh, nhà lá tàn tuyết: tuyết chưa tan
Cựu sơn: quê quán, nguyên quán
Độc hướng: hưóng tới, dẫn đến
Thanh Khê: tên huyện, nay là huyện Thuần An, Chiết Giang
Na kham: làm thế nào có thể giữ lại
Trường tương: xuất hiện, nói về ngoại hình
Vân mộc: cây cao ngất trời đụng mây
Thương thương: màu lam đậm
Bế quan: đóng cửa, cắt đứt liên lạc

Dịch nghĩa: Tiễn Sư Linh Triệt Trở Về Việt Trung

Thiền sư ung dung chống gậy thiếc trở về đất Việt
Căn nhà tranh (cỏ) an nhàn nơi cùng tận của Ốc Châu
Chân mang dép mòn đạp trên tuyết chưa tan
Tay níu chỗ áo lạnh rách đi vào vùng núi cũ (quê quán)
Một mình đi về hướng Thanh Khê (con suối xanh) và tựa vào một gốc cây
Trả lại cho cõi người mặt trời sáng lạng
Làm sao khi từ biệt rồi còn nhớ nhau lâu dài
Đóng cửa nhà giữa chốn cây rừng cao tận mây.

Dịch thơ: Tiễn Sư Linh Triệt Trở Về Việt Trung

Tâm không tay gậy về Việt Trung,
Nhà cỏ Ốc Châu nơi tận cùng.
Chân xỏ dép mòn dẩm tuyết trắng,
Tay ghì áo lạnh bước ung dung.
Thanh Khê đúng hướng tựa cây nghỉ,
Trả lại nhân gian ngày sáng trưng,
Cách biệt nhớ nhung không luyến tiếc,
Tịnh tâm khép cổng giữa cây rừng.

On Parting with the Buddhist Master Ling Che Returning to Yue Zhong by Liu Chang Qing

The master was returning home; leaning on his walking cane, he walked slowly with empty mind,
His quiet thatch home was in the farthest part of Hang Zhou.
His worn out sandals stepped on the melting snow,
His hand clasped on the torn coat as he entered the familiar mountain.
Alone he walked toward Qing Xi (Green Creek) and rested against a tree,
Returning the bright sunlight to human kind.
How could we bid goodbye and still remember one another for a long time?
Close the gate and meditate among cloud-reaching trees.

劉長卿送靈澈上人歸嵩陽蘭若書法欣賞
Lưu Trường Khanh Tống Linh Triệt Thượng Nhân Quy
Tung Dương Lan Nhược Thư Pháp Hân Thưởng

3. Bài Tống Linh Triệt Thượng Nhân Quy Tung Dương Lan Nhược lấy từ Ngự Định Toàn Đường Thi Quyển 147 Lưu Trường Khanh 御定全唐詩 巻一百四十七劉長卿 và các sách: Lưu Tùy Châu Tập - Đường - Lưu Trường Khanh 劉隨州集-唐-劉長卿, Văn Uyển Anh Hoa - Tống - Lý Phưởng 文苑英華-宋-李昉, Cổ Lệ Phủ - Minh - Vương Chí Khánh 古儷府-明-王志慶, Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ HuyềnDiệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁, Ngự Định Bội Văn Trai Vịnh Vật Thi Tuyển - Thanh - Trương Ngọc Thư 御定佩文齋詠物詩選-清-張玉書.

Nguyên tác: Phiên âm: Dịch thơ:

送靈澈上人 Tống Linh Triệt Thượng Nhân
歸嵩陽蘭若* Quy Tung Dương Lan Nhược

南地隨縁久 Nam địa tùy duyên cửu Đất Nam phát tùy duyên,
東林幾嵗空 Đông Lâm kỷ tuế không Đông Lâm chùa tịnh yên.
暮山門獨掩 Mộ san môn độc yểm Quạnh hiu cổng khép kín,
春草路難通 Xuân thảo lộ nan thông Cỏ rậm đường không xuyên.
作梵連松韻 Tác phạn liên tùng vận Tiếng kệ hòa vào gió,
焚香入桂叢 Phần hương nhập quế tùng Khói nhan nhập cõi thiền.
唯將舊缾鉢 Duy tương cựu bình bát Chỉ còn thoát tục thế,
卻寄白雲中 Khước ký bạch vân trung. Bình bát gởi mây tiên.

Dị bản: *nham巖 thay vì nhược若 **thanh青thay vì xuân春

Ghi chú:

Tung Dương: Chùa dưới chân núi Thái Thất ở huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam. Được xây dựng vào thời Thái Hoà của triều đại Bắc Ngụy, ban đầu nó có tên là Chùa Tung Dương Tự, và được đổi tên thành Tung Dương Quan vào thời nhà Đường. lan nhược: tự viện, từ chữ Phạn A Lan Nhược, thanh tịnh không phiền não tùy duyên: để theo tự nhiên

Đông Lâm: rừng ở phía đông, chùa Đông Lâm trên núi Lư
Sơn môn: cổng ngoài của chùa
Tác phạn: đọc tếng Phạn, tụng kinh
Tùng vận: gió thông reo
Quế tùng: rừng cây quế, nơi ẩn dật tịnh tâm
Bình bát: dụng cụ đựng thức ăn của nhà sư khi đi khất thực

Dịch nghĩa: Tiễn Sư Linh Triệt Về Chùa Tung Dương

Đất Nam tùy duyên mà bền vững lâu dài,
Nhưng chùa Đông Lâm lại vắng lặng trong nhiều năm.
Cổng chùa quạnh hiu khép kín,
Cỏ xuân mọc phủ hết lối mòn.
Tiếng kinh kệ hòa vào gió rì rào qua rạng thông,
Khói nhan xuyên thấu rừng quế, nơi thiền tịnh.
Chỉ còn chiếc bình bát cũ là tài sản thế tục,
Từ bỏ nó bằng cách ký gởi vào đám mây trắng.

On Parting With Buddhist Master Ling Che Returning to Song Yang Temple by Liu Chang Qing

The South land has a long history in accordance with conditions,
But the Donglin Temple was empty for a few years.
The lonely temple gate was closed,
And spring grass made the road hard to pass.
The sutra recitation rhymed with pine sound,
And burned incense clouds permeated the retreat space (cinnamon forest).
Only remained the monk old food bowl (only worldly possession),
To be sent to white clouds (to get rid off).

Ngoài 4 bài thơ về sư Linh Triệt của Lưu Trường Khanh, nhiều thi nhân Đường dành cho ông ca tụng như bên dưới:

酬靈澈上人 盧綸
2. 送僧仲剬東遊兼寄呈靈澈上人 劉禹錫
3. 戲贈靈澈上人 呂溫
寄靈澈上人 張祜
5. 妙喜寺高房期靈澈上人不至,重招之一首 皎然
6. 山居示靈澈上人 皎然
7. 宿法華寺簡靈澈上人 皎然
8. 靈澈上人何山寺七賢石詩 皎然
Tống Linh Triệt - Kiểu Nhiên 送靈澈皎然
Tặng Linh Triệt Thiền Sư - Linh Nhất 贈靈澈禪師靈一

Phí Minh Tâm Biên Soạn

Những Mẫu Chuyện Khó Tin Nhưng Có Thật: Chiếc Dùi Trống

Vào tháng giêng năm 1935, thầy giáo Nhân bên nhà xứ sang thăm cha mẹ tôi, thấy tôi trắng trẻo, đẹp trai, có vẻ thông minh, liền nói với cha mẹ tôi cho tôi đi tu. Hồi đó tôi chưa hiểu rõ cuộc đời tu là thế nào; chỉ biết cha mẹ tôi khuyên tôi nên đi vào nhà xứ ở với các cha cho đỡ khổ, thế là tôi nghe theo.

Vài tuần sau, thầy giáo Nhân đưa tôi xuống xứ Đồng tỉnh, Hải dương, ở với cha Trang. Bấy giờ tôi mới biết cấp bậc trong nhà xứ: Trên có cha xứ, nếu xứ nào có nhiều giáo dân thì có thêm một hay hai cha phó; kế đến các thầy kẻ giảng,chuyên dạy bổn cho các họ đạo tân tòng; rồi tới các chú lớn, chuẩn bị học lên chức thầy; sau cùng là các cậu giúp lễ, lớp tuổi từ chín cho tới mười lăm. Năm đó tôi vừa đúng chín tuổi, được xếp vào hạng cậu giúp lễ, gồm có bốn tên: Nhân, Hạnh, Hậu, Pháp; vì đi tu, cha xứ đổi tên tôi là Thạch sang Hạnh. Tôi mang tên này cho tới bây giờ.

Công việc hằng ngày của bốn chúng tôi: các sáng chia nhau giúp lễ, quét giọn nhà cửa rồi đi học. Tôi còn nhớ, hồi đó chú Hoàng lo việc dạy học tại trường nhà xứ; lúc dạy học chú thường dùng chiếc dùi trống, thay cho roi, để đập vào đầu trò nào làm bài sai. Dùi trống dài khoảng ba gang, hai đầu tròn như hai quả trứng. Một hôm vào giờ toán, đang lúc tôi để ý viết mấy con số thì chú tới, giáng vào mé đầu tôi một cái (có lẽ vì tôi viết số sai), tôi giật nẩy người, đầu dùi trống lướt sang trán của trò ngồi bên, làm sưng lên một cục, đỏ chót như trái nhót; chú tức giận giáng mạnh thêm giữa đầu tôi một cái nữa. Lúc đó tôi thấy tê hẳn cả đầu! Không hiểu tại sao bấy giờ đầu tôi không bể ra làm hai? Phải chăng đầu tôi thuộc loại cứng? Hay vì “cha mẹ sinh ra tuổi cứng đầu?”. Sáng hôm sau cha xứ trông thấy thằng nhỏ bị sưng trán, đi học ngang qua, hỏi lý do, nó liền kể đầu đuôi câu truyện. Nghe xong cha xứ, gọi ngay chú Hoàng lên, la mắng một hồi, rồi bắt chú phải mang dầu, xoa bóp cho thằng bé, và sang nhà xin lỗi cha mẹ nó.

Kỳ hè năm ấy cha xứ cho làm một chòi lá ở góc vườn, cạnh nhà bếp, để dựng chuồng lợn (heo); trưa hôm đó, cơm nước xong, bốn nhỏ giúp lễ chúng tôi không được ngủ, phải đi lấy rơm nhào với bùn, đem lại cho mấy chú lớn trát vách. Tối đến, vào nhà thờ đọc kinh, bốn đứa chúng tôi thi nhau ngủ gật; cha xứ đã nhiều lần nắm tay, cốc vào đầu chúng tôi, nhưng bốn đứa vẫn không sao hết ngủ! Tức quá, cha xứ liền túm cổ từng thằng, ném ra ngoài sân; đóng cửa lại, không cho vào nhà thờ nữa. Mất đà, chúng tôi lăn như bốn khúc gỗ trên sân cát! Lổm ngổm bò dậy, bước vào nhà, run sợ, chờ đợi trận đòn lôi đình tới. Rất may, giờ kinh vừa xong, có một ông khách ở xa tới thăm cha xứ; vì bận tiếp khách nên cha đưa roi cho chúng tôi, bảo phải sang bên phòng các thầy, lãnh mỗi đứa ba roi. Trời về khua, các thầy ai nấy đã buông mùng, lên giường nằm cả rồi; tôi còn nhớ lúc đó thầy Long, vén mùng lên, ngồi trên giường, tôi nằm dưới đất, thầy vừa đánh tôi roi thứ ba thì cha xứ tới, thấy vậy, cha la lên, bắt thầy phải xuống giường, đánh lại! Hôm sau, thầy gọi tôi vào phòng, cho tôi tấm ảnh hình Chúa và nói, “Bồi thường cho Hạnh vì trận đòn hôm qua nhé!.”Tôi cám ơn thầy, vội chạy ra ngoài, sợ cha xứ trông thấy, lại bị đòn nữa thì chết.

Thạch Trong(NĐH)

Thứ Năm, 22 tháng 7, 2021

Gia Đình Bác Sĩ Paulo Hoàng Ngọc Khôi Cảm Tạ

 

Quyến Rũ - Họa Sĩ Mùi Quý Bồng


 
Model * Người Mẫu : Serena Nguyễn


 
Họa Sĩ: Mùi Quý Bồng

Thời Gian Không Dừng Lại



Mỗi một giờ qua, mỗi một ngày
Là bao nuối tiếc - thời gian bay
Tuần hoàn dòng máu luôn luân chuyển
Chở về tim niềm yêu thương đầy

Tôi yêu bằng tất cả trái tim
Thương cha, thương mẹ, thương anh em
Thương hoa Phượng thắm khoe hương sắc
Cầu mong thế giới sống bình yên

Yêu những vườn cây trái ngọt ngào
Cửu Long nước cuộn sóng lao xao
Phù sa, tôm cá nuôi ta lớn
Chín nhánh sông dài vẫy gọi nhau 

Yêu những con trâu giữa cánh đồng
Cơ Hàn những đứa trẻ chân không
Mà hồn chân chất, tình tha thiết
Yêu bác nông phu sống thực lòng

Kỷ niệm trong tôi không phai nhoà
Ai xa mà chẳng nhớ quê xưa
Tình tôi nồng đượm, đơn sơ lắm
Mà rất chân tình, rất vị tha

Rồi với thời gian , dòng đời trôi
Mọi thứ cũng thành cát bụi thôi
Tình yêu thánh thiện còn lưu mãi
Giữ lại cho đời kỷ niệm vui

Mỗi ngày tôi cố tạo niềm vui
Cho bản thân và cho mọi người
Đời như dòng nước trôi, trôi mãi
Chỉ có chân tình Vĩnh cửu thôi

6 / 3 / 2021 
Hoàng Phượng

Cặp Kính Ngày Xưa

  
(Cặp kính của anh Hương)

Cặp Kính Ngày Xưa


Sáng nay chàng bảo vợ nhà
Anh vừa soạn tủ ôi chà thích ghê!
Bởi vì cặp kính từng chê
Chừ đây đoàn tụ quay về bến xưa
Nhìn qua đoán chắc sẽ vừa
Dầu cho thủa ấy chẳng ưa bao giờ! 
Mang liền mắt chớp tưởng mơ
Giận mình tánh mãi ơ thờ chóng quên!
Mừng vui nghĩa thắm duyên bền
Thế là âu yếm gọi tên ngọt ngào
“Kính nè ta nhớ xiết bao!”
Chợt nghe bà xã nói vào ít câu
“Kính đeo thấy rõ muôn màu
Đừng nên nhầm lẫn mặt chau ủ mày
Rượu quỳnh chửa cạn còn say
Trông bà lạ quắc tìm ai vậy nè?”

Như Thu
07/12/2021
***
Các Bài Thơ vui tặng anh Hương chị Như Thu:

1/
Xướng:

Món đồ mình đã từng chê
Bỗng dưng gặp lại...lại mê quá trời
Hoa Cẩm Chướng chán mớ đời
Có hôm bỗng thấy đúng người mình mơ...

Bông 
***
Họa:

Mua về cặp kính nào chê!
Cất đâu chẳng thấy mải mê gọi trời!
Ngài khuyên chỉ ngắm bạn đời
Thôi tìm kính nữa xin người chớ mơ!

Như Thu
***
2/
Xướng:

Kính còn đẹp lắm anh nha!
Đeo vào càng thấy đẹp ra mười phần
Vì yêu chùi rửa ân cần,
Như ngày mới lựa...tần ngần chẳng buông!

Thanh Hoà
***
Họa:

Ơi chàng nên nhớ kỹ nha!
Thường xuyên vắt kính trẻ ra bội phần
Liền mua tám cặp bởi cần
Lo gì kính vỡ...ngại ngần khó buông?

Như Thu
***
3/
Xướng:

Cặp kính ngày xưa, anh nhìn em
Qua bao năm tháng, giờ cũ mèm
Tìm được, lòng anh lại nao nức
Nhìn lại em xem, có ...cũ hem ??!!

Tám (Kim Loan)
***
Họa:

Buổi đầu gặp gỡ sánh cùng em
Bỗng chợt trời mưa áo ướt mèm!
Kính đã hoen nhoà do nước đọng
Rụt rè ngắm kỹ nét hom hem!

Như Thu
***
4/
Xướng:

Đôi kính ngày xưa đã cũ rồi
Mang vào ngắm kỹ mắt Thu thôi
Bao nhiêu tha thiết bao âu yếm
Xao xuyến trong Hương dạ rối bời

Kim Oanh
***
Họa:

Đầu tiên gặp gỡ thích em rồi! (*)
Sính lễ cau trầu nhanh bước thôi!
Áo diện hoa cầm thêm cặp kính
Lòng nghe hạnh phúc nỗi bời bời...

Như Thu
(*) Anh Hương & Như Thu quen biết nhau được là do hai vợ chồng ở cùng chung cư với NT giới thiệu. Mới gặp trò chuyện chỉ vài giờ thôi. Sau đó ảnh mời Như Thu đi dự party cuối năm do hãng tổ chức, NT còn nhớ là mùa lễ Thanksgiving. Chỉ đi chung có 1 lần ảnh đòi cưới NT liền. Tính ra vừa lễ hỏi & lễ cưới vỏn vẹn chỉ chưa đầy 5 tháng.
Nhờ 4 câu thơ của Kim Oanh nên NT có dịp kể chuyện Hương Thu 
Love
***
Xướng:

Từ lễ hỏi , lễ cưới chưa đầy 5 tháng
Thật tuyệt vời mối tình chớp nhoáng
Anh Hương có mắt tinh đời thật
Lấy được vợ hiền ngoan xứng đáng

Nguyễn Thị Thanh Dương
***
Họa:

Bởi vậy em đà lu bu cả tháng
Bên người chẳng yêu cái hào nhoáng
Gia đình êm ấm mãi cùng nhau
Hạnh phúc vô biên lòng thoả đáng!

Như Thu