Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2024

Khắc Khoải Về...

 


Melbourne trời lạnh mấy hôm nay
Mưa đổ cầm canh đêm lẫn ngày
Thu đến lòng vương càng nhớ bạn
Mơ hoài kỷ niệm mộng trùng lai

Melbourne sắc úa cả tuần nay
Rơi rụng tả tơi lá những đài
Xót dạ góp vần thơ gửi đến
Nhờ cơn gió quyện lạc vào tay

Melbourne khắc khoải buổi chiều nay
Ký ức tháng Tư khắc khoải hoài
Trăn trở quê hương niềm khổ lụy
Nằm gai nếm mật …thấm ngày ngày...

  
Ảnh & Thơ: Kim Oanh

Thu Ơi

Đã mấy thu qua dạ mi mòn,

Nhìn thu e-ấp dạ nỉ non, 

Sao ta cứ tưởng là ma quái

Thấy ánh trăng soi dạ bồn chồn.


Ta biết nói gì đây hả thu,

Trăng soi đầu núi mờ mây phủ

Thu thét quấy rầy đất mẹ vang

Nhưng ta cứ tưởng là thu ngủ.


Ta biết trăng thu mấy nẻo về

Gió buồn man mác dạ sơn khê

Mặc ai khóc lóc bên giòng biếc

Réo rắt đau buồn áo não ghê!


Thu lại về bên khóm trăng tà

Vướng chân gót nhỏ vội nhìn xa

Thấy thu ta nhận rõ vầng trăng méo

Vội khóc òa lên đỡ xót xa!


Sự thế thu ơi lắm kẻ chờ

Khơi dòng bến đục dệt sầu mơ

Để cho nước lũ reo hò thét

Nức nở đau buồn dệt bài thơ.


Thu ơi ta chẳng đợi thu rồi

Nhìn thu trăng sáng tả tơi

Ta đang cố bước hòa nhịp thở

Chỉ biết đau lòng nhặt lá thôi!

Sóc trăng 1974
 Tô Đình Đài


Người Còn Đó, Tôi Còn Đây

 

(Viết tặng các thân hữu của Sương Lam)

Thăm hỏi Bạn, biết rằng người còn đó
Nỗi mừng vui tràn ngập cõi lòng tôi
Cuộc đời này bao sóng gió, nổi trôi
Vui được biết, Bạn bình an vui sống

Đời trần thế ví như là huyễn mộng
Kiếp nhân sinh là sinh tử, tử sinh
Quý nhau chăng chỉ ở một chữ Tình
Tình cha mẹ, tình vợ chồng, bè bạn

Tình cảm ấy ta không treo giá bán
Khi con tim không đơn vị đo lường
Bàn cân nào, cân được chữ Yêu Thương
Thế mới biết Thương Yêu là vô giá!

Cuộc đời dẫu đảo điên, nhiều dối trá
Nếu chúng ta thực sự mến thương nhau
Thì tiếc chi một lời nói, câu chào
Hãy trao gửi, sưởi ấm tình nhân thế

Có hơn không dù biết rằng chậm trể
Vì con người ai cũng thích yêu thương
Được thương người và cũng được người thương
Hãy bày tỏ yêu thương dù có chậm

Bạn còn đó! Tôi còn đây! Mừng lắm!
Vì chúng ta còn cơ hội gặp nhau
Để trao nhau lời nói với câu chào
Đầy thân ái, đầy yêu thương, quý mến

Chuyện dĩ vãng, chuyện tương lai sắp đến
Hãy quên đi, xin nhớ hiện tại thôi
Nếu tâm bình trí lạc! Thế đủ rồi!
Ngừời còn còn đó! Tôi còn đây! Phúc lắm!

Sương Lam


Trả Ta...

 

Trả ta mảnh đất quê hương
Non sông chữ S yêu thương vô cùng
Trả ta huyền sử Tiên Rồng
Giòng giống con-Lạc-cháu-Hồng hùng anh
Trả ta lịch sử lừng danh
Truyền thống dân tộc văn minh cội nguồn
Trả ta từng giọt lệ tuôn
Từ khi mất nước nỗi buồn không vơi
Lưu vong trên đất nước người
Nhớ nhung xâu xé tơi bời con tim
Hướng về quê cũ mong tìm
Đổi thay đúng với niềm tin vẫn chờ
Trả ta... tất cả bầu trời
Biển Đông hải đảo trùng khơi một vùng
Trả ta tổ quốc anh hùng
Giang sơn chữ S vô cùng mến yêu.

CN/H.N.T. , 
Giao mùa Hạ-Thu 2023

 

Ươm!

 
 
Thơ & Trình Bày: Ý Nga

Hồn Đá - Hồn Đá Thiên Thu

 
 
Hồn Đá

(Bài Hát Nói cảm ơn và đáp lễ những bài “Thơ Đá” đặc sắc của các Nhà Thơ Trần Việt Long và Kim Oanh)

“Đá vẫn thi gan cùng tuế nguyệt”!
Đá quý Kim Cương, ngọc Biện Hòa tuyệt đỉnh cao sang!
Đá! Có người hóa đá ôm con đứng chờ! Xin thắp một nén nhang!
Đá! Mòn lưỡi kiếm Đặng Dung dở dang mài quốc thù vị phục!

Đá! Đẹp tình Chàng mây Vĩnh Phúc!
Đá! Thương thân Thiếp khói Ba Vì!
Đá! Mỏi mòn mong đợi! Lệ tràn theo Bóng Người Đi!
Đá! Ngậm nhớ nhung tình hận đến kỳ vẫn xa xăm biền biệt!

Đá! Mãi mãi âm thầm đau đớn xót xa! Làm sao Em biết?!
Đá! Bàn tay nghệ sĩ tài hoa thần thoại tha thiết tạc tượng Tiên Nga!
Đá! Hoài ghi dấu tình ta!

Đức Hùng
Sydney, Úc Châu, 23/04/2024
***
Hồn Đá Thiên Thu

Cùng tuế nguyệt trơ trơ hồn đá!
Đá Kim Cương tuyệt đỉnh cao sang!
Đá Vọng Phu! Xin thắp nén nhang!
Mòn lưỡi kiếm Đặng Dung phục quốc!

Đá! đẹp tình Chàng mây Vĩnh Phúc!
Đá! thương thân Thiếp khói Ba Vì!
Đá! Lệ tràn theo Bóng Người Đi!
đến kỳ hẹn vẫn xa xăm biền biệt!

Ngăn cách đó làm sao em biết
Đá! mãi âm thầm đau đớn xót xa!
Đá! Bàn tay nghệ sĩ tài hoa
Đã lặng lẽ thổi hồn cho đá

Bức tranh đá đi vào thần thoại
Ai thiết tha tạc tượng Tiên Nga!
Đá nghìn năm ghi dấu tình ta
Cho hồn đá đi vào tình sử!

Mường So Đèo Văn Trấn
Altoona, IA, USA 23/04/2024

Sóng Bạc Đầu


Hôm nay là sáng Thứ Hai cho nên Bãi Dứa của Vũng Tàu thật hoang vắng. Từng cụm mây đen lơ lửng treo trên đầu làm cho bầu trời thấp xuống và ánh sáng trở nên kỳ dị. Từng ngọn gió lành lạnh từ ngòai khơi thổi vào trên mặt biển đen ngòm, hung dữ. Tít tắp từ xa những con sóng bạc đầu nổi bật trên nền trời xám trông tựa như những con cá mập nhe răng khi nó nhô lên khỏi mặt nước. Từng đợt sóng nhấp nhô chạy vào bờ rồi đập mạnh vào những tảng đá nghe ầm ầm.

Vào những ngày thời tiết xấu như thế này có lẽ chỉ những người điên hay “mát giây” mới mò ra Bãi Dứa để tắm biển. Thế nhưng từ hướng Bãi Trước một cái bóng bỗng xuất hiện từ xa. Đó là thằng Đực Lớn. Hôm nay, hay nói đúng ra từ lâu lắm rồi thằng Đực Lớn lúc nào cũng mặc chiếc quần lính, chiếc áo sơ-mi cụt tay màu cháo lòng. Chiếc áo sơ-mi lại bị đứt một hai cái nút cho nên thỉnh thỏang người ta thấy nó lòi cả rốn ra. Có lẽ vì nó thường xuyên đi chân đất cho nên ngón chân thô kệch của nó bè ra như chân người Giao Chỉ. Theo đúng trào lưu của thanh niên nó cũng để tóc dài nhưng vì bộ dạng nó rất ngờ nghệch và cái trán lại vồ ra cho nên bộ mặt nó trông rất tức cười. Đôi mắt nó lúc nào cũng mở to, ươn ướt như khóc. Qua cái dáng dấp bự con, nếu nhìn từ xa người ta có cảm tưởng nó là một người lớn nhưng lại gần mới biết đó chỉ là một thằng thanh niên ô dề. Nó đi lang thang dọc bãi biển, vừa đi vừa chỉ trỏ cho nên người ta nghĩ rằng nó đang nói chuyện với chính nó. Khi tới mấy tảng đá lớn xếp vòng cánh cung nó nghiêng đầu dòm tới dòm lui rồi cắn móng tay suy nghĩ. Suy nghĩ xong nó cười vu vơ rồi từ từ ngồi xuống, dựa lưng vào một tảng đá lớn. Vừa ngồi xuống nó thu mình, bó gối mắt đăm đăm nhìn ra phía biển xa xa. Nhìn một hồi nó thở dài rồi lấy cát đắp lên đôi chân chè bè. Đắp chán rồi nó bốc cát ra rồi đắp lại. Cuối cùng không hiểu sao nó đạp tung cả đống cát rồi gục mặt vào đầu gối. Giây lát sau nó rầu rĩ nói:
-Chiều nay về thế nào má cũng chửi. Bả lại nói, “Thằng chết bầm sao mày còn vác mặt về đây làm gì? Sao mày không theo đám cô hồn các đẳng cho rồi? Cùng tuổi với mày tụi nó vượt biên rồi gửi tiền về cho cha mẹ nó. Còn mày ở lại đây sang năm tới tuổi thi hành nghĩa vụ thì thấy tía mày. Lại bỏ xác bên Camphuchia thôi. To đầu bằng ấy rồi mà chẳng làm được gì cả. Thật khổ cho cái thân già! Từ ngày cách mạng về tao cũng chẳng nuôi nổi thân tao nữa. Nhớ ngày thằng tía mày còn sống tao đâu đến nỗi nào?”
Nói đến đây dường như bị xúc động bởi cái chết của ba nó cho nên nó lấy tay vẽ chữ “Ba “lên trên cát rồi lẩm bẩm như thể muốn nói với má nó:
-Ba tụi nó là lính ngụy, lính cộng hòa cho nên tụi nó vượt biên. Còn ba mình là Nhân Dân Tự Vệ cao ủy đâu có nhận. Vượt biên qua đó ở mục đảo đó!
Song dường như má nó không chịu cái lý luận này cho nên tự miệng nó lại phát ra những lời chửi rủa của má nó:
-Thằng tía mày! Mày ở lại đây rồi cuối cùng cũng chết ở Campuchia thôi! Mày cứ vượt biên đi. Dù mày có chết trên biển tao cũng mát lòng mát dạ. Chín tháng mang nặng đẻ đau tao đâu có muốn mày chết ở Cam phuchia? Thằng tía mày!

Có lẽ cái lý luận của má nó quá sắc bén khiến nó không thể cãi lại cho nên nó rầu rĩ gục mặt xuống đầu gối. Giây lát sau như để xua đuổi hình ảnh của má nó. Nó đưa tay vuốt mặt rồi lắc đầu vài cái như con chó tắm xong nó rung cả thân hình để lông mau khô. Nó lặng lẽ đưa tay xóa chữ “Ba” mà hồi nẫy nó vẽ rồi dùng ngón tay vẽ chữ “Hường” lên đó. Vẽ xong chữ “Hường” tự nhiên nó bật cười khúc khích. Nó nhớ lại chiều qua nó qua nhà con Hường để chẻ dùm mớ củi. Khác với má nó lúc nào cũng chê nó là đồ vô dụng, con Hường luôn luôn khen ngợi nó. Con Hường nói, “Anh Đực Lớn dễ thương ghê vậy đó. Bữa nào gánh dùm em ít gánh nước nghe? ”Nghe con Hường khen thế nó mát cả lòng cả dạ. Tuy nhiên nó rất ghét mấy bà lối xóm cứ hay chê bai, chế nhạo con Hường là, “Con trâu nước, đi đến đâu làm đổ đình đổ chùa đến đó.” Hôm qua đi xem phim ở Thắng Tam thấy con Hường đi đôi dép đứt quai phải cột bằng sợi dây kẽm nó thương quá. Nó định bụng khi nào có tiền nó sẽ mua tặng con Hường một đôi guốc Dakao có bán ở Chợ Vũng Tàu. Tuy nhiên nghĩ đến tiền nó lại rầu rĩ. Nó lặng lẽ xóa chữ “Hường” trên cát. Nhưng không hiểu sao lát sau nó lại đưa tay vẽ lại cái tên đó một lần nữa.

Trong khi thằng Đực Lớn ngồi ủ rũ như thế thì từ mé con đường tráng nhựa chạy vòng ngay trên đầu xuất hiện một bóng người thứ hai. Đó là thằng Tư Cụt. Hôm nay thằng Tư Cụt mặc chiếc áo Montague màu huyết dụ thứ dệt ở Chợ Lớn đã bạc màu. Chiếc quần tây màu xám bằng Dacron làm cho nó trông có vẻ như một công nhân viên. Nhưng đôi dép Nhật cũ, đen đúa lại tố cáo nó là một thứ công nhân hạng bét. Thằng Tư Cụt có bộ mặt rất lanh lợi. Sở dĩ người ta gọi nó là Tự Cụt là vì nó tên Tư nhưng ngón tay bóp cò của nó bị cụt mất một lóng. Mới đầu người ta ngạc nhiên là ngón tay trỏ của nó bị cụt đúng vào lúc nhà nước bắt lính đi Camphuchia thế mà công an không hỏi thăm sức khỏe. Nhưng sau người ta mới vỡ lẽ ra nó có người chú nằm trong ban chỉ huy quân sự Vũng Tàu. Rồi cũng nhờ thế lực đó nó được tuyển vào hợp tác xã đan và sửa lưới. Nhưng thực ra nó chỉ làm lấy lệ. Chủ yếu sống bằng nghề mánh mung.
Nãy giờ dù đã nhìn thấy thằng Đực Lớn nhưng nó vẫn trầm ngâm với điếu thuốc trên tay. Giây lát sau nó quyết định quăng mẩu thuốc rồi tiến về phía mấy tảng đá là chỗ thằng Đực Lớn đang ngồi ủ rũ. Mặc dù nó đã đến gần sát bên cạnh nhưng thằng Đực Lớn vẫn chưa hề hay biết. Nó yên lặng đứng ngắm thằng Đực Lớn một hồi rồi mới lên tiếng:
-Thằng khùng! Mày đang làm gì đó?
Nghe tiếng người nói thằng Đực Lớn giật thót mình. Nó hốt hỏang nhìn lên rồi vội vã lấy tay che chữ “Hường” mà nó vẽ hồi nãy. Nó ấp úng nói:
-Tui có làm gì đâu!
-Mày không làm gì hả?
Thằng Tư Cụt vừa nói vừa bước tới rồi lấy chân gạt tay thằng Đực Lớn sang một bên khiến chữ “Hường” mà nó đang che dấu lộ ra trên cát. Nó nói với giọng chễ diễu.
-Thế mày làm cái gì đây?
Rồi không để thằng Đực Lớn kịp biện minh, thằng Tư Cụt nói luôn:
-Là bạn mày tao biết quá mà. Hôm đi xem phim ở Thắng Tam tao thấy mày tò tò theo đuôi nó và nhìn nó như đứa mất hồn. Mày mê nó phải không?
-Tui…tui đâu có mê nó. Tui chỉ…thích nó thôi.
Khẽ xì một cái thằng Tư Cụt nói:
-Từ thích đến mê mấy hồi. Nhưng nè…tao hỏi thiệt mày. Mày có biết làm thế nào để con gái mê mày không?
Nghe hỏi thế thằng Đực Lớn bật cười khúc khích rồi nó e thẹn đáp:
-Tui đâu có biết.
-Mày khờ quá! Muốn con gái mê thì mày phải cho nó quà, phải dẫn nó đi ăn rồi tán tỉnh nó. Đứa con gái nào cũng vậy.
-Mẹ ơi! Anh nói đúng quá! Tui sẽ cho con Hường đôi guốc Dakao!
Thằng Đực Lớn háo hức reo lên.
-Phải! Mày sẽ cho nó đôi guốc Dakao. Sẽ dẫn nó đi ăn. Rồi mày khen nó đẹp lia chia. Rồi nó sẽ thương mày. Rồi hai đứa sẽ lấy nhau. Nhưng tới khúc này thì mày lấy tiền đâu ra để cuới nó?

Nói xong thằng Tư Cụt nheo mắt, hóm hỉnh ngắm nghía cái khuôn mặt khờ khạo của thằng Đực Lớn lúc này đã méo mó đi vì câu hỏi quá hóc búa. Giây lát sau thằng Tư Cụt từ từ ngồi xuống bên cạnh nó rồi nói như dỗ dành:
-Đấy mày thấy không? Không tiền thì nguy hiểm lắm. Không tiền thì gái không theo. Mà gái không theo thì làm gì có vợ? Nói tóm lại không tiền thì chẳng có ma nào lấy mày. Mày hiểu không?

Nghe nói thế thằng Đực Lớn lại thở dài. Nó ủ rũ cúi mặt đăm đăm nhìn vào chữ “Hường” nằm trên cát. Giây lát sau nó ngửng đầu lên nhìn thằng Tư Cụt nói như thể van nài:
-Anh chỉ tui đi. Tui phải làm sao đây?
-Phải làm sao à? Phải tìm cách kiếm ra tiền. Mày muốn có nhiều tiền không?
-Tui muốn có tiền cho má tui để bả khỏi chửi và mua đôi guốc cho con Hường.
-Nếu mày biết khôn như vậy tao sẽ giúp mày.
Nói đến đây thằng Tư Cụt dòm trước dòm sau rồi hạ thấp giọng:
-Nhưng mày thấy đó bây giờ làm gì cho ra tiền? Tao đã nghĩ nát óc ra rồi. Chỉ có cách này là đảm bảo.
Nói xong nó kề miệng vào tai thằng Đực Lớn thì thào. Không hiểu thằng Tư Cụt nói gì mà chỉ thấy thằng Đực Lớn lắc đầu quầy quậy:
-Không được đâu anh! Cải tạo mút chỉ đó!
Nghe nói thế thằng Tư Cụt đâm nổi cáu:
-Mày ngu thấy mẹ! Người ta làm có tổ chức sức mấy công an biết được? Bây giờ bao nhiêu đứa làm giàu vì dịch vụ tổ chức vượt biên. Mẹ nó! Nhát như mày thì cứt cũng không có mà ăn chứ đừng nói đến gái!
-Nhưng tui sợ công an lắm!
Thằng Đực Lớn vẫn cứ lắc đầu.
-Phải! Mày sợ công an. Thế nhưng mày có sợ con Hường bỏ mày đi lấy thằng khác không? Mày có sợ má mày chửi mày là đồ vô dụng không?
Nghe nói thế thằng Đực Lớn kinh hỏang la lên:
-Không! Tui không muốn con Hường lấy ai hết!
-Nếu mày không muốn con Hường đi lấy thằng khác thì mày phải có tiền. Đấy tao cho mày suy nghĩ đó.
Tới mức này thì rõ ràng thằng Đực Lớn đã bị dao động rất nhiều. Nó nắm lấy tay thằng Tư Cụt năn nỉ:
-Nói con Hường đừng lấy ai nghe.
-Ừa. Tao sẽ nói nó không lấy ai hết để chờ mày nhưng với điều kiện là mày phải nghe lời tao. Nè, nếu mày bằng lòng thì tao sẽ dẫn mày đi gặp người ta. Tổ chức sẽ chung trước cho mày phân nửa. Khi nào “đánh” xong sẽ nhận phần còn lại. Thôi bây giờ bọn mình ra Chợ Vũng Tàu kiếm cái gì bỏ vào bụng đã. Từ sáng tới giờ tao cũng chưa ăn gì cả.
Cùng với câu nói đó nó lấy tay kéo thằng Đực Lớn đứng dậy. Như một con cừu non, thằng Đực Lớn nặng nề đứng lên rồi hai đứa leo lên con đường tráng nhựa đi về hướng Chợ Vũng Tàu.


Tại một tiệm bán hủ tíu gần khu nhà lồng Chợ Vũng Tàu người ta thấy Thằng Tư Cụt và thằng Đực Lớn ngồi ở một góc. Với điếu thuốc lá trên tay thằng Tư Cụt lúc nào cũng kín đáo liếc ngang, liếc dọc. Còn thằng Đực Lớn thì ngồi ngay như ông phỗng đá. Hai tay nó thòng xuống và dáng điệu của nó trông nghiêm trọng một cách tức cười. Khi chú ba Tàu bồi bàn tiến tới vỗ vào vai nó, nói “Hầy à. Nị dùng cái chi?” thì nó giật thót mình ấp úng nói với Thằng Tư Cụt:
-Mình ăn cái gì?
Thằng Tư Cụt muốn nổi nóng nhưng nó dằn lại:
-Mày muốn ăn cái gì thì mày cứ kêu.
Sau một hồi suy nghĩ thằng Đực Lớn nuốt nước bọt rồi rụt rè nói:
-Tui…tui muốn ăn hủ tíu với một tô xương súp.
Không muốn để mất thì giờ, thằng Tư Cụt nóng nảy nói với người bồi bàn:
-Thôi được rồi! Cho nó hủ tíu với tô xương súp thật bự. Còn tui…cho ly cà-phê, tô hủ tíu và cái bánh bao.
Sau khi người bồi bàn đi rồi, nó hạ thấp giọng nói với thằng Đực Lớn:
-ĐM. ăn cho no vào. Có thể tối nay “đánh” rồi đó. Từ đây tới khuya không được đòi ăn nữa nghe không. ĐM. tao sẽ mua thêm cho mày hai cái bánh bao để phòng xa. Tao biết cái mặt mày quá mà. Hơi đói một tí là kêu ầm ĩ cả lên!

Nghe thằng Tư Cụt nói thế thằng Đực Lớn chẳng nói năng chi. Nó chỉ đưa mắt nhìn láo liên rồi gật đầu. Khi người bồi bàn mang đồ ăn ra, thoáng một cái thằng Đực Lớn đã ăn xong tô hủ tíu và tô xương súp. Tuy vậy nó vẫn còn tiếc rẻ cho nên nó gặm lại mấy mảnh xương heo. Giấy lát sau thằng Tư Cụt cũng ăn xong. Nó lấy tay vói chiếc bình trà bằng nhôm rồi cẩn thận tráng chiến chén rồi đưa lên nhấp nhấp vài ngụm. Nhấp xong nó đổ phần trà dư đó lên mấy ngón tay rồi đưa mấy ngón tay đó lên chùi miệng. Chùi miệng xong nó xoa tay vào nhau, hất hàm ra lệnh cho thằng Đực Lớn đứng dậy.

Sau khi trả tiền xong, hai đứa bước ra khỏi tiệm hủ tíu nhắm hướng bến xe Bà Rịa-Vũng Tàu đi tới. Khoảng mười lăm phút sau hai đứa đã có mặt tại bến xe. Thằng Tư Cụt lanh lẹ chạy tới đám tài xế xe Lam đang tụ tập binh xập-xám. Tại các bến xe bây giờ đang có lối cờ bạc tạm gọi là cờ bạc lưu động bởi vì sau khi chia bài xong, đám con bạc tản mác ra từng gốc cây ngồi binh rồi sau đó tụ hội lại để xem ai ăn ai thua. Lối cờ bạc chợ này mục đích qua mắt bọn công an nhưng xét cho cùng cũng chẳng qua mắt được ai.

Sau khi hỏi thăm đám con bạc xem xe nào chạy trước, thằng Tư Cụt ra hiệu cho thằng Đực Lớn rồi hai đứa leo lên chiếc xe Lam trống đậu ở bên kia con đường. Rải rác một vài bà đi chợ, một vài công nhân, bộ đội đi tới. Họ hỏi thăm rồi cũng lần lượt leo lên xe chờ. Lát sau từ trong đám cờ bạc tách ra một người. Gã vừa đi vừa móc túi đếm tiền vừa làu bàu. Khi đến bên chiếc xe Lam gã lớn tiếng nói:
“Cho xin tiền nghe bà con.”
Sau khi thu tiền xong gã bắt đầu rồ máy xe. Có lẽ gã phải đạp tới mười lăm hai chục lần thì chiếc xe Lam mới chịu nổ máy. Rồi chiếc xe lật ngược lại phía đằng sau khi gã tài xế sang số, ngả nghiêng lao về phía con lộ chính hướng ra ngã Bà Rịa để lại một đám khói và bụi đường bay mù mịt.
Khỏang hai mươi phút sau chiếc xe lại ngả nghiêng lao vào Bà Rịa rồi dừng lại trước một bãi đất trống bên cạnh chợ. Suốt chặng đường, thằng Đực Lớn ngả lưng vào thành xe ngủ gà ngủ gật và nước dãi của nó nhểu xuống cả ngực áo. Khi thằng Tư Cụt thúc mạnh vào cạnh sườn nó một cái thì nó giật mình thức dậy rồi hối hả bước xuống xe. Nhưng khi nó bước vội lên để đi ngang thằng Tư Cụt thì thằng Tư Cụt quắc mắt nói như rít qua hai hàm răng:
-ĐM. đi lùi lại phía sau làm bộ như tao với mày không quen nhau. Nhớ tao đi đâu thì đi theo đó. Không được hỏi gì nghe không!

Nghe nói vậy thằng Đực Lớn hốt hoảng bước chậm lại và mặt nó ánh lên một vẻ hết sức lo lắng. Dường như sợ có người theo dõi, thằng Tư Cụt đi vào nhà lồng chợ rồi nó loanh quanh giả bộ ghé vào vài sạp bán hàng. Cuối cùng nó băng ngang để đi vào con phố chính. Lát sau nó từ giã con phố để quẹo vào một con đường nhỏ rồi dừng lại trước một cái quán nằm dưới tàng cây bã đậu. Trên thân cây, chỗ ngang tầm mắt có đóng một tấm bảng gỗ với hàng chữ “Sống Ở Trên Đời! Thịt Chó Trứ Danh”. Từ bên trong mùi chả nướng bốc ra làm điếc cả mũi, và làm người ta chảy nước miếng. Dường như để chờ thằng Đực Lớn đang lẽo đẽo ở phía sau cho nên thằng Tư Cụt đứng tần ngần dưới tàng cây ít phút trước khi bước vào. Sau khi đã vào hẳn bên trong nó lựa một chỗ gần ngay quầy tính tiền rồi lặng lẽ ngồi xuống. Chỉ thoáng sau thì cái bóng ô dề của thằng Đực Lớn cũng xuất hiện ở ngưỡng cửa. Sau khi dáo dác dòm quanh, nó hối hả bước lại chỗ thằng Tư Cụt. Sau khi ngồi yên nó đưa mắt thò lõ nhìn thằng Tư Cụt như chờ lệnh. Liếc nhìn một vài thực khách trong quán, thằng Tư Cụt nói vọng vào trong nhà:
-Cho một dĩa dồi chó. Thêm giềng và nhiều mắm tôm.
Từ bên trong một gã thanh niên chạy ra với chiếc khăn lau tay. Hắn bước tới bên thằng Tư Cụt nói:
-Dồi chó đang làm. Xin vui lòng chờ chút xíu được không?
-Rất tiếc bọn này phải đi gấp nên không chờ được.
Thằng Tư Cụt đáp ngay. Trong khi hai người đối đáp qua lại như vậy thì thằng Đực Lớn chỉ há hốc miệng nhìn rồi nuốt nước miếng ừng ực. Nhưng thực ra cuộc đối đáp vừa qua chỉ là dấu hiệu nhận nhau cho nên khi nghe thằng Tư Cụt đáp xong thì gã thanh niên giả bộ cúi xuống lau bàn rồi nói khẽ vừa đủ nghe:
-Chờ chút xíu sẽ có người đàn bà đưa các anh đi.
Nói xong gã bỏ vào nhà trong. Giây lát sau một người đàn bà tay cầm chiếc nón lá từ phía nhà bếp bước ra. Đợi cho bóng người đàn bà khuấg sau cánh cửa trước, thằng Tư Cụt mới đứng dậy bước ra ngòai. Thằng Đực Lớn cũng hối hả bước theo sau.
Với dáng đi rất lanh lẹn, người đàn bà sau khi băng qua một ngã tư chị ta quẹo vào một con đường nhỏ. Đi một đỗi chị ta rẽ vào một con hẻm cây cối mọc um tùm hai bên, rồi cuối cùng dừng lại trước sân một căn nhà cổ. Dường như để chờ thằng Tư Cụt và thằng Đực Lớn, chị ta đi đi lại lại trước sân vừa lấy nón quạt vừa nói vọng vào bên trong:
- Thầy Ba, có người đến thăm bịnh đây!
Độ vài phút sau thì có tiếng lạch cạch mở cửa. Lúc này thì thằng Tư Cụt và thằng Đực Lớn cũng đã xuất hiện ở cổng. Chị đàn bà lanh lẹ bước vào nhà rồi ít phút sau quay ra nói với thằng Tư Cụt:
-Thầy Ba mời anh vào để thầy coi bịnh cho.
Vẻ mặt của thằng Tư Cụt lúc này bỗng trở nên nghiêm trọng. Nó quay qua nói với thằng Đực Lớn:
-Mày ngồi tạm dưới gốc cây nhãn này. Tuyệt đối không được đi đâu. Tao vào “hốt thuốc” rồi ra ngay.
Nghe nói vậy thằng Đực Lớn chỉ biết há hốc miệng rồi lặng lẽ gật đầu. Trong khi thằng Tư Cụt dặn dò thằng Đực Lớn thì người đàn bà cũng đã le te đi về phía sau nhà rồi bóng chị ta mất hút vào đám vườn cây phía sau nhà.

Khi người đàn bà đi rồi thì thằng Tư Cụt mới rụt rè bước vào. Bên trong là một người đàn ông khỏang ngòai ba mươi tuổi đang ngồi trước một cái bàn trên có một cuốn sổ, bao thuốc lá, ly la-de. Phía sau lưng là một cái kệ có bày một vài cuốn sách dạy bào chế thuốc Nam. Rải rác chung quanh là mấy cái bao bố chứa đầy những cây thuốc đã phơi khô như kinh giới, hương nhu, tía tô, cỏ mường trầu, hà thủ ô, xuyên tâm liên, lá xả v.v..Nằm ở trong góc là một con dao cầu và chiếc thuyền tán. Lại có cả vài cái mẹt bên trên đựng cơm nguội để làm thuốc tễ. Da người đàn ông đen xạm, rắn chắc, nét mặt đanh thép và đôi mắt hết sức sắc sảo chứng tỏ gã là một tay bản lãnh dám làm chuyện kinh thiên động địa chứ không có dáng vẻ hiền lành của một thày thuốc Đông Y. Vừa thấy gã thì thằng Tư Cụt đã khúm núm lên tiếng:
-Dạ thưa Anh Ba.
Vẫn dán mắt vào cuốn sổ, gã đàn ông nói:
-Sao? Mày đã tìm được đứa nào chưa?
Thằng Tư Cụt cẩn thận bước tới một vài bước rồi nó lễ phép nói:
-Dạ thưa Anh Ba, em đã kiếm được một thằng. Thằng này nó khờ lắm. Nhưng vì nó khờ thế cho nên nó mới dám làm chuyện nguy hiểm này.
Lấy bút gạch gạch cái gì đó trên cuốn sổ xong gã đàn ông ngước mắt nhìn thằng Tư Cụt nói:
-ĐM. hành khách đi chuyến này trêm trăm người. Mọi chuyện đều êm xuôi cả ngọai trừ vấn đề xăng dầu. Không hiểu có đứa nào đưa tin ra ngòai hay không mà tụi nó báo cáo rằng mấy hôm rày tàu công an lảng vảng ở địa điểm chôn dầu khiến không một đứa nào dám tình nguyện vào đó chở dầu ra “con cá lớn”. Khuya nay “đánh” rồi. Nếu dầu không ra kịp thì chết cả đám.
-Dạ thưa Anh Ba, em đã dụ được thằng ngốc này. Em sẽ giao cho nó một chiếc ghe để nó đào dầu chở ra điểm hẹn. Em sẽ chờ cách đó khoảng hai trăm thước. Khi dầu đã lên ghe an tòan, em sẽ chớp đèn ba lần để Anh Ba cho “con cá lớn” cặp vào. Nếu như em khóat đèn ba lần thì có nghĩa là bị động thì Anh Ba cho “con cá lớn” lui ngay.
Nghe thằng Tư Cụt nói thế gã đàn ông gật gù nói:
-Được lắm! Rủi thằng ngốc đó bị bắt thì nó cũng chẳng biết mẹ gì để khai. Nếu vụ này thành công tao sẽ thưởng cho mày thêm một chỉ nữa. Đây, cầm lấy một ngàn đồng giao cho nó và dặn nó phải cẩn thận. Nhớ khuya nay “đánh” rồi đó.

Thằng Tư Cụt lễ phép đưa tay cầm lấy một ngàn đồng, cúi chào gã đàn ông rồi quay ra ngòai. Khi nó bước ra ngòai thì thằng Đực Lớn đang ngồi bó gối, lưng tựa vào gốc cây nhãn. Lanh lẹ như một con sóc, thằng Tư Cụt xà xuống bên cạnh nó, nói:
-Mọi việc êm xuôi cả rồi. Tao phải năn nỉ gẫy lưỡi Anh Ba mới chịu cho mày cộng tác. Tuy nhiên chuyện này hết sức quan trọng. Nếu mày làm hỏng chuyện thì không những người ta cắt cổ mày mà còn cắt cổ cả tao nữa nghe không?
Nghe nói vậy thằng Đực Lớn kinh hãi la lên:
-Tui sợ quá! Không biết tui có làm được không?
Thằng Tư Cụt vội vàng an ủi nó:
-Mày làm được. Tao biết mày sẽ làm được việc này. Tuy nhiên gặp lúc nguy hiểm mà mày định tháo chạy thì mày nhớ đến con Hường nghe. Chính con Hường sẽ cho mày can đảm. Mày nhớ không?
-Tui nhớ. Tui sẽ nhớ đến con Hường.
-Được lắm! Mày nghe rõ đây.
-Tui nghe.
Thằng Tư Cụt vội bẻ một cành cây nhãn rồi nó vẽ lòang ngoằng một vài nhánh sông rồi nó giải thích cho thằng Đực Lớn:
-Mày còn nhớ cái Vàm Láng không?
-Tui nhớ.
-Tốt lắm!
Thằng Tư Cụt vỗ vai thằng Đực Lớn nói tiếp:
-Ngay chỗ sắp sửa ra cửa có một cái cù lao cây cối rậm rạp. Ngay giữa cù lao có một khỏang đất trống bên trên chất một đống cây bần khô…
Nói đến đây nó liếc vội chung quanh rồi hạ thấp giọng:
-Người ta chôn mười can dầu ở đó. Nhiệm vụ của mày là tới đào lên, đem xuống ghe rồi chở ra “con cá lớn”.
-Nhưng tui không biết “con cá lớn” ở đâu.
-Mày khỏi lo. Tao sẽ chờ mày cách đó khỏang hai trăm thước. Khi nào đem dầu xuống ghe nhớ chớp đèn cho tao hay. Nhưng tao dặn hờ, nếu công an tóm được mày thì mày phải khai là đi bắt cua nghe. Trước sau cứ khai như thế.

Nghe dặn thế thằng mặt thằng Đực Lớn lại căng ra. Nó ngồi ngây một lúc rồi hỏi thằng Tư Cụt:
-Tui ra đó bằng cách nào?
-Mày khỏi lo. Mày còn nhớ Xã Phú Mỹ không? Mày băng qua cái xã đó, tới mé sông, ngay dưới tàng cây da có một chiếc ghe với mọi thứ cần thiết cho mày.
Tới đây thì thằng Đực Lớn không hỏi thêm gì nữa nhưng khuôn mặt nó ánh lên một vẻ hết sức lo lắng. Đưa mắt liếc nhìn thằng Đực Lớn, thằng Tư Cụt từ từ thò tay vào túi móc ra một mớ bạc. Nó ấn mớ bạc vào tay thằng Đực Lớn, nói:
-Đây là 500 đồng. Người ta đưa trước cho mày phân nửa. Khi nào “đánh” xong người ta sẽ đưa thêm. ĐM. nửa chỉ vàng đó. Mày tha hồ hồ mua guốc cho con Hường và dẫn nó đi ăn tiệm nhé.
-Mẹ ơi! Sao nhiều quá vậy?
Thằng Đực Lớn buột miệng la lên.
-Vì tao thương mày. Vì người ta thương mày cho nên mới cho mày nhiều thế. Thôi! Đ.M be bé cái miệng một tí!
Dường như mớ bạc đã làm cho thằng Đực Lớn quên mất bao hiểm nguy cho nên nó vừa đưa tay nhét mớ bạc vào túi nó vừa sung sướng nói:
-Tui sẽ mua guốc cho con Hường rồi con Hường sẽ thương tui rồi má tui sẽ thương tui…
-Mọi người sẽ thương mày! Cả thế giới sẽ thương mày! ĐM. đừng nói lôi thôi nữa. Nghe tao dặn đây.
Nghe thằng Tư Cụt nói thế thằng Đực Lớn mất cả hứng nhưng rõ ràng lòng nó đang rạo rực cho nên nó nhẫn nại nghe thằng Tư Cụt nói tiếp:
-Bây giờ là ba giờ chiều rồi. Mày quanh quẩn ở đây tới năm giờ chiều thì lấy xe đi Phú Mỹ. Đợi lúc chạng vạng tối mới khởi sự nghe chưa. Bây giờ tao cũng phải đi lo chuyện của tao. Thôi bọn mình chia tay. Hẹn gặp lại mày tại Vàm Láng.
Với câu nói đó thằng Tư Cụt đứng dậy rồi bóng nó phút chốc biến mất ở cuối con ngõ.

Khi mặt trời đã khuất về phía tây và ánh nắng chỉ con thoi thóp trên mấy ngọn cây thì những ngọn gió mát rượi từ hướng biển cũng bắt đầu thổi tới. Ngọn gió đem theo mùi tanh tanh của đất bùn, mùi muối quyện lẫn với mùi thơm ngát của lúa Thần Nông đang trổ đòng đòng. Xa xa chạy dài về hướng Rừng Sát, khu rừng bần bạt ngàn bắt đầu trở nên tím thẫm và trên trời cánh Sao Hôm bắt đầu nhấp nháy. Tiếng cóc nhái, nhá nheng, ễng ương âm vang bốn bề như một bản hợp tấu, vỗ về, dìu Xã Phú Mỹ đi vào đêm đen cô quạnh, đìu hiu, buồn muôn thuở nhưng cũng đầy nghẹt thở, gay cấn bởi những chuyến vượt biên có thể diễn ra bất cứ lúc nào.

Ngay lúc đó từ mé quốc lộ, cái bóng cao lớn của thằng Đực Lớn cũng xuất hiện. Như một tên ăn trộm, nó dòm trước dòm sau rồi hối hả băng qua một đám ruộng lúa. Nếu quan sát kỹ người ta thấy có lúc nó lầm lũi bước đi song có lúc nó đứng lại suy tính. Nó men theo mấy bờ ruộng và cố tránh mấy gò đất cao là nơi mà đám du kích xã hay tụ tập. Khi qua khỏi đám ruộng lúa để đi vào ven xã, nó dừng lại rồi đưa lên miệng nhắc lại lời căn dặn của thằng Tư Cụt, “Nếu công an bắt được thì nói là đi bắt cua nghe. Trong trường hợp nguy hiểm hãy nhớ tới con Hường để có thêm can đảm nghe!”

Nói dứt câu nó hăm hở lao mình về phía trước nhưng nó kinh hoảng dội ngược lại bởi hai cái bóng lù lù xuất hiện ở phía trước. Đó là hai tên du kích xã với hai khẩu súng AK vác trên vai. Về phần hai tên du kích, nhìn thấy cái bóng cao lớn, tàng tàng của nó đâm xầm tới chúng nó cũng hốt hỏang né sang một bên rồi làu bàu chửi:
-ĐM, đui sao không thấy đường? Chút xíu nữa đâm vào tụi ông!
Chửi rồi thấy thằng khùng nào đó không lên tiếng đáp lại, hai tên du kích phá lên cười ngặt nghẽo. Còn thằng Đực Lớn sau khi lướt qua hai tên du kích nó le lưỡi ngóai cổ lại rồi hấp tấp lao đầu về phía trước. Nó băng qua một khu xóm lúc này đã tối thui và rải rác có ánh đèn leo lét. Mặc dù nó cố tránh xóm nhà nhưng có lẽ tiếng chân thình thịch của nó làm kinh động mấy con chó cho nên văng vẳng có tiếng chó sủa dài theo hướng đi của nó. Khi tiếng chó sủa bắt đầu thưa và nhỏ dần thì nó cũng đã bỏ xa xóm nhà và tới gần một đám đồng lầy. Lúc này mặt trăng đã lên khỏi ngọn cây và chiếu sáng cả một vùng ruộng mênh mông mọc đầy những cây bần thấp lè tè. Cách đó không xa, một con sông nằm uốn lượn và thỉnh thoảng phơi mình sau đám lá dầy đặc. Thằng Đực Lớn dừng lại định hướng rồi cuối cùng nó quyết định lao mình về hướng bờ sông. Khi tới bên một gốc cây cao, nó ngó ngang ngó dọc rồi chui vào một bụi cây mọc um tùm ngay dưới gốc tàng cây cổ thụ. Đúng như lời thằng Tư Cụt nói một chiếc ghe tam bản dài chừng bốn thước được dấu ở đó. Nó mừng rỡ nắm lấy thành ghe rồi lần mò tìm mối dây.
Khi đã mò ra được đầu mối, nó tháo sợi dây cột ở gốc cây bần rồi leo lên. Dường như bắt đầu cảm thấy đói, nó thò tay xuống sông rửa tay rồi lấy ra hai cái bánh bao mà nó bỏ vào hai túi trước của chiếc quần lính. Trong bóng đêm tiếng nhai nhem nhép của nó hòa lẫn với tiếng róc rách của con nước ròng cọ vào mấy gốc cây bần mọc dài theo mé sông. Khi ăn xong nó đưa tay chùi miệng, nắm lấy chiếc mái chèo, đẩy chiếc ghe ra xa rồi chèo xuôi theo dòng nước.
Vì giờ này con nước chảy xiết ra hướng biển cho nên chiếc ghe lao đi vùn vụt. Nó khôn ngoan bám sát bờ sông và đôi tai lúc nào cũng vểnh ra để nghe ngóng. Không biết nó đã chèo như thế được bao lâu nhưng người nó đã ướt đẫm mồ hôi và thở phì phò. Khi tới ngã ba là nơi mà nhánh sông mà nó đang ở nhập vào nhánh sông lớn thì nó dừng lại. Đầu óc nó nảy ra một sự suy tính dữ dội. Nó ước lượng với sức chèo của nó ít nhất cũng phải mất năm mười phút mới có thể băng qua bờ phía bên kia. Nếu như trong khoảng thời gian nó đang ở giữa lòng con sông mà tầu tuần tra của công an xuất hiện thì cuộc đời của nó coi như đi đứt. Nó e ngại nhìn khu sóng nước rộng mênh mông rồi đưa tay bốc nước vã vào mặt trong khi mồ hôi trong người nó lại tháo ra. Dưới ánh trăng xuyên qua đám cành lá, khuôn mặt nó trở nên loang lổ và méo mó đi vì lo sợ. Nó rên khe khẽ:
-Má ơi, chắc chết mất!

Nhưng rồi nó nhớ lại lời thằng Tư Cụt dặn nó nhớ tới con Hường cho nên tự nhiên nó thấy vững tin. Nó vểnh tai nghe ngóng xem có động tĩnh thêm gì không rồi nó nghiến răng xiết mạnh tay chèo. Rất may cho nó trong suốt thời gian này bốn bề yên tĩnh. Nhưng khi nó sắp sửa chèo tới bờ thì tiếng máy tàu bỗng vang lên từ xa rồi ánh đèn pha quét ngang, quét dọc và tiếng súng nổ ròn rã, âm vang cả dòng sông. Đó là tàu của công an đang đi tuần tra. Thằng Đực Lớn kinh hoảng giật mạnh tay chèo, cố sống cố chết phóng vào bờ. Thoáng một cái tầu tuần tra đã lại gần và đèn pha quét dọc về phía nó. Nhưng thật hú vía. Có lẽ bọn công an chỉ chiếu đèn phỏng chừng vậy thôi cho nên khi chiếc ghe của thằng Đực Lớn đã lao vào đám bần mọc ở ven sông thì chiếc tàu cũng lướt qua để lại hai làn sóng chạy giạt vào hai bên bờ. Có lẽ phải mất đến năm, mười phút sau thằng Đực Lớn mới hòan hồn. Nó nín thở, vểnh tai nghe ngóng thêm một lần nữa trước khi đẩy chiếc ghe đi về phía trước.

Bây giờ có lẽ cũng gần mười giờ đêm cho nên con nước đã đổi chiều và sóng vỗ vào mạn ghe nghe bì bõm. Càng tiến lên phía trước lòng con sông càng mở rộng và gió thổi lồng lộng. Khỏang độ dăm phút sau thì chiếc cù lao đã nằm trong tầm mắt của nó. Nó ráng sức chèo và cho chiếc ghe tắp vào dưới rặng bần mọc rậm rạp quanh bờ. Vì con nước đã lên cao cho nên chiếc cù lao thu hẹp lại bằng diện tích của mảnh ruộng. Dưới ánh trăng mờ ảo, khung cảnh tứ bề vắng lặng và tỏa ra một cái gì đó rờn rợn. Mặc dù đã cặp sát bờ thằng Đực Lớn vẫn ngồi, nín thở chưa dám động tĩnh gì. Nó chỉ sợ nếu công an đã phục kích sẵn trên đó mà nó mò lên thì chẳng khác nào nộp mạng cho chằng tinh. Cuối cùng nó liều mạng cột chiếc ghe vào một gốc cây bần rồi lội xuống nước. Lội một đỗi nó bắt đầu bước lên phần đất khô và thân hình của nó nhô hẳn lên. Nó hốt hỏang ngồi thụp xuống để quan sát rồi từ từ bò về phía trước. Bò một đỗi thì đúng như lời thằng Tư Cụt, ngay ở giữa là khỏang đất trống với bụi cây rậm rạp. Nó đưa mắt quan sát rồi rón rén đi về phía khỏang đất trống. Khi nó tới gần bụi cây thì đột nhiên nó kinh hỏang la lên:
-Ma! Chết con rồi má ơi! Ma!
Rồi nó cắm đầu cắm cổ chạy và rõ ràng trong lúc thần hồn nát thần tính, nó nghe thấy cả tiếng ma đuổi hùynh hụych sau lưng. Khi chạy tới bìa nước nó cố ngóai cổ lại để nhìn cho rõ con ma. Nhưng cái nó tưởng là ma chỉ là cây bần khô chôn vội vã cho nên bất ngờ đổ xụp khi có ngọn gió thổi tới. Sau màn kinh dị này, ngồi ôm lấy ngực một hồi, nó đưa ngón tay lên miệng lẩm bẩm, “Xuỵt! Không được sợ ma nghe! Khi nào gặp ma phải nhớ tới con Hường!”

Có lẽ câu nói tự trấn an đó đã làm nó thêm can đảm cho nên nó lội tới chiếc ghe tìm chiếc xẻng rồi hùng dũng tiến tới khỏang đất trống. Nó vung tay nhổ phăng đám bần khô, quăng ra xa rồi bắt đầu đào. Đào xuống mặt đất khỏang hơn gang tay, chiếc xẻng bắt đầu đụng phải vật gì cưng cứng. Nó mừng rỡ quăng chiếc xẻng qua một bên rồi lấy tay bốc đất. Lát sau nó lần lượt lôi lên từng can dầu rồi khệ nệ xách xuống ghe. Thoáng một cái nó đã chất xuống ghe đủ mười can dầu đúng như lời thằng Tư Cụt.
Mặc dù mệt đứt hơi nhưng nó cảm thầy phần khởi vô cùng. Nó nghĩ chỉ chút xíu nữa thôi khi nó giao xong mớ dầu cho thằng Tư Cụt là nó có thể thong thả chèo về nhà và bao nhiêu mộng đẹp đang chờ đợi nó. Nó từ từ đưa chiếc mái chèo đẩy chiếc ghe ra khỏi bụi rậm rồi men theo mé bờ. Khi đã tới đầu của cù lao, nó cẩn thận tắp vào đám cây rậm rạp rồi lấy đèn pin hướng ra phía cửa biển chớp chớp ba lần. Nhưng trước sự ngạc nhiên của nó, từ phía cửa vẫn không có đốm sáng đáp lại. Nó lo sợ chớp thêm ba lần nữa rồi hồi hộp chờ đợi. Thật hú vía! Tít tắp từ xa bỗng lóe lên đốm sáng chớp tắt ba lần cả thảy. Nó mừng rỡ xiết mạnh tay chèo để tiến về nơi vừa có ánh đèn lóe lên. Khi chèo được khỏang hai trăm thước thì từ trong bóng tối có tiếng gọi cất lên:
-Đực Lớn! Tắp vào đây! Tao đây nè!
Nghe tiếng kêu nó thất kinh hồn vía nhưng khi nhận ra tiếng nói của thằng Tư Cụt thì nó dùng mái chèo hãm đà chiếc ghe lại rồi từ từ tắp vào bờ. Từ trong bóng tối có tiếng chèo khua bì bõm rồi một chiếc ghe nhô ra cùng với tiếng nói:
-ĐM tao biết mày làm được mà. Giỏi lắm Đực Lớn! Nhưng thời gian gấp lắm. Mày ráng chèo theo tao nghe.

Cùng với câu nói đó thằng Tư Cụt đưa chiếc đèn pin hướng ra phía biển chớp chớp ba lần rồi nó lướt chiếc ghe lên phía trước. Lúc này thì cửa sông đã mở rộng mênh mông, từng cụm bần mọc nhô lên tứ phía khiến chẳng còn phân biệt đâu là bến bờ. Thằng Đực Lớn cố bám theo chiếc ghe của thằng Tư Cụt. Nhưng trong khi hai đứa đang cố gắng tìm cách gần tới “con cá lớn” thì từ phía trước tiếng máy tàu bỗng vang lên ầm ầm rồi ánh đèn pha hung hãn quét đi quét lại trên mặt nước. Thằng Tư Cụt hốt hỏang la lên:
-Tắp vào đám bần ngay Đực Lớn!
Nhưng trong khi hai chiếc ghe còn đang loay hoay tắp vào bụi cây thì tiếng máy tàu áp đến thật gần. Tiếng súng nổ ròn rã và tiếng đạn rít trên mặt nước. Không hiểu cái gì đang xảy ra nhưng từ chiếc ghe của thằng Đực Lớn phát ra một tiếng “hự”. Chỉ trong phút chốc chiếc tàu tuần tiễu lướt qua và tiếng máy tàu nhỏ dần, nhỏ dần để lại sự im lặng đến nghẹt thở cho khoảng trời nước mênh mông. Liệu chừng chiếc tàu tuần tra đã đi xa thằng Tư Cụt lên tiếng gọi khe khẽ:
-Đực Lớn! Mày có sao không?
Im lặng, không có tiếng trả lời. Thằng Tư Cụt lại gọi lớn hơn một lần nữa:
-Đực Lớn! ĐM. mày có sao không?
Nhưng thay vì chờ tiếng đáp lại, nó chèo chiếc ghe tiến về phía thằng Đực Lớn. Khi hai chiếc ghe áp sát nhau thì một cảnh tượng khủng khiếp diễn ra trước mắt. Trong khoang thuyền, thằng Đực Lớn nằm ngoẹo đầu sang một bên và một đùm ruột lòi ra ngòai. Thằng Đực Lớn kinh hỏang leo qua chiếc ghe của thằng Đực Lớn rồi bò tới sát bên cạnh nó, hỏi:
-Mày có sao không Đực Lớn?

Thằng Đực Lớn không trả lời, nó từ từ mở mắt rồi từ miệng nó phát ra tiếng rên khe khẽ. Dù nó đang ở vào tình trạng đau đớn khủng khiếp như thế nhưng dưới bóng trăng khuôn mặt của nó trông rất hiền từ. Trước tình thế bất ngờ như vậy thằng Tư Cụt cũng rất bình tĩnh. Nó lấy đèn pin chớp chớp ba lần về phía cửa biển rồi nó hối hả chèo chiếc ghe về phía trước. Khỏang năm phút sau nó nhận ra một đốm sáng ở phía tay phải. Rồi đốm sáng mỗi lúc mỗi lớn dần. Cuối cùng hình dáng một con tàu hiện ra rõ mồn một. Dường như người ta đã nhận ra được chiếc ghe chở dầu cho nên trên con tàu quang cảnh thật chộn rộn. Khi chiếc ghe của thằng Tư Cụt gần áp sát con tàu thì nhao nhao có tiếng hỏi cất lên:
-ĐM, có lấy được dầu không?
-Dầu lấy được đầy đủ nhưng thằng Đực Lớn bị bắn đổ ruột rồi!
Một phút im lặng rồi trên tàu có tiếng cất lên:
-ĐM. đem dầu lên trước rồi tính sau!
Rồi dưới sự giúp đỡ của mấy người, thằng Tư Cụt lần lượt đưa mười can dầu lên tàu. Xong xuôi nó lên tiếng:
-Bây giờ còn thằng Đực Lớn, Anh Ba tính sao đây?
Người chỉ huy trên tàu không ai khác hơn là gã thày thuốc Đông Y. Sau một vài giây suy nghĩ hắn nói:
-ĐM. nếu để nó chết dưới ghe sáng sớm công an phát giác ra thì bể tổ chức. Bay đâu, giúp đưa nó lên tàu. Nếu may nó còn sống thì cho nó vượt biên luôn. Rủi nó chết thì quăng xác nó xuống biển, ông nội công an cũng chẳng biết đâu mà điều tra.


Thế là một người trên tàu được lệnh leo xuống ghe. Thằng Tư Cụt lanh lẹ cởi chiếc áo nó đang mặc rồi lấy tay ấn chùm ruột vào bụng thằng Đực Lớn rồi lấy tấm áo cột quanh bụng nó. Trên mặt chiếc ghe tròng trành nghiêng ngả, phải chật vật lắm hai người mới xốc được nách nó rồi mấy người trên tàu phụ giúp mới có thể kéo được nó lên. Lúc này người thằng Đực Lớn đã mềm như cọng bún và máu đổ ra làm ướt đẫm cái quần lính. Sau khi kéo được thằng Đực Lớn lên rồi, con tàu được lệnh nổ máy hướng ra ngòai cửa biển.

Giờ đây trời đã vào nửa khuya. Vầng trăng đã xế ngang đầu và con gió bắt đầu trở lạnh. Thằng Đực Lớn nằm ngả lưng vào thành tàu. Dưới ánh trăng sáng bạc, đôi mắt nó nhắm nghiền. Bao nhiêu nét căng thẳng, ngờ nghệch biến đâu mất và vẻ mặt nó trông thật man dại, dễ thương. Dường như nó đang mơ màng thiếp đi vào một giấc ngủ thật yên bình cho đến khi thằng Tư Cụt khẽ vỗ vào má nó rồi gọi khe khẽ:
- Đực Lớn! Mày tỉnh lại chưa Đực Lớn?
Nhưng đôi mắt nó vẫn nhắm nghiền khiến thằng Tư Cụt phải vỗ vỗ như vậy đến hai ba lần thì nó mới từ từ, nặng nề hé mở đôi mắt. Trộn lẫn với tiếng rên khe khẽ, nó cất tiếng hỏi:
-Đây là đâu hả anh Tư Cụt?
-Mày đang ở trên tàu vượt biên. Ba ngày nữa tới đảo rồi. Người ta cho mày đi không lấy tiền đó.
-Ba tui là nhân dân tự vệ Cao Ủy đâu có nhận. Qua đó ở mục đảo đó!
-Bây giờ có lệnh mới rồi. Ai cũng nhận hết. Nhân dân tự vệ cũng kể như lính mày hiểu không?
-Vậy hả? Anh có dối tui không anh Tự Cụt?
-Thiệt đó! Tao dối mày làm chi?
-Nếu vậy má tui bả mừng lắm. Bả sẽ không còn chửi tui là đồ vô dụng.
-Ừa, bả sẽ không còn chửi mày là đồ vô dụng nữa đâu. Bả sẽ thương mày, sẽ mãi mãi thương mày!
-Vậy hả anh Tự Cụt?
Nói đến đây dường như thằng Đực Lớn quá mệt cho nên nó lại nhắm nghiền đôi mắt. Giây lát sau nó gắng gượng mở mắt, hỏi tiếp:
-Trên đảo có bán guốc Đakao không anh Tự Cụt?
-Thiếu gì! Cả triệu đôi cũng có.
-Vậy hả? Tui sẽ mua cho con Hường một đôi guốc Đakao.
-Phải, mày sẽ mua tặng nó. Mó sẽ thương mày, sẽ mãi mãi nhớ mày, rồi mày sẽ…
Thằng Tư Cụt định nói tiếp nhưng không kịp nữa rồi. Thằng Đực Lớn sẽ rướn lên một cái rồi đôi mắt nó trợn trừng rồi đầu lật qua một bên. Tới lúc này thì bao nhiêu cái tinh khôn, lưu manh trong con người của thằng Tự Cụt tựa như tảng đang tan rã dưới ánh mặt trời. Nó ôm lấy thằng Đực Lớn, rống lên:
-Đực Lớn! Mày đi rồi hả Đực Lớn!
Rồi nó ôm mặt khóc hu hu như một đứa trẻ.

Giờ đây con tàu đã ra ngoài cửa biển và gió thổi lồng lộng. Như một con chó bị xiềng xích lâu ngày nay được tháo cũi sổ lồng, nó hối hả, háo hức lao lên để giã từ vùng đất ngục tù để hướng về nẻo biên cương tự do đang trải rộng trước mặt. Dưới bóng trăng thằng Đực Lớn nằm ngọeo đầu như một người đang say ngủ. Trên trời một cánh sao băng bỗng vụt rơi xuống biển như để tiễn đưa một linh hồn về nơi an nghỉ cuối cùng.

Đào Văn Bình
(Trích trong tuyển tập Sóng Bạc Đầu xb năm 1991)

Thứ Năm, 25 tháng 4, 2024

Cho Người Nằm Xuống

 

 (Ảnh internet)

Bi tráng lắm rực nền cờ sắc tộc
Tôn vinh người hùng lẫm liệt vong thân
Chiến địa hề! Chiến địa đấy mộ phần
Vẫn ngạo nghễ vươn mình hoa Anh Túc

Trao trọn cả đời hy sinh thấm nhục
Dâng tấm lòng quả cảm chí làm trai
Tổ quốc lâm nguy gian khổ chẳng nài
Nung chí cả can trường trong chiến bại

Úc châu trầm mình dưới làn sương lạnh
Nhịp quân hành thinh lặng Lễ Hừng Đông
Phút thiêng liêng phút mặc niệm chung lòng
Nén tâm hương cuộn vòng hoa tưởng nhớ

Kèn Thu Quân bi hùng vang phút cuối
Ngọn lửa hồng soi sáng mỗi tháng Tư
Niềm luyến thương trao ánh mắt tạ từ
Hoa Anh Túc nghiêng mình tươi sắc máu


Thơ & Ảnh: Kim Phượng
 Anzac Day Úc Châu 25.4. 2024


Xin Đừng Hẹn

 

(Kính dâng nạn nhân Chiến Tranh)

Thôi em nhé về đi! đừng ước hẹn
Hẹn làm gì? ở một kiếp mai sau
Cõi trần gian có gì mà lưu luyến
Bụi mịt mù lòng gian dối trao nhau

Em có nghe vang rền bao xác chết?
Máu thịt rơi vung vãi khắp nơi nơi
Và nghe chăng tiếng khóc than quằn quại
Sống làm gì tàn phế giữa tuổi thơ?

Em có nghe tiếng kêu la trong suốt
Tuổi đôi mươi nhiều mơ ước yêu thương
Không tình yêu chưa một lần ân ái
Hiến dâng đời tất cả cho Quê Hương

Em có nghe tiếng kêu gào thiếu phụ?
Khóc thương chồng tủi thân phận bơ vơ
Ôm con thơ một vùng trời u tối
Người ơi người khổ nạn đến bao giờ!

Và em có nghe giữa Trời lồng lộng
Gió sững sờ chứng kiến cảnh tang thương
Giữa Quê Hương tràn đầy muôn xác chết
Máu lệ chan hòa tiếng khóc thê lương !!!

Mặc Khách
(Trich Thi Phẩm Hồn Thơ Đất Khách _ t/g Mặc Khách)

Bậu Đi


(Tranh: Vũ Cao Đàm)

bậu đi biệt dạng hôm nào
ta trông mút mắt nhớ đau từng hồi
nhớ từ giọng nói tiếng cười
nhớ se tóc bạc cột đời hai ta

bậu đi hình như hôm qua
mà sao ta tưởng như là nhiều năm
bậu đi lạnh gối ta nằm
hình như cái lạnh, lạnh ngầm trong xương

bước qua ngưỡng cửa âm dương
bậu đi mình bậu chẳng vương vấn gì
còn ta ở lại sống lì
một thân, một bóng cu-ky một mình

bậu ơi, sao bậu làm thinh
nén nhang, cơm lạt bóng hình là đây
phất phơ hồn gió theo mây
mỗi đêm giỡn bóng trăng gầy tàn đêm

bậu về ta thấy lòng êm
như trăng thuở nọ bên thềm thanh xuân
như là tiếng hát bậu ngân
xuống câu vọng cổ tình quân phụ phàng

bậu về trăng sáng ngút làng
hương thơm dậy đất bàng hoàng hồn ta
ngất ngây ôm chặt trăng, và
tưởng đâu ôm bậu thịt da vẫn nồng

bậu đi hồn có về không
nhắn tin theo gió cho lòng ta yên
dầu cho bậu ở cõi trên
hay đang cõi dưới trong miền u-minh

một mai ta đã dọn mình
quyết theo chân bậu lênh đênh cõi nào
dầu cho đất thấp trời cao
tử sinh là mới bắt đầu cuộc chơi

ngày mai bậu trở lại đời

và ta trở lại làm người bậu ưng
giọt mừng nước mắt rưng rưng
hai tay ôm bậu mà rung dậy tình.

Trần Phù Thế
 

Tâm Sự Người Đi Máy Bay



Em đến xứ tự do bằng máy bay
Nên không thể hiểu nhiều điều về biển
Về những rủi ro và những nguy hiểm
Anh đã trải qua trên đường vượt biên

Nhưng anh biết đâu nỗi lòng của em
Lìa xa quê hương tâm tư trĩu nặng
Trên máy bay nhìn ra ngoài mây trắng
Khung cửa sổ mờ hay nước mắt em rơi?

Máy bay lên cao lòng em chơi vơi
Nhìn lần nữa dải đất hình chữ S
Trái tim em đau nào ai hay biết
Bởi vì đâu chúng ta phải ra đi?

Kể từ ngày cuộc phân tán chia ly
Bao lớp người ngậm ngùi đời viễn xứ
Thân ở nơi này, hồn về quê cũ
Thấy quê nhà và những người thân quen

Người ở lại cũng có nỗi đau riêng
Niềm nhớ dạt dào theo từng cơn gió
Những đêm khuya em băn khoăn trăn trở
Anh ở bên kia có lạnh lắm không?

Em vẫn đợi chờ, em vẫn ước mong
Ngày gia đình mình sum vầy đoàn tụ
Nửa vòng địa cầu giờ đây gần lại
Sưởi ấm đời nhau ở chốn tha phương

Nguyện cầu một ngày về lại quê hương
Đón tự do thanh bình và hạnh phúc
Ta xuống biển thăm những người đã khuất
Hay lên rừng tìm những mộ không tên

Quá khứ khổ đau sẽ được ngủ yên
Dân tộc mình bước qua trang sử mới
Và anh ơi, biển sẽ mừng đưa lối
Cho sóng về ru những bản Tình Ca

Đất nước mình sẽ mãi mãi nở hoa ….!!!

Kim Loan


Rồng Tiên Vào Hội


‘Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà’
(Việt Nam: Tân Huyết Sử diễn ca)

 Những giai đoạn lịch sử huy hoàng

1.a:

Thơ ta

Ðêm đêm lừng vang bốn biển
Thơ ta đen, đỏ, tím, vàng, lam, trắng, xanh, huyền nhiệm
Thơ vào lay động giấc Long Vương
Chốn thủy cung
Ðánh thức con rồng vàng đang ngủ
Lên khỏi đại dương
Về nằm lại bên sườn Ngũ Lĩnh
Ðể Rồng lại nói
Ðể Rồng lại thưa


Thưa rằng:

"Ta là Lạc Long
Nàng là Âu Cơ
Buổi đầu dựng nước
Vàng tươi màu cờ
‘Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư’ (thơ Lý Thường Kiệt)
Ðường lịch sử mưa điên vần vũ
Nòi Rồng Tiên thác lũ bao phen
Vuông tròn chung một khuôn thiêng
Ðuổi quân giặc nước, duyên tròn lại duyên.
Trăm con một bọc
Giống nòi Rồng Tiên
Nghìn năm sau trước một thuyền
Nghĩa thề non nước, tình nguyền nước non".

Dậy dàng qua núi qua sông
Vang vang chính khí
Rạo rực lòng công đức cha ông
Dựng Việt Nam giữa trời Ðông Á
Một Việt Nam anh hùng, chí cả
Một Việt Nam sắt son vàng đá
Nghìn muôn năm kết chặt bản tình ca
‘Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!’.’’

I.b:

Thơ ta

Ðêm đêm trào lên ngọn bút
Ôn lị On Lịch sử mấy nghìn năm sau trước trước
Dạt dào tim, nghĩa nước tình nhà
Dạt dào tim, ơn Mẹ công Cha
Bao công đức dệt lời thơ bất tuyệt

Thơ rằng:

"Tuyệt vời thay ý chí đàn bà
Ðáp nghĩa nước, trả thù nhà trọn vẹn
Dòng chính khí trào dâng lên huyết quản
Cờ Vàng bay rực sáng cõi Mê Linh
Ðàn voi thiêng chung óng ả lời tình
Thế giới cổ kim, duy một lần, sau trước
Chí quần thoa trổi vượt cả nam nhân
Ba năm dài dựng nước
Ba năm dài nao nức bản hùng ca:
‘’Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!’.’’

‘’Nửa đêm thức giấc
Còn nghe vẳng tiếng Ngô Quyền
Soi vừng trăng lạnh
Gỏ nhịp ván thuyền
Hát bài thắng trận…lênh đênh
Ðầu Hoằng Thao lông lốc
Thuyền Bắc quân tan tác, dập dềnh
Từ đây dựng lập kỷ nguyên
Từ đây độc lập lưu truyền sử ca:
‘‘Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!’’’

‘’Một búp sen non nở bừng trang sử
Thời huy hoàng triều đại Lý hoàng kim
Ðạo hạnh lung linh sáng rỡ hương thiền
‘Tâm như’ thấm đượm lời tim
Từ ‘vô úy’ dệt niềm tin bất diệt
Thơ thần ướp ngọn gươm thiêng
Lý Thường Kiệt chận đầu quân giặc Tống
Cờ sắc thắm lên cao lồng lộng
Ðât cùng trời vang động khúc hoan ca:
‘’Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!’’’

’’Một dòng sông! Có một dòng sông
Quân Nam tràn lên như bão tố
Vạn cánh tay thề ‘sát đát’ quyết không tha
Hội Diên Hồng trút lên đầu lũ giặc
Triệu rưỡi quân Nguyên ba lần tan tác
Mộng xâm lăng. Bạch Ðằng giang
Sông hùng dũng của nòi giống anh hùng
Sông lẫy lừng chiến tích
‘’Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!’’’

‘’Ai đi đó, có xuôi về Thanh Hóa
Tri ân người áo vải đất Lam sơn
Mười năm dài gian khổ
Ðẩy Thoát Hoan cùng đường mạt lộ
Liễu Thăng, Sầm Nghi Ðống,..bao tướng giặc tài ba
Bay đầu, phơi xác, qụy lụy xin tha
Bài Cáo Bình Ngô rúng động cả sơn hà phương Bắc
Bàn tay nông dân anh hùng dẹp giăc

Toàn muôn dân óng ả nhạc đồng ca:
‘’Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!’’’
‘’Nguyễn Huệ Quan Trung, một trận Ðống Ða
Quét sạch lũ gian tà
Ðẩy Sĩ Nghị vứt ấn kiếm, ôm đầu chạy bộ
Vạn vạn quân Thanh, cầu đổ, trôi sông
Càn Long, khiếp hãi, buộc lòng
Nghị hòa cho đỡ thẹn thùng bại binh
Nước non mình lại với mình
Bắc Nam, dân nước thanh bình
Bắc Nam lại trổi sử tình âu ca:
‘’Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!’’’

I.c:

Thơ ta

Đêm đêm nhìn Bắc Đẩu
Sớm sớm đón dương quang
Từng trang lịch sử̉ huy hoàng
Từng thuở ́ cờ vàng giữ nước
Dậy dàng tim thao thức, bâng khuâng
Dậy dàng tim nao nức, rưng rưng
Dệt lời thơ nhớ


Thơ rằng:

‘’Nhớ Văn Lang quê hương rục rỡ́
Nhớ Cổ Loa, nhờ nỏ Long Châu
Trống Đồng gỏ nhịp khoan mau
Lạc Hổng ruổi gíó bay vào sử xanh…
Nhớ từng buổi cha tần ngần buông cuốc
Mắt rạng ngời lúa mượt đồng xanh
Những hạt vàng long lanh
Những hạt vàng óng ánh
Nuôi dòng đời, nuôi mạch sống tinh anh

Nhớ mẹ già́ buông gánh hàng rong
Tay mân mê cô búp bê xinh xắn
Miệng tươi cười, lau chiếc trán mồ hôi
Chạy vào thăm cháu
Đứa cháu nhỏ đôi mắt tròn diễm lệ
Một nhoẽn cười, non bể vào xuân
Bao em ta, riu ríu chân chim
Nhảy dây, chơi bi, đánh đáo
Chân cò cò, la hét oang oang
‘Công cha như núi Thái Sơn..
Bầu ơi thương lấy bí cùng’..
(Hiểu nghĩa gì không? Chúng lắc đầu nguầy nguậy!)

Chị ta gập mình trên trang giấy
Bài học quá dài,
Phép tính vi phân, phương trình lượng giác
Khó làm sao ! Nhưng sáng ngời ánh mắt
Quyết một lòng son sắt chí cha ông

Các anh ta trùng trùng núi dựng
Trùng trùng mưa biển sóng dập dồn
Ghim súng chờ thù, miệng thầm lẩm nhẩm
Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Chuơng Dương, Hàm Tử
Mẹ và Cha, mõi mòn nơi hậu cứ
Xin yên tâm, vững chí đợi con về
Ngày hoà bình, lộng lẫy đất trời quê

Và, đôi ta,
Mắt em anh bảo xanh màu nước
Ôm trọn vừng trăng anh thả trôi
Tóc em anh bảo sợi mưa ngâu
Chải thơm cánh gió mấy từng cao
Mạch dài hơn cả tràng giang mộng
Tình mình ‘biển núi’ đẹp trăng sao!
Lòng ta là biển
Trí ta là non
Non lên cao nhìn vào biển rộng
Biển muôn trùng chở mộng non cao
Chữ tình rộng hẹp ra sao
Mà ôm trọn cả núi cao biển dài

Rồi cứ thế, tay trong tay,
Tiếp dòng lịch sử
Tay trong tay,
Ngôn ngữ mặn tình người
Ươm vào tim từng lời thơ chính khí
Ướp vào lòng từng nhịp bản trường ca

‘’Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!"

I.d:

Thơ ta

Đêm đêm cỡi ngựa vàng lên đỉnh Sóc
Giục phi nhanh lên tận chín tầng trời
Lật sổ Nam Tào
Giở trang Bắc Đẩu
Xóa màu hư cấu
Tờ thiên thư chép vội mấy dòng thơ


Thơ rằng:

‘’Co ́ con sông nào không xuôi về biển
Có biển nước nào chẳng bốc thành hơi
Hơi lên kết đọng mây trời
Gió đưa mây đến từng nơi non ngàn
Mây kết thành mưa
Mưa tuôn ào ạt
Nước tinh tuyền tắm mát đầu non
Nước đi là để lại nguồn
Tình ta qua những trang buồn lại vui’’

Rồi ta đếm tuổ̉i cuộc đời
Trong ta cõi đất cõi trời giao nhau
Nghìn năm sau trước trước sau
Dễ ai dựng vách ngăn rào núi sông
Bao phen con Lạc cháu Hồng
Xóa trang dị sủ, dẹp dòng can qua
Thái bình ghi nỗ lực
Thủ tích dựng mùa hoa
‘’Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!’’.

‘Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà’ 
 
Nguyễn Thùy

Chú thích:
1) Thơ cụ Phan Bội Châu, trích trong tập ‘Phan Bội Châu thi tuyển’ của Huyền Thanh Lữ, Thư Xã Nhượng Tống xuất bản, in tại Hoa Kỳ, CA 2002. Huyền Thanh Lữ dịch:

Nói Chí của mình

Tổ Quốc đắm chìm người có phận
Ngược xuôi gió bụi, cớ sao buồn
Kẻ thù trời đất không chung đội
Nhìn ngẫm non sông, chí chẳng mòn.


2) ‘Đức Phật đài sen nụ cười mở rộng’, do liên tưởng đến tượng Đức Di Lặc, nụ cười mở rộng, không như nụ cười vi tiếu nơi tượng Đức Thích Ca. Tượng Đức Di Lặc là hình ảnh ẩn dụ nói lên trạng thái sống hoàn toàn thanh thoát, an bình tự tại, không còn bị ‘điều kiên hóa’ bỡi hiện tượng, bỡi qui luật Nhân Duyên Sanh. Do cảm nhận Lẽ Tiến Hóa qua giáo lý Đức Thích Ca, người viết liên tưởng đến ẩn dụ nơi tượng Đức Di Lặc.

3) Lời vua Lê Thánh Tôn, ở buổi Hội Lục Đầu Giang, năm 1470, có nghĩa:
‘Trời Nam ngàn năm núi sông vẫn còn’.

4) Câu thơ của Nguyễn Du, tạm dịch
‘Vạn dặm sơn hà (non nước) chính khí chung’’

5) Hai câu thơ của vua Trần Nhân Tông sau ngày đánh tan quân Nguyên xâm lược. Cóngười đã dịch: ‘’Xa ̃ tắc hai phen bon ngựa đá, Sơn hà nghìn thưở vững âu vàng’’.

* Sự việc cô Phạm Thanh Nghiên cùng ông Vũ Cao Quận và nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa làm đơn xin Nhà Nước được phép tổ chức biểu tình theo như Hiến pháp và Luật pháp cho phép để nhân dân bày tỏ tâm tình và nguyện vọng trước hiện tình đất nước. Nhưng đơn bị bác. Cô khiếu tố, Tòa án không trả lời. Sự việc nầy khiến nhớ lời Winston Churchill : ‘’ Ở nước Anh, tất cả được cho phép, ngoại trừ những gì bị cấm. Ở nước Đức, tất cả đều bị cấm ngoại trừ những gì đã được cho phép. Ở Pháp, mọi thứ đều được cho phép, kể cả những gì bị cấm. Ở Liên Xô, tất cả đều bị cấm, ngay cả những gì đã được cho phép’’ (En Angleterre, tout est permis, sauf ce qui est interdit. En Allemagne, tout est interdit, sauf ce qui est permis. En France, tout est permis, même ce qui est interdit. En URSS, tout est interdit, même ce qui est permis). Việt Nam dưới chế độ Cộng sản 100% theo đúng Liên Xô trước đây.




Thứ Tư, 24 tháng 4, 2024

Có Khi Nào - Thơ: Trần Minh Hiền - Phổ Nhạc: Vũ Lương Đúng - Trình Bày: Bích Hiền Tuấn Chiron


Thơ: Trần Minh Hiền
Phổ Nhạc: Vũ Lương Đúng
Trình Bày: Bích Hiền Tuấn Chiron

Bốn Không Của Người Về Hưu

 

(Cảm tác từ một tấm bảng xe)

KHÔNG I: THỜI GIAN

Quẳng thôi cái đồng hồ tay
Giờ đây vô dụng vì ngày như đêm
Hăm bốn tiếng nghỉ triền miên
Quanh năm suốt tháng một niềm vô ưu...

KHÔNG II: KHÔNG GIAN

Rằng thưa địa chỉ bỏ rồi
Từ đây góc biển, chân trời ngao du
Đâu đâu cũng kể như nhà
Hồn quê gửi ngọn mây xa la đà...

KHÔNG III: ĐIỆN THOẠI

Thôi đừng phôn phiếc làm chi
Gặp nhau cứ đợi hội hè lại lên
Ngày Quốc hận, Tháng Tư đen
Trung thu, Nguyên Đán đã quen nết rồi.

KHÔNG IV: TIỀN BẠC

Xưa thấy tiền bạc mừng rơn
Giờ hay sức khoẻ còn hơn là vàng
Vào đời cát bụi hóa thân
Từ trần tay trắng lại hoàn trắng tay.

Hoàng Xuân Thảo


Ly Rượu Tháng Tư - Tháng Tư Tan Tác

  


Bài Xướng:

Ly Rượu Tháng Tư


(Viết tặng anh CVK, TBT và MVN)

Bao nhiêu năm rượu vẫn đầy
mời người uống lại vị cay năm nào
chút trái đắng chút niềm đau
chút da thịt máu chút màu tang thương

Xin nâng ly những đoạn trường
uống ngày tháng cạn mười phương cúi đầu
uống đời từng ngụm mưa mau
uống thân xác những áo nhàu nếp nhăn

Còn gì ở lại tháng năm
còn hương phấn cũ còn trầm tích xưa
tháng Tư uống mấy cho vừa
mời nhau ly rượu chiều mưa xứ người

Để rồi cũng giấc mơ thôi
đêm nằm rót mộng bờ môi thắm nồng
đưa người cuối một nhánh sông
tìm đâu bến đợi giữa trăm năm buồn...


Durham, North Carolina
Nguyễn Vĩnh Long
***
Bài Họa:

Tháng Tư Tan Tác


Một ly non nước dâng đầy
Môi chưa cạn chén men cay ngày nào
Sao tim nhức nhối nghẹn đau
Bầu trời Quốc táng tím màu xót thương

Nửa mảnh oằn gánh dặm trường
Nửa mảnh ly xứ tha phương giang đầu
Gió xoay chuyển hướng về mau
Bản đồ dân tộc xóa nhàu vết nhăn

Ngày ấy đã 49 năm
Khơi lại ký ức thăng trầm ngày xưa
Ngậm ngùi như thể mới vừa...
Chia tay kẻ ở lệ mưa tiễn người

Gặp nhau trong mộng mà thôi
Đêm trăng mơ bóng mặn môi hương nồng
Thuyền tình lạc bến xa sông
Tháng Tư dậy sóng dòng đau xoáy buồn

Melbourne 4.2024
Kim Oanh

Áo Dài Nón Lá Nghiêng Thành Bài Thơ

 

Đường trần ai biết bể dâu
Vui buồn lận đận bạc đầu sóng xanh
Trời thương đất nhớ mộng lành
Áo dài nón lá nghiêng thành bài thơ

Nhẹ nhàng nhỏ nhẹ nhởn nhơ
Xuân xưa hương tóc tiên chờ trăng sao
Hẹn hò liền cánh bay cao
Lên voi xuống vịnh chiêm bao giờ cùng

Đường quỳnh hoa bóng tình chung
Mưa hồng tay trắng vòng cung mê nhìn
Hút hồn chới với hiện sinh
Ngọt ngào nũng nịu cho tin yêu chờ

Ngàn thương khao khát ước mơ
Hứng hoa nâng trứng bướm thơ ngây người
Hoa đi hoa đứng hoa cười
Hoa tay hoa trái hoa tươi hoa hồng

Tiên bồng non bồng bềnh bồng
Dấu yêu dấu nhớ nhãn lồng chim quyên
Kỳ tình kỳ tích kỳ duyên
Hồng trần ai lạnh còn nguyên xuân hồng...

MD.02/21/23
Luân Tâm

Trường An Xuân Vọng 長安春望 - Lư Luân (Trung Đường)


Lư Luân 盧綸 (748-800) tự Doãn Ngôn 允言, người Hà Trung (nay là tỉnh Sơn Tây). Trong thời Đại Lịch, đời Đường Đại Tông, thi nhiều lần không đậu, sau có người tiến cử ra làm quan chức uý tại Văn Khanh, lần lần thăng đến chức Hộ bộ lang trung, giám sát ngự sử. Tham gia quân đội nhiều năm, thơ ông phóng khoáng, quan tâm nhiều đến đời sống nhân dân.

Lư Luân là một trong mười tài tử thời Đại Lịch (chín người kia là Cát Trung Phu, Hàn Hoành, Tiền Khởi, Tư Không Thự, Miêu Phát, Thôi Động, Cảnh Vi, Hạ Hầu Thẩm, Lư Đoan).

Nguyên tác           Dịch âm

長安春望             Trường An Xuân Vọng
東風吹雨過青山 Đông phong xuy vũ quá thanh san,
卻望千門草色閑 Khước vọng thiên môn thảo sắc nhàn.
家在夢中何日到 Gia tại mộng trung hà nhật đáo,
春來江上幾人還 Xuân lai giang thượng kỷ nhân hoàn.
川原繚繞浮雲外 Xuyên nguyên liễu nhiễu phù vân ngoại,
宮闕參差落照間 Cung khuyết sâm si lạc chiếu gian.
誰念為儒逢世難 Thuỳ niệm vi nho phùng thế nạn,
獨將衰鬢客秦關 Độc tương suy mấn khách Tần quan.

Chú giải

卻 khước: từ chối. Người ta cho mà mình từ chối không nhận gọi là khước. 卻望 khước vọng: miễn cưỡng ngóng trông…
闕 khuyết: Cái cổng hai từng: làm hai cái đài ngoài cửa có tầng lầu, ở giữa bỏ trống để làm lối đi và để dễ nhìn ra xa gọi là khuyết, cho nên gọi cửa to là khuyết. 宮闕 cung khuyết: cửa cung điện làm theo kiểu trên để có thể kiểm soát những diễn biến xảy ra từ xa; ngày xưa hay ban bố pháp lệnh ở ngoài cửa cung, cho nên gọi cửa cung là khuyết.
為儒 vi nho: kẻ nho sinh hèn mọn này.
逢世難 phùng thế nạn: gặp nạn trên đời.

Dịch nghĩa

Ngắm cảnh xuân ở Trường An

Gió đông thổi mưa qua rặng núi xanh,
Ngắm trông ngàn cổng thấy sắc cỏ êm đềm.
Nhà ở (của mình) chỉ có trong giấc mơ, biết ngày nào đến được?
Khi mùa xuân đến trên sông, có mấy người (từ xa) về đây (để thưởng xuân)?
Dòng sông và đồng bằng uốn lượn ngoài đám mây nổi;
Cung khuyết nhấp nhô trong bóng nắng tàn.
Ai nghĩ là kẻ nho-sinh này gặp nạn?
Một mình đem mái tóc cằn đến làm khách ở Tần quan?

Dịch thơ

Ngắm cảnh xuân ở Trường An
Mưa xuân theo gió vượt non ngàn
Đứng ngắm nơi nơi sắc cỏ hoang.
Nhà tại mộng mơ không tới được,
Xuân về trên sóng mấy ai ham.
Sông đồng uốn lượn ngoài mây nổi,
Cung khuyết so le dưới nắng tàn.
Ai nghĩ nho-sinh này gặp nạn?
Một mình vò võ chốn Tần quan.

Lời bàn 

Thấy họ Lư ngắm cảnh xuân ở Trường An mà chán chường:

Câu 1:
Gió xuân đem mưa đổ xuống ngàn núi. Cụm từ 過青山 quá thanh san ÔC dịch là vượt non ngàn.
Câu 2:
Đứng ngắm ngàn vườn không thấy hoa mà chỉ thấy cỏ tranh. Câu này rất khó dịch theo đúng ý của toàn bài: cụm từ ngàn vườn ám chỉ nhiều vườn, dịch là nơi nơi; cỏ tranh dịch là cỏ hoang cho hợp vần. Toàn câu sẽ dịch thoát là: Đứng ngắm nơi nơi sắc cỏ hoang.
Câu 3:
Nhà thì chỉ có trong mộng, biết bao giờ mới có nhà thật để về (lúc này Lư còn nghèo lắm chưa có nhà).
Câu 4:
Xuân về trên sóng chẳng ai ham (Lư ngủ đò trong những ngày xuân sống ở Trường An). Chữ sông ÔC dịch là sóng vì cần một âm trắc.
Câu 5:
Sông & đồng ruộng thì như uốn lượn trong mây (vì ngủ đò nên chỉ nhìn thấy sương mù dầy đặc che khuất sông ngòi và đồng ruộng).
Câu 6:
Cung khuyết của nhà vua thì lô nhô dưới nắng tàn (cái nhìn của Lư, một thí sinh từ xa tới kinh đô để dự thi, còn rất bỡ ngỡ, chưa quen với phong cảnh ở kinh đô).
Câu 7:
Câu này là cái chìa khóa của toàn bài: (Lư đâu muốn ngắm xuân ở đây), kể như tên nho sinh này gặp nạn ở Trường An! Cụm từ nho-sinh tố cáo rằng Lư đang đi thi ở Trường An và kỳ thi này cũng rớt (gặp nạn) như nhiều kỳ thi trước (tiểu sử của Lư nói rằng ông đi thi nhiều lần mà không lần nào đỗ).
Câu 8:
(Khỏi cần bàn thêm nữa); Lư thi rớt rồi, một mình nằm vò võ trên thuyền ở Tần quan (nằm chờ kết qủa thi và không biết về đâu vì không có nhà) … Một lần nữa, bài thơ này vẫn cho thấy rằng thơ Đường (tưởng như hoang đường) nhưng tả cảnh thực, tả tình cũng thực; không hư cấu.

Đọc bài thơ tới 2 câu chót mới thấy ý nghĩa của cái cảnh xuân ở Trường An của Lư Luân chỉ là chờ tin thi rớt.

Con Cò
***
Xuân ngóng Trường An

Gió đông mưa bám vượt non ngàn
Nghìn cửa ráng trông cỏ sắc nhàn
Nhà ở trong mơ, thời khắc đến?
Xuân về trên sóng mấy ai sang?
Đồng sông uốn lượn ngoài mây nổi
Cung điện lô xô dưới nắng tàn
Ai nghĩ nho hèn đương mắc nạn?
Một thân tóc rối, khách Tần quan!

Lộc Bắc
Sept23
***
Ngắm Xuân Ở Trường An.

Mưa theo gió thổi đến non ngàn,
Chán ngắm ngàn nơi cỏ mọc lan.
Nhà ở trong mơ bao thủa có
Xuân trên mặt sóng mấy ai màng.
Quê hương tít tắp ngoài mây nổi,
Cung điện lô nhô dưới nắng tàn.
Ai thấu nho sinh đang gặp nạn,
Một mình tóc trụi trọ Tần Quan.

Mỹ Ngọc 
Oct. 22/2023.
***
 Ngắm Cảnh Xuân Ở Trường An

Gió đông mưa nhẹ lướt non xanh
Nghìn cửa nhìn ra cỏ sắc thanh
Nghĩ đến nhà xưa thêm nỗi nhớ
Xuân về bến vắng nước long lanh
Cánh đồng uốn khúc ngoài mây nổi
Cung điện lô nhô dưới nắng hanh
Ngẫm nghĩ hàn sinh đời khốn đốn
Tóc còi trơ trọi chốn Tần Quan

Kiều Mộng Hà
Oct23rd2023
***
Ngắm Cảnh Trường An

Gió thổi mưa Xuân giạt núi xanh
Trường An cung điện xếp hàng hàng
Ước mơ một mái nhà êm ấm
Xuân đến bên sông cảnh trí an

Sông núi trải dài tận ngút ngàn
Huy hoàng chiều nắng đẹp Trường An
Có ai thương phận ta lăn lóc
Tóc bạc xác xơ nho sĩ hàn

Thanh Vân
***
Hôm nay, sinh nhật thứ 81, bên ngoài trời mưa, mà tối nay mới được vợ con kéo đi ăn, BS không biết làm gì trong khi chờ đợi nên viết góp ý cho bài thơ của Lư Luân.

Thấy tên quen quen, thì nhớ ra cách đây mấy năm, mình đã góp ý cho bài HỶ NGOẠI ĐỆ LƯ LUÂN KIẾN TÚC của Tư Không Thự. Tư Không tả cảnh nghèo của mình, xấu hổ vì có em bên ngoại là Lư Luân đến thăm. Theo tiểu sử thì cả hai anh em đều nghèo, Lư thì thi hoài không đậu, sau nhờ người giới thiệu mới được chức quan nhỏ, nhưng thủa hàn vi thì rất khổ sở.

Đúng như ÔC nói, bài thơ này Lư làm khi về Tràng An để thi, cảm thấy buồn vì phong cảnh sông núi, đồng ruộng hoang vu, vắng vẻ, mình thì nhớ nhà, một thân nơi đất khách, mái tóc tả tơi….

ÔC lấy bài trên Thi Viện, và BS thấy chữ thứ 3 của câu 5, phiên âm liệu là sai, phải là LIỄU mới đúng. LIỄU NHIỄU, cả 2 chữ viết với bộ mịch, cùng có nghĩa là quấn, vòng quanh, vướng mắc, uốn lượn…

Những chữ khó khác:

# Xuyên: dòng nước, sông,
# Nguyên: cánh đồng, lúc đầu, nguồn…
# Sâm: cây sâm, hay sao Sâm. Sâm Si là so le, nhấp nhô, chỗ cao, chỗ thấp.
# Lạc: rụng, xuống thấp, thuộc về. Lạc đệ là thi rớt, lạc chức là mất chức.
# Chiếu : chiếu, soi, rọi…ánh sáng mặt trời. Lạc chiếu, tịch chiếu là lúc nắng tàn.
# Niệm: mong mỏi, nhớ, nghĩ..

Về họ của tác giả, những sách mà BS có cùng Thi Viện đều ghi là Lư, nhưng khi đọc bài của anh Giám, BS liền tra tự điển Nguyễn Tôn Nhan, thì chữ viết trong bài đúng là LÔ (trang 940).

Về năm sinh, Thi Viện ghi 748-800, những sách khác đều rất sơ sài, không ghi rõ, nhưng Nguyễn Đức Lân cho biết thêm chi tiết: Lô Luân thi rớt, nhưng 4 người con là Giản, Năng, Từ, Cầu đều đậu tiến sĩ, và họ góp nhặt hết thơ của cha, được bao nhiêu bài thì không thấy nói.

Ngắm Xuân Trường An 

Mưa bay theo gió vượt non ngàn,
Muôn cửa trông ra sắc cỏ nhàn,
Nhà ở trong mơ, ngày nao tới,
Trên sông xuân mấy kẻ đi ngang,
Đồng, sông uốn lượn ngoài mây nổi,
Cung khuyết lô nhô dưới nắng tàn,
Ai nghĩ nho sinh mà gặp nạn,
Một mình tóc úa chốn Tần quan.

Bát Sách.
(ngày 21/10/2023)
***
Nguyên tác:         Phiên âm:

長安春望-盧綸   Trường An Xuân Vọng - Lư Luân

東風吹雨過青山 Đông phong xuy vũ quá thanh san
卻望千門草色閒 Khước vọng thiên môn thảo sắc nhàn
家在夢中何日到 Gia tại mộng trung hà nhật đáo
春來江上幾人還 Xuân lai giang thượng kỷ nhân hoàn

川原繚繞浮雲外 Xuyên nguyên liễu nhiễu phù vân ngoại
宮闕參差落照間 Cung khuyết sâm si lạc chiếu gian
誰念為儒逢世難 Thùy niệm vi nho phùng thế nạn
獨將衰鬢客秦關 Độc tương suy mấn khách Tần quan

Nguyên tác chữ Hán bên trên dựa vào mộc bản cổ xưa nhất trong sách Ngự Lãm Thi của Lệnh Hồ Sở 御覽詩-唐-令狐楚.Bản này xài chữ nhàn閒 thay vì nhàn閑 trong câu 2.


Sách Ngự Định Toàn Đường Thi của Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁 cho dị bản trong các câu :

Câu 2 : liễu柳 thay vì thảo草
Câu 4 : sanh生 thay vì lai來
Câu 7 : đa thất ý多失意 thay vì phùng thế nạn逢世難

Các sách khác có mộc bản bài thơ:
Cổ Thi Kính - Minh - Lục Thì Ung 古詩鏡-明-陸時雍
Doanh Khuê Luật Tủy - Nguyên - Phương Hồi 瀛奎律髓-元-方回
Đường Thi Cổ Xuy - Kim - Nguyên Hảo Vấn 唐詩鼓吹-金-元好問
Đường Bách Gia Thi Tuyển - Tống - Vương An Thạch 唐百家詩選-宋-王安石

Chú thích:

Đông phong: gió mùa xuân thổi từ hướng Đông
Thanh sơn: núi màu xanh, tên núi Thanh Lâm Sơn ở đông nam huyện Đương Đồ, tỉnh An Huy
Thiên môn: ngàn cửa, vô số cửa, cung điện, lâu đài…
Xuyên nguyên: vùng sông ngòi hoang dã, chỉ xứ sở quê hương
Liễu nhiễu: xoay xoắn, quanh co
Khuyết: tháp ở hai bên cổng vào cung điện, thường có lầu và lối đi quanh để có thể quan sát bốn phía từ trên cao
Cung khuyết: cung điện ngày xưa vua ở; gọi như thế vì cung điện nào cũng có hai khuyết ngoài cổng
Sâm si: không đồng đều, nhấp nhô
Lạc chiếu: ánh sáng mặt trời lặn
Thế nạn: khó khăn của thế gian, gặp phải thời kỳ hỗn loạn.
Tần quan: giữa đất Tần, nơi Trường An tọa lạc

Dịch nghĩa:

Trường An Xuân Vọng Ngắm Xuân Ở Trường An

Đông phong xuy vũ quá thanh san
Gió đông nhẹ đẩy mưa xuân đến rặng núi xanh mờ,
Khước vọng thiên môn thảo sắc nhàn
Nhìn từ xa, nhà ở Trường An như chồng lên nhau, cỏ cây xanh mướt.
Gia tại mộng trung hà nhật đáo
Gia đình đầm ấm trong mơ mộng biết bao giờ có được?
Xuân lai giang thượng kỷ nhân hoàn
Xuân đã trở lại trên sông, thuyền qua lại, nhưng mấy người có thể trở về được?
Xuyên nguyên liễu nhiễu phù vân ngoại
Quê hương (sông và đồng) trải dài đến tận chân trời vượt xa những cụm mây bồng bềnh.
Cung khuyết sâm si lạc chiếu gian
Cung điện Trường An nhấp nhô trong ánh nắng hoàng hôn.
Thùy niệm vi nho phùng thế nạn
Ai có thể hiểu được rằng một nho sinh như tôi sinh ra trong thời buổi khó khăn,
Độc tương suy mấn khách Tần quan
Một mình lăn lóc với mái tóc suy tàn lang thang trong giữa đất Trường An.

Dịch thơ:

Ngắm Xuân Ở Trường An

Phỏng dịch theo thể nguyên tác thất ngôn bát cú:

Gió đông nhẹ thổi mưa về núi,
Chồng chất nhà xây cây cỏ nhàn.
Cuộc sống êm đềm mơ lúc có,
Xuân trên sóng nước cảnh bình an.

Quê hương trải rộng hơn mây nổi,
Cung điện nhấp nhô dưới nắng tàn.
Ai hiểu nho sinh đang khốn đốn,
Cô đơn tóc rối sống lang thang.

Phỏng dịch theo thể thơ Việt song thất lục bát:

Gió từ đông, thổi mưa vào đất,
Nhà Trường An, chồng chất như nêm.
Ước mơ cuộc sống êm đềm,
Xuân trên sóng nước thuyền thêm người về.

Non sông rộng, đồng quê muôn cảnh,
Cung điện xưa, xuyên ánh nắng tàn.
Nho sinh gặp phải gian nan,
Đầu bù tóc rối lang thang giữa trời.

Watching Spring In Chang An by Lu Luan

The East wind blew the spring rain toward the blue mountain,
From the distance, Chang An houses appear to sit one over the other and the grass is lush green.
I wondered when the dream family (peaceful country) would make a comeback?
Spring has returned on the river, boats come and go, but how many people shall return?
The country rivers and fields intertwine toward the horizon farther than the floating clouds,
The royal palaces unevenly glitter in the last sunset lights.
Who could understand that a poor student born in difficult times,
Alone with untrimmed white hair, would roam the streets of Chang An.

Phí Minh Tâm
***
Góp Ý:

Tiểu sử 盧綸=Lô Luân (Thiều Chửu không chua cách đọc Lư và tiếng Triều Châu phát âm là Lô). Lô Luân không thể sinh năm 748 vì cả hai cuốn Cực Huyền Tập và Cựu Đường Thư đều ghi rằng năm Thiên Bảo cuối cùng Lô Luân thi tiến sĩ không đỗ. Thiên Bảo (天寶) là niên hiệu cuối cùng của Đường Huyền Tông, từ 742 đến 756) nên năm 756 Lô Luân còn là con nít chưa thể đi thi nếu sinh năm 748. Có người nghĩ là họ Lô sinh thời Khai Nguyên (713-741), năm 737, và có thể không dự thí được vì loạn An Sử (755-763).

Huỳnh Kim Giám