Thứ Bảy, 5 tháng 4, 2025

Người Muôn Năm Cũ- Thơ: Tuệ Kiên - Nhạc: Võ Tá Hân - Ca Sĩ: Ngọc Quy


Thơ: Tuệ Kiên
Nhạc: Võ Tá Hân
Ca Sĩ: Ngọc Quy

Lắng Nghe Tiếng Chúa - Nhạc: Phạm Đức Huyến -Tiếng Hát: Nguyễn Hồng Ân - Nhạc Thánh Ca Mùa Chay 2024


Nhạc: Phạm Đức Huyến
Tiếng Hát: Nguyễn Hồng Ân

Hãy Trở Về...

 

Có những lúc hồn đi hoang lạc lối

Lặng một mình trong bóng tối vây quanh

Cả gian phòng giá lạnh phủ tràn lan

Run rẩy sợ bàng hoàng tâm lo lắng


Chợt vang lên giữa đêm thanh vắng lặng 

Lời kinh cầu mang hồn lạc trở về

Quỳ bên Ngài con bừng tỉnh cơn mê

Được thuong xót, bao dung tha thứ lỗi


Tuần Chay Thánh mở lòng lời xưng tội

Tâm an dù bóng tối hay bão giông

Vng đức tín luôn có Chúa quan phòng

Tạ ân phúc ngọn nến hồng bừng sáng.


Kìm Oanh

Mùa Chay 2025

Xin Cứu Con

 

“Đấm Ngực Cúi Đầu Than Khóc Tội
Ngài Thương Giải Cứu Đỡ Nâng Lên” (*)

ĐẤM xin khấn lạy Đấng nhân hiền
NGỰC tự con đây chuốc tội khiên
CÚI cậy trông Cha ban hoán cải
ĐẦU cầu nguyện Chúa giúp canh tân
THAN không còn nữa mà vui khỏe
KHÓC cũng qua đi hết lụy phiền
TỘI đã được tha nhờ Thánh Tử,
NGÀI THƯƠNG GIẢI CỨU ĐỠ NÂNG LÊN

(*) Thánh Thi Kinh Chiều, T1MC Đ 2, C 3-4

Từ Thanh Hà( Thái Huy) 
Mar/01/23

Tịnh Chay


Cùng nhau quên hết mê say
Mời nhau tìm đến mùa chay hãm mình
Đời ta còn lắm tội tình
Quẩn quanh buồn tựa bóng hình bên ta
Niềm vui như gió lướt qua
Nỗi đau như bản bi ca rã rời
Thơ tôi viết chỉ gọi mời
Lòng ta tâm tịnh sống đời bình an

Mùa chay cầu khẩn Chúa ban
Được kiêng phần xác sửa sang phần hồn
Ngày nay ta vẫn sinh tồn
Nhớ xin cho những linh hồn mồ côi
Sớm lên nhìn Chúa Ba Ngôi
Giúp ta qua lúc nổi trôi nhọc nhằn
Buồn , vui vẫn sống ân cần
Đói, no vẫn sống thanh bần thẳng ngay

Cùng nhau sống trọn mùa chay
Có tôi có bạn thơ thay tiếng lòng
Bài thơ không thể gánh gồng
Những điều trăn trở chất chồng bấy lâu
Nhưng tình thơ mãi đậm sâu
Bạn vui tôi hết lo âu thở dài
Mùa chay ta có ơn Ngài
Chúa luôn gìn giữ những ngày tịnh chay

Thế Thôi(Đỗ Hữu Tài)
Tue Mar 10, 2009 9:47 pm

Thứ Sáu, 4 tháng 4, 2025

Đà Lạt Phố Núi - Thơ: Hồng Thúy - Nhạc: Nguyễn Tuấn - Hòa Âm: Đỗ Hải - Ca Sĩ: Hà Thanh Thực Hiện: Đặng Hùng


Thơ: Hồng Thúy
Nhạc: Nguyễn Tuấn
Hòa Âm: Đỗ Hải
Ca Sĩ: Hà Thanh
Thực Hiện: Đặng Hùng

Mỗi Tháng Tư Về

 

Nắng tháng Tư nhuốm màu tang tóc
Mọi nẻo đường bỗng chốc mù sương
Kiếp lưu vong nếm đủ đoạn trường
Trời đất khách bầy chim bỏ xứ

Nắng tháng Tư chập chờn mộng dữ
Len vào hồn theo giấc chiêm bao
Lòng đại dương ai nhuộm máu đào
Tràn giọt lệ không lời đưa tiễn

Nắng tháng Tư biển đời cuồng nộ
Vùi thân người thú tính sài lang
Mang nỗi đau thấm nhục vượt ngàn
Hồn phiêu bạt nặng thề non nước

Thơ & Ảnh: Kim Phượng


Tháng Tư Trong Tôi

 

Bốn bể trôi thân lạc
Tháng Tư đen u hoài
Quê hương thành mây khói
 Một thời nét tranh phai

Gót lưu vong lạnh giá
Trời tự do chưa xanh
Mắt khô cùng năm tháng
Tim rướm máu không lành

Nghe quê nghèo nức nở
Ngục tù thay mái tranh
Tre già rơi tiếng nấc
Lúa non rụng đầu cành

Thuyền nhân trôi sóng dữ
Xác tan theo mộng lành
Chim bay không thấy tổ
Chỉ còn gió mong manh

Con lớn khôn đất lạ
Cháu quên tiếng mẹ hiền
Ta gom lời thầm lặng
Dệt giấc mộng đoàn viên

Năm mươi năm biệt xứ
Tóc pha sương mịt mù
Tim còn nghe thổn thức
Nhớ một thời hoang thu

Mái tranh xưa rêu phủ
Giếng làng còn đợi ai?
Khóm cau già lặng lẽ
Ngong bóng người lạc loài 

Mơ một ngày đất mẹ
Tan khói lửa, yên lành
Ta trở về thăm lại
Lối nhỏ phủ cỏ xanh

Dẫu chân run, lưng mỏi
Dẫu trán hằn gió sương
Lòng vẫn mang quê cũ
Như thuở còn sân trường

Cầu quê hương thanh bình
Hận thù chóng đi qua
Cho cháu con ca hát
Giữa mảnh trời ông cha

1/4/2025
phamphanlang


Anh Không Còn Yêu Em

Tình đã chết khi nào?
Sao không còn thương nhau?
Chỉ còn lại khổ đau!

Ta không còn mai sau
Tình hấp hối u sầu
Tương lai chẳng còn nhau
Không nên hẹn kiếp sau
Chờ kiếp sau làm gì?
Em mời anh ra đi
Em mời anh ra đi

Anh yêu em tình đầu
Anh yêu em tình đầu...
Tình cuồng dại si mê
Thế mà anh vụng về
Để mất tình đam mê

Chẳng thể giữ duyên thề
Mình trở về tình bạn
Anh ơi, an vui nhé
Đừng để giọt sầu rơi!

Mình chia tay... anh ơi!
Mình chia tay... anh ơi! 

Chẳng có gì tiếc nuối
Một cuộc tình nổi trôi
Tình vài năm gắn bó
Cũng đến ngày tàn thôi!

Anh không còn yêu em!
Anh không còn yêu em!...
Anh không còn yêu em!

Như Nguyệt
March 18th, 2025

Nước Mắt Giữa Trùng Dương


(Viết theo lời kể của một thuyền nhân, tên nhân vật đã được thay đổi.)

Trong cuộc đời của một con người, hẳn ai cũng có những lần gặp nhiều sự việc quan trọng xảy ra trong cuộc sống của mình. Những sự việc đó đã được khối óc ghi nhận và lưu giữ lại ở một chỗ nào đó trong đầu mà chúng ta gọi là ký ức. Tuy vậy có những việc, nó chỉ lưu giữ trong ký ức một khoảng thời gian rồi phai mờ dần, nhưng có những điều lại như hằn sâu, như khắc đậm, muốn quên mà không thể quên được. Câu chuyện sau đây trong cuộc đời tôi là một minh chứng cho sự huyền diệu của khối óc: Tôi đã nhớ và đã nhớ cả một đời.

Tôi là đứa con gái út trong một gia đình đông con, mẹ tôi mất năm tôi 12 tuổi, vì thế bao nhiêu tình thương yêu của Bố và các anh chị đều đổ dồn cho tôi. Tôi được nuông chiều như một cô công chúa, từ nhỏ cho đến khi tốt nghiệp đại học, mọi việc đều do các anh chị tôi lo lắng, sắp xếp cả, chính vì vậy mà khi ra đời, không có kinh nghiệm sống, lại ngu ngơ, không biết cách ứng xử, tôi luôn bị thua thiệt, bị bắt nạt. Nhưng có lẽ ông trời thương hại kẻ khù khờ nên đã cho tôi một khuôn mặt khá xinh xắn, để bù lại những thiếu sót của tôi.Với khuôn mặt xinh xắn này, tôi đã luôn nhận được sự giúp đỡ cũng như chiếm được cảm tình của rất nhiều người trong đó có anh. Anh Bằng là sinh viên đại học Bách Khoa năm cuối cùng, tôi quen anh trong lúc tham gia công tác đổi tiền của nhà nước, một công việc mà sinh viên phân khoa các đại học bắt buộc phải có mặt, làm việc theo sự phân bổ của chính quyền CS. Chính anh là người đã giúp đỡ và bảo vệ tôi trong suốt thời gian đổi tiền và cũng từ đó chúng tôi quen nhau rồi yêu nhau.

Yêu nhau một thời gian dài, anh xin với bố tôi cho cưới. Bố không bằng lòng vì nghĩ tôi còn quá trẻ, sau anh nài nỉ mãi và cũng vì thấy chúng tôi quá thương nhau, bố động lòng, nhưng chỉ bằng lòng cho làm đám hỏi, còn cưới thì phải chờ tôi trưởng thành hơn nữa .

Đám hỏi chưa kịp làm, đột nhiên anh biệt tăm cả tháng trời, không thấy đến tìm tôi. Lo lắng, tôi đến gia đình anh để hỏi thăm thì được biết anh và anh trai ra miền Trung thăm bà nội bị bệnh. Ba ngày sau anh đến nhà tôi với cái đầu trọc lóc, anh kể:

- Anh vừa mới được thả về, anh nhấc mũ ra, đưa tay xoa xoa cái đầu, em biết tại sao rồi chứ?
- Làm sao em biết được? Tôi trố mắt lên nhìn anh, bộ anh bị bắt hả, mà làm gì bị bắt thế?
Anh nhéo mũi tôi nói nhỏ:
-Trời ơi, em tôi đúng là một cô bé khờ. Thì anh đi vượt biên bị bắt chớ sao?
- Vượt biên? Sao anh đi mà không nói cho em biết? Chuyện quan trọng như vậy mà lại giấu em.
- Chính anh còn không biết, mọi việc ba anh sắp xếp hết, giờ cuối cùng, ba gọi anh về để đi cùng anh hai, và đi gấp trong đêm, nên đâu thể nào báo cho em biết được. Chuyến đi thất bại, tụi anh bị bắt, lúc được thả về, anh quyết liệt với ba là anh sẽ không đi đâu nếu không có em đi cùng. Ba đã đồng ý. Nói trước cho em biết để chuẩn bị tinh thần, lần sau nhất định có đi thì hai đứa mình cùng đi, bé hết giận anh chưa?

Cứ tưởng anh nói để dỗ ngọt tôi, ai dè một tháng sau, vào buổi tối ngày 24 tháng 5 năm 1981, anh đến nhà xin phép bố tôi cho tôi đi vượt biên cùng anh ngay đêm ấy, bố tôi hơi ngỡ ngàng,và có ý không bằng lòng. Bố ngần ngừ và trầm ngâm rất lâu:
- Bác biết con rất thương Ngọc, nhưng vượt biên không phải là chuyện chơi, biết bao nhiêu hiểm nguy, bất trắc đang chờ đón, hơn nữa, Ngọc là con gái, các con chưa chính thức là gì với nhau, ra đi như vậy có hợp với lễ giáo hay không?

Nghe bố nói vậy, Bằng kéo tay tôi, hai đứa cùng quỳ xuống trước mặt bố, giọng anh thiết tha:
-Thưa bố, chính vì điều này mà con cúi xin bố thành toàn cho chúng con, cho chúng con được thành vợ, thành chồng. Sự cho phép của bố sẽ giá trị hơn bất cứ một lời cam kết nào trong cuộc đời này. Con xin thề với bố, con sẽ thương yêu và đối xử thật tốt với Ngọc, khi qua được bên kia đại dương, con sẽ làm đám cưới với Ngọc đúng theo lễ giáo. Mong bố toại nguyện cho chúng con.

Ôm lấy đầu gối của bố, tôi tiếp lời của Bằng:
- Bố ơi, Bằng nói thật đó, anh ấy rất yêu con, không bỏ con đâu, hơn nữa bố ơi, bố làm việc trong chính quyền cũ, các anh con thì đều bị đi học tập cải tạo, sống trong một gia đình bị gọi là ngụy quân, ngụy quyền, tương lai chúng con sẽ ra sao? Bố để con đi, qua bên đó biết đâu con còn có thể giúp đỡ phần nào cho gia đình mình, giúp các cháu đỡ đói khổ. Nhìn chúng nheo nhóc bố đành lòng sao? Bây giờ có cơ hội, bố cho con theo anh ấy nhe bố, Con xin bố, cho con đi nhe.
Có lẽ, nhận thấy những lời của chúng tôi nói không sai và cũng cảm động trước sự chân thành tha thiết của hai đứa, bố đã đồng ý và chúc lành cho chúng tôi.

Ở lại nhà anh một ngày, chiều 25 chúng tôi đón xe đi Bà Rịa để 9 giờ tối hôm đó đón “taxi” ra “tàu” lớn. Tiếng là tàu nhưng thực sự đó chỉ là một con thuyền đánh cá không lớn lắm mà tôi từng được trông thấy khi ra Vũng Tàu chơi thời còn dưới chế độ VNCH

Khi tàu ra xa, đã vào được vùng an toàn thì mọi người mới phát giác ra sự lừa đảo của bọn chủ tàu, chúng không hề mua nước cũng như đồ ăn để dự trữ cho chuyến đi của 66 người. Khi bị chất vấn, chúng đổ thừa tại bến bị động nên không thể chuyển lương thực được. Một số người không nhịn được sự tức giận đã nhẩy lên đòi đánh tên này, nhưng cuối cùng, vì sự đã rồi và cũng vì nhóm người của chủ tàu quá đông, nên mọi người đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Nhóm chúng có phòng hờ đem theo đồ ăn nhưng cũng không nhiều, một chút gạo và khoai lang, chỉ đủ cho chúng dùng trong vài ngày thế thôi. Từ đó ai có chút đồ ăn đều phải giữ kỹ để phòng thân.

Riêng vợ chồng tôi (chúng tôi xưng vợ chồng để tránh những rắc rối sẽ xảy ra) còn sui xẻo hơn, ngoài bọc đồ ăn nho nhỏ và một số thuốc phòng thân chồng tôi buộc ở trên vai, lúc ra taxi, hỗn độn, chen lấn đã bị ai đó giựt mất, anh Bằng lại đạp phải cái gai dừa trên bãi biển, lên đến tàu anh mới thấy đau. Nếu ngay khi mới đạp phải gai, lấy ra ngay thì còn được, nhưng vì lo chạy đi ra taxi để không bị bỏ lại, nên cái gai càng ngày càng đâm sâu vào chân hơn, không có cách nào lấy ra nữa. Mấy hôm sau chỗ bị gai đâm bị sưng tấy lên, mưng mủ, nó đã bị nhiễm trùng. Chồng tôi đã bắt đầu bị sốt. Mới đầu chỉ hơi nóng nhẹ, anh còn chịu đựng được, vẫn còn có thể hứng nước mưa cho hai đứa uống, nhưng vì nhịn đói và khát cả hơn một tuần lễ, cơ thể không có sức đề kháng, cơn sốt càng ngày càng tăng và kéo dài hơn. Gói bánh nhỏ tôi lấy vội trước khi đi còn sót trong túi áo lạnh, đã cho anh ăn dần, cầm cự được vài ngày rồi cũng hết. Sau đó, tôi có hỏi xin thuốc và đồ ăn cho anh nhưng không ai cho, họ còn phải thủ cho mình vì ai cũng tưởng chỉ một hai ngày thì sẽ gặp được tầu vớt, nên thực phẩm mang theo rất hạn chế, không ai muốn bị chết đói cả. Đồ ăn mang theo hầu như đã gần hết, lần đầu tàu chúng tôi có gặp khoảng 40 chiếc tàu, có những chiếc bỏ đi luôn, có những chiếc dừng lại nhưng không chịu vớt mà chỉ chấp nhận tiếp tế lương thực thôi, nhưng vì tàu của chúng tôi quá bé, không thể lại gần vì sợ bị lật tàu, nên đành đau đớn nhìn tàu lớn bỏ đi mà không nhận được gì. Tất cả chúng tôi trên con tàu này đều đã phải nhịn đói và hứng nước mưa uống để sống sót.

Ngay mấy ngày đầu, khi tàu vừa ra tới hải phận quốc tế, thì vợ tên chủ tàu ngồi phía trên gần cái máy, không biết loay hoay thế nào mà đạp vào cái cần điều khiển, thế là máy tắt luôn. Tên tài công không biết cách sửa để máy chạy lại vì chính hắn chỉ là tên tài công dỏm, nhận bừa để được cho đi thôi chứ có biết tí gì về máy móc đâu, vì vậy con tàu cứ lênh đênh trôi trên biển cả mặc sóng cuốn về đâu thì hay đó. Sinh mạng 66 con người giờ phó mặc cho trùng dương chỉ vì lời nói dối của một kẻ bất tài.


Con thuyền không được điều khiển, cứ trôi không biết đâu là bến bờ, khi thủy triều xuống, thuyền mắc cạn vào một hòn đảo san hô nào đó, chỉ thoát ra được khi thủy triều lên sóng đánh, kéo tàu ra xa. Một niềm hy vọng cho mọi người là tại những đảo san hô này, trứng chim biển rất nhiều, thấy vậy, có mấy thanh niên nhảy xuống, bơi vào đảo hy vọng sẽ lấy được trứng thì sẽ không còn bị đói nữa, nhưng bất hạnh thay, đá trên đảo san hô lại rất nhọn, sắc cạnh và trơn trượt, trứng không lấy được mà còn bị té đập đầu vào đá sắc mà chết, trong số người chết có anh Tư là người dẫn chúng tôi ra tàu.

Con tàu lại lênh đênh trên biển như chiếc lá giữa dòng, và người chết vì đói đã bắt đầu có. Trước hết là những em bé, các em mới đầu còn khóc vì đói, sau đó cứ lịm dần và ra đi trong lòng mẹ. Tiếng khóc thương con thảm thiết vang lên như át cả tiếng sóng vỗ của đại dương. Sau đó là một vài người lớn, cơ thể yếu đuối, không chịu được cơn đói và lại thêm bị sóng nhồi, nên đã ra đi, xác bị thả trôi trên biển.

Lúc này chồng tôi khi tỉnh, khi mê. Đang là một thanh niên khỏe mạnh, cường tráng, nhưng vì nhịn đói nhiều ngày, lại thêm vết thương ở chân bị nhiễm trùng, không có thuốc chữa, khiến anh lên cơn sốt, vì thế sức khỏe anh càng ngày càng suy kiệt. Đã mười mấy ngày rồi, cơn sốt vẫn không thuyên giảm, tôi bất lực chỉ biết ôm anh trong lòng mà khóc, nhiều khi nước mắt không còn để mà chảy ra nữa. Ôm anh trong tay, lúc nào lòng tôi cũng nơm nớp lo sợ anh sẽ bỏ tôi mà đi như những người kia. Một vài người thấy tình cảnh của vợ chồng tôi, họ cũng thương nhưng cũng không thể làm được gì cho chúng tôi, họ chỉ có thể hứng dùm chút nước mưa để cho tôi thấm vào đôi môi khô và tím lịm của anh thế thôi. Ngồi trong lòng tôi, đầu anh tựa vào vai vợ, mắt nhắm nghiền, hơi thở nóng hổi, mặt ửng đỏ, lâu lâu anh lại rên khe khẽ. Tôi biết anh đau lắm, mệt lắm, mà không thể giúp gì được cho anh, nghiêng mặt qua, hôn lên vầng trán nóng bỏng của chồng, nước mắt của tôi rỏ trên má anh, anh thều thào:
-Anh yêu em, đừng khóc Ngọc ơi, con tàu này bị ếm rồi, khó qua lắm. Anh hé cặp mắt lờ đờ nhìn tôi, rồi lại nhắm lại, anh xin lỗi em, đừng khóc nữa, anh muốn được nghe em hát, hát lên đi em, hát cho anh nghe...

Tôi có linh tính đây là lần cuối anh nói với tôi. Để môi mình trên trán anh, tôi xiết người anh trong vòng tay tôi chặt hơn và tôi bắt đầu hát nho nhỏ:
- ...ngủ đi anh, ngủ đi anh. Ngủ đi, mộng vẫn bình thường, à ơi, sẵn tiếng thùy dương đôi bờ, cây dài bóng xế ngẩn ngơ, hồn em đã chín, mấy mùa buồn đau. Tay em, anh hãy tựa đầu, cho em nghe nặng trái sầu rụng rơi. Ngủ đi anh... ngủ đi anh...Bằng ơi

Tiếng hát của tôi hòa lẫn trong tiếng sóng rì rào của đại dương bát ngát, mặc những cơn nức nở làm nghẹn lời, tôi vẫn cứ hát, cứ miên man hát cho chồng tôi nghe lần cuối trong đời và nước mắt tôi vẫn cứ chảy, chảy ràn rụa trên khuôn mặt tái dần, tái dần của anh. Tôi cứ hát trong nước mắt mà không cảm thấy người anh như đang nhẹ hẳn đi, bàn tay anh đặt trên bàn tay tôi đã lơi ra và rơi xuống sàn tàu. Bất chợt tôi nắm lấy bàn tay anh, sao tay anh lại lạnh như thế này Anh đã đi, anh đã ra đi rồi sao, anh đã bỏ tôi thật rồi sao. Tôi hốt hoảng lay lay anh thật mạnh, anh Bằng ơi, anh Bằng ơi... Anh vẫn bất động, tôi ôm lấy đầu anh, hôn lên khuôn mặt giá lạnh của anh trong tiếng khóc ngất.

Tiếng khóc của tôi làm người ngồi bên cạnh chú ý, anh là người luôn giúp đỡ chúng tôi, chắc anh cũng đoán trước được sự ra đi của chồng tôi nên khi nghe tôi khóc lớn, anh liền sờ vào mũi Bằng và bảo:
- Cậu ấy đi rồi, cô không nên ôm như vậy, cái lạnh cơ thể của cậu ẩy sẽ không tốt cho sức khỏe của cô đâu và tập tục ở miền biển, chúng tôi phải thủy táng cậu ấy như những người trước.

Lúc này tôi không còn nghe thấy gì hết, chỉ biết ôm chặt thể xác anh trong tay và khóc. Tôi cứ ôm chặt lấy anh, không cho người ta lấy anh ra. Tôi biết nếu tôi buông anh, tôi sẽ mất anh vĩnh viễn kể cả về nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Rồi sau cùng mọi người phải dùng sức kéo tay tôi để lấy anh ra mang thả xuống biển vì, theo tập tục của dân đi biển, thì khi một người đã chết thì phải làm lễ thủy táng trước khi mặt trời lặn. Qua làn nước mắt, nhìn thân xác của anh nằm sấp mặt trên sóng nước bồng bềnh, trái tim tôi thắt lại, buốt nhói, tôi nhào ra cạnh thuyền hai tay với với về phía anh một cách tuyệt vọng, giọng tôi khản đặc:
- Anh ơi, Bằng ơi, đừng bỏ em, đừng trôi đi, đừng trôi đi mà, em xin anh đấy, Bằng ơi, em xin anh mà, đừng trôi anh ơi!!!

Mặc cho tôi kêu khóc, xác anh trôi về cuối thuyền. Tôi cố len qua mọi người để bò về cuối tàu, thì anh lại trôi về đầu tàu, tôi vừa khóc, vừa bò ngược lại, mọi người lại tránh chỗ cho tôi. Thấy tình cảnh đáng thương của tôi, không nhịn được, một số người ôm tôi lại và khấn to:
- Cậu Bằng ơi, cậu sống khôn thác thiêng thì trôi xa đi, đừng làm khổ vợ nữa.

Và kỳ lạ thay, sau lời khấn ấy, xác anh không trôi quanh tàu nữa mà trôi ra xa rất nhanh, càng ngày càng xa tàu đến khi mất hút. Tôi chới với nhìn theo, lồng ngực chợt như bị bóp lại, như muốn vỡ toang ra, tôi cố gào lên, cố kêu tên chồng tôi, nhưng không được, tiếng kêu như bị tắc nghẹn trong cổ họng, không thở được nữa và tôi ngất đi. Không biết thời gian bao lâu, khi tỉnh lại, tôi thấy mình đang được một bác gái, nhỏ vào miệng vài giọt nước mưa đựng trong một cái nắp chai, thấy tôi mở mắt, bác mừng rỡ:
- Cô ấy tỉnh lại rồi, vừa nói bác vừa đỡ tôi ngồi dậy, và đút vào miệng tôi một miếng đường thẻ nhỏ xíu, con ăn chút đường cho lại sức.
Tôi ngậm miếng đường, cám ơn bác. Bỗng như sực nhớ điều gì, tôi bật ngồi thẳng dậy, mắt dáo dác nhìn quanh, miệng lẩm bẩm:
- Anh Bằng? Anh đâu rồi, chồng tôi đâu rồi?
Vừa nói, tôi vừa tính bò ra mạn tàu, nhưng cánh tay tôi đã bị một bàn tay giữ lại kèm theo là một giọng nói đàn ông:
- Cậu ấy đã mất, chúng tôi cũng đã thủy táng cho cậu ấy rồi, trời tối thế này, cô không thể nhìn thấy cậu ấy nữa đâu. Nghe lời tôi đi, cố gắng mà sống để còn có người báo tin cho người nhà biết chứ, chết hết rồi thì làm sao.
Quay nhìn người ngăn tôi lại, tôi lí nhí nói trong giòng nước mắt:
- Cám ơn anh, tôi hiểu.

Và kể từ đây, không còn người để nương tựa, tôi phải tự mình bảo vệ lấy mình. Tôi lùi vào một bên mạn tàu, ngồi bó hai gối lại, nước mắt lại trào ra, tôi nghĩ về Bằng. Tôi yêu Bằng nhận làm vợ anh và nghĩ hai đứa sẽ hạnh phúc bên nhau trọn đời. Bây giờ, bao nhiêu dự tính tốt đẹp về tương lai đã bị sụp đổ hoàn toàn, trước mắt tôi là một khoảng tối đen, mù mịt. Ai ngờ, cuộc đời tôi lại bất hạnh như thế này đây, cứ tưởng mình sẽ là cứu cánh của gia đình, thế mà, ngay đến bản thân mình không biết sẽ ra sao nói gì đến lo cho ai được. Bằng đã bỏ tôi bơ vơ trong một hoàn cảnh éo le, ngặt nghèo. Tôi sẽ không bao giờ quên Bằng cả, tôi yêu anh, yêu anh thật nhiều, Bằng ơi, em nhớ anh quá, em mãi mãi muốn được ôm anh trong vòng tay nhỏ bé của mình, muốn được hát cho anh nghe, muốn được có anh bên em suốt đời, nhưng làm sao khi định mệnh đã ngăn cách chúng mình để giờ đây, một mình em bất lực ngồi đây mà nhớ anh, mà thương anh. Bằng ơi, em xin khấn nguyện Phật Trời cho linh hồn anh mau được siêu thoát về nơi cõi an bình nhe anh. Tôi ngồi trong bóng tối và thì thầm cầu nguyện cho anh:
- Nam Mô, Đại Từ Đại Bi, Tầm Thinh ,Cứu Khổ Cứu Nạn, Quảng Đại Linh Cảm Bạch Y, Quan Thế Âm Bồ Tát

Câu chú này là do chị Cả của tôi dạy, chị bảo tôi khi nào gặp nguy hiểm hãy đọc chú này thì sẽ được cứu. Từ đây cho đến suốt cuộc đời, tôi sẽ luôn niệm chú này và tôi cũng đã thoát qua nhiều hiểm nguy nhờ đọc chú Quan Thế Âm. Chỉ cần một câu thôi.

Từ ngày tàu ra khơi tính tới hôm nay là đúng 19 ngày và chồng tôi mất đúng vào ngày thứ 19. 19 ngày lênh đênh trên biển cả, những chiếc tàu lớn chúng tôi gặp đều không chịu vớt, ngay cả sau khi chồng tôi qua đời, và những ngày sau đó cũng vậy. Với tình trạng không có nước, không có thực phẩm như thế này, không biết mọi người có còn thể cầm cự được bao lâu nữa đây, nhất là mấy đứa nhỏ. Tên chủ tàu này quả thật là đồ khốn nạn và bỉ ổi. Đói còn có thể chịu đựng được một thời gian ngắn nhưng với cơn khát thì làm sao mà kéo dài sự sống được. Thời gian dần trôi qua, ngày rồi đêm, số người bị bệnh, bị mất sức, bị chết vì đói ăn, vì khát nước càng ngày càng nhiều. Mới đầu tiếng khóc tiễn người thân ra đi còn vang vọng trên biển cả, nhưng dần dần, cả người còn sống cũng không đủ sức để thở, thì còn hơi đâu để khóc cho người ra đi.

Trong đời sống của chúng ta, chắc hẳn không ít người đã gặp phải những chuyện lạ lùng, đôi khi huyền bí mà không thể giải thích, nhất là khi chuyện xảy ra liên quan đến những người đã khuất. Mọi người đều bảo đó là những chuyện thuộc về tâm linh, mà đã là vấn đề tâm linh thì không thể cắt nghĩa được. Truyện tâm linh tưởng như khó có thể gặp, nhưng những sự kiện này đã đặc biệt lại xuất hiện nhiều lần xuyên suốt trong chuyến vượt biên trên con tàu chở chúng tôi.

Chồng mất, tôi bơ vơ không người che chở, bị bọn chủ tàu bắt nạt, chửi mắng tôi, vì chúng nghĩ tôi là dân “canh me”. Tôi đã hết lời giải thích là tôi đi với chồng, không thể nào tôi là người đi lậu được, hơn nữa anh Tư, người chết trên đảo san hô, là người đưa chúng tôi xuống thuyền biết rõ mà. Chúng nhất định không tin vì cả hai người chứng của tôi đều đã không còn, thậm chí chúng còn xông đến đòi ném tôi xuống biển. Mặc cho tôi khóc lóc van xin thế nào, không một ai chung quanh tôi lên tiếng bênh vực cho tôi cả. Họ phải tự giữ lấy thân, không muốn vì kẻ khác mà rước họa vào người. Giữa lúc tuyệt vọng nhất, khi đã nắm chắc cái chết trong tay, tôi chợt nhớ đến Mẹ Quan Thế Âm và niệm khẽ: “Nam mô...”. tiếng nam mô còn chưa dứt trên môi, thì mọi người đều giật mình vì một tiếng đàn ông hét lớn vang lên từ đầu thuyền:
- Dừng lại.

Tất cả chúng tôi đều quay nhìn về nơi có tiếng quát phát ra, vợ của người tài công đang đứng đó, mắt bà long lên sòng sọc, tay chỉ thẳng vào bọn chủ tàu:
- Đứa nào đụng vào con bé đừng trách tao, tao là người đưa nó lên tàu, nghe rõ chưa.

Nói xong bà khuỵu người nằm xuống mắt nhắm lại như đang ngủ. Cái ngạc nhiên và sợ hãi của mọi người là tiếng nói phát ra từ miệng bà là tiếng của một người đàn ông, tiếng của anh Tư, đúng là tiếng của anh, không ai là không biết. Người tài công cũng sợ, anh ta không dám lại đỡ vợ. Một lúc sau bà ngồi dậy, và ngạc nhiên khi thấy mình nằm ở đầu tàu, bà hỏi chồng lúc đó đang nhìn bà mà sự sợ hãi vẫn chưa tan đi trên khuôn mặt của hắn:
- Sao tôi ngủ ở đây vậy ?
-  Phải là...là...bà không vậy? Sao lúc nãy tiếng nói của bà ...khác, giống tiếng của ...
-  Ông có điên không vậy. Không là tôi thì là ai.

Biết chắc là vợ mình, người tài công kể cho bà nghe mọi việc, bà có vẻ như không sợ mà chỉ nói:
- Lúc nãy ngủ, tôi có mơ thấy anh Tư, anh nói sắp có bão lớn, mọi người nên cầu Trời, khấn Phật cho qua tai nạn đi.
Tuy bán tín, bán nghi, nhưng bọn chủ thuyền cũng không làm gì đến tôi nữa vì chúng còn đang bàng hoàng về sự việc vợ tài công nói giọng của anh Tư.


Đúng như lời vợ tài công nói, gió bắt đầu nổi lên, mây đen kéo đến, rồi mưa đổ xuống như trút nước. Những ngọn sóng lớn dần và đập mạnh vào thành tàu, con tàu nhỏ bé, chao qua, chao lại như chiếc lá trong cơn cuồng phong. Tiếng la hét, tiếng cầu kinh vang lên giữa cơn giông bão. Run sợ ngồi trong góc tàu, tôi nghĩ với những ngọn sóng mạnh như thế này chả mấy chốc, con tàu nhỏ bé mong manh này sẽ vỡ ra từng mảnh, rồi sẽ bị sóng cuốn trôi, rồi sẽ bị sóng nhấn chìm tất cả, đem những sinh mạng trên con tàu này xuống lòng đại dương thôi. Sự sợ hãi này chồng lên sự sợ hãi cũ làm đầu óc tôi như mê đi. Tôi lẩm bẩm trong miệng một cách vô thức câu niệm chú Quan Thế Âm, trong khi đầu óc lại nhớ đến bố tôi, đến các anh chị em, các cháu, các người thân. Nước mắt cứ trào ra, trào ra mãi trong tiếng “ Nam mô......” đột nhiên con tàu hơi chao nghiêng, rồi như bị nâng cao lên, và vùn vụt lướt trên mặt biển, dần xa vùng bão tố. Mọi người hoang mang nhìn nhau, không biết chuyện gì đã xảy ra. Mãi cho đến khi cảm thấy con tàu như dừng lại và dập dình như cũ, một vài người mới lần ra ngoài xem và hét lên trong niềm vui sướng:” Chúng ta thoát rồi, thoát khỏi cơn bão rồi” Tất cả mọi người đều vội vàng quỳ xuống khấn tạ ơn Trời Phật, tạ ơn Thiên Chúa, Đức Mẹ, Phật Bà, mà không hiểu tại sao tàu lại trôi đi một cách lạ kỳ như có người nâng tàu lên và kéo đi để thoát khỏi cơn nguy biến như một phép lạ vậy. Người đoán thế này, kẻ nói thế khác, họ nhắc lại việc vợ tài công bị anh Tư nhập, tất cả, tựu trung sự huyền bí vẫn mãi chỉ là huyền bí mà thôi, không ai giải thích được và cũng từ đó mọi người tin là tôi có người âm phò trợ nên không ai dám đụng đến tôi nữa.

Đã hơn một tháng trôi qua, số người chết trong thời điểm này đã hơn một phần ba, con nít thì chết gần hết chỉ còn lại một hai bé thôi, trong đó có một bé gái 10 tuổi tên Dương, em đi với bố và anh trai. Khi bố và anh trai bị thủy táng, em khóc đòi theo họ, tôi đã ôm em lại. Từ đó hai chị em nương tựa vào nhau.

Con tàu cứ trôi dật dờ như thế, ngày rồi đêm, đêm lại đến ngày, người chết, rồi lại người chết, người còn lại thì sống dở chết dở. Đã vậy, ba ngày nay, tàu lại bị mắc cạn vào sâu trong đảo san hô, thủy triều lên, sóng cũng không kéo nổi tàu ra. Tối nay, có lẽ nỗi sợ hãi nếu tàu không thoát ra khỏi bãi san hô này thì cơ hội sống cũng không có, nên mọi người nổi cơn lên chửi bới nhau, đổ lỗi lẫn cho nhau ầm ĩ. Thấy vậy, sợ bị liên lụy, tôi kéo bé Dương trốn vào một góc tàu, hai chi em thì thầm niệm chú Quan Thế Âm, cầu mong Phật Bà cứu mọi người. (Chú này tôi đã dạy lại cho bé Dương như ngày trước chị tôi đã dạy cho tôi).

Bên ngoài, giữa lúc mọi người vẫn còn đang chí chóe cãi nhau mãi chưa dứt, thì có tiếng của một người đàn bà lanh lảnh vang lên giữa màn đêm, bà nói nếu mọi người muốn Mẹ Nam Hải cứu thì hãy cầu nguyện với Mẹ, ai có đạo nào thì cầu theo đạo nấy, đừng cãi nhau nữa

Nghe giọng nói lạ, tôi ló đầu ra, ngay chỗ đầu tàu, lại thấy vơ người tài công ngồi đó, ngay chỗ lần trước khi anh Tư nhập vào bà, bà tiếp tục nói và tự nhận mình là bà Mầu, chủ quán cây xăng Esso ở Ngã tư Phú Nhuận. Bà kể, bà vượt biên cùng con gái, tàu gặp cướp Thái Lan, chúng nó lấy hết tiền bạc rồi giết mọi người quăng xác xuống biển. Bà thấy thuyền này có vài người nhân đức nên muốn cứu dùm, bà còn dặn hãy cầu nguyện đi, Mẹ Nam Hải sẽ giúp.

Lần này thì mọi người không còn nghi ngờ gì nữa, tất cả quỳ xuống và cầu nguyện xin Đức Mẹ, xin Phật Bà, Mẹ Nam Hải, sáng mai khi thủy triều lên, mong tầu sẽ được cứu thoát ra khỏi vùng san hô này.

Lại một lần nữa, chúng tôi được cứu thoát nhờ giòng nước thủy triều dâng rất cao và cũng nhờ những lời cầu nguyện của mọi người, sóng đã kéo con tàu bất hạnh của chúng tôi ra khỏi vùng san hô .

Qua những điều kỳ lạ xảy ra, lần này, mọi người trên tàu đều tin có thần linh ở đâu đây, nên ai nấy không còn chửi bới, cãi cọ nhau nữa, nhưng trong lòng tất cả đều rất lo lắng và sợ hãi khi thấy con tàu cứ lênh đênh trên mặt sóng nước mênh mông, không thấy đâu là bến bờ. Ban đêm, biển trông thật dễ sợ. Vài người chúng tôi bảo nhau ra đầu tàu cầu nguyện, thấy vậy cả tàu quỳ xuống cầu theo. Đang cầu nguyện bỗng bé Dương kêu lên:
- Ngôi sao đỏ, chị ơi, có ngôi sao đỏ trên trời kìa.

Ngẩng nhìn lên, quả nhiên một ngôi sao màu đỏ rực hiện giữa bầu trời đen thẫm. Mọi người lại bàn tán và cho là đấng thiêng liêng hiện ra để cứu mình, thế là tiếng cầu nguyện lại vang lên. Những người quá yếu, không thể ngồi dậy được cũng cố gắng chắp tay lại miệng thì thầm van vái. Cả tàu hầu như không ngủ, chúng tôi cầu nguyện suốt đêm, và tàu cứ trôi không định hướng, theo ngôi sao đỏ trên trời. (Chúng tôi nghĩ thế)

Bình minh đã ló dạng, mặt biển như rực sáng lên. Một cảnh tượng tuyệt vời hiện trước mắt mọi người, một quả cầu vàng chói lói, nằm giữa những tia rẻ quạt rực rỡ đủ màu, dưới mặt biển đang từ từ nhô lên. Ôi, đẹp vô cùng! Hơn một tháng qua, bao nhiêu lần mặt trời mọc, thế mà có lần nào tôi được xem đâu, vì biết bao nhiêu biến cố đau buồn xảy ra, tôi cứ thu mình dưới hầm tàu mong tránh những tai họa, những phiền phức vô cớ cho mình. Lần này vô tình được nhìn cảnh bình minh trên biển quá đẹp, làm tôi quên mất hoàn cảnh cùng quẫn của mình. Nhưng với bọn chủ tàu, cảnh sắc đó có lẽ chẳng xa lạ gì, chúng chẳng để tâm, chính vì vậy mà chúng đã phát giác ra gần đó, bóng dáng một chiếc tàu đánh cá của dân chài. Thế là mọi người la hét để kêu gọi họ, những chiếc áo được dùng làm tín hiệu cấp cứu, vẫy vẫy tới tấp. Chiếc tàu kia, có lẽ họ đã thấy, nên chạy về phía chúng tôi. Không nỗi sung sướng nào hơn, như vừa chết đi lại được sống lại, không cần biết chiếc tàu này có phải là của bọn cướp biển như cướp Thái Lan không, chúng tôi cũng vẫn vui mừng, kẻ khóc, người cười, ai nấy đều quỳ xuống tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Trời Phật, tạ ơn những người khuất mày, khuất mặt, đã giúp chúng tôi.

Lần này, thần may mắn đã mỉm cười với chúng tôi, đây là tàu đánh cá của dân chài Philippin, họ bằng lòng giúp đưa chúng tôi về hòn đảo Mangsee nơi họ sinh sống.

Sau khi đã ngồi yên trên tàu mới. Tôi đưa mắt lên nhìn trời, ngôi sao đỏ đã biến mất từ bao giờ. Không biết có phải ngôi sao đỏ là thiên sứ dẫn đường đưa tàu chúng tôi đến nơi này để gặp được tàu Philippin không, nhưng trong lòng tôi vẫn thầm cám ơn Trời Phật đã không bỏ chúng tôi, bất giác tôi niệm thầm câu chú Quan Thế Âm:
-  Nam Mô Đại Từ Đại Bi, Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu Nạn, Quảng Đại Linh Cảm Bạch Y, Quan Thế Âm Bồ Tát.

Chúng tôi ở lại Mangsee ba ngày, sau đó được chuyển qua thủ đô Manila bằng tàu chiến của Philippin và cuối cùng là đảo Palawan, tại đây chúng tôi chờ để làm thủ tục đi đến những quốc gia nơi họ chấp nhận người tị nạn vượt biên.

Thế là chuyến hành trình vượt biên bão táp, lênh đênh trên biển của tôi chấm dứt sau gần hai tháng trời. Số người bước chân xuống tàu là 66 và số người được bước lên đất liền chỉ còn 25. Nhìn những con số mà thấy đau lòng chỉ vì sự tham lam và bất lương của lũ vô sỉ, lũ sát nhân mà hại chết nhiều người trong đó có những đứa bé vô tội.
Chuyện đã qua, nhưng nỗi đau vẫn còn đó. Xin nguyện cầu cho các linh hồn sớm tiêu diêu nơi cõi phúc.

Có lẽ, chẳng mấy người tin những điều tôi kể, bởi họ không được chứng kiến tận mắt những gì tôi đã thấy, đã nghe. Vâng, vì họ không thấy được cảnh thi thể của chồng tôi sau khi nghe mọi người khuyên đừng làm tôi khổ và lúc đó anh đã trôi nhanh ra xa như thế nào. Cảnh vợ người tài công đứng lên đầu tàu hét lên với giọng đàn ông, giọng của anh Tư đã chết, mà cứu tôi khỏi bị ném xuống biển. Cảnh chiếc tàu được Cá Ông( chúng tôi tin thế) đưa ra khỏi vùng bão tố. Cảnh bà Mầu nhập vào vợ tài công kể rõ tên tuổi, địa chỉ, cùng hoàn cảnh của mình lúc vượt biên ra sao. Cảnh ngôi sao đỏ ở đâu lại xuất hiện đúng lúc để dẫn đưa tàu chúng tôi đến vùng biển của Philippin mà để được cứu như vậy.Sau này khi ở lại Mangsee ba ngày, chúng tôi đã được anh chủ tàu kể lại và bảo là chúng tôi thật may mắn, vì tàu của anh chưa bao giờ đi vào vùng biển này để đánh cá, vì đây là vùng biển chết, vùng biển các anh thường đi không hiểu sao mấy hôm nay đánh không được cá, nên các anh đánh bạo, quyết định chuyển hướng về vùng biển này, và đã gặp được tàu của chúng tôi. Nghe xong câu chuyện tất cả chúng tôi đều nghĩ đến ngôi sao đỏ. Không lẽ lại có những sự trùng hợp quá diệu kỳ như vậy à?

Như tôi đã nói, những chuyện về tâm linh, hay những chuyện huyền bí, thì muôn đời vẫn không ai giải thích nổi. Tin hay không là tùy từng người, riêng tôi, tôi nghĩ phải có duyên mới có cơ may được gặp những điều huyền bí mà ít người được gặp, vậy đã được thấy, được nghe, được sống trong hoàn cảnh đó tại sao lại không tin nhỉ? Tin để sống cho thật tốt vì Thượng Đế luôn ở quanh để giúp chúng ta.

Tường Thúy
Tucson – AZ – 23 / 3 / 2022
Ngậm Ngùi
Thơ Huy Cận, Nhạc Phạm Duy

Thứ Năm, 3 tháng 4, 2025

Rồi Mai Đây - Thơ: Tạ Tỵ - Nhạc: Phạm Anh Dũng - Tiếng Hát: Hoàng Quân


Thơ: Tạ Tỵ
Nhạc: Phạm Anh Dũng
Tiếng Hát: Hoàng Quân

Chân Trần Trên Đồi Cát

 

Ngày về thăm quê
Trùng dương bát ngát
Chân trần chạy trên đồi cát
Mượt mà như dải lụa quấn quanh
Chân trần chạy thẳng lên đồi
Tưởng như đến bên trời trước mắt
Gió cát quật vào mặt vào mắt
Mặt trời nghiêng và bóng đổ
Đồi cát chập chùng đôi cánh trắng
Gió thổi tung màn lụa phủ thân ta
Lòng cuộn theo cơn lốc
Bụi mờ vết chân qua
Quá khứ xa xôi
khung trời ẩn hiện
Đại bác nổ rền xé rách đêm thâu
Ánh hỏa châu soi sáng cát vô hồn
Lá cây gầy
lấp loáng giọt sương tuôn

Lòng mẹ mái tranh
nước mắt ru buồn
Bóng anh người lính chiến
Áo chinh nhân xuống biển lên ngàn
Lặng lẽ súng trên tay
Băng qua vùng lửa cháy
Đã một lần nơi đây

Em, anh và quê hương tan nát
Ôi chinh chiến điêu tàn
Tình yêu và biển mặn
Quê hương ước mơ ơi
Hôm nào đã mất
Một non sông và mối tình anh.

Lê Mỹ Hoàn
(trong thi tập Có Lúc Tôi Trở Về Phố Cũ)

Sang Sông


(Gửi Đào thị Ngọc Diệp)

Ta học Bát Nhã
Ta chẳng hiểu gì...
Ta còn nghiền ngẫm...
Thấy mình ngu si!

Tự Tại Bồ Tát
Chiêm nghiệm bao lần
Mới ngộ năm uẩn
Huông hồ phàm nhân!

Đời không vô tận
Nhưng biết trầm tư,
Giữ lòng an định
Nhập cùng Hư vô!

Thuyền sang bờ mới
Nhìn bên kia sông
Trầm luân vô thủy
Tư bi ngợp hồn ...

Nguyễn Khắc Tiên Tùng

Munich, 29 thang 1 năm 2021

Lòng Từ Bi Của Bạn


Đây là bài số bảy trăm năm mươi lăm (755) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ ORTB.

Mấy hôm rày toàn thể thế giới bàng hoàng với tin tức động đất ở Myanmar ngày 3-28-25 với số thiệt hại và thương vong khủng khiếp.

Mời xem lại tin tức về vụ động đất ở Myanmar qua youtube dưới đây:
WHO xác định khủng hoảng sau động đất ở Myanmar là tình trạng khẩn cấp cao nhất | Tin24h
https://www.youtube.com/watch?v=YEgYcBOZ8Co
Thảm họa động đất khiến ngôi chùa cổ linh thiêng bậc nhất Myanmar sụp đổ 
https://www.youtube.com/watch?v=Z4Gxsi1SUSw&t=3s
(199) Cập nhật mới nhất động đất Myanmar: Nỗ lực cứu hộ trong tuyệt vọng, số người chết tăng đột biến - YouTube

Trong hiện tại nhiều chùa chiền, đoàn thể đang kêu gọi dân chúng ra tay giúp đỡ các nạn nhân đáng thương này, điển hình là Thượng Tọa Thích Tánh Tuệ - Hội Từ Thiện Trái tim Bồ Đề đã gửi Tâm Thư Khẩn Thiết Kêu Gọi Cứu Trợ Nạn Nhân Động Đất tại MYANMAR- MIẾN ĐIỆN – Thầy Thích Tánh Tuệ đã được người viết đang trong trang nhà của tôi với đầy đủ hình ảnh trận động đất ở Myanmar qua link dưới đây:

Post Tâm Thư Khẩn Thiết Kêu Gọi Cứu Trợ Nạn Nhân Động Đất tại MYANMAR- MIẾN ĐIỆN – Thầy Thích Tánh Tuệ 3-28-25

Chúng ta ai cũng có trái tim tình cảm thương yêu nhân loại không phân biệt chủng tộc, màu da. Bạn và tôi chắc chắn sẽ hưởng ứng lời kêu gọi của Thầy Thích Tánh Tuệ góp tay giúp đỡ các nạn nhân đáng thương này thực hành lòng từ bi theo lời dạy của chư Phật và tạo nhân lành thiện phúc cho cá nhân và cho gia đình mình. Lành thay! Phúc thay!

Xin hãy đồng cảm với người viết qua tâm tình được diễn đạt trong bài thơ dưới đây của tôi nhé. Tôi xin đa đạ,

Nhìn Xuống Và Ngẩng Cao Lên Với Đời

Hãy nhìn xuống để thấy mình sung sướng
Khi bao người cửa nát với nhà tan
Bởi thiên tai địa hoạ sống cơ hàn
Không lương thực, kẻ thơ kia đói lạnh

Hãy nhìn xuống đừng để tâm so sánh
Người sang giàu, ta chỉ đủ miếng ăn
Hãy an vui và hãy tự nhủ rằng:
“Chưa chắc chắn giàu sang là hạnh phúc”

Hãy nhìn xuống để thấy mình có phúc
Người ốm đau, ta khỏe mạnh thân tâm
Hạt Từ Bi ráng ướm nụ gieo mầm
Thân khỏe mạnh thì tinh thần an tĩnh!

Hãy nhìn xuống, đừng mưu sâu toan tính
Đừng lọc lừa hại bạn, hại thân nhân
Đời chẳng cần điên đảo với thù sân
Đời cần nhất tình thương yêu quý mến

Ngẩng đầu cao khi tha nhân cần đến
Gieo tin yêu thương mến đến người thân
Hoa từ tâm, Bạn khai mở dần dần
Bạn sẽ thấy đời này còn đẹp lắm

Xin hãy nở một nụ cười tươi thắm
Trao tặng người không phân biệt lạ quen
Như trăng kia vẫn sáng đẹp hơn đèn
Tỏa ánh sáng đến khắp cùng trần thế

Đừng ngần ngại và cũng đừng chậm trễ
Hãy thương người thì sẽ được người thương
Cuộc đời này tất cả chỉ vô thường
Lòng Nhân Ái Thương Yêu là vĩnh cửu
Sương Lam

Kính mời xem

 BÊN ĐỜI CON CÓ PHẬT - Nhạc Võ Tá Hân - Thơ Như Nhiên Thích Tánh Tuệ - Ca sĩ Lệ Hồng


Chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.

Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn

Sương Lam

Thứ Tư, 2 tháng 4, 2025

Mùa Thu Tĩnh Lặng - Thơ: Tế Luân - Nhạc Phạm Đức Huyến - Ca Sĩ: Thanh Hoài


Thơ: Tế Luân
Nhạc Phạm Đức Huyến
Ca Sĩ: Thanh Hoài


Hà Nội Xưa


Ta nhớ trời xưân hoa rực rỡ,
Thuở thanh bình hồn nhẹ như thơ.
Nắng tà ngả chiếu giàn thiên lý
Ly loạn cuốn đi tuổi dại khờ.

Chiều thu gió thoảng mùi hoa sữa
Hà nội trong mơ thoáng nét xưa
Người cũ gặp nhau lời nhả ngọc
Quán hàng nhộn nhịp bước chân đưa.

Chớp mắt tuổi hồng đi lặng lẽ
Trôi ngày tháng đẹp tựa cơn mê
Hồ gươm cổ thụ cành soi bóng
Lối vẫn cây xanh rợp nắng hè.

Hà nội thời nay nhiều phố mới,
Người sang, kẻ khó khắp nơi nơi
Những lời thanh lịch đâu còn nữa,
Ngôn ngữ trộn pha rất lạ đời!

Ngõ ngách chìm sâu trong phố cổ
Mưa phùn lất phất bụi hư vô,
Người xưa đã hóa thành mây trắng
Dấu tích rồng bay cũng mơ hồ.

Từ thuở xa quê hồn phố cũ
Ta như cánh hạc mãi phiêu du
Thời gian biền biệt không trở lại,
Hà nội trong mơ vẫn mịt mù!

Đỗ Bình

Về Thăm Hà Nội


(Viết tặng Nguyễn Minh)


Tôi xa Hà Nội, xa Hà Nội 

Mới đó thôi mà bấy năm trôi

Bạn cũ gặp nhau nhìn rất vội

Nụ cười te tẻ hé trên môi.


Ờ gió heo may đã mỏng rồi

Mây chiều cũng ít bảng lảng trôi

Giờ còn ai đợi canh chừng tối

Dụ một tiếng reo thả chỗ ngồi?!


Tôi lặng nghe lòng chất vấn tôi

Người ta giờ đã khác xưa rồi 

Thời gian thì cứ trôi vồi vội

Tôi lại giam mình góc xa xôi.


Tôi biết nhưng mà biết vậy thôi

Chuyện xưa còn giữ được mấy hồi

Tôi về Hà Nội thăm Hà Nội 

Mua chút niềm riêng ngủ quên rồi...


Hà Nội, ngày 9 tháng 2-2025

Đặng Xuân Xuyến

Quà Cho Mẹ

(Học trò đang làm quà cho Mẹ)

Sắp đến lễ Vu Lan, mùa báo hiếu, cô giáo Thúy giải thích ý nghĩa của mùa lễ đặc biệt này và hướng dẫn học trò làm món quà cho mẹ. Sau đó, lớp Tuổi Xanh giống như phòng sinh hoạt nghệ thuật, những họa sĩ tí hon chăm chút tô điểm món quà cho mẹ. Cô giáo chuẩn bị một số quà nhỏ. Đấy là những món quà be bé cô giáo được tặng khi mua hàng hóa hoặc khi đi dự hội chợ sách: những con thú bằng vải, bằng nhựa, cục tẩy, sổ tay, bút màu... Trò nào vẽ xong, cô giáo mời lên bàn cô. Học trò có thể chọn một món quà để ghép vào tranh tặng mẹ. Trong rổ quà của cô giáo, có 3 con bò bằng vải màu tím do hãng sô-cô-la Milka tặng. Ba trò đầu tiên vẽ xong, hớn hở xin phép cô giáo cho chọn quà, mừng rỡ “dắt” ba con bò về chỗ. Các trò vẽ chưa xong, chồm lên nhìn vào rổ quà, tiếc rẻ, vì không còn con thú vải nào nữa. Cô giáo ước mơ, phải chi cô có được 13 con bò vải để tất cả học trò lớp Tuổi Xanh đều hài lòng với món quà mình chọn tặng mẹ. 

Có trò xin thêm tờ giấy, để làm bao thư đựng tranh. Có trò vẽ đi, vẽ lại, đến lần thứ ba mới hài lòng. Có trò suy nghĩ, cân nhắc xem gắn món quà ở đâu để khỏi làm hư tranh. Hầu như tranh nào cũng có vẽ những trái tim xinh xắn. Mỗi tranh, mỗi vẻ, tất cả bức tranh của học trò lớp Tuổi Xanh thật đẹp. Này là tranh vẽ trò và ba mẹ có trái tim ở giữa. Này là tranh vẽ trò bên anh chị em, ba mẹ phía trên có mặt trời tươi tắn. Dòng chữ “Mẹ ơi, con yêu Mẹ lắm. Con của Mẹ” được nắn nót từng nét tô điểm cho bức tranh. Cô giáo thích tất cả các tranh của học trò. Tranh nào cô giáo cũng muốn chấm điểm cao nhất. Cô giáo mời các trò trưng bày tranh để “triển lãm”. Cô giáo dự định sẽ chụp từng tác phẩm nghệ thuật của học trò, để “khoe” với phụ huynh, thầy cô. Khoe rằng, các học trò gửi gắm biết bao thương yêu vào món quà cho mẹ yêu quý của mình.

Nhưng tình hình “chợ chồm hổm” của lớp Tuổi Xanh quá nhộn nhịp. Cô giáo vừa ổn định trật tự một góc lớp, thì ba góc kia chợ họp ồn ào. Cuối cùng cô chỉ kịp mời các họa sĩ lên chụp chung tấm hình. Tiếc quá, phụ huynh và thầy cô không được nhìn hình vẽ của các họa sĩ tí hon. 

Các trò không chỉ yêu mẹ, mà còn yêu ba, yêu bố. Có trò hỏi, bao giờ mới làm Karte cho ba. Trò Tim lên bảng xin viết chữ BA thật lớn. Trò Danny nhắc cô không được quên, ba của trò có sinh nhật vào tháng 10. 

Về nhà, học trò sẽ kể với ba mẹ: “Hôm nay trên trường Việt Ngữ, cô giáo dạy con làm quà cho Mẹ nhân dịp lễ Vu Lan”. Học trò sẽ bá cổ mẹ, âu yếm nói: “Mẹ ơi, con yêu mẹ lắm.” Chiều nay, các bà mẹ của học trò lớp Tuổi Xanh sẽ nhận được món quà nhỏ, nhưng chắc chắn sẽ có niềm vui lớn.  

Muttertag, Ngày của Mẹ vào tháng Năm, các bà mẹ thật vui nhận những tấm thiệp viết tiếng Đức của con: “Mama, ich liebe Dich.” Bây giờ, lễ Vu Lan, các bà mẹ nhận tấm thiệp viết tiếng Việt và được nghe lời thủ thỉ ngọt ngào trong tiếng Việt của con, niềm vui tăng lên bội phần. 

Các bà mẹ lòng tràn ngập hạnh phúc, sẽ ôm con vào lòng, nói với con: “Con yêu của mẹ, mẹ thương yêu con vô cùng.”

Hoàng Quân

Thứ Ba, 1 tháng 4, 2025

Tân Cổ: Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên - Phạm Văn Phúc- Kim Trúc - An Lê


Sáng Tác: Phạm Văn Phúc
Trình Bày: Kim Trúc & An Lê

Hạ Tím!



 Em cả quyết: “ không thương mùa hạ!”
mùa hạ buồn ta phải xa nhau,
bãi trường mà … anh, em nghỉ dạy,
đang yêu mà… xa chút cũng đau.

Em cả quyết: “không thương mùa hạ!”,
chỉ thương… Thu… sớm… buổi tựu trường;
gặp lại anh chừng như lâu lắm,
ba tháng là ba năm nhớ thương.

Em cả quyết: “không thương mùa hạ!”
đi dạy hoài.. khỏi phải xa anh;
hội đồng giáo sư… mình đối diện,
chạm chân… cười…hiệu trưởng thao thao.

Em cả quyết: “không thương mùa hạ!”
giữ tình ta … bí mật nghe anh,
học trò biết… đồn rùm… mắc cỡ,
thể như mình chẳng được yêu nhau.

Mùa hạ đó… tụi mình mất nước,
lẳng lặng mình anh… biển bão giông;
mùa hạ đó… mất anh mãi mãi
nát lòng em… mùa hạ biết không?

 Xa anh, qua bao mùa hạ đỏ,
phượng rơi rơi… máu nhỏ tim mình,
quê người đó… có mùa hạ tím
jacaranda bằng lăng… tím chữ tình

Em giữ cho em mùa hạ đỏ,
mắt lệ khóc người… khóc tình ta;
anh giữ cho anh mùa hạ tím,
của người mà.. đâu của em đâu?!

Đoàn Xuân Thu
Melbourne

Hoài Bão Quê Hương


Năm mươi năm ra đi nhìn lại
Vẫn hẹn về luôn mãi băn khoăn
Đời người một kiếp qua nhanh
Giấc mơ chưa trọn không đành buông tay

Mang nợ nước lâu ngày chưa trả
Chí tang bồng sao thỏa lòng đây
Nhân sinh nhẹ tựa áng mây
Nhưng tim trĩu nặng tháng ngày xa quê

Thời tuổi trẻ tràn trề nhiệt huyết
Cùng anh em cương quyết tòng chinh
Sơn hà gặp cảnh điêu linh
Sống sao cho xứng thân mình làm trai

Lời cổ nhân khó ai quên được
Thất phu cần lúc nước lâm nguy
Hôm chào từ biệt mẹ đi
Xin người sống khỏe đợi khi con về

Lời hứa theo bụi mờ gió thổi
Bao năm dài rong ruổi tha hương
Thời gian dù tóc pha sương
Luôn nuôi hoài bão con đường phục hưng

Mong hậu duệ có cùng chí hướng
Vì quốc gia lý tưởng đầu tiên
Tự do no ấm ba miền
Rạng danh con cháu rồng tiên muôn đời

Dương Việt-Chỉnh

3/27/2025

Lễ Hội Anh Đào tại DC



Đông qua rồi, mùa vui đang tới,
Xuân đã về, nắng mới lao xao!
Em ơi… em ở phương nào?
Nhớ về dự “Hội Anh Đào-DC”(*)
Anh mong đợi em về …
Em ơi về nhé!

Chúng mình dã ngoại hanami (**)
Tưng bừng vui chẳng kém gì Kyoto.
Chiêm ngưỡng Anh Đào,
Giữa lòng Thủ đô nước Mỹ,
Tràn ngập Yoshino...
Rực rỡ như triền Phú sĩ,
Này em, nhớ về tham gia Lễ Hội.
Cuộc vui này thơ mộng lắm em ơi!


Mỗi Xuân chỉ một lần thôi,
Con người hòa với Đất Trời nở Hoa.
Ta sẽ đi giữa Anh Đào,
Con đườngTình đôi ta.
Mùa Xuân rồi nữa sẽ qua,
Em ơi về nhé, ngắm hoa Anh Đào!

Mênh mông rừng Đào phơi phới,
Tưng bừng nở hoa,
Dọc bờ hồ Tidal Basin
Chào mừng người yêu tôi tới ...
Nhẹ gót thiền vào yozakura (***)
Đầu Xuân, Lễ Hội Anh Đào
DC là Bồng lai hạ giới
Và em về … là Tiên nữ hiện ra

Hồng hồng... Xuân đôi má
Lá xanh rơi nhẹ bờ vai
Hoa vương trên mái tóc dài
Mặt hồ hiện bóng Thiên thai chan hòa
Hương thơm tỏa ngát gần xa
Em cười say đắm bên hoa Anh Đào.

Trần Quốc Bảo

Richmond, Virginia

(*) “Lễ Hội Anh Đào tại Washington DC” vào Tuần cuối tháng 3 đầu tháng 4 mỗi năm
(**) Hanami: Chiêm ngưỡng hoa Anh đào (Một động từ về Thiền học của Nhật)
(***) Yozakura: thuật ngữ của Nhật, nói về thiền hành và ngắm hoa ban đêm,
bên cạnh các đèn lồng mờ ảo


Nhạc Chủ Đề

Mùa đông năm nay đã tưởng sẽ có nhiều trận tuyết như 5, 7 năm về trước. Nhưng rất may vào một tuần cuối tháng Hai (February), thời tiết có nắng xua đi làn gió lạnh. Tôi rất vui khi các cô cậu em họ đến dùng bữa ăn trưa. Tôi thật may mắn vì có thêm một gia đình các em họ 4 người cùng hai rể và một dâu là con của người tôi gọi bằng cô. Một điều may nữa là chúng tôi ở cùng một thành phố. Chị em chúng tôi rất yêu thương và chia sẻ vui buồn cùng nhau, nên tuy là chị em họ nhưng chúng tôi lại thân thiết và gặp nhau thường hơn là chị em ruột.

Khi chưa có dịch Covid, vùng chúng tôi cư ngụ hàng năm thường có những buổi tiệc do các hội đoàn tổ chức mỗi lần cũng khoảng 2, 3 trăm người. Nhờ có những hội hè như vậy, mọi người có dịp gặp nhau tâm tình chia sẻ những vui buồn của người xa xứ. Rồi trận dịch xảy ra, mọi sinh hoạt đều ngừng lại. Và rồi, chuyện dù tang thương đau buồn cũng đã qua đi...

Khoảng năm 2023 - 2024, một vài hội đã bắt đầu sinh hoạt trở lại tuy không thể nào đầy đủ như trước nữa.
Tôi rất vui vì có cơ hội được gặp lại những khuôn mặt thân quen mà bấy lâu vì dịch bệnh chúng tôi chỉ liên lạc với nhau qua cái iPhone hiện đại nếu muốn nhìn thấy mặt nhau. Năm ngoái (2024) đã có hai chương trình nhạc thính phòng với những ca sĩ “cây nhà lá vườn” hát rất hay, rất điêu luyện với những ca khúc chọn lọc nổi tiếng, nhưng rất tiếc cả hai lần đó tôi đã không tham dự được. Chủ Nhật ngày 23 tháng Hai vừa qua, tôi được tham dự một buổi nhạc thính phòng có chủ đề do chính tác giả – Thi sĩ Trần Đại Bản sáng tác và phổ thơ – đứng ra tổ chức. Đặc biệt, trong những bài thơ phổ nhạc, có bài của hai cô em họ Ý Nhi và Mỹ Hoàn khiến tôi rất vui và hãnh diện vì có hai cô em rất giỏi về văn thơ.

Một ngày nắng trong se se lạnh, bệnh chóng mặt cả tuần lễ vẫn chưa khỏi hẳn. Nhưng tôi cũng cố gắng trang điểm một tí và tự nhủ mình phải tham dự để được gặp lại một số thân hữu mà tôi biết là quý vị đó cũng có mặt và thêm nữa là để chúc mừng Thi Nhạc sĩ Trần Đại Bản ra mắt tập thơ “Huế Ơi”. Ngoài ra, cũng để được thưởng thức hai ca khúc được phổ nhạc từ thơ của Ý Nhi và Mỹ Hoàn do ca sĩ trình bày.

Bước vào hội trường, tôi gặp ngay Đào Hiếu Thảo, một người thân với tôi, cũng là một người khá quan trọng, sinh hoạt trong nhiều lãnh vực, và chức MC thì khó ai có thể thay thế. Chúng tôi niềm nở chào hỏi nhau. Đứng ngay bên anh là nhạc sĩ Trần Đại Bản nên nhân thể tôi cũng chúc mừng ông. Tiếng nói chuyện vang vang náo nhiệt chứng tỏ hội trường đã đông khán giả, những hàng ghế gần như không còn chỗ trống.

Hai cô em VTS thật chu đáo đã dành cho tôi hai ghế để có thể đến dự cùng với một thân hữu. Chương trình mở đầu với phần chào cờ thật trang nghiêm giống như tất cả các chương trình khác mỗi khi hội họp đông người. Tiếng người MC thật rõ và ấm.

Chương trình đã bước sang phần ca nhạc. Tôi lắng nghe từng câu từng lời trong các ca khúc và ngắm nhìn những tà áo dài sắc màu thướt tha nổi bật trên sân khấu. Đây là nhóm ca sĩ cư ngụ quanh vùng thường xuyên tham dự những buổi ca nhạc đặc biệt như buổi hôm nay. Họ chỉ hát giúp vui chứ không đi hát chuyên nghiệp, dù giọng ca điêu luyện và truyền cảm. Tôi phải công nhận họ hát rất hay không thua gì những ca sĩ thực thụ. Say đắm thưởng thức những tiết mục trình diễn trong suốt gần 3 giờ đồng hồ khiến tôi quên cả chóng mặt và mỏi mệt.

Trong lúc ban nhạc tạm nghỉ, những người quen biết nhau, những bằng hữu tuổi trong khoảng U80 – U90, đã cùng nhau trò chuyện. Một điều rất mừng là các chị vẫn khỏe mạnh tinh tường tuy tóc đã nhuốm màu sương bạc nhưng vẫn còn phảng phất nét đẹp thủa thiếu thời. Một sự ngạc nhiên khác rất vui là được gặp lại mấy cháu vào cỡ tuổi con của tôi đã lâu trên dưới khoảng ba chục năm không gặp. Họ nhắc lại một thời cùng ở chung cư đường 28, giá thuê 3 phòng ngủ $320 đồng một tháng.

Trong lúc ban tổ chức mời tiệc trà nhẹ, tôi được gặp hai vị chủ tịch VĂN BÚT – Chủ Tịch Văn Bút CUNG LAN (CTVBVNHN) và Chủ Tịch Văn Bút HỒNG THỦY (CTVBMĐ). Đó là hai vị chủ tịch xinh đẹp tài giỏi mà tôi rất ngưỡng mộ, yêu quý.

Cám ơn Nhạc sĩ Trần Đại Bản đã bỏ công sức tổ chức buổi ca nhạc và để lại cho thế hệ mai sau một tác phẩm thi ca giá trị.

Xin mời vào Link này để thưởng thức, do Cung Thị Lan thực hiện:



Nguyễn Tường Nhung
28.2.2025

Thứ Hai, 31 tháng 3, 2025

Hoa Nở Bao Giờ - Thơ: Phan Khâm - Nhạc: N.S. Nguyễn Túc & Tiến Đạt


Thơ: Phan Khâm
Nhạc: N.S. Nguyễn Túc & Tiến Đạt

Tiếng Quê


(Thêm cảm hứng từ bài viết
Tiếng Quê của anh Xuân Nguyên- NXV)

Chao ơi một tiếng gà trưa
Nhớ sao nhớ quá ngày xưa xứ mình
Nửa đời một dạ đinh ninh
Như lòng giếng nước giữ hình bóng nhau...
Giọng cười khua với tiếng gàu
Mấy O* như thể nụ đào tắm trăng.

Mơ hồ sóng nước Tam Giang
Thuyền ngư gõ mạn “lanh canh” nhịp đều
Đầy vơi mấy ngọn hải triều
Có đôi nhạn trắng cõng chiều bay qua
Đầu bờ lẻ bạn thiên nga
Mãi kêu “quang quác” như là nhớ ai?

Nhớ xuyên tháng rộng năm dài
Tiếng quê há dễ gì phai đáy lòng
Chiền chiện về hót trên đồng
Du dương chao vạt nắng hồng cuối thu
Bồ chao đậu nhánh mù u
Hỏi thăm con sáo biệt mù chốn nao!

Bờ tre kẽo kẹt rì rào
Con đường đất, những lỗ đào đánh bi
Trống trường đã giục từ khi
Mấy lần trễ học cũng vì ham chơi
Bạn xưa còn lại mấy người
Chân mây tản lạc cuối trời lêu bêu

Còn nghe đồng vọng sáo diều
Tiếng dế gáy tiếng ve kêu phượng hồng
Xuân về trên ngọn sầu đông
Con chim én liệng mấy vòng tương tư
Quê hương là tiếng cúc cù
Ê a giọng trẻ lời ru mẹ hiền

Một làn gió quét qua hiên
Hoa cau rớt rụng đầy thềm nắng xưa
Cây đa bến cộ còn lưa
Con đò xa bến đã thừa lênh đênh
Dư âm tiếng sóng bập bềnh
Vỗ lòng cố quận vỗ tình tha phương

Tiếng Quê nhập mộng canh trường
“Lòng Quê đi một bước đường một đau” **
Ngẫm thơ bậc Đại Thi Hào
Nhìn cây ngắm cỏ còn nao dạ Người
Huống gì tiếng vọng chơi vơi
Từ thăm thẳm lại bên trời Cố Hương...

Quang Hà, 
8Apr2024

*O: cô gái (tiếng Huế)
**Thơ Kiều, Thi Hào Nguyễn Du

 

Loanh Quanh



Trái non anh xẻ làm đôi
Cho em một nửa để rồi ăn năn
Biết đời chỉ những phù vân
Trái sầu, trái chín, cũng dần rụng thôi
Hôm qua tha thẩn trên đồi
Nhìn về lũng cạn từng hồi nhớ nhung
Biết nhau tự thủa vô cùng
Xa nhau đã thấy mịt mùng trùng quan
Đời mình là những dở dang
Cuộc tình muộn vội mơ màng đó em
Thơ không ghi đủ nỗi niềm
Trong anh còn chút êm đềm thuỷ chung
Với trời, với đất mông lung
Với ta khăn áo não nùng biệt ly
Ô hay,"sinh ký tử quy"
Níu thân nhau mối sân si kiếp này
Thì thôi buông lỏng vòng tay
Loanh quanh đã hết tháng ngày của anh
Một đàn chim quý trên cành
Hoà ca điệp khúc tiễn trình miên man …

Cao Mỵ Nhân




Huế Ở Buồn Đi Nhớ


Nếu mai ai về Huế
Qua Quốc Học Đồng Khánh
Trường Tiền nghể áo trắng
Nghiên nón lá qua cầu

Mai mốt ghé Đông Ba
Mưa phùn đầu mái rạ
Bên nớ mô Thuận Long?
Lối xưa hồn thu thảo

Nắng gió Nồm cuối Hạ
Thu rượng bến Văn Lâu
Ôn Mệ buồn vật vã
Con cháu chừ lưu vong

Bờ ni qua bến nớ
Khoảnh khắc như thiên thu
Nhớ Huế buồn trăn trở
Áo trắng chừ nơi mô?

Nước tràn Đập Đá chưa?
Ngắm xóm lạ quen quen
Bóng củ chừ dư âm
Thương Ôn biết mô tìm?

Bên ni chùa Thiên Mụ
Bên nớ Long Thọ Cương
Gió đưa trúc la đà
Trăng sáng chuông chùa ngân

Bên ni tê tái mộng
Về thăm chốn chôn nhau
Chừ ngày thực đêm mơ
Huế ở buồn đi nhớ

Lê Huy Trứ

Dưới Bầu Trời Paris


Đầu thập niên 1990, một ngày như mọi ngày, dưới ánh nắng Nam Cali ấm áp và bầu trời xanh trong vắt không một bóng mây trên cao, trong một góc quán giải khát bàn ghế kê trên vỉa hè có cây dù che nắng, hai người bạn văn đang ngồi uống cà-phê. Họ lơ đãng nhìn đường phố đã quá giờ đi làm, xe cộ bắt đầu thưa thớt. Bên kia đường, chỗ trạm xe buýt, hai người đàn bà Việt Nam đứng tuổi nói chuyện vãn cho quên giờ, lúc hào hứng họ cao giọng và tiếng họ bảo nhau về các món hàng đang bán sale ở chợ vẳng sang tới bên này.

Tưởng như buổi sáng chỉ dành cho những kẻ ăn không ngồi rồi hay các cụ cao niên nhàn nhã, thời gian chậm rì, buồn bã. Bỗng nhà thơ lên tiếng hỏi:
- Hình như tháng rồi không thấy ông ra đây uống cà-phê?
Quay lại nhìn bạn, nhà văn trả lời:
- Đúng vậy, tôi đi Pháp thăm gia đình .
Thi sĩ hỏi tiếp:
- Paris có gì lạ không anh?
Câu hỏi cửa miệng rất phổ biến ấy không dưng làm người kia đăm chiêu. Một lúc mới nghe tiếng đáp:
- Tôi qua dự đám tang ông anh ruột mất.
Có vẻ như nhà văn muốn tâm sự nên lấy vẻ mặt nghiêm trọng, nói tiếp:
- Anh có rảnh không?
Hơi chột dạ, đoán chừng bạn sắp nhờ mình việc gì, thi sĩ trả lời lửng lơ:
-Tôi về hưu non, chỉ còn mỗi công việc ngày hai buổi đưa đón vợ đi làm nail, xong thì ngồi chơi xơi nước, uống cà-phê, bàn chuyện văn nghệ...với ông.
Đôi mắt nhà văn ánh lên nét mừng rỡ, như người khát được cho uống. Anh bắt đầu chậm rãi, nhỏ nhẹ và hạ thấp giọng :
-Câu chuyện của tôi hơi dài dòng, có thể khá nhạt nhẽo và không chừng vô duyên vì nó không liên quan gì đến ông nhưng tôi canh cánh nó bên lòng, không biết tỏ cùng ai. Hy vọng ông có thời giờ cho tôi gõ cửa mà không phiền?
Đã có chủ đích nên không chờ bạn trả lời, văn sĩ tự động để giòng tâm tư trôi chảy:
-“Thật ra, không hẳn là đám ma mà chỉ là lễ cầu siêu thì đúng hơn. Anh Vinh tôi mất ở Singapore khi đang làm việc cho hội thiện nguyện Pháp tại Galang. Anh bị bệnh kiết lỵ, được đưa qua nhà thương ở Singapore điều trị và mất ít ngày sau đó.

Gia đình tôi có ba anh chị em: anh Vinh lớn nhất rồi đến chị Hạnh, tôi là út. Hai anh chị tôi du học Pháp đã lâu và ở lại đó luôn. Anh ly dị vợ, sống đơn chiếc, nên nghe tin anh lâm trọng bệnh, chị Hạnh tôi vội từ Paris bay qua định săn sóc anh song vừa đến nơi, chưa kịp gặp thì anh ấy đã tắt thở. Di hài anh được hỏa thiêu và tro cốt được chuyển về Chùa K. ở Paris. Chúng tôi chỉ làm một lễ cầu siêu đơn giản cho anh nhưng không ngờ bà con, thân hữu đến quá đông, chật cả chùa. Nhìn thấy quanh cảnh ấy, tôi hơi bất ngờ tuy lòng ấm hẳn, biết anh được nhiều người thương tiếc.

Kỳ đi vừa rồi là lần thứ nhì tôi qua Pháp. Lần đầu cách đây hai năm, tôi chỉ gặp được chị Hạnh, còn anh Vinh đang làm việc ở Galang với tư cách điều hợp viên cho chương trình trợ giúp thuyền nhân các trại tị nạn ở vùng biển Đông, đồng thời cũng là cố vấn xã hội cho phái đoàn Pháp. Tuy cách nhau 8 tuổi, anh em tôi giống nhau như hai giọt nước.

Lúc trước ở Sài-Gòn, nhiều khi nhìn thấy anh chạy xe Honda trên đường Nguyễn Huệ, mấy thằng bạn tưởng lầm là tôi, gọi ơi ới, phóng xe đến gần mới biết là Vinh. Ngoại hình đúc khuôn nhau nhưng tính tình chúng tôi thì khác biệt rõ rệt. Anh Vinh rất nghệ sĩ, cả trong tâm hồn lẫn cách sống. Không viết văn hay làm thơ nhưng anh quan niệm cuộc sống của mỗi người là tác phẩm quan trọng nhất. Tính anh phóng khoáng, sống hết mình như không có ngày mai. Còn tôi, tuy là tác giả vài ba cuốn sách nhưng đời sống ngăn nắp, quy củ như nhà binh. Gặp lần đầu, ai cũng nghĩ anh phải là một thi sĩ với mái tóc bồng bềnh gợn sóng, làn da trắng hồng, sống mũi thon cao nằm cân đối giữa đôi mắt nâu tròn, to, nổi bật như hai viên ngọc toàn bích . Anh có làn môi hơi mỏng, tưởng chừng là dấu hiệu của sự khắc nghiệt nhưng trái lại, anh lúc nào cũng xuề xòa, mơ màng như một triết gia tư lự chuyện đời. Anh dễ dãi với mình và với người, sẵn sàng đồng ý với bất cứ ai khi chuyện trò hay tranh cãi, có lẽ do bản tính thiếu kiên nhẫn, dễ thích nghi để có sự bình an tận hưởng hiện tại. Thông minh, đọc nhiều, thấy anh tà tà ở trường Luật mà năm nào anh cũng thi đậu.

Gia đình chúng tôi trước ở Sài-Gòn, trong một con hẻm đường Tự-Đức, vùng DaKao. Thân sinh chúng tôi là Chủ Sự Nha Học Chánh Bộ Giáo Dục, lương chỉ vừa đủ sống. Nhờ mẹ chúng tôi đảm đang, tháo vát, giỏi chắt chiu tính toán việc chi tiêu nên dù cả nhà sống trong căn phố tương đối nhỏ song rất đầy đủ, không thiếu thốn thứ gì. Lâu lâu, ông được bà nấu cho món cơm tây, bèn trịnh trọng mở chai rượu vang ra uống: Những bữa như thế, ông vui hẳn lên và dễ chịu với con cái, thăm hỏi bọn tôi, không như thường ngày ông chỉ ngồi lầm lì như pho tượng trong nhà. Ông bà hãnh diện được hai người con lớn đỗ đạt, xuất ngoại du học, chỉ mình tôi út ít chẳng ra gì, thi rớt Tú Tài rồi đi lính (nên ngày nay mới trở thành...văn nghệ sĩ!) Từ nhỏ, tôi biết bố tôi đối xử thiên vị với các con trong nhà, thương yêu hai con đầu hơn tôi mà mãi sau này tôi mới hiểu lý do: họ đã học giỏi lại vâng lời ông, còn tôi thì xà bát, hay cãi bướng và được mẹ luôn bảo vệ. Mẹ tôi làm thế để bù trừ với ông và bố tôi không bằng lòng ra mặt khi thấy mẹ tôi nuông chiều tôi quá, sợ tôi hư hỏng? Bà thường cãi lý với chồng: “Nó giống ông nhất nhà thì tôi thương nó!” Nhưng thôi, hai cụ quy tiên lâu rồi, nên để hai cụ được yên và tôi xin trở lại câu chuyện ở Paris...

Như bao thanh niên của Sàigòn những năm 50- 60 xa xưa, thủa còn thanh bình và dưới ảnh hưởng của văn hóa Pháp (chưa xuất hiện bóng dáng người lính Mỹ,) qua sách báo, văn thơ, phim ảnh từ Paris xâm nhập vào, thêm nữa, mấy ông thi sĩ /nhạc sĩ nhà ta du học bên Tây trở về, sáng tác những bài thơ, những bản nhạc tuyệt cú mèo ca tụng Paris, không khí văn vẻ, lãng mạn ấy khiến chúng tôi mơ mộng và thần tượng hóa thành phố nên thơ kia, muốn tới đó một lần rồi chết cũng cam lòng, Voir Paris et mourir! Ngoài ra, anh Vinh còn là dân trường Tây nên anh vô tình "đầu độc" tôi về Paris (?) Anh thường kể cho tôi nghe sinh hoạt ở khu La -Tinh và trường Sorbonne như thể anh đã từng sống và học hành ở những nơi này! Lắm khi anh còn đọc thơ, lúc thì Verlaine, khi thì Prevert, thơ mộng, trữ tình, say đắm, gieo vào lòng tôi niềm đam mê tha thiết muốn được đi Tây như một điểm hẹn phải đến mới bõ cuộc đời! Thế nhưng học không ra gì, tôi đành lỡ mộng. Sau này, qua Mỹ, tuy mộng vẫn chưa nhạt phai và cơ hội có trong tầm tay nhưng than ôi, ưu tiên đã thay đổi, phải lo chuyện bảo bọc gia đình, con cái nên tôi đã không đi Pháp ngay, ngờ đâu cuối đời anh em không gặp nhau.

Khi tôi học Đệ nhị Chu văn An thì chị Hạnh đã đậu Tú Tài Pháp ở Marie Curie, sửa soạn du học. Anh Vinh xong Luật, làm chuyên viên cho Bộ Kinh Tế. Có tiền lương, anh giúp đỡ gia đình nhưng ít thời giờ ở nhà mà hay đi chơi mạt chược ở nhà bạn, la cà cả mấy ngày không về. Ông cụ thấy anh đã thành đạt nên nể nang, không nói gì. Riêng bà mẹ thì hay than thở với tôi là anh bắt đầu ăn chơi, nghiện thuốc lá, uống bia, có thể còn nhiều món tứ đổ tường khác nữa. Mỗi khi có dịp, bà không bao giờ bỏ qua ước muốn thấy anh yên bề gia thất để ông bà có cháu đích tôn. Từ lâu, cụ ngấm nghé cho anh cô con gái người bạn hàng xóm lúc trước ở cạnh nhà nhau trong cư xá công chức Đa Kao. Thân phụ cô là đồng nghiệp với bố tôi, hai gia đình quen nhau từ thời di cư vào Nam, thân thiết với nhau còn hơn ruột thịt. Hai ông làm chung sở, hai bà thường ngồi chung chiếu tổ tôm, tài bàn. Cô láng giềng tên Mai ấy học Dược sắp ra trường, tương lai vững vàng, tính tình chăm chỉ và hiền thục. Lúc còn nhỏ, Vinh và Mai có lúc quyến luyến nhau không rời, nhiều lần đi chơi với nhau. Hai bên gia đình ngầm ưng thuận, ao ước họ sẽ nên duyên vợ chồng. Mai vừa ngoan vừa học giỏi, chỉ có điều bề ngoài trông cô giản dị, nhan sắc không có nét nổi bật, để lại ấn tượng cho người từng gặp gỡ cô. Đối với mẹ tôi thuộc thế hệ các bà mẹ chồng vốn quan niệm “cái nết đánh chết cái đẹp,” bà tin kén dâu càng bình thường càng dễ cho con trai mình tìm được hạnh phúc gia đình về lâu về dài, đẹp quá e lại hồng nhan đa truân.

Ngày đi xem kết quả kỳ thi Tú Tài đôi, tôi ngượng ngùng như mèo bị cắt tai, về nhà báo tin thi rớt, vừa quê vừa thất vọng với chính mình trước khi chịu trận bài giảng mo-ran dài như bất tận của ông bố với cả trăm hình ảnh khốn khó cụ nêu lên. Nào là tôi sẽ bị gọi động viên làm lính quèn, tương lai mù mịt, suốt đời nghèo khổ không ngoi đầu lên được..vv...Như thường lệ, tôi đang được mẹ xót xa, vỗ về, thì anh Vinh đi làm về. Nhờ có mặt anh, hai ông bà mới dịu đi, không khí trong nhà bớt căng thẳng và không ai còn đả động đến chuyện tôi thi rớt nữa. Được thể, cá nhân tôi bỗng dưng như người bị dồn vào chân tường, đâm ra giận dữ, bất cần, tự tìm lý lẽ an ủi mình là nếu có bị động viên làm lính cũng chẳng sao, biết đâu rủi hóa may kiểu Tái Ông mất ngựa, nhờ thế mà biết phấn đấu với đời, mà cuộc sống sẽ gay cấn, thú vị, tạo ra cái vốn nội tâm cho tôi theo nghề viết văn sau này! Rõ rệt khi ấy còn trẻ dại, đầu óc mông lung lý sự cùn, biết đâu đến những hiểm họa của chiến tranh, đến đời lính đầu sóng ngọn gió, lênh đênh, cơ cực, xa gia đình, xa bạn bè, xa cả Sàigon phồn hoa đô hội. Nghĩ cho cùng, học giỏi như anh Vinh rồi cũng chỉ như anh là cùng, chết một mình nơi xa xôi hẻo lánh, đâu có ngồi đây uống cà phê hươu vượn với ông, đâu có hạnh phúc bên vợ đẹp con khôn như tôi bây giờ? Ôi, vạn sự âu cũng do số mệnh cả, biết phúc đâu mà tìm, họa đâu mà tránh?

Hôm ấy, biết tôi trượt tú tài, anh Vinh khuyến khích tôi: " Thi rớt là chuyện thường tình, chẳng sao, đừng buồn, không có gì quan trọng cả. Biết đâu nhờ vậy, sau này chú trở thành nhà thơ nổi tiếng như ông Cung Trầm Tưởng, đi lính Không Quân, qua Tây sống ở Paris nên mới có cảm hứng sáng tác bài Lên xe tiễn em đi chưa bao giờ buồn thế, nổi tiếng như cồn, tên tuổi đi vào văn học sử, chẳng đáng giá trăm lần hơn mảnh bằng Bác sĩ hay Tiến sĩ kia hay sao?”

Để giúp thằng em bớt buồn, anh rủ tôi đi ăn tiệm cơm Tây gần nhà. Anh nói:"Mình đi ăn nhà hàng Duy Ban, tay đầu bếp ở đây có món bouillabaisse nấu đặc biệt kiểu miền Nam nước Pháp, xuất sắc lắm. Anh đãi chú cho biết mùi cơm Tây, mai mốt có sang đó thì còn biết món mà gọi!" Con đường Đinh Tiên Hoàng thời đó còn vắng xe cộ, người qua lại thưa thớt trên vỉa hè, cuộc sống về đêm chậm chạp, nhàn nhã. Nhà hàng nhỏ thôi, bài trí giản dị, ấm cúng, với hai dãy bàn sát tường, phía trong cùng là quầy thu ngân. Tuy đã hơn bốn chục năm trôi qua, tôi vẫn chưa quên món “poulet marengo,” gà sốt cà chua nấu với nấm, thêm cái lòng đỏ trứng vừa chin tới nằm lơi lả trên cái đĩa sứ sâu lòng mà anh Vinh kêu hôm ấy, cả ly rượu vang trắng tôi nhấp môi lần đầu, vị ngọt và nồng chứ không chua như rượu beaujolais tôi uống lén ông bố nhiều lần. Qua Mỹ định cư, tôi nôn nao nhờ bà xã nấu thử món gà này sau khi giúp bà tìm công thức qua mạng. Bà xã trổ tài nấu đủ kiểu nhưng không hiểu sao, chưa bao giờ món gà được ngon bằng bữa đó tôi ăn với anh Vinh. Tôi cứ băn khoăn tự hỏi: “Phải chăng đầu bếp nhà hàng Duy Ban ngày xa xưa ấy có bí kíp gì chăng? Hay món gà quá ngon hôm ấy chỉ đơn giản là do không khí đặc biệt của tiệm chiều hôm xưa đó: quán yên ả, chỗ ngồi ấm cúng, lần đầu tôi được thưởng thức hương vị cơm Tây và ngắm cảnh phố xá buổi tan sở người người vội vã về nhà? Ăn xong, anh kêu một shot cognac, hai anh em vừa khoan khoái nhâm nhi vừa rủ rỉ thổ lộ chuyện tâm tình ít khi anh em có dịp đả động tới. Anh cho tôi biết anh mới quen cô Lan, chị của người bạn học, hơn anh một tuổi. Nếu chỉ có thế thì chắc cũng là chuyện thường tình thôi nhưng đột nhiên, anh đổi nét mặt nghiêm trọng rồi nói thêm: "Cuộc đời của Lan na ná truyện cô Thúy Kiều ngày xưa, hoàn cảnh đáng thương lắm." Nói đến đó, cho rằng tôi đã hiểu ý, anh ngừng lại và xoay qua chuyện khác sau khi hứa sẽ đưa cô Lan về nhà giới thiệu với ông bà cụ và gia đình. Tò mò, tôi hỏi thêm về nhân vật này thì anh cho biết cô không đẹp nhưng rất khéo và có duyên ngầm, đang khiến anh mê mệt. Để chấm dứt thắc mắc của thằng em, anh cười mủm mỉm thốt lên câu tiếng Tây hầu như ở sẵn cửa miệng những ai đang bước vào cuộc tình báo trước không êm thấm: "Le coeur à des raisons que le raison ne connait pas!" - Con tim có lý lẽ riêng mà lý trí không hiểu nổi, Pascal- ý muốn biện minh cho tình cảm của mình, một điều mà có lẽ anh cần phải giãi bày với bố mẹ tôi thì đúng hơn!

Khi ấy, tôi còn trẻ, lại có chút máu nghệ sĩ tơ lơ mơ và ngây ngô nên tình duyên của anh Vinh không làm tôi quan tâm. Là anh lớn, học giỏi và thông minh, tôi đinh ninh tương lai anh tất nhiên phải tươi sáng, nhất là trong cái xã hội coi trọng bằng cấp thời ấy.

Rồi, tôi không nhớ rõ dịp nào tôi gặp người chị dâu lần đầu, ấy thế nhưng ngược lại, tâm trí tôi khắc sâu hình ảnh chị. Tôi nhớ chị có nước da rất trắng, dáng vẻ đài các với khuôn mặt đầy đặn, đôi mắt hơi mọng nhưng tinh anh và khi nói, giọng chị ngọt ngào, trầm bổng như tiếng chim. Vóc vạc chị hơi đẫy đà, toát ra sức sống của người phụ nữ khỏe mạnh, tương phản với dáng mảnh khảnh thư sinh của anh Vinh. Trong trang phục sang trọng của giới thượng lưu, trông chị có phong cách của một mệnh phụ phúc hậu, đằm thắm và thu hút. Xuất hiện giữa đám đông, chị trở thành trọng tâm thu hút sự chú ý của mọi người nhờ tiếng nói hơn là nhan sắc. Thành thạo hai sinh ngữ Anh - Pháp, khẩu khiếu hoạt bát, giao tế lịch thiệp nên mặc dầu chỉ là một cô thư ký sở Mỹ, chị nổi bật vì dáng vẻ từng trải quý phái hơn là cô thiếu nữ biết yêu lần đầu.

Đôi lần đưa chị về nhà, anh Vinh chỉ ngồi yên lặng và mỉm cười sung sướng trong khi ngắm chị chuyện trò thao thao bất tận. Sau khi thăm hỏi ông bà cụ đủ lễ bộ, họ rủ nhau đi ăn, đi ciné hay đi nghe nhạc sống, toàn những chỗ giải trí của giới thượng lưu ngoài tầm với của thằng em là tôi lúc đó chẳng có một thứ gì để anh chị phải quan tâm.
Muốn về làm dâu nhà tôi, chị thừa khôn ngoan để hiểu rằng chị chỉ cần mua chuộc những nhân vật có ảnh hưởng đến việc ấy, cắc ké cỡ tôi là ngoài danh sách.
Một hôm bà cụ chợt hỏi tôi: "Sao mẹ không thấy con đi ăn uống ngoài với anh Vinh và cô Lan? Con ngại đi chơi chung bộ ba, thừa con à?" Tôi thành thực trả lời cụ: “Thưa mẹ, anh chị có bao giờ gọi con đâu!” Nghe vậy, bà suy nghĩ giây lát rồi thở dài, vẫn bênh cậu cả chầm chập: "Anh Vinh là đàn ông con trai, tính nết tềnh toàng, không nhớ ra đã đành nhưng cô Lan chưa gì đã đối xử với con như vậy, mẹ thấy không ổn, có vẻ coi thường con quá." Tôi muốn trả lời cụ: “Tại người nhà mình trước mẹ ạ! Con chưa có vai vế gì trong nhà này, chỉ lòng mẹ thương con vô điều kiện thôi!” Nhưng tôi lặng im để chỗ đau như một vết xước nhẹ, không làm chảy máu thêm.

Sau khi chị Hạnh đi du học, tôi lên đường vào quân trường, từ đó ít khi về nhà. Ngày đám cưới anh Vinh, tôi không có mặt vì đã lên Pleiku nhận đơn vị. Khi được phép về Sàigòn, tôi ghé thăm anh ở căn nhà nhỏ bên Tân Định, trông anh mập ra và vui tươi hơn trước, có lẽ nhờ hạnh phúc bên người vợ mới cưới. Hôm đó chị Lan không có nhà, hai anh em được thể chuyện trò rất lâu. Anh than phiền hoàn cảnh chính trị đang bất ổn, nhất là về kinh tế, ngành chuyên môn anh đang phụ trách. Anh tiết lộ tình trạng tài chánh của Việt Nam lúc này hoàn toàn trông cậy vào viện trợ Mỹ, chính yếu là đừng để thất thoát ngoại tệ vì nạn tham nhũng và lãng phí. Chính phủ nên theo gương nước Nhật thời hậu chiến, biết thâu tóm ngoại tệ viện trợ để xây dựng đất nước. Anh hăng say, nói rất nhiều, khiến tôi không nhớ hết ngoại trừ một thí dụ lý thú anh nêu ra làm tôi chú ý: sau Đệ Nhị Thế Chiến, khi lính Mỹ giải giới, Nhật Bản đã quy hoạch cả việc mở quán rượu và những chỗ ăn chơi để thâu tóm đồng đô-la do các GI tiêu xài. Nhờ vậy, họ đã gom thành vốn cho các công trình xây dựng lớn. Anh cũng nói về vụ quỹ tiết kiệm của Quân Đội, được coi là nguồn vốn rất quan trọng để đầu tư cho kinh tế hậu chiến, dự trù tái thiết khi Mỹ rút lui, cắt viện trợ. Tiếc rằng mấy ông tướng tá chịu trách nhiệm về kế hoạch to tát này đã "mượn đầu heo nấu cháo," khi đổ bể thì xù luôn “cơm chim" của lính, lớp người thấp cổ bé miệng, đã nghèo lại mắc eo, không dám hé miệng. Theo anh, nếu dự án được áp dụng một cách đường hoàng thì kết quả đầu tư hẳn đã cho phép chúng ta thực hiện được biết bao điều lợi ích, biết đâu tránh được cảnh phá sản tháng 4 năm 1975?

Lâu ngày mới gặp lại nhau, hai anh em ngồi đến quá giờ cơm chiều vẫn chưa thấy chị Lan về. Tôi rủ anh đi nhậu nhưng ngạc nhiên thấy anh lắc đầu từ chối: "Anh chờ chị về ăn chung. Để anh đưa chú tiền, rủ bạn bè đi vui hơn." Nói xong, anh đi vào phòng lấy tiền cho tôi.

Bữa đó cũng là lần cuối tôi gặp anh. Năm 75, tôi đi tù. Ra tù, về Sàigòn, lo vượt biển, tôi cứ thế trải qua biết bao biến cố. Chín năm sau, tới Mỹ, mới nghe lại giọng nói của anh qua điện thoại từ Pháp gọi sang, rất ngắn gọn, chỉ hỏi thăm nhau vài câu. Lúc đó, lệ phí gọi viễn liên rất đắt, thêm nữa, anh chị em vẫn đinh ninh còn cơ hội một ngày nào gặp lại nhau, không ai có thể ngờ đấy là lần cuối cùng tôi được nghe giọng nói của anh. Ít lâu sau anh đi Galang!


Sau lễ cầu siêu, tôi theo chị Hạnh về căn chung cư của chị ở Créteil, một thành phố nhỏ thuộc ngoại ô Paris, nơi chị ở một mình từ ngày về hưu non, chấp nhận lãnh món tiền hưu trí khiêm nhường để dồn thời giờ vào việc công quả ở chùa và đi du lịch. Cảnh đơn chiếc của chị khiến tôi ngậm ngùi nhưng rồi cố kiếm ra lý lẽ để tự an ủi, cho rằng dù sao chị có tâm hồn bình an, tự tại khi đến với đạo, chọn nếp sống cao đẹp trong việc phụng tự ở chùa K. với nhóm bạn rất đông cùng chí hướng và đùm bọc nhau. Hôm nay, phần lớn khách dự lễ cầu siêu cho anh Vinh là bạn của chị.

Sau một ngày dài bận rộn trên chùa, cả hai chị em đều thấy mệt mỏi nên bảo nhau đi nghỉ. Tuy vậy, một thắc mắc lúc ở chùa không thôi đeo đẳng tôi: đó là cảnh bà đầm đứng tuổi Roseline, bạn của anhVinh, chít khăn tang, cúng bái như người trong tang gia mà tôi không biết là ai? Tôi hỏi chị Hạnh: "Ban nãy em thấy bà Roseline chít khăn tang ở đám ma, chả lẽ bà ta là vợ anh Vinh à?" Quay nhìn tôi, chị mỉm cười: "Ôi, bà ấy mê anh Vinh và tự coi mình là “madame Vinh” thôi! Bà có gia đình chồng con tử tế nhưng cứ đeo đẳng ông anh đào hoa yểu mệnh nhà mình, Tây Đầm mà! Em đi nghỉ đi, ngủ dậy, chị kể em nghe chuyện anh Vinh ở Paris. .."

Trở về căn phòng nhỏ thường ngày là phòng đọc sách của chị Hạnh, nay được trải một tấm nệm cho tôi có chỗ nằm nhưng tôi không sao chợp mắt được. Cái chết bất ngờ khi còn trẻ của người anh ở tuổi 54 làm tôi vừa đau lòng vừa băn khoăn về cuộc sống và cả con người anh nói chung. Thời cuộc và số phận đã chia lìa chúng tôi một thời gian khá lâu, nay tôi chỉ còn trông cậy vào chị Hạnh để tìm hiểu quãng đời sau này của anh vì chị là người duy nhất trong gia đình sống gần anh ở Pháp. Căn chung cư này chị mua từ khi làm công chức thành phố. Lúc trẻ, Hạnh là học sinh giỏi ở Việt-Nam. Qua đây, chị ghi danh học Văn Chương ở Sorbonne. Lấy bằng cử-nhân xong, chị muốn xin đi dạy nhưng vì chưa có chưa quốc tịch và tín chỉ sư phạm, đành phải nhận công việc thư ký quèn tại một hãng tư rồi sau chuyển qua ngành kế toán. Sống độc thân, chị không có nhiều nhu cầu vật chất, bao nhiêu tiền chỉ để dành gửi về cho cha mẹ cho đến khi ông bà qua đời (lúc tôi đang bị tù ở Yên Bái.) Chị là một trong những người về thăm quê hương sớm, từ năm 80, từng lặn lội ra Bắc thăm tôi trong tù nhưng không được gặp, chỉ để lại quà cáp chị đem theo. Có lẽ trải qua nhiều cảnh đời thăng trầm, hứng chịu bao thất vọng và chán nản với nhịp sống bon chen, xô bồ ở Paris, chị tìm tới con đường giải thoát của đạo Phật, toàn tâm toàn ý lao vào việc từ thiện trên chùa và kinh kệ ở nhà, trái ngược với thằng em là tôi cả đời tâm niệm “Đến Paris rồi chết cũng cam!"

Mùi trầm hương từ phòng ngoài nhẹ nhàng lan tỏa đến chỗ tôi nằm, đánh thức tôi dậy sau giấc ngủ trưa. Đi ra phòng khách, tôi thấy chị Hạnh đang lúi húi bày mấy món chay trên bàn thờ Phật, có thêm tấm ảnh anh Vinh với nụ cười ngập ngừng, ánh mắt xa xăm, buồn bã, như thường thấy trên ảnh thờ của người vừa khuất. Chị Hạnh pha trà, chuẩn bị cho câu chuyện chị hứa kể về quãng đời lưu lạc của anh Vinh ở Paris mà chị biết rõ.

Mở đầu, chị nhắc lại thời gian sau hai năm làm việc cho bộ Kinh Tế, anh Vinh nhận được học bổng ngành ngân hàng để qua Luân Đôn tu nghiệp một năm. Từ Luân Đôn, anh tìm cơ hội đi Pháp hai lần, vừa để thăm em gái, vừa du lịch Paris cho thỏa lòng khao khát bấy lâu. Áp dụng kinh nghiệm hàm thụ qua sách vở, anh lùng sục mọi ngõ ngách Paris, chỗ nào bán bánh mì ngon, chỗ nào có quán ăn rẻ tiền cho du khách, chỗ nào là quán cà phê trước kia Jean Paul Sartre từng ngồi nói chuyện triết lý với Simone de Beauvoir. Anh thổ lộ với em gái là khi xong khóa tu nghiệp, anh sẽ trốn qua đây sinh sống luôn, không về lại Việt Nam nữa, đoán là sau cuộc đàm phán đang diễn ra ở Paris, Mỹ sẽ bỏ Việt Nam như Pháp đã cuốn cờ ở thời điểm năm 54. Hạnh thắc mắc hỏi về chị Lan còn đang ở Sài-gòn thì sao, anh Vinh cười, trả lời với vẻ tự tin: "Lan đã biết ý định của anh nên sẽ bán nhà, chạy passport xuất ngoại qua đây sau khi anh học xong. Lan xoay sở rất giỏi, anh nghĩ là chị ấy sẽ thành công như dự tính."

Năm đó, Hạnh ở thuê một căn hộ rẻ tiền hai phòng ngủ trong Quận 11. Và, sau khóa tu nghiệp bên Anh, Vinh trốn qua Paris ở tạm với em gái trong khi chờ xin việc, đi làm, dành dụm tiền dọn ra để đón Lan sang đoàn tụ. Cả năm chờ đợi giấy tờ di trú, Vinh ghi danh học về ngân hàng và bắt đầu la cà khu La Tinh, gần trường Sorbonne. Vốn thông thạo tiếng Tây, anh học dễ dàng và làm quen nhiều bạn, phần đông là mấy cô Đầm non hơn là lũ Tây con. Quả nhiên, như Vinh tiên đoán, chỉ vài tháng sau Lan bay qua Paris. Ngày đón Lan về, bước vào nhà, nhìn căn phòng bé nhỏ, nàng buột miệng than liền: “Phòng gì mà bé tí teo, chỉ đủ kê cái giường ngủ. Chắc tụi mình phải kiếm chỗ ở lớn hơn thôi!" Nghe vợ chê, Vinh ngạc nhiên nhưng không nói gì. Thực sự, anh chưa hề lưu ý đến chi tiết này. Đối với anh, chuyện nhà cửa không đáng kể, quan trọng là được sống dưới bầu trời Paris, tận hưởng khung cảnh lãng mạn của thành phố mà những khi đi lang thang, anh mới thấy mình có nhiều khám phá thú vị. Vinh mơ mộng bao nhiêu thì Lan thực tế bấy nhiêu, hai tính tình rất khác biệt liệu có bù đắp cho nhau hay chị sẽ phải vất vả níu kéo anh trong cuộc sống trưởng giả mà chị mong muốn, không biết êm ấm được bao lâu? Dù sao, thoạt tiên chị cũng chiều ý anh. Với số tiền bán tài sản mang theo, hai vợ chồng tiêu xài rộng rãi như đang hưởng tuần trăng mật mà, nghĩ cho cùng, sau đám cưới cho tới nay, họ vẫn chưa được nếm trải. Chị tin là anh sẽ kiếm được việc làm rồi mọi sự sẽ đâu vào đó, nghĩa là họ sẽ có lại cuộc sống phong lưu, trưởng giả, mà chị đã quen xưa nay: villa, xe hơi, lâu lâu đi nghỉ hè, du lịch thỏa thích như tài tử trong các phim ciné...

Lan xuất thân từ một gia đình công chức nghèo, ông bố làm thư ký sở Bưu Điện, giản dị và an phận, thiếu cả tự tin lẫn khả năng. Và, như phần đông những ông cha không thành đạt, hầu như suốt đời chịu đựng cảnh chợ chiều leo lét, ông trông mong vào những đứa con đỗ đạt, thành danh, muốn thấy chúng thay mình thực hiện những ước mơ không thỏa. Thực tế trước mắt, ông may mắn nhờ vào tài buôn bán tảo tần của bà mẹ đàn con ấy nên cuộc sống gia đình khấm khá. Cũng do sự quán xuyến và tài giao thiệp khôn khéo của bà, Lan được đi học trường Đầm. Mỗi lần đến chơi nhà bạn học cùng lớp, chứng kiến cảnh giàu sang của gia đình chúng, tuy còn bé nhưng Lan ý thức rõ khoảng cách xã hội giữa hai nơi và cảm thấy tủi hổ cảnh túng nghèo của cha mẹ với căn nhà xiêu vẹo ở cư xá công chức đường Phan Kế Bính. Nàng tự hứa bằng mọi giá, sẽ không để cái nghèo đeo đuổi mình nữa. Nàng mường tượng cuộc đời mình sẽ sung túc và để đạt được quyết tâm ấy, cho dù có phải làm điều gì trái với lẽ thường, nàng sẽ vượt qua không nề hà.

Lớn lên vào giai đoạn lịch sử Mỹ bắt đầu vào Việt-Nam thay thế cho Pháp, Lan nhanh trí nhận ra con đường tiến thân là phải học tiếng Anh. Sẵn có năng khiếu về sinh ngữ, Lan nói năng thành thạo và xin được việc làm ở Phòng Thông Tin Hoa Kỳ. Tuy đồng lương sở Mỹ tương đối khá hơn so với công sở Việt-Nam nhưng Lan không hài lòng với nghề thư ký bàn giấy. Lan bắt đầu để tâm làm quen với các xếp lớn, từ đó nàng tiến thân càng nhanh hơn. Lan không đẹp lắm nhưng ăn nói lưu loát, duyên dáng, là đối tượng được nhiều tay Mỹ thèm muốn, săn đón, gạ gẫm, mời đi chơi. Đột nhiên, Lan đem về nhà nhiều tiền, khiến gia đình ngỡ ngàng song không tiện tìm hiểu. Khi ông bố sắp nghỉ hưu, Lan đã có đủ khả năng tài chánh sang được căn nhà trệt ở Tân Định cho ông bà cụ có nơi dưỡng già. Là người trong cuộc, Lan biết quen mấy tên ngoại quốc chỉ là cơ hội nhất thời, không có gì hứa hẹn lâu dài và nàng phải lập gia đình trước khi tuổi xuân qua đi. Vinh đã tới đúng lúc với đầy đủ điều kiện “ăn tiền”: đẹp trai, hiền hậu, có bằng đại học, quan trọng hơn hết là say mê nàng. Lan nghĩ ngay đến việc chinh phục con nai vàng ngơ ngác này và nắm đầu anh để sai khiến. Tuy nhiên, tấm mề đay nào cũng có mặt trái, chỉ là Lan tự tin quá nên bỏ qua, không nhìn. Vinh có nhiều ưu điểm song cũng nhiều khuyết điểm: nghệ sĩ, lười kiếm tiền, nghiện thuốc lá nặng và uống rượu như hũ chìm.

Buổi sáng, Hạnh rời nhà lấy Métro đi làm sớm trong khi hai vợ chồng Vinh vẫn còn ngủ. Họ dậy trễ, mệt mỏi sau cả ngày hôm trước lang thang khắp Paris, bát phố là chính, ăn uống chỉ qua loa rồi lại bát phố tiếp. Paris đã vào Thu nhưng năm đó trời vẫn chưa lạnh, khí hậu mát mẻ như Đà Lạt dù ngoài đường lá đã đổi màu, rơi lác đác…Tuy vậy, đây là cơ hội để Lan khoe chiếc áo dạ mới mua mang từ Việt-Nam qua dù nó khiến nàng trông lạc lõng giữa đám đông, không thích hợp với thời tiết còn ấm áp. Dưới bầu trời trong xanh, lơ lửng vài giải mây vô định, họ cầm tay nhau đi dạo bờ sông Seine. Nhìn qua bên kia, nhà thờ Đức Bà Paris trông cổ kính và đồ sộ. Bên dưới, giòng nước hững hờ phản chiếu ánh nắng bạc, trôi lặng lẽ trong cô đơn. Trong đời, Vinh chưa bao giờ cảm thấy lâng lâng, thư thái và hạnh phúc bằng lúc ấy. Tay trong tay đi bên cạnh người vợ yêu thương dưới bầu trời Paris, giữa cảnh trí thanh bình, an nhàn và sung túc của kinh đô ánh sáng mà đầu óc thanh thản, không lo gì đến ngày mai, không bận tâm chiến tranh hay thế thái nhân tình, còn gì vui sướng hơn? Dọc bờ sông, nhiều đôi tình nhân cũng đi dạo, tình tứ nắm tay nhau, chốc chốc dừng lại ôm nhau dưới một gốc cây, không cần để ý đến xung quanh. Cảnh vật làm Vinh nhớ đến lời của bản nhạc" Sous le ciel de Paris" được nghe đã lâu, khi còn là học sinh, qua giọng hát trữ tình và lẳng lơ của Edith Piaf:

“...Dưới bầu trời Paris
Văng vẳng lời ca
Của bản nhạc vừa sáng tác
Từ đáy lòng một nhạc sĩ trẻ
Riêng cho mấy đôi tình nhân đang dạo phố
Ngập lòng hân hoan
Theo điệu ca dành riêng cho họ...”



Đến gần cầu Pont Neuf, Vinh dìu Lan leo các bực thang để băng qua cầu, đi theo hướng đến Nhà Thờ Đức Bà. Trên này xe cộ tấp nập, ồn ào, quay cuồng, khác hẳn dưới bờ song. Hai người như đi lạc vào một thế giới khác, không còn thơ mộng, vắng vẻ, yên tĩnh mà xô bồ, huyên náo, với những cửa hàng thương mại dọc bờ sông. Dừng lại ở chân cầu, ngoái nhìn lên một tòa cao ốc, Vinh kể cho Lan nghe: "Này em, trăm năm trước, tầng dưới căn nhà này là quán cà phê, chỗ la cà tụ họp của mấy ông họa sĩ phái hiện thực thời đó. Renoir đã thuê một phòng khách sạn trên ấy đúng một ngày vì không đủ tiền thuê lâu hơn nữa, để vẽ bức tranh nổi tiếng về cầu Pont Neuf này. Hình như ông còn bắt đứa em trai đứng ở giữa đường chặn xe ngựa để ông từ trên cao nhìn xuống vẽ. Bây giờ, quán cà-phê không còn nữa mà thay vào toàn là cơ sở hay văn phòng thương mại. Chán quá, bao nhiêu vẻ thơ mộng của Paris đã mất theo." Ngước nhìn lên, Lan chỉ thấy tòa nhà cao sừng sững, không có gì khác lạ. Câu chuyện Vinh say sưa kể, xem ra đâu có gì đặc biệt? Nàng nghĩ thầm trong bụng: “ Chỉ có ông họa sĩ nghèo mà sao Vinh quan trọng và tiếc nuối thế?” Chàng mê man Paris bao nhiêu thì Lan thờ ơ bấy nhiêu. Trong mắt nàng, Paris chỉ đơn thuần là một thành phố tây phương như bao nơi khác, đông đầy người và xe cộ, ồn ào, bẩn thỉu! Có lẽ từ nhỏ, qua sách giáo khoa, xem những bức hình cảnh đồng quê nước Pháp, thanh bình và êm ả, Vinh đâm ra bị ám ảnh cho đến khi khôn lớn? Hay là lối sống tự do, lôi cuốn của Tây Phương phù hợp với tính tình phóng khoáng của Vinh, ngấm vào tâm khảm chàng từ lúc nào không hay, như bếp than tuy tàn lửa nhưng vẫn âm ỉ nóng, bây giờ chợt bùng lên?

Sau khi tạt qua thăm nhà thờ, hai người thấy đói nên tản bộ qua cầu, trở lại bên Tả Ngạn để vào khu St Germain- des- Prés kiếm tiệm ăn. Đi loanh quanh ngoài đường lớn không thấy có nhà hàng nào vừa túi tiền, họ rẽ vào một con hẻm ngập du khách, thấy một tiệm nhỏ bày bàn bên rìa đường và đang đông khách. Họ bước vào và gọi vài món Pháp. Yên chỗ rồi họ mới nhận ra ông chủ tiệm là một tay"rệp" mặt mũi dữ tợn và láu cá, chỉ quảng cáo gạ gẫm những món đắt tiền. Bữa ăn miễn cưỡng ngay giữa lòng Paris vừa đắt, vừa nhạt nhẽo, làm họ thất vọng. Riêng với Vinh, hương vị hôm nay kém xa nhà hàng Duy Ban ở khu Đakao, Saigon ngày xưa. Ra về, đi một quãng khá dài vẫn chưa thấy trạm metro, Lan chán nản đề nghị kiếm chỗ ngồi nghỉ mệt vì đôi giày bốt cao gót mới mua làm nàng đau chân.
Tuần trăng mật qua nhanh, nhường chỗ cho thực tế cuộc sống xồng xộc kéo đến, đầy đen tối. Không có giấy tờ di trú, chưa kiếm được việc làm chính thức, tiền Lan mang theo đã gần cạn nhưng Vinh chỉ mải mê uống rượu và kéo nàng đi chơi Paris, dù lúc này lang thang nhiều hơn là vào tiệm ăn. Với đầu óc thực tế, Lan lập tức xoay ra làm chả giò ở nhà và đem bỏ mối cho các nhà hàng khu chợ Tàu. Công việc cực nhọc mà lợi tức chẳng bao nhiêu, thêm căn nhà vốn đã chật nay lại càng trở nên bừa bộn, không khí sặc sụa mùi dầu chiên khét lẹt, rất khó chịu! Vinh thấy vợ lăn sả vào kiếm tiền nên cũng biết thân, cố kiếm một chân làm chui lãnh tiền mặt, lau chùi, dọn dẹp, cho một tiệm mổ gà vịt của người Hoa ở Quận 13. Vào đến chỗ làm, mùi hôi tanh của thịt sống xộc lên đầu không tài nào chịu nổi, anh cúi gập người lại và lấy tay bụm miệng vì sắp nôn ọe, khiến ông chủ phải cho anh nghỉ việc ngay ngày đầu. Từ đó, anh chỉ còn biết chú tâm vào việc học cho xong khóa huấn luyện về ngân hàng, vợ chồng ít nói chuyện với nhau vì đâu còn thời giờ nữa? Về phần Lan, sau một ngày lam lũ, tối đến Lan đi ngủ sớm để mặc Vinh ngồi học đến khuya.

Năm sau Vinh tốt nghiệp, cùng lúc giấy tờ di trú hoàn tất, họ lập tức đi xin việc. Cả hai cùng vác đơn đến một ngân hàng lớn, Lan được thu nhận vào vị trí tiếp khách hàng (bank teller) nhưng Vinh thì, mỉa mai thay, bị từ chối vì không có kinh nghiệm! Chán nản,Vinh quyết tâm học nữa. Lần này, chàng đổi sang ngành tâm lý xã hội. Nhờ thông minh, anh xong Cao Học trong vòng một năm. Trong thời gian đó, với một đầu lương khiêm nhường nhưng ổn định, họ vững bụng hơn phần nào song vẫn phải chi tiêu dè xẻn theo bản tính lo xa của Lan. Vinh tính quen tiêu xài rộng rãi nhưng trái với vợ, khi lâm hoàn cảnh thiếu thốn thì anh không để mình bị ảnh hưởng và khó chịu như vợ. Lan thích giao du với giới quyền quý nên chú trọng bề ngoài và nhiều nhu cầu sắm sửa. Ngược lại, Vinh gần gũi thoải mái với giới bình dân hơn giới trưởng giả. Chàng không câu nệ học thức hay giàu nghèo, sang hèn, anh quen đủ hạng người trong xã hội và thường kết bạn dễ dàng với những phận người hẩm hiu. Vinh luôn quan niệm đức tính đáng quý ở một người là có lý tưởng chứ không phải nhiều tiền hay bằng cấp, khoa bảng.

Mùa Xuân ở đây đẹp quá! Thời tiết, khung cảnh thiên nhiên thơ mộng làm dịu đi nỗi nhớ nhà của kẻ tha hương. Thế nhưng khi trời trở rét, nhất là mùa Đông lạnh cắt da, dù đi ngoài đường ấm hơi người qua lại nhưng lòng Vinh vẫn băng giá, nhớ quê hương, nhớ Sàigòn nóng bức và thân quen, thành phố của mình một thời chứa chan hy vọng. Giờ đây, Paris với người lữ khách lạc loài, sao mà xa lạ và lạnh lùng. Cuộc sống thiếu thốn ở nơi phồn hoa đô hội ảnh hưởng đến Lan nhiều hơn Vinh. Chàng cảm thấy mủi lòng khi tay không với tới Trời, nhìn vợ hàng ngày đọc báo tìm chỗ bán hàng hạ giá để chắt chiu từng đồng bạc chi ra. Bản thân Vinh, chỉ cần có điếu thuốc lá trên môi và mỗi tối vài chai bia hay một chai vang đỏ là bằng lòng rồi, không đòi hỏi gì hơn.

Năm sau, Vinh tốt nghiệp khoa Tâm Lý Xã Hội với thứ hạng cao và chàng xin được việc làm bán thời gian tại hội thiện nguyện H. Dù chỉ lãnh nửa lương, chàng vẫn làm việc cả ngày, tối về đến nhà thì Lan và Hạnh đã đi ngủ. Quen thức khuya, Vinh rót rượu uống một mình, để hơi men, khói thuốc và sự tĩnh mịch xung quanh lâng lâng thấm vào lòng. Có khi khói thuốc theo gió thoảng đến chỗ Lan ngủ, đánh thức nàng dậy. Hai người trao đổi vài ba câu chuyện vu vơ và chỉ một chốc Lan lại buồn ngủ nên vào giường trước chồng.
Là nhân chứng bất đắc dĩ của cuộc sống chung giữa Vinh và Lan, Hạnh không thể nhớ rõ từ lúc nào thì tình cảm của Lan bắt đầu thay đổi vì chẳng bao giờ Hạnh nghe anh chị lớn tiếng với nhau.

Sau lưng Hạnh, nhiều đêm, Lan nhỏ nhẹ khuyên Vinh nên bỏ thuốc lá và bớt uống rượu vì nàng muốn có đứa con. Anh yên lặng ngồi nhìn vợ một lúc, có lẽ để cân nhắc mọi khả năng, rồi than thở một cách tệ hại: "Khổ quá Lan ơi, anh đã thử nhiều lần mà không bỏ được. Nhiều người nghiện nói bỏ vợ thì được chứ thuốc lá thì chịu thua. Anh thấy rất chí lý." Nói xong, anh lảng ngay sang chuyện khác, biết mình không kham nổi sự thật. Thực tế là chính anh đang mượn rượu và thuốc lá để quên đi phiền muộn. Thiếu những thú tiêu khiển giản dị này, anh tự hỏi đời còn gì đáng sống nữa? Điều đáng tiếc là anh không chia sẻ được với vợ mong ước chính đáng của nàng muốn có một đứa con mà vin vào nỗi lo sợ cũng chính đáng của cả hai trong hoàn cảnh túng thiếu và cuộc sống bấp bênh hiện nay, liệu có nên sinh con không? Chưa kể Lan thường nhắc lại với chồng chuyện người chú họ của nàng ở Việt-Nam, cả đời hút thuốc lá rồi bị ung thư phổi ở tuổi mới ngoài năm mươi. Trên giường bệnh, lúc sắp chết, ông thổ lộ: "Chú không ân hận gì cả vì thuốc lá đã mang lại cho chú bao vui thú. Nếu bỏ thuốc, có thêm được vài năm sống buồn tẻ thì sống để làm gì?" Biết tâm lý người nghiện, nghĩ có thể Vinh cũng quan niệm như ông chú này hoặc thậm chí chàng không có đủ nghị lực để bỏ, nàng không mảy may cảm thấy buồn giận Vinh vì đã từ lâu, Lan ý thức tình cảm của mình đối với chồng dường như đã chuyển sang tình bạn, lắm khi nàng còn coi Vinh như đứa em trai cần sự bảo bọc. Thỉnh thoảng mỗi khi có dịp, Vinh bắt đầu nghe vợ nói về ông xếp của nàng ở sở. Chưa có dấu hiệu rõ rệt nào cho thấy Lan có cảm tình đặc biệt với ông ta nhưng trí thông minh bình thường của một người đàn ông báo cho Vinh biết gió đã xoay chiều. Vinh hiểu và chấp nhận. Có lẽ cuộc sống thiếu sinh khí bấy lâu của hai vợ chồng mà chàng không bận tâm sửa, không biết làm sao để sửa, đã làm chàng quá mệt mỏi để có phản ứng. Cũng có lẽ Vinh biết mọi sự đã thật trôi xa khỏi tầm tay, đã thật muộn màng và không còn gì thay đổi được lòng vợ nên đành phó mặc giòng đời đưa đẩy tiếp, tới đâu là do số phận thôi! Cuộc chia ly nào cũng âm thầm, buồn bã như thơ của Prevert: “Nhưng ...cuộc đời ...chia cách lặng lẽ những kẻ yêu nhau... không một tiếng động..."

Dầu sao, họ cùng gắng gượng thêm một thời gian nữa. Ngoài giờ đi làm, Vinh ngồi nhà hút thuốc, uống rượu chát rẻ tiền mười đồng quan một chai. Còn Lan, hàng ngày hết vật lộn với những con số: tiền nhà, tiền ăn, tiền gửi về giúp gia đình còn kẹt lại quê nhà sau 1975, lại bận rộn với việc tìm kiếm chỗ nào bán quần áo hạ giá để mua mặc đi làm cho tươm tất như tụi đầm.

Đầu thập niên 80, tình hình bên nhà trở nên rối ren: cuộc chiến lan rộng sang Miên và phong trào bỏ nước ra đi ngày càng ồ ạt. Pháp mở cửa đón nhận thêm nhiều đợt thuyền nhân tị nạn nên cơ quan của Vinh trở nên bận rộn, chàng được chuyển sang quy chế nhân viên toàn thời gian. Buổi tối, sau bữa cơm, ba anh chị em thường quây quần bên đài truyền hình để theo dõi tin tức. Đêm hôm đó, Hạnh cảm giác có điều gì khác lạ, không khí trong phòng chùng xuống, nặng nề, không phải vì tin xấu đang xảy ra cho nhiều thuyền nhân hay cảnh đói rách ở quê hương mà là những gì đang xẩy ra tại đây, ngay trong căn phòng khách nhỏ bỗng trở nên u uất này. Chốc chốc Lan liếc nhìn cái đồng hồ treo tường, vẻ bồn chồn. Riêng Vinh thì vẫn mơ màng, điếu thuốc lá không rời tay và ly rượu bỏ dở trên bàn. Cuối cùng, khi chương trình tin tức chấm dứt, Lan đứng lên tắt máy truyền hình xong ngồi xuống, nhìn Vinh và lên tiếng nhắc: "Anh nói cho Hạnh biết đi...Nên cho cô biết càng sớm càng tốt." Vinh nhìn em gái, vẻ mặt bình thường nhưng giọng nói run rẩy: "Hạnh ơi, anh và chị Lan quyết định chia tay..Kiếm được chỗ thuê khác, Lan sẽ dọn ra. Anh vẫn sẽ ở đây với em, cho vui ...Đây là ý định chung của hai người và tụi này vẫn sẽ là bạn." Nghe nói, Hạnh sửng sốt. Anh Vinh nói “cho vui” nhưng Hạnh nghe chua chát giùm anh. Ngại nhìn vào đôi mắt sẽ nói nhiều điều bẽ bàng của Vinh nhưng Hạnh không cưỡng được nỗi lo lắng muốn biết tâm trạng của ông anh trong phút giây định mệnh này nên nàng hướng mắt về phía anh. Vinh ngồi yên, như pho tượng. Pho tượng yên lặng ấy cứ lớn dần ra, choáng hết căn phòng, làm Hạnh ngộp thở, hai tay ôm lấy ngực.

Một lúc khá lâu, Vinh uể oải đứng dậy và nói thong thả: "Thôi, hai cô đi ngủ trước đi. Anh xem tiếp ti-vi rồi ngủ sau." Lan và Hạnh cùng đứng dậy. Bước đi được vài bước, Lan dừng lại, nói nốt với Hạnh câu gì nàng quên hay vừa sực nhớ ra: "Tụi này đã bàn với nhau nhiều rồi mới quyết định như vậy Hạnh ạ! Nếu đàng nào cũng xảy ra, thà bây giờ hơn là lâu về sau, lỡ vướng mắc con cái. Chị muốn cám ơn Hạnh đã lo lắng cho chị từ khi qua đây, chúng mình mãi mãi là bạn nhé! Chị đã có chỗ ở rồi, sẽ dọn ra cuối tuần này."

Chiều thứ sáu đi làm về, Hạnh thấy nhà trống hoác. Lan dọn ra mà không chờ đến cuối tuần như đã hẹn. Từ đó, Vinh cũng ít về nhà ăn cơm tối với em, lấy cớ không thích ăn chay. Hạnh để ý quan sát, thấy Vinh không tỏ lộ vẻ gì khổ sở của người đàn ông bị vợ bỏ. Hạnh thầm xót xa anh nhưng yên tâm tự nhủ chắc nhờ rượu và thuốc lá, anh mình có nơi trú ẩn an toàn trong tình cảnh ngang trái không ai học được chữ ngờ này.

Bão tố quét qua đời người nhưng bầu trời Paris vẫn đẹp như từ ngàn năm qua. Dòng sông Seine vẫn êm đềm trôi, vẫn ái ngại làm chứng cho các đôi tình nhân soi bóng bên nhau trên dòng nước lung linh đổi thay lặng lẽ từng giờ. Cuộc sống nhân loại khắp nơi vẫn tiếp diễn, lẫn lộn hạnh phúc và khổ đau chẳng khác mấy với đĩa xà lách trộn dầu dấm nhiều màu sắc và thơm ngon trong các tiệm ăn thanh lịch của Paris hoa lệ.
Đôi khi tan sở, Vinh không về nhà ngay mà tản bộ dọc bờ sông ngắm nhìn cảnh cũ, đếm từng bước chân ngập ngừng nhớ đến người xưa. Nỗi buồn từ con tim chất chứa cô đơn như một làn hương nhẹ nhàng lan tỏa, làm dịu mát tâm hồn chàng trong thoáng giây quay nhìn quá khứ. Vinh hiểu Lan không chịu nổi cuộc sống bạt mạng, bất cần, nhuốm chất nghệ sĩ của mình, càng thông cảm hơn khi xa nhau nàng không một lần trách móc chàng vì đã không thể mang đến cho nàng cuộc sống ổn định như ao ước đơn sơ của nàng. Rồi Vinh tự an ủi một cách lười biếng với ý nghĩ nay Lan đã có niềm vui mới bên anh chồng Tây vừa giàu có, vừa chiều chuộng nàng hơn chàng. Hóa ra, triết lý “ta cứ yên tâm sống, rồi ai cũng sẽ có phần” đã được cuộc đời của Lan chứng nghiệm? Cái triết lý cầu âu, dở hơi, mà Vinh sung sướng tưởng như chính chàng khám phá ra đó đưa chàng đi tới chỗ bất thường khi Hạnh biết anh mình vẫn thỉnh thoảng ghé thăm người vợ cũ, thậm chí đi chơi bộ ba với cả ông chồng Tây của Lan, khiến bạn hữu xì xào đàm tiếu. Tình yêu khiến anh vượt qua tự ái thường tình hay anh suy nghĩ gì? Có Trời mà biết!

Những năm sau đó, khi nhiều thuyền nhân đến được các trại ty nạn ở vùng biển Đông, cơ quan từ thiện H. có thêm ngân khoản từ chính phủ Pháp nên họ tuyển dụng thêm nhân viên, trong số này có bà Roseline, được chỉ định làm việc dưới quyền Vinh. Lần đầu gặp nhau, Vinh không có một ấn tượng gì về người phụ nữ mà nếu có gặp ngoài đường, chắc chắn bà cũng chìm trong đám đông rồi bị quên đi. Roseline không già, cũng không còn trẻ, khoảng gần năm mươi và chỉ kém Vinh vài tuổi. Bà trông gầy nhưng thân hình săn chắc, khỏe mạnh, dáng dấp nhanh nhẹn. Sống mũi cao, khuôn mặt chữ điền phảng phất nam tính nhưng khi bà mở miệng thì giọng nói nghe reo vui, tươi tắn và thánh thót như tiếng hát. Tốt nghiệp sư phạm, bà từng dạy tiếng Pháp cho các học sinh ngoại quốc ở ngoại ô Paris. Bà thích gần gũi người Á Đông, mê nhất thức ăn Việt-Nam mà theo bà là ngon nhất thế giới vì gồm đầy đủ các thành phần trong một món ăn: chất tươi ở rau sống, chất bột ở cơm, chất đạm ở thịt cá. Có chồng và hai con đã vào Đại học, Roseline không vướng bận gia đình nhiều, say mê làm từ thiện, yêu thích công việc vì nó kích thích lòng trắc ẩn của bà mỗi khi giúp được người khác trong cảnh khốn khó của họ.

Cùng với làn sóng vượt biển lên cao, hoạt động của cơ quan cũng trở nên bận rộn, đòi hỏi Vinh và Roseline phải làm thêm giờ. Nhiều buổi tối, khi Vinh đưa người nữ nhân viên dưới quyền đi bộ một quãng phố để lấy Metro về nhà, cả hai thường ghé vào một quán bistro ăn lót dạ một món nhẹ hay nhâm nhi ly rượu vang. Trên danh nghĩa thì chàng đề nghị đưa nàng về nhưng thực tế, chính nàng chủ động mọi chi tiết, từ việc chọn chỗ, kêu thức ăn, đưa chàng vào bến xe, ân cần và chu đáo hơn một người bạn. Hay nàng nhìn thấy ở Vinh hình ảnh một người tị nạn cô đơn, yếu đuối, đang cần sự săn sóc, phù hợp với bản tính sẵn sàng giúp đỡ của nàng? Đối với Vinh, nàng không những là đồng nghiệp mà dần dần trở thành tri kỷ vì họ hiểu nhau. Lớn lên cùng thời và đều học trường Pháp, cùng thấm nhuần văn hóa Tây Phương. Vinh và Roseline có nhiều điểm tương đồng, dễ dàng chia sẻ tâm sự khác với trước đây anh không bao giờ thổ lộ thoải mái với Lan. Phải chăng do hoàn cảnh đưa đẩy mà họ dễ cảm thông rồi thương nhau? Cuộc gặp gỡ tình cờ không hẹn trước nhưng cứ cho đó là cuộc hẹn hò của đôi tình nhân, khoác lên nó vẻ nên thơ và lãng mạn, như mấy câu thơ mà Vinh từng mê mẩn từ khi còn ở Việt-Nam:

Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đỏ tràn ly
....
Mùa thu nơi đâu?
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Mong em chín đỏ trái sầu ...( Mùa Thu Paris, thơ Cung Trầm Tưởng )

Trại tỵ nạn Galang nằm trên một hoang đảo nhỏ thuộc Nam Dương, được xây cất vào đầu năm 1979, bằng tiền của quỹ tỵ nạn Liên Hiệp Quốc. Galang có vị trí thuận tiện do rất gần Singapore, chỉ cách khoảng hai giờ đồng hồ nếu đi bằng tàu biển loại nhỏ, dễ dàng cho việc chuyển người tị nạn đi định cư bằng máy bay đến các nơi trên thế giới. Trại do Cao Ủy Tị Nạn quản trị với sự giúp đỡ của nhiều cơ quan thiện nguyện Quốc Tế, trong đó có cơ quan H. nơi Vinh làm việc. Là người Việt, thông thạo hai sinh ngữ Anh và Pháp, Vinh được điều qua Galang phụ trách công việc dịch thuật cùng các dịch vụ xã hội khác cho thuyền nhân. Đáng lẽ đi một mình, Vinh đề nghị đem theo Roseline, với lý do cần giáo viên dạy tiếng Pháp căn bản cho các thuyền nhân chờ đợi định cư tại các nước nói tiếng Pháp.

Đến Singapore một ngày đầu thu, Vinh và Roseline được người của cơ quan ra đón tại phi trường và đưa về khách sạn nghỉ ngơi.Vừa bước ra khỏi phòng hành khách, cơn nóng nhiệt đới bất ngờ ập tới, rát mặt, không gian như một lò nướng khổng lồ gợi Vinh nhớ ngay đến những mùa hè Sàigòn, con đường Duy Tân cây dài bóng mát chạy qua trường Luật năm nào. Xe chạy trong một thành phố thanh bình, văn minh, sạch sẽ, bỗng làm Vinh chạnh lòng liên tưởng đến quê hương nhung gấm giờ này không còn níu được chân những người dân hạ quyết tâm ra đi, thà chết hơn là sống tủi nhục trong gông xiềng và đói khổ.

Tân Gia Ba là tên Việt, phiên âm từ chữ Hán. Nguyên ngữ, Singapore bắt nguồn từ tiếng Mã cổ, có nghĩa là Thành Phố Sư Tử tuy chẳng ai thấy con sư tử nào ở đảo này bao giờ, có lẽ chỉ có con hổ thì đúng hơn. Mảnh đất này gồm nhiều giống dân sinh sống: thổ dân Mã, người gốc Hoa và kiều dân Ấn. Họ đã cùng nhau dựng lên một quốc gia nhỏ bé, diện tích chỉ bằng với một thành phố lớn song cuộc sống phát triển hài hòa và sinh động dưới đủ màu sắc dân tộc và tôn giáo. Với tính cần cù, óc thực tế, đám người gồm nhiều chủng tộc này đã xây dựng nên một quê hương tiến bộ và sung túc.

Xe chạy qua khu phố Tàu, Vinh ngắm nhìn phố xá đông đúc người qua lại mà cứ ngỡ như đang lạc về Chợ-Lớn năm xưa. Các cửa hàng san sát nhau dưới cả dãy bảng hiệu chữ Tàu màu mè, sặc sỡ, quyện với mùi hương trầm và trái cây chín bày bán ngoài đường, quang cảnh tấp nập, phồn thịnh với người qua lại như nước chảy.

Sau một ngày làm việc ở cơ quan với nhân viên Cao Ủy, Vinh và Roseline lấy xe buýt về lại khách sạn. Họ ở hai phòng cạnh nhau. Đêm hôm sau, do chưa quen giờ giấc thay đổi nên cả hai cùng khó ngủ, họ bèn rủ nhau ra phố. Thấy một nhà hàng điển hình kiểu Trung Hoa, họ vào ăn tô mì và uống vài chai bia. Phố xá ban đêm ở đây vẫn dập dìu người qua lại, đông khách đi chơi, trông nhàn nhã, thanh bình và an toàn hơn cả Ba Lê.

Quá nửa đêm, hai người mới về đến khách sạn. Vinh ngà ngà say nhưng ga lăng như một ông Tây chính cống, chàng mở khóa cửa giùm Roseline rồi ấp úng chúc “Bonne nuit et à demain.” Roseline ngước nhìn Vinh, đôi mắt nâu to long lanh trong ánh sáng mờ ảo của dãy hành lang khách sạn, ánh lên một vẻ âu yếm khác thường. Rồi bất ngờ, nàng nghiêng đầu, chìa má để hứng nụ hôn của anh. Hai khuôn mặt áp gần nhau, thoang thoảng mùi thơm nhẹ nhàng của rượu, của eau de cologne từ tóc nàng tỏa ra êm dịu và cả mùi hơi người ấm áp khiến Vinh ngỡ ngàng, nhận ra bình thường Roseline không hề trang điểm và dùng nước hoa. Chàng chưa kịp trả lời câu hỏi Roseline trang điểm cho mình ư thì đôi tay rắn chắc của nàng đã vươn ra, quấn lẩy cổ chàng, nhẹ nhàng ghì đầu Vinh xuống để môi nàng chạm vào môi anh, nồng nàn như một đóa quỳnh mở ra chờ đón hương đêm ...


Ngày mới đến đảo, nước da Vinh đỏ ửng như con tôm luộc khiến nhiều người lầm tưởng anh là người Nhật Bản làm việc cho Cao Ủy. Chỉ sau một năm sống ở đây, chắc do ăn uống thất thường, cộng thêm tật hút thuốc lá liên tục như cái ống khói nhà máy, sức khỏe Vinh sa sút hẳn. Anh gầy guộc, da sạm đen, ăn mặc lè phè, chân đi dép, áo bỏ ngoài, Vinh giống hệt một thuyền nhân bị kẹt lâu đời ở Galang. Tuy vậy, anh vẫn vui thú với công việc và yêu đời vì luôn có bên cạnh người bạn đồng nghiệp tri kỷ.

Sau bữa cơm chiều với gia đình người bạn vốn là một luật sư chế độ cũ mới vượt thoát đến Galang, khi về tới khu nhà tiền chế dành cho nhân viên, Vinh lên cơn đau bụng dữ dội và tiêu chảy không ngừng. Được đưa vào bệnh xá PMI của trại (Hội Hồng Thập Tự Nam Dương) nhưng sau hai ngày điều trị, Vinh vẫn không thuyên giảm. Roseline lo lắng chuyển Vinh vào nhà thương tối tân hơn ở Singapore. Tại đây, anh được chẩn đoán bị kiết lỵ, một bệnh bình thường rất dễ chữa song có lẽ vì cơ thể anh suy nhược lâu ngày rồi, như căn nhà mục nát không chống chọi nổi nữa, các bác sĩ đành bó tay. Có lẽ cảm nhận mình không qua khỏi, từ giường bệnh anh gọi cho Hạnh, phều phào báo tin và than rất mệt. Có một lúc anh đã khá hẳn lên nhưng rồi hai ngày sau, bệnh lại bất ngờ trở nặng, anh yếu dần như ngọn đèn cạn hết dầu, đôi mắt to không khép kín trên khuôn mặt khô héo, đầu ngoẹo sang một bên, anh thở hơi cuối cùng trong tay Roseline như đứa trẻ trong vòng tay bao dung của mẹ hiền.

Kể đến đây, Hạnh nhìn lên bàn thờ. Cây nhang đã cháy hết, tàn nhang cuốn thành vòng, không chịu rơi. Đứng bật lên, Hạnh khẽ reo: “Anh Vinh về với bọn mình đấy! Trông cây hương cháy kỳ lạ không!” Dù không dễ tin như chị, tự nhiên tôi cảm nhận một cách mơ hồ là tàn tro cong queo của cây hương không quan trọng song ít ra nó tượng trưng cho điều gì khác hơn bình thường, biết đâu không là hương linh của Vinh hiển hiện? Trong cái thế giới thực hư hư thực của loài người, niềm tin cho chúng ta sự xác tín đáng kể, tiếc thay, tôi không được diễm phúc ấy.

Nhớ lại lúc còn ở trên chùa, không có dịp nói chuyện với Roseline, tôi đề nghị với chị Hạnh: “Chị ơi, ngày mai mình mời bà Roseline đi ăn nhé. Em muốn có dịp hàn huyên và cám ơn bà ta đã lo cho anh Vinh lúc nguy khốn nhất.” Đang cầm trên tay đĩa đồ cúng, Hạnh quay đầu trả lời:
“Ồ, trễ rồi em. Ngày mai, Roseline đi với gia đình xuống nghỉ mát ở Côtes D’Azur theo thông lệ hàng năm vì họ có căn nhà ngay bãi biển Saint Maxime.”
Thất vọng, tôi hỏi tiếp: “Chị thấy anh Vinh sau này có hạnh phúc không?”
Hạnh tần ngần nhìn em rồi đáp: “Theo chị, người sung sướng là người biết được mình muốn gì ở đời. Anh Vinh là một người như thế, có can đảm sống theo sở thích riêng và như vậy, anh ấy đã sống trọn vẹn đời mình.”
Tôi ăn bữa cơm chay hôm đó thấy thật ngon miệng. Vài ngày sau tôi bay về Ca-li mà không gặp lại Roseline…

Nhà văn kể xong câu chuyện về người anh ở Pháp thì nắng đã lên cao. Nhìn đồng hồ tay thấy đến giờ đón vợ, người bạn thơ lên tiếng: “Xin chia buồn cùng anh. Đã đến giờ phải đi đón bà xã rồi.”
Hai người cùng đứng dậy, bịn rịn chia tay dưới bầu trời trong xanh, nắng vàng như lụa của California.

Ngọc Cường