Thứ Bảy, 20 tháng 11, 2021

Bụi Phấn - Vũ Hoàng & Lê Văn Lộc - Khánh Linh & Thúy Thu


Sáng Tác: Vũ Hoàng & Lê Văn Lộc
Tiếng Hát: Khánh Linh & Thúy Thu
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình

Thăm Thầy Ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11


Thăm thầy một buổi sáng ngày đông
Nắng đẹp bình minh trải giữa đồng
Mảnh vóc ông đồ phong tịnh dưỡng
An vầng trán huệ vẻ thường trông
Thời gian lắng đọng bao niềm nở
Kỷ niệm chuyền in những ấm nồng
Vẫn trẩy đò đưa vùng hứa hẹn
Vun bồi nghiệp giáo chẳng nề công.

Mai Thắng 
211120

Nhân Tạ Ơn Nhớ Vườn Thơ Thẩn



Vườn Thơ Thẩn đầu tiên tôi gặp gỡ
Những thân thương tình bằng hữu hôm nay
Duyên may lành ấm áp nắng đầu ngày
Mến yêu quá đã nhận ra nơi đó
Vườn Thơ Thẩn hương hoa đầy thương nhớ
Bao ân tình tôi cảm động ở đây
Xướng họa Đường Thi niêm luật vui thay
Thầy cô giáo quê hương từng giảng dạy
Hội ngộ về đây hàn huyên biết mấy
Phương trời tây chung một mối duyên may
Chúc thầy cô an lạc, Tạ Ơn này


Mai Xuân Thanh
November 16, 2021

Bến Cũ ... Trường Xưa


Bài Xướng:

Bến Cũ ... Trường Xưa

Ngỡ chuyến đò ngang chở miệt mài

Bao kỳ tiễn hạ đắm lòng ai
Rời chân bục giảng từng hôm sớm
Tắt ngọn đèn soi những vở bài
Mặc dốc cao vời tuy đã mỏi
Nhưng tình nặng trĩu chẳng hề phai
Chèo buông gửi nhớ về sông cũ
Bởi mãi còn vương giấc mộng dài.

Nguyễn Gia Khanh
***
Các Bài Họa:

Mừng Ngày Nhà Giáo

Đời vương nghiệp dĩ bút năng mài

Khởi trí bao đời tặng chữ ai
Vỡ hạt tâm hồn ươm khắp nẻo
Cời tâm kiến mỹ lộng muôn bài
Đàn chim trắng nhỏ hằng yêu lụy
Cánh phượng tươi nồng chẳng nỡ phai
Bục giảng chiều nay Hồng đã kín
Chừng nghe hỉ dạ những đêm dài.

Thu Ẩn
***
Ơn Thầy Cô

Vàng tôi thép dũa ngọc năng mài
Trọng nghĩa ơn thầy chẳng kém ai
Những buổi nằm mơ còn nhớ bạn
Nhiều đêm trở giấc ngỡ ôn bài
Trên đầu tóc nhuộm hai màu tẻ
Giữa buổi sương tràn một nét phai
Vẫn biết đò sang là tải đạo
Tình riêng cháy mãi trọn canh dài.

Phạm Lợi Kim

Thầy Về Trường Xưa

  

(Cảm xúc từ một câu chuyện tình dưới mái trường Cấp III)

Trở về rồi, Thầy có thấy gì không?
Đôi mắt em, trên hàng cây phượng đỏ
Khi đầu hè hoa trổ bông rực rỡ
Sợ ngày chia tay lá khép chờ mong

Cuối thu tàn, chớm lạnh trời vào đông
Hành lang lớp học dài như nỗi nhớ
Chiều tan trường, em bâng khuâng đứng đó
Thầy đâu rồi, bước về chỉ mình em

Trở về rồi, Thầy có thấy thân quen?
Nơi bục giảng, tay ai run rẩy vẽ
Đường tròn chẳng tròn như tim em rất trẻ
Rung động đầu đời nói chẳng thành câu

Giờ Toán học, em chỉ muốn thật lâu
Dẫu khô khan phương trình, và ẩn số
Công thức nào em rối bời chưa ngỏ
Định nghĩa Tình Yêu em vẫn đi tìm

Trở về rồi, Thầy có thấy chợt buồn?
Chỗ em ngồi năm xưa, giờ trống vắng
Còn đâu nữa nụ cười hiền toả nắng
Phút ngại ngùng đôi ánh mắt gặp nhau

Để đêm về em thao thức canh thâu
Nắn nót viết tên Thầy trên thước kẻ
Quà tặng của em đơn sơ, bé nhỏ
Rất nồng nàn, say đắm một tình Thơ

Trở về rồi, Thầy có thấy ngẩn ngơ?
Chiều hôm ấy hồn em lạnh rét mướt
Mắt em nhạt nhoà hay vì mưa ướt
Ngày Tân Hôn, Thầy vui bước qua cầu

Thầy vô tình, Thầy có biết gì đâu!
Cô bé lang thang một mình hờn dỗi
Trái tim mới lớn mong manh quá đỗi
Gặm nhấm nỗi buồn, thèm khát yêu đương

Trở về rồi, Thầy có thấy vấn vương?
Ghế đá, hàng cây, sân trường…im lặng
Mây lững lờ trôi như đang hờn trách
Tuổi học trò thần thánh ai mang đi

Thuyền xuôi dòng nhưng em mãi khắc ghi
Sẽ quay lại, dù đôi lần em khóc
Em vô duyên, chẳng nên phận tơ tóc
Nghĩa Thầy Trò, mình mãi mãi nhớ nhau

Kim Loan

Về Ngang Trường Xưa - Thơ: Ngọc Hải - Nhạc: Nguyễn Đức Minh Tâm


Thơ: Ngọc Hải
Nhạc: Nguyễn Đức Minh Tâm
Hòa Âm,Phối Khí: Thanh Cang
Ca Sĩ: Bảo Vân

Phiếm Luận Vể Khổng Học


Mấy ngày nay, có nhiều bạn thân tình của tôi, lên tiếng chỉ trích rất nhiều Khổng Học/ Confucianism/
Trong cuộc bàn luận nóng hổi, tôi e sợ các bạn tôi đã mất phần nào 1 cái nhìn perspective trung thực về Khổng Học.

Lẽ dĩ nhiên 1 môn phái trí thức sáng lập 25-26 thế kỷ về trước , trong 1 xả hội phong kiến và Nô Lệ ( Slave and Feudal Societies) , không thể nào hoàn toàn thích hợp – in extenso - cho nhân loại vào thế kỷ XXI được.
Chúng ta phải nhớ là thời thế kỷ V-VI trước Công Nguyên của Khổng Tử, Trung Hoa có rất nhiều nước – lớn và nhỏ- với những biên giới mỏng manh, với tiếng nói khó hiểu với các nước láng giềng, muốn hiểu hẳn hoi thì phải viết chữ ( bút đàm) .

Nước Lỗ- nơi sinh đẻ của Khổng Tử - là 1 nước chư hầu rất nhỏ, không phải là nơi có thế áp dụng phương cách xây dựng quốc gia “nation building” /Reformation/ cùa Khổng Tử được.
Ông phải chu du tìm cho được các nơi thích hợp để “nation building” “Reformation” như hoài bão của ông.
Ông không thành công trong 14 năm chu du khắp Trung Hoa, không phải vì ông không có tài, không phải kế hoạch “nation building” Reformation, của ông có nhiều sai lầm, nhưng vì lòng ghen tị của giai cấp cầm quyền địa phương ( local intelligentsia) e sợ ông sẽ nắm quyền và gạt bỏ họ ra ngoài.

Đi từ nước Lỗ nơi Khổng Từ sinh ra và lớn lên, sang Triệu, sang Ngụy, sang Tề, thì tiền tệ cũng thay đổi, đơn vị đo lường cũng thay đổi, thương mại/ kinh tế phải dùng phương cách đổi chác/ barter / chứ không phải 1 nền kinh tế thị trường như chúng ta biết.

Tiếng nói cũng thay đổi phần nào nữa.
Thời xã hôi nô lệ & Phong Kiến ( slave and feudal culture) có những man rợ / không thức thời/ của nó như quan niệm “Trọng Nam Khinh Nữ” mà có nhiều người nêu lên,

Đó là những bất công của 1 thời đại văn minh trước Công Nguyên của toàn thế giới, không những bên Trung Hoa như vậy, mà nên Văn Hóa La-Hy ( Greco-Roman), nên văn hóa Judaism cũng vậy.
Sự bất công của thời đại phong kiến đó có mặt trong tất cả nhân loại chứ đâu phải vì ảnh hưởng của Khổng Tử.
Có nhiều người trách Khổng Tử về câu “Vua bắt chết mà không chết là bất trung” “Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung)

Thật tình câu đó chĩ có vào khoảng hơn 300 năm sau vào thời nhà Tần mà thôi, chứ không phải vì Khổng Tử.
Câu này đặt trên premise/ tiền đề/ Vua là 1 minh quân, có Thiên Mệnh/ divine mandate/ celestial mandate/
Như vậy Vua bao giờ cũng phục vụ tối cao dân chúng ( trăm họ) , một khi Vua bắt minh chết là vì minh đã vi phạm tôi quá nghiêm trọng, bắt buộc phải chết.

Nếu chúng ta đòi hỏi áp dùng hoàn toàn Khổng Học vào đời sống hàng ngày trong thế kỷ XXI , thì không thể nào áp dụng được.

Khổng Học có nhiều cái gò bó của 1 xã hội nô lệ phong kiến, không thức thời cho 1 xã hội 25 thế kỷ sau.
Đòi hỏi như vậy như vậy thì chúng ta phần nào không hợp lý.
Tuy nhiên nếu chúng ta chấp nhận các nguyên tắc tổng quát về đạo làm người, về Triết Lý Nhân Sinh, thì cái di sản văn hóa, xã hội mà Khổng Học để lại, vẫn còn giá trị vô cùng.

Những bài học về Công Dân Giáo Dục, về Đạo làm người mà Khổng Phu Tử không phải do ông nghĩ ra, mà ông gom góp những tinh hoa của tiền nhân và truyền lại cho hậu thế,

Các bài học này hãy còn vô cùng giá trị.
Nếu chúng ta muốn thành công ở đời thì phải có chữ TÍN, phải làm sao cho mọi người tin minh là người giữ lời hứa, nói sao làm vậy.
Cái này ông Dale Carnegie dậy chúng ta, nhưng 2500 năm trước Khổng Tử cũng từng dậy chúng ta từ quá lâu rồi.
Muốn thành công ở đời phải có Trí, phải học hỏi, phải cầu tiến, phải có phát minh, phải có ambition.
Cái này người ta dậy ở tất cả các chương trình MBA của Harvard, Yale hay Stanford, Oxford, nhưng cái vấn đề này, Khổng Tử có phác họa ra và dậy chúng ta nhiều lần trong các lời giảng của Ngài với học trò hàng ngày.

Nguyên Tắc mà Không Tử viết ra 2500 năm về trước “ Đừng Làm Gì Cho Người Khác Nếu Mình Không Muốn Người Khác Làm Những Điều Đó Với Mình” vẩn còn tồn tại như một khuôn vàng thước ngọc, một kim chỉ Nam cho tất cả xã hội Âu Mỹ và Á Châu.

Nguyên Tắc căn bản này nằm - ẩn tàng - trong Hiến Pháp, trong Luật Pháp của mọi Quốc Gia, trong nền Đạo Đức của con người, của gia đình, của mọi Tôn Giáo loài người.

500 năm sau Khổng Phu Tử, một Thánh Nhân khác , Đức Chúa Jesus Christ, cũng dậy loài người những bài học Đạo Lý rất tương tự.

Nhiều người Việt Nam chúng ta có 2 điểm quan trọng mà chúng ta hiểu sai lầm:
Cái may mắn về chữ Quốc Ngữ do các nhà Truyền Giáo Ky Tô mang lại cho nước ta, đặt nước chúng ta vào 1 địa vị ưu tiên, tuyệt đối, ưu tiên hơn hết tất các các nước Đông Á khác như Trung Hoa, như Nhật, như Cao Ly, Đài Loan, Tan Gia Ba ...
Trên thực tế, ưu tiên đó không phải là tuyệt đối.
Nó làm Việt Nam chúng ta dễ dàng thu thập được , học hỏi được, các tiến bộ vô cùng quan trọng của nên văn minh Âu Mỹ,
Tuy nhiên nó gây ra 1 sự lười biếng của tâm hồn, một thoái hóa của Trí Óc.

Chúng ta phần lớn trở thành 1 dân tộc “thu thập” chứ không phải 1 dân tộc “chế tạo” “phát minh” .
Chúng ta nghĩ Khổng Học ( Confucianism) là một hành trang nặng chĩu, đè- và cản trở- đà tiến triển của dân tộc ta, của quốc gia chúng ta.
Chúng ta nghĩ Khổng Học ép chúng ta phải chịu một xã hội cố định – static- , phải dẵm chân tại chổ, không theo kip nên văn minh Âu Mỹ.

Thật tình ra, các nước Nhật Bản, Cao Ly , Đài Loan , Tan Gia Ba.. mà Không Học vẫn được tôn thờ như 1 quốc giáo (national institution) họ vươn mình lên theo đuổi và vượt qua/ hay ngang hàng / trên nhiều khía cạnh, nên văn minh Âu Mỹ .
Họ không có quốc ngữ la-tinh hóa ( Romanized alphabet & writings) nhưng họ dễ dàng khắc phục được computer bằng tiếng /chữ “tượng hình” của họ.
Với chữ “tượng hình” của họ , họ chế tạo ra nhưng con chip computers tinh vi nhất thế giới, những xe hơi Lexus hạng nhất thế giới, nhưng Monitor Samsung nhất thế giới, đồng hồ Seiko rẻ và tinh vi nhất thế giới, máy hình Nikon nhất thế giới….
Cái list còn rất dài, không thể nào kể hết trong mấy trang giấy được.
Nhưng có một điều mà nhiều khác ít để ý tới là Không Học vẩn là một quốc giáo của Nhật Bản, Dại Hàn, Đài Loan, Tân Gia Ba...
Ngay cả Trung Hoa Cộng Sản cũng vậy, trong 30 năm về sau này , chúng ta thấy có 1 cuộc cách mạng Phục Hưng ( Renaissance) của Khổng Học.
Không phải bây giờ người Trung Hoa mới thấy Khổng Học Nguyên Thủy quá lổi thời.

Các người như Chu Hy, Trình Hạo thời Tống đã khởi sự cuộc cải tổ này rồi, lập ra cái mà người ta gọi là Tống Nho
Công cuộc này được tiếp nối bởi các học giả đời Minh nữa
Họ lập ra cái Tống Minh Lý Học 宋明理學;: Sòng-Míng lǐxué , lắm khi gọi tắt là Lý Học, chứ không hề dùng chữ Khổng Học nữa.
Từ thập niên 60-70 có những hoạt động không ngừng để cải tô, phục hưng Khổng Học tại Tan Gia Ba, Đài Loan, Nam Hàn, Nhật Bản , và cả Trung Hoa nữa, nhưng bị chính quyền Bắc Kinh làm khó dễ rất nhiều.

Tại sao phải cải Tổ Phục Hưng ?
Sư Tây Phương, hiện đại hóa xã hội Đông Á Châu( western modernization of East Asian Societies) rất cần thiết,
Nhưng nó mang lại những mất mát quá đắt, thế hệ trẻ chạy theo cái hào nhoáng của nên văn minh Âu Mỹ ( Me too generation, giá trị tuyệt đối về thành công tiền bạc, giá trị tuyệt đối của kinh tế đầu tư , giá trị tuyệt đối của Chủ Nghĩa cá nhân / individualism vv…)
Xã hội tân tiến đánh mất đi những giá trị cổ truyền, nhưng tôn ti trật tự xã hội, tinh thần Công Đồng và đoàn kết xã hội, những quan niệm về tiết đô, về Hiếu Nghĩa, về thanh liêm , thanh bình tư tưởng, trong sạch.

Chu Hy và Trình Hạo trong Tống Nho có công khởi đầu gạt bỏ những liên hệ không cần thiết của Đạo Giáo và Phật Giáo ra khỏi Khổng Học.
Hành trình cải tạo và Phục Hưng của họ đã được/ đang được/ các học giả Đông Á tiếp tục làm cho Lý Học Dông Á sáng tỏ lên.

Bài này viết rất gấp gáp, sơ sài để mua vui với các anh chị, xin vui lòng tha lổi cho rất nhiều lổi lầm không tránh được khi viết.

Rất thân mến
Nguyễn Thượng Vũ

Thứ Sáu, 19 tháng 11, 2021

Cáo Phó Từ Gia Đình Dư Thị Diễm Buồn

 

Ban Biên Tập Long Hồ Vĩnh Long Thành Kính Phân Ưu Cùng Chị Dư Thị Diễm Buồn

 

Ngàn Thu Vĩnh Biệt Cựu Giáo Sư Dư Văn Biết

Xin chân thành chia buồn cùng chị Dư thị Diễm Buồn, các cháu cùng tang quyến trước nỗi mất mát
lớn lao nầy.
Cầu nguyện hương linh Anh Biết sớm được an bình nơi cõi Vĩnh Hằng.

Ngàn Thu Vĩnh Biệt

Vĩnh phúc một đời yên vui
Biệt ly duyên phận khiến xui thêm buồn
Anh hùng đến lúc lệ tuôn
Biết ngày chia cách suối nguồn thương đau.

Toronto 17/11/2021
Nguyên Trần kính bái
        

Tri Kỷ Bốn Phương Thành Kính Phân Ưu Cùng Gia Đình Dư Thị Diễm Buồn


Em Diễm Buồn thương quý,
Mới điện đàm với em ba tuần trước và được em cho hay anh Biết đang trở bệnh nặng, nhưng chị không ngờ anh đi chóng quá. Ross và chị rất đau buồn chia sẻ nỗi mất mát lớn lao này của em. Biết rằng sinh, bệnh, lão, tử là luật của kiếp người, nhưng cũng không có gì đớn đau, đứt ruột bằng khi mình mất người bạn đời suốt mấy chục năm trời chia sẻ khổ đau, ngọt bùi, ấm lạnh cùng nhau và cùng lao tâm lao lực lo cho các con ăn học nên người hữu dụng ho xã hội và làm nở mặt mẹ cha.
Chị chia sẻ với tâm sự nức nở sau này của một thi sĩ mà chị quên tên:

" Những tưởng xum vầy nơi đất khách
Nào ngờ ly biệt cõi trăm năm
Người đi thổn thức hồn son sắc
Kẻ ở năm canh lạnh chỗ nằm".

Chị thương em đứt ruột em ơi.

Minh Nguyệt 
***
Được tin buồn:
Giáo sư Dư Văn Biết 
Cũng là cựu Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Phu quân của Nữ sĩ Dư Thị Diễm Buồn vừa thất lộc, Hưởng thọ 81 tuổi
Chúng tôi vô cùng xúc động trước nỗi buồn to lớn của Nữ Sĩ
Nguyện cầu Hương Linh của Giáo sư sớm bình yên nơi cõi Phật
Thành thật chia buồn cùng Nữ Sĩ Diễm Buồn cùng tang quyến
Thành Kính Phân Ưu

Gia đình Hàn Thiên Lương
***
Vô cùng bất ngờ và thương tiếc được tin phu quân em Diễm vĩnh viễn ra đi.
Xin chia buồn với tang quyến và em Diễm gìn giữ sức khoẻ trước sự mất mát lớn lao này.
Thành Kính Phân Ưu

Ngọc Hạnh
***
Chị Diễm Buồn kính mến, em được tin anh Dư Văn Biết đã từ giã ra đi
Xin đồng hành,chia sẻ cùng chị và tang quyến, mong chị đầy đủ sức khoẻ để vượt qua nỗi khó khăn này
Nguyện cầu cho Hương Linh anh được an nghỉ thảnh thơi nơi cõi Vĩnh Hằng.
Hiệp nguyện

Em Kim Oanh
 

Hội Ái Hữu CHS PTG & ĐTĐ Bắc California Thành Kính Phân Ưu Cùng Chị Dư Thị Diễm Buồn


                          Vô cùng đau buồn khi nhận được hung tin phu quân của
chs PTG/ĐTĐ Dư Thị Diễm Buồn là
Cựu giáo sư

DƯ VĂN BIẾT

Cựu quân nhân SĐ 21/BB.
“Thương phế binh cấp độ tàn
phế 70% trên chiến trường An
Lộc năm 1972
Sanh ngày 12 tháng 6 năm
1941 tại tỉnh Bến Tre
Mạng chung ngày 14 tháng 11,
năm 2021. (Nhầm ngày 10 tháng
10 năm Tân Sửu), Yuba City,
California (Hoa Kỳ)
Hưởng thọ 80 tuổi

Tang lễ thực hiện vào ngày 16
tháng 11 năm 2021 tại “Ullrey
Memorial Chapel” Yuba City
California (Hoa Kỳ)

Chúng tôi thuộc Hội Ái Hữu CHS PTG & ĐTĐ, Bắc California.
Kính gởi lời chia buồn cùng Chị Dư Thị Diễm Buồn và tang quyến

Thành kính nguyện cầu Hương Linh Cựu giáo sư DƯ VĂN BIẾT sớm được siêu thoát nơi cõi Vĩnh Hằng.

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh
PTG&ĐTĐ Cần Thơ (Bắc California)

Thứ Năm, 18 tháng 11, 2021

Tạp Chí Nhân Văn Phân Ưu Cựu Giáo Sư Dư Văn Biết

TẠP CHÍ DÂN VĂN nhận được tin buồn:
Cựu giáo sư DƯ VĂN BIẾT.
Nguyên Sĩ Quan QLVNCH/SĐ 21/BB.
“Thương phế binh cấp độ tàn phế 70% trên chiến trường An Lộc năm 1972”.
Phu Quân của Nhà Văn & Thi Sĩ DƯ THỊ DIỄM BUỒN.
Sanh ngày 12 tháng 6 năm 1941 tại tỉnh Bến Tre.
Tạ Thế ngày 14 tháng 11, năm 2021.
Nhầm ngày 10 tháng 10 năm Tân Sửu, Yuba City, California, USA.
Thượng thọ 80 tuổi.
Thành kính chia buồn cùng NV Dư Thị Diễm Buồn và Tang Quyến.
Nguyện cầu Hương Linh Chiến Hữu Dư Văn Biết sớm siêu sanh Tịnh Độ.
Đồng kính bái.
Germany, ngày 18.12.2016


- Lý Trung Tín, Chủ Nhiệm TCDV.
- Tô Ly Hương, Chủ Bút TCDV.
- Đặng Quang Minh, Tổng Trị Sự TCDV.
- GĐ Phế Binh BĐQ Lê Thanh Tùng & Gia Đình.
- THI SĨ Ý NGA, CANADA.

Tha Nhân &Thi Hữu Thành Kính Phân Ưu Gia Đình Dư Văn Biết

Rất ngỡ ngàng nhận được tin buồn:

Chiến Hữu DƯ VĂN BIẾT cựu SQ/QLVNCH Sư Đoàn 21 BB/QLVNCH,
sinh ngày 12 tháng 6, năm 1941 tại tỉnh Bến Tre Nam VN,
TPB cấp độ 70% trên chiến trường AN LỘC 1972., đã tạ thế ngày 14 tháng 11 năm 2021 nhằm ngày 10 tháng 10 năm Tân Sửu
tại YUBA City, California, USA.
Hưởng Thượng Thọ 80 tuổi
là Phu quân của Nữ Sĩ DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Thành thật chia buồn với Nữ Sĩ, gia đình và tang quyến.
Nguyện Cầu Hương Linh cố Chiến Hữu sớm vãng sanh TỊNH ĐỘ

Tha Nhân và gia đình đồng thành Kính Phân Ưu

Tha Nhân
***
Trúc Lang xin chia buồn cùng Nữ sĩ Dư thi Diễm Buồn khi hay tin Cựu Giáo sư Dư văn Biết sinh 12/6/41 đã ra đi ngày 14/11/2021 hưởng Đại thọ 80 tuổi. Nguyện xin hương hồn Cựu Giáo sư sớm về nơi miền cực lạc. Nay thành kính phân ưu.

Trúc Lang
***
Xin chia sẻ nổi đau buồn mất mát lớn với chị Dư Thị Diễm Buồn
Nguyện cầu hương linh anh Dư Văn Biết thảnh thơi nơi cõi Niết Bàn

Chương Hà
***
Thien Phuong xin chân thành chia buồn cùng Gia ĐìnhDư Thị Diễm Buồn.
Xin kính chúc Linh Hồn Cụ Dư Văn Biết về nơi Thiên Quốc an bình, hạnh phúc ngàn thu

Kính 

Thien Phuong
***
Chân thành chia buồn cùng chị Diễm buồn và tang quyến!
Cầu nguyện hương linh Anh sớm an nghỉ nơi chốn vĩnh hằng!...

Hương Nam 
THÀNH KÍNH PHẨN ƯU!
***
Thành kính phân ưu tới chị Dư thị Diễm Buồn và tang quyến.
Em

Thiện-Bản Chicago
***
Thành kính phân ưu
Gia đình và tang quyến

Nhâm Trần (Võ Tánh 68)
San Jose , CA

Thiên Thu Rót Mật - Thơ: Phan Khâm - Nhạc: Trần Đại Bản

 

Thơ: Phan Khâm 
Nhạc: Trần Đại Bản
Ca Sĩ Duyên Quỳnh

Hẹn Nhau Kiếp Sau


Bạn là ngày
Ta là đêm
Bạn mặt trăng
Ta mặt trời
Bạn là gió
Ta là mây
Bạn là sông
Ta là núi
 
Bạn với ta
Hai cảnh đời cách biệt
Bạn với ta
Như parabol và trucj
Gặp nhau một lằn
Rồi vĩnh viễn chia ly
Như hyperbol và trucj
Bên nhau nhưng không thể gặp nhau

Bạn với ta
Như hai đường thẳng song song
Chỉ gặp nhau nơi vô định
Và ta sẽ gặp nhau kiếp sau
Nơi Tây Phương Cực Lạc
 
Hoàng Long
 

Tiếng Yêu Của Thi Nhân

 

Ta đứng ngoài xa ngó tình nồng
Nàng thơ lên tiếng giữa không trung
Em yêu, em trọng anh thắm thiết
Chỉ là tiếng thơ giữa muôn trùng

Như chiếc nai vàng trong rừng thu
Hỡi những chàng trai mắt dại khờ
Tình yêu đâu phải là rao bán
Chỉ là đối trọng của nhà thơ

Nếu đọc thơ rồi lỡ mê say
Thì cứ mê suông đừng tỏ bày
Nàng thơ sẽ bảo Ôi, anh bạn
Sao anh vẫn còn vẻ thơ ngây

Bởi thế có người than khó hiểu
Thất tình chi phối cuộc đời này
Chỉ hiểu khi nằm nơi xóm cỏ
Nhìn trăng sao mới được tỏ bày

Chung Văn

Liễu 柳 - Miên Thẫm

 

Liễu 

Khứ tuế, xuân tàn, hoàng điểu quy, 
Thu dung tiều tụy, nguyệt minh tri, 
Đông phong tạc dạ xuy hà xứ, 
Cánh nhạ tân sầu thướng hiểu mi.

Miên Thẩm
***
Dịch nghĩa: 

Năm ngoái, mùa xuân đã tàn, chim hoàng oanh bay về 
Dung nhan tiều tụy chỉ có ánh trăng sáng kia biết 
Đêm qua gió xuân thổi ở xứ nào 
Lại rước lấy mối sầu mới dâng lên nét mày thanh.

Dịch Thơ:
(1)
Năm ngoái oanh về xuân sắp phai
Dung nhan tiều tụy ánh trăng hay
Gió xuân đêm trước từ đâu thổi
Sầu sát lại thêm đọng nét ngài.

(2)
Năm ngoái oanh về xuân phai
Dung nhan tiều tụy, thở dài, trăng hay.
Gió xuân đâu đến lay lay,
Sầu thêm cao ngất đong đầy bờ mi!

Mailoc
***
柳                          Liễu
去歲春殘黃鳥歸, Khứ tuế xuân tàn hoàng điểu quy,
秋容憔悴月明知. Thu dung tiều tụy nguyệt minh tri.
東風昨夜吹何處, Đông phong tạc dạ xuy hà xứ ?
更惹新愁上曉眉. Cánh nhạ tân sầu thướng hiểu my.

Diễn Nôm:

Liễu

Năm ngoái xuân tàn oanh vội bay,
Dáng thu tiều tụy mảnh trăng soi.
Đêm qua gió cuốn về đâu nhỉ?
Lại rước thêm sầu liễu sáng nay!

Lục bát:

Xuân tàn oanh vội bay về,
Nét thu tiều tụy não nề trăng soi.
Đêm qua gió thổi nhà ai,
Sáng nay sầu đượm nét ngài ủ ê!

Đỗ Chiêu Đức
***
Liễu
 1/
Oanh về năm ngoái lúc xuân phai
Tiều tụy dung nhan, nguyệt cảm hoài
Nay gió xuân xa vừa chớm thổi
Đã nghe sầu nặng nét mi ngài

2/
Oanh quay lại khi xuân đà úa
Nét tàn phai lộ rõ dưới trăng
Đêm qua nghe gió xuân sang
Lòng vương tê tái sầu dâng nét ngài

3/
Cuối xuân năm ngoái, oanh về 
Dung nhan tiều tụy, ủ ê trăng sầu
Nay xuân vừa chớm nơi đâu
Đã nghe lòng trĩu buồn cau nét ngài.         

Phương Hà 
***
Liễu

Năm ngoái xuân tàn Oanh ghé qua
Dáng thu xơ xác dưới trăng ngà 
Gió đông đêm trước từ đâu thổi
Lại khiến mi buồn thêm xót xa.

Quên Đi
***
Liễu

Oanh bay năm trước bóng xuân tàn
Nguyệt tỏ gương thu thấy võ vàng
Gió ở đâu đêm đông thổi lại
Muộn sầu mắt lệ đẫm tuôn tràn

Mai Xuân Thanh
***
Liễu

Từ năm trước,Xuân phai Oanh đến
Dưới trăng vàng xơ xác bóng Thu
Đêm qua gió thổi về đâu?
Khiến lòng tê tái,giọt sầu dâng mi.

Song Quang
***
Liễu

Năm ngoái xuân tàn Oanh trở lại
Dáng thu áo não chỉ trăng hay
Gió xuân đêm trước từ đâu tới
Vương vấn sầu lây ủ rủ mày

Kim Phượng
***
Liễu

Năm ngoái xuân tàn Oanh vội đi
Dáng thu tiều tuỵ mảnh trăng gầy
Đêm qua gió thổi từ đâu đến
Chạnh nỗi u hoài dâng khoé mi
 
Kim Oanh


Anniversary Của Minh Và Sương Lam

20 năm Anniversary Của Minh Và Sương Lam

Những năm sau này Minh và chỉ tổ chức bình thường trong các buổi tiệc họp mặt gia đình nho nhỏ ở nhà mà thôi hoặc là trùng hợp trong những lần đi "tiếu ngạo giang hồ" để "hấp hôn" miễn là "hai đứa chúng mình vui vẻ" là được rùi.
Đây là hình anh Minh cầu hôn Sương Lam mừng 50 năm Anniversary khi đi du lịch ở Úc do Holly Huệ, sư muội Gia Long và Phái đoàn du lich ATNT tổ chức tiệc mừng 50 năm Anniversary của Minh Sương Lam luôn cho vui

Anh Minh cầu hôn Sương Lam ở bãi biển Úc Châu năm 2017


Tiệc mừng 50 th Anniversary Minh Sương Lam do Holly Huệ và ATNT tổ chức một cách bất ngờ không báo trước

Hình ảnh Minh Sương Lam đi "chào bàn" 


Holly Huệ, mặc áo có sọc ngang là sư muội Gia Long của Sương Lam, người tổ chức tiệc mừng Anniversary đặc biệt có đãi rượu vang đỏ do ATNT và Huệ đài thọ. 
Cám ơn Huệ, sư muội Gia Long dù chỉ mới lần đầu gặp nhau.  mà đã thương và tốt với chị Sương Lam như thế.

Sương Lam

Le Bonheur (Guy De Maupassant 1850-1893) - Hạnh Phúc (TháiLan Dịch)


Nhà Văn Pháp
GUY DE MAUPASSANT 
(1850 – 1893)

Tư tưởng phê bình của Maupassant thường nhắm vào luân lý đạo đức xã hội. Cái nhìn căn bản của ông là đề tài hiện thực, ảnh hưởng của Gustave Flaubert, và các khía cạnh về lối tự thuật. Sức khoẻ của Maupassant đã gây nhiều khó khăn cho ông. Có thể nói, tình trạng sức khoẻ của Maupassant đã khiến ông khủng hoảng trầm trọng và ngã quỵ từ tâm hồn đến thể xác. Trong câu truyện Le Horla , ta sẽ thấy rõ bằng chứng của một tâm hồn bất bình thường nơi Maupassant.
Chủ nghĩa bi quan, hoài nghi là cảm quan chính chi phối nhiều sáng tác của ông và ông còn đi xa hơn thầy Flaubert của mình về "sự tuyệt vọng triết học" (le désespoir philosophique). Tác phẩm của Maupassant là sự thể hiện của niềm thất vọng trước sự bé nhỏ và bất lực của con người trước xã hội và định mệnh, về sự tuyệt vọng đã dập tắt mọi khát vọng, về cái ác... Chính sự tuyệt vọng triết học này đã làm cho quan niệm nghệ thuật về con người của ông trở nên bi quan khi ông cho rằng mình đang phản ánh những con người "chưa bao giờ ít chất người hơn thế".
Chỉ trong vòng một thập niên, ông đã viết gần 300 truyện ngắn, 200 bài đăng báo, 6 quyển tiểu thuyết và 3 bút ký du hành – chứng tỏ một sức sáng tác rất mạnh. Anh em trong Viện Hàn Lâm Goncourt đặt tên cho ông là “con bò mộng vùng Normandie” (Tây Bắc nước Pháp)
Trong số tác phẩm nổi tiếng của ông có thể kể Une vie (Một cuộc đời), Bel-Ami (Anh bạn đẹp), Pierre et Jean, Fort comme la Mort (Mạnh hơn cái chết ) và Clair de Lune. (Sáng Trăng)

Sau đây là một truyện ngắn của ông
𝓽𝓷𝓵
***
Hạnh Phúc

Đã đến giờ uống trà, trước khi thành phố lên đèn. Ngôi biệt thự nhô cao trên biển; ánh dương dần tắt để lại bầu trời toàn màu hồng rực đỏ, rắc đầy những hạt vàng long lanh; rồi mặt nước Thái Bình Dương, không một gợn sóng, nhẵn nhụi, vẫn còn lóng lánh trong ánh sáng đang tàn, trông như một tấm kim loại phẳng và dài vô tận.

Phía xa kia, những ngọn núi sừng sững kề bên nhau như hình khía cạnh, đang in bóng hình sẫm màu của chúng lên nền đỏ tía của hoàng hôn đang về.
Mọi người đang bàn về tình yêu, cái đề tài cũ rích của muôn thuở ấy, rồi họ lặp đi lặp lại bao nhiêu điều đã được bàn cãi nhiều lần rồi. Nỗi u hoài êm dịu của cảnh đêm xuống dần làm cho lời nói trở nên chậm chạp hơn, làm cho tâm hồn trở nên sâu lắng hơn, và tiếng "tình yêu" ấy, trở đi trở lại không ngớt, đôi khi do một giọng nam, mạnh mẽ cương quyết, đôi khi lại là giọng nữ thốt lên, với âm sắc thanh cao, có vẻ như khỏa tràn đầy căn phòng nhỏ, bay lượn như những chú chim yểu điệu, làm lâng lâng hồn người..
Ta có thể yêu trong nhiều năm liên tiếp không?
- Có chứ, vài người khẳng định.
- Không thể được, người khác chen vào.
Rồi họ nêu lên những thí dụ, rồi phân định theo trường hợp; và tất cả bọn họ, nam lẫn nữ, trong họ đang hiện lên bao nhiêu kỷ niệm làm họ bối rối, bỗng trở nên lãng mạn, nhưng họ không thể kể lại, trong khi những lời ấy đang sẵn sàng được thốt lên, làm họ xúc động, và họ nói đến việc quá tầm thường nhưng đầy uy lực ấy, cái sự việc hòa hợp êm dịu và huyền bí giữa hai sinh vật ấy, bằng một giọng đầy cảm xúc sâu lắng và một sự hứng thú nồng nhiệt tột đỉnh.

Bỗng dưng có một người đang nhìn về phía xa thốt lên:
- Các bạn ơi, nhìn kìa, đó là gì vậy?
Trên mặt nước, một mảng khổng lồ xám ngắt lờ mờ xuất hiện ở cuối chân trời.
Những người phụ nữ đứng bật lên và nhìn vào vật kỳ dị ấy mà họ chưa bao giờ được biết.
Có người xác nhận: "- Đó là đảo Corse! Ta có thể nhìn thấy nó trong vài trường hợp khí hậu đặc biệt, nếu không khí trong suốt làm tan những mảng sương mù dày đặc che lấp những cánh vật ở xa ."
Ta có thể nhìn rõ những đỉnh núi , nhận rõ lớp tuyết phủ trên cao ấy. Rồi mọi người đều ngạc nhiên, hầu như kinh sợ khi thấy xuất hiện hình ảnh ma quái như từ dưới mặt biển nhô lên. Có thể họ thấy những điều kỳ quặc như Christophe Colomb đã qua những đại dương chưa được thám hiểm chăng?
Thế rồi, một người đàn ông có tuổi từ nãy giờ chưa nói lời nào bỗng lên tiếng:
- Đây này, trên hòn đảo đang hiện lên trước mắt chúng ta, tôi có biết một câu chuyện, làm như thể hòn đảo đang đáp ứng đến vấn đề mà chúng ta bàn cãi từ nãy giờ, tôi nhớ đến một câu chuyện làm một thí dụ về tình yêu vĩnh cửu, một tình yêu huyền hoặc khó tin nhưng thật sự hạnh phúc.

Năm năm trước đây tôi đến du lịch ở đảo Corse. Đảo ốc hoang sơ và rất xa lạ , và xa xôi đối với chúng ta, xa hơn cả Mỹ quốc, cho dù đôi khi ta có thể nhìn thấy nó từ bờ biển nước Pháp, như hôm nay.
Các bạn hãy tưởng tượng một vùng trời với mọi thứ đều hỗn độn, một hàng núi với thung lũng sâu và hẹp , bên dưới là những dòng thác lũ, không có mảng đồng bằng nào cả, toàn là rừng cây bụi hoặc cây dẻ và thông cao vút. Đó là vùng đất bỏ hoang, vắng vẻ, cho dù lác đác đó đây có một ngôi làng, cứ như một cụm đá tảng trên đỉnh núi. Không có vườn tược, không có bất cứ ngành công nghiệp nào, không có cả nghệ thuật. Chưa bao giờ tìm thấy được một miếng gỗ khắc chạm, một mảnh đá tạc hình thù nào, không bao giờ có kỷ niệm thời ấu thơ nào về người tổ tiên có quá khứ phong nhã.. Chính nơi mảnh đất tuyệt đẹp nhưng khô cằn này cũng có một điều đáng kinh ngạc nhất: đó là sự thờ ơ truyền kiếp cho việc nghiên cứu về hình thái hấp dẫn được gọi là nghệ thuật.

Nước Ý, nơi mà mỗi tòa lâu đài đều tràn đầy kiệt tác , và ngay chính nó cũng đã là một kiệt tác rồi, ở nơi này tất cả mọi thứ, từ cẩm thạch, gỗ, đồng, sắt, kim loại và cả đá tảng đều chứng thực cho thiên tài của loài người, nơi đó ngay cả những đồ vật cổ xưa nhỏ bé nhất lê lết trong những ngôi nhà cổ kính đã tiết lộ mối quan tâm thiêng liêng về ân điển, đối với tất cả chúng ta, là một xứ sở thiêng liêng mà ta hằng yêu mến bởi vì nó chứng minh bằng bao nhiêu thí dụ về sự cố gắng, sự cao quý, sức mạnh và sự thành công của trí năng sáng tạo.
Và rồi, ngay đối diện với đất nước tuyệt vời ấy, là đảo Corse hoang dã, vẫn y như những ngày đầu buổi sơ khai. Con người vẫn sinh sống trong ngôi nhà thô thiển, thờ ơ với tất cả những gì không liên quan đến sự sinh tồn của họ, hoặc những cuộc cãi vã trong gia đình họ. Và con người ấy vẫn không thay đổi qua thời gian, với những tính tốt hoặc khuyết điểm của loài vô học, hung bạo, hằn thù, khát máu một cách vô ý thức, nhưng cũng rất hiếu khách, độ lượng, tận tâm, khờ khạo, sẵn sàng mở rộng cửa đón người đi đường và mở rộng vòng tay hào hiệp làm bạn trung thành khi nhận ra bất kỳ một biểu hiện thiện cảm nào từ đối phương.

Từ một tháng ròng rã, tôi lang thang trong hải đảo tuyệt vời ấy, với cảm giác là tôi đang đến tận chân mây cuối trời. Không có quán trọ, không có quán rượu, không một con đường nào cả. Ta chỉ dùng những con la để đến những thôn xóm như được máng vào sườn núi, những ngôi nhà ấy nằm chót vót trên những vực thẳm ngoằn ngoèo, rồi khi đêm đến thì ta lại nghe tiếng dòng thác chảy liên tục , một âm thanh nghẹn đục dưới sâu thẳm. Ta đến gõ cửa bất cứ ngôi nhà nào. Ta xin ngủ trọ một đêm và thức ăn cầm cự cho đến hôm sau. Và rồi ta sẽ đến ngồi ở chiếc bàn thô sơ, rồi ngủ dưới mái nhà nghèo hèn; rồi đến sáng thì ta lại siết bàn tay thân thiện của chủ nhà, và người ấy sẽ tiễn ta ra đến bìa của ngôi làng.
Nhưng rồi vào một buổi chiều, sau khi đi bộ cả mười tiếng đồng hồ, tôi đã gặp một ngôi nhà trơ trọi dưới một thung lũng nhỏ hẹp đưa ra bờ biển không xa. Hai bên sườn dốc của ngọn núi đầy cả cây bụi, với những tảng đá sạt lở và cây cối cao ngồng, làm thành bức tường u tối bao trùm lấy cái rãnh xói thật thảm thương này.

Quanh túp lều chỉ có vài khu vườn nho , một góc vườn bé tí, rồi xa kia là vài cây dẻ, tất cả những thứ này chỉ để sống qua ngày, nhưng lại là cả một gia tài ở cái xứ nghèo này.
Người phụ nữ ra tiếp đón tôi lớn tuổi rồi, vẻ mặt nghiêm nghị, ăn mặc tươm tất. Người đàn ông thì ngồi trên cái ghế rơm, đứng lên chào rồi ngồi xuống lại, không nói một lời.
Bà cụ giải thích : - Xin khách tha lỗi cho ông ấy, ông đã lãng tai rồi, Ông ấy năm nay đã chín mươi hai tuổi.
Bà cụ nói bằng một giọng Pháp rất chuẩn*.
Tôi vô cùng ngạc nhiên.
Tôi vội hỏi bà ta:
- Bà không phải người xứ Corse này sao?
Ba trả lời:
- Không, chúng tôi là người Pháp . Nhưng chúng tôi sinh sống ở đây đến nay là đúng năm mươi năm rồi.
Một luồng cảm giác kinh hoàng và lo âu bỗng như một luồng điện chạy trong thâm tâm tôi, ôi ! năm mươi năm sống ở góc khuất u tối này, quá xa nơi thị thành của loài người đúng nghĩa. Một người chăn cừu già nua vừa trở về , và mọi người bắt đầu dùng món ăn tối duy nhất, đó là món súp đặc được nấu với khoai, bắp cải và mỡ béo.

Khi bữa ăn đạm bạc mau chóng kết thúc, tôi ra ngồi phía trước cửa, tim tôi bỗng se thắt khi nhìn khung trời ảm đạm của cảnh vật u buồn, loại cảm giác đôi khi len vào hồn những kẻ lữ hành khi đến một vài nơi hoang vắng nào đó, và bị xúc động trong vài buổi chiều lãng mạn nào đó... Có vẻ như mọi việc đang dần dần kết thúc, cả sự sống lẫn vũ trụ. Bỗng dưng ta nhận thức được về sự khốn cùng của cuộc đời, sự cô lập với tất cả, cái hư vô của mọi việc, và nỗi cô đơn đen tối của con tim đang tự nó ru ngủ và tự nó lừa dối chính nó bằng những giấc mơ hư ảo cho đến khi tàn cuộc.
Bà cụ đến chỗ tôi ngồi và băn khoăn với sự tò mò luôn hiện hữu trong tâm của những người kiên nhẫn nhất:
- Vậy là ông từ Pháp đến đây sao? bà hỏi.
- Dạ vâng ạ, tôi đi du lịch vì sở thích, tôi rất hay đi, thưa bà.
- Có lẽ ông từ thành phố Paris đến?
- Dạ không , tôi sống ở Nancy.
Hình như là có một nỗi xúc cảm nào thật kỳ lạ đang dấy lên trong lòng bà. Làm thế nào mà tôi nhìn thấy hoặc cảm nhận điều đó được, tôi cũng không biết giải thích như thế nào.
Rồi bà lập lại bằng một giọng thật chậm rãi:
- Ông sống ở Nancy à?
Người đàn ông hiện ra ở ngưỡng cửa, thản nhiên, vô cảm như tất cả những người bị khiếm thính.
Bà lại nói tiếp:
- Không sao đâu. Ông ấy không nghe gì cả.
Rồi, ngập ngừng một lúc, bà lại hỏi:
- Như thế thì ông biết rất nhiều người ở Nancy đúng không ông?
- Dạ thưa vâng ạ. Tôi biết hầu như tất cả mọi người ở đó.
- Cả gia đình họ Sainte-Allaize?
-Vâng, tôi biết họ rất rõ: họ là bạn của ba tôi.
-Thế ông tên gì vậy?
Tôi nói cho ba biết tên của tôi.
Bà nhìn chằm chằm vào tôi, rồi hạ giọng xuống , như ta vẫn thường làm khi gợi lên những kỷ niệm dấu yêu:
- A, vâng, vâng, tôi nhớ ra rồi. Và còn gia đình Brisemare, tất cả mọi người ra sao rồi?
- Cả gia đình ấy đều quá vãng cả rồi.
- À, Thế còn gia đình Sirmont, ông có biết họ không?
- Thưa có ạ, cậu út bây giờ là đại tướng rồi.
Thế rồi, bà thốt lên, run rẩy vì xúc động, vì bồn chồn, vì một thứ tình cảm nào tôi không hiểu mà thật là mập mờ, mãnh liệt nhưng rất thiêng liêng, vô cùng cần thiết để thú nhận, để nói ra tất cả những điều bà đã cất giữ từ bấy lâu trong sâu tận đáy lòng, và nói về những người khi nhắc đến tên sẽ làm xao xuyến tâm hồn bà:
- Đúng rồi , đó là Henri de Sirmont. Tôi biết rõ điều này. Cậu ấy là em trai của tôi.
Tôi bèn nhìn bà, hốt hoảng vì kinh ngạc. Rồi bỗng dưng trong trí tôi hiện ra tất cả sự việc.
Sự việc ấy lúc đó là một vụ tai tiếng kinh hoàng trong giới quý tộc vùng Lorraine. Một cô gái rất đẹp và giàu có đã bị một gã hạ sĩ quan trong quân đoàn kỵ binh của cha mình bắt cóc rồi mang đi xa.
Anh ấy là một gã bảnh trai, con của đôi vợ chồng nông dân, nhưng thật oai hùng trong bộ áo nẹp đồng phục màu xanh dương, cái anh nhà binh đã hớp hồn và quyến rũ được ái nữ của ngài đại tá thượng cấp của anh ta. Có lẽ cô ấy đã nhìn thấy anh lính, để ý rồi yêu cậu ta khi thấy đoàn kỵ binh diễn hành ngang qua phố chăng? Nhưng làm thế nào cô ấy nói chuyện được với người yêu, làm thế nào họ gặp nhau được, rồi cảm thấy hợp nhau? Làm thế nào cô ta có can đảm cho anh ta hiểu rằng cô yêu anh? Điều này không ai có thể biết được, và sẽ không bao giờ biết.

Không ai đoán biết được, không ai có thể ngờ được. Một buổi tối nọ, sau khi anh lính hoàn thành nhiệm vụ canh gác, anh đã biến mất, cùng với cô gái. Mọi người đi lùng sục tìm tòi khắp mọi nơi, nhưng không thể tìm ra được. Không có bất kỳ một tin tức nào về họ, và mọi người đều cho rằng cô bé đã mất xác ở một nơi nào đó.
Thế rồi, giờ đây tôi lại gặp cô ấy trong cái thung lung thảm sầu này.
Bây giờ đến lượt tôi nói:
- Vâng, tôi nhớ rất rõ. Bà là cô Suzanne.
Bà ấy gật đầu. Hai hàng nước mắt lăn dài xuống má. Rồi quay đầu về phía ông lão đứng im trên ngưỡng cửa ở túp lều rách nát, bà lại nói:
- Ông ấy đó.
Và rồi, khi nhìn thấy ánh mắt tràn đầy yêu thương của bà nhìn ông, tôi hiểu rằng bà vẫn luôn yêu ông, một tình yêu bất diệt.
Tôi hỏi:
-Ít ra bà cũng đã có được những ngày hạnh phúc chứ?
Bà trả lời, bằng một giọng thốt ra từ đáy tim:
- Ồ, vâng, rất hạnh phúc. Ông ấy đã đem hạnh phúc vô biên đến cho tôi. Tôi chưa bao giờ hối hận điều gì cả.
Tôi nhìn kỹ người phụ nữ này, cảm thấy thật buồn, kinh ngạc vì nhận ra sức mạnh của tình yêu sao mãnh liệt vô cùng! Cô gái con nhà giàu này đã đi theo người đàn ông, người nông phu kia. Rồi chính bà cũng biến thành người nông dân với ruộng vườn. Bà đã sống cuộc đời riêng của bà, không cần xinh đẹp duyên dáng, không cần xa hoa cao sang, không cần ẻo lả cầu kỳ theo bất cứ kiểu nào; bà đã thu mình phục tùng theo những thói quen trở nên quá đơn giản của cuộc sống này. Tuy vậy bà vẫn một mực yêu ông ấy.

Bà đã thành một người phụ nữ của giới nông dân quê mùa, đội nón đơn giản không vành , mặc váy may bằng vải thô. Bà dùng dĩa tô làm bằng đất để dùng bữa, trên một cái bàn gỗ, ngồi trên ghế rơm, chỉ với một món súp bắp cải và khoai nấu với chút mỡ. Và bà nghỉ lưng trên một tấm nệm độn rơm, bên cạnh ông ấy.
Bà đã không suy nghĩ đến bất cứ điều gì khác ngoài ông ấy! Bà đã không nuối tiếc những món trang sức, lụa là nhung gấm, những trang phục yêu kiều, những chiếc ghế thật êm ả, không gian ấm áp thơm tho ở những căn phòng có giăng đầy màn trướng sang trọng, hoặc trầm mình vào chăn nệm lông tơ mịn ấm để nghỉ ngơi . Bà không màn bất kỳ thứ gì, bất cứ điều gì, mà chỉ có ông ấy thôi; khi có ông bên cạnh, bà không còn tha thiết gì nữa.

Bà ấy đã bỏ gia đình, khi còn rất trẻ, cùng với toàn bộ thế giới loài người, và tất cả những người đã nuôi dưỡng bà , đã yêu mến bà. Bà đã đi một mình cùng ông ấy đến nơi rãnh xói sâu xa hoang vắng này . Và ông ấy là tất cả đối với bà, là tất cả những gì người ta ước ao, tất cả những gì ta luôn mong chờ, tất cả những gì ta tin tưởng ở tương lai, không bao giờ dứt...Ông ấy đã khỏa lấp tràn đầy cuộc sống của bà , một cách trọn vẹn.
Bà không thể nào tìm hạnh phúc ở đâu hơn nữa.
Và suốt đêm hôm đó, khi lắng nghe tiếng ngáy đều đặn , khàn đục của người chiến binh già nua ấy nằm trên chiếc giường tồi tàn cũ kỹ, bên cạnh người phụ nữ đã bỏ tất cả để đi theo ông từ một nơi rất xa, tôi suy nghĩ đến cuộc phiêu lưu kỳ quặc nhưng quá đơn giản kia, và đến niềm hạnh phúc quá hoàn hảo, được xây dựng từ những điều kiện quá tối thiểu..
Đến sáng hôm sau, tôi siết tay giã từ đôi vợ chồng cao tuổi ấy khi bình mình vừa ló dạng.

Người kể chuyện ngừng một lúc.
Một người phụ nữ thốt lên:
- Bà ấy không cần biết, vì bà có một lý tưởng quá đơn giản, những nhu cầu quá cơ bản và đòi hỏi quá dễ dàng. Bà thật là điên rồ.
Một phụ nữ khác chậm rãi trả lời:
- Cũng đâu có vấn đề gì! Bà ấy hạnh phúc là được rồi.
Và rồi từ nơi xa kia, ở dưới chân trời, đảo Corse lún sâu vào bóng đêm, chui sâu vào đại dương, xóa mờ bóng hình to lớn của nó, như thể nó chỉ xuất hiện ra để tự nó kể cho ta nghe câu chuyện về đôi uyên ương rất hèn mọn tầm thường kia đang ẩn tàng trong thân mình nó.

(Truyện ngắn đăng trên báo Le Gaulois, ngày 16/3/1884.)
TháiLan dịch
------------------
GHI CHÚ
* Người sống ở đảo này nói tiếng gần giống như tiếng Latinh, và thổ ngữ của tiếng Ý.

Chú thích của một người Pháp:
Nước Pháp = đất liền.
Đảo Corse= hòn đảo của nước Pháp.
Đảo Corse như là một lãnh thổ riêng rẽ, họ không cho mình là người Pháp, cho dù họ có nguồn gốc từ Pháp, và người trên đất Pháp xem họ như thuộc dân tộc lạc hậu. Nếu bạn không phải là dân bản xứ, bạn rất khó hội nhập vào hải đảo này.

Le Bonheur


C'était l'heure du thé, avant l'entrée des lampes. La villa dominait la mer; le soleil disparu avait laissé le ciel tout rose de son passage, frotté de poudre d'or; et la Méditerranée, sans une ride, sans un frisson, lisse, luisante encore sous le jour mourant, semblait une plaque de métal polie et démesurée.

Au loin, sur la droite, les montagnes dentelées dessinaient leur profil noir sur la pourpre pâlie du couchant.
On parlait de l'amour, on discutait ce vieux sujet, on redisait des choses qu'on avait dites, déjà, bien souvent. La mélancolie douce du crépuscule ralentissait les paroles, faisait flotter un attendrissement dans les âmes, et ce mot: "amour", qui revenait sans cesse, tantôt prononcé par une forte voix d'homme, tantôt dit par une voix de femme au timbre léger, paraissait emplir le petit salon, y voltiger comme un oiseau, y planer comme un esprit.
Peut-on aimer plusieurs années de suite?
- Oui, prétendaient les uns.
- Non, affirmaient les autres.

On distinguait les cas, on établissait des démarcations, on citait des exemples; et tous, hommes et femmes, pleins de souvenirs surgissants et troublants, qu'ils ne pouvaient citer et qui leur montaient aux lèvres, semblaient émus, parlaient de cette chose banale et souveraine, l'accord tendre et mystérieux de deux êtres, avec une émotion profonde et un intérêt ardent.

Mais tout à coup quelqu'un, ayant les yeux fixés au loin, s'écria:
- Oh! voyez, là-bas, qu'est-ce que c'est?
Sur la mer, au fond de l'horizon, surgissait une masse grise, énorme et confuse.
Les femmes s'étaient levées et regardaient sans comprendre cette chose surpenante qu'elles n'avaient jamais vue.
Quelqu'un dit:
- C'est la Corse! On l'aperçoit ainsi deux ou trois fois par an dans certaines conditions d'atmosphère exceptionnelles, quand l'air, d'une limpidité parfaite, ne la cache plus par ces brumes de vapeur d'eau qui voilent toujours les lointains.

On distinguait vaguement les crêtes, on crut reconnaître la neige des sommets. Et tout le monde restait surpris, troublé, presque effrayé par cette brusque apparition d'un monde, par ce fantôme sorti de la mer. Peut-être eurent-ils des visions étranges, ceux qui partirent, comme Colomb, à travers les océans inexplorés.

Alors, un vieux monsieur, qui n'avait pas encore parlé, prononça:
- Tenez, j'ai connu dans cette île, qui se dresse devant nous, comme pour répondre elle-même à ce que nous disions et me rappeler un singulier souvenir, j'ai connu un exemple admirable d'un amour constant, d'un amour invraisemblablement heureux.
Le voici.
Je fis, voilà cinq ans, un voyage en Corse. Cette île sauvage est plus inconnue et plus loin de nous que l'Amérique, bien qu'on la voie quelquefois des côtes de France, comme aujourd'hui.

Figurez-vous un monde encore en chaos, une tempête de montagnes que séparent des ravins étroits où roulent des torrents; pas une plaine, mais d'immenses vagues de granit et de géantes ondulations de terre couvertes de maquis ou de hautes forêts de châtaigniers et de pins. C'est un sol vierge, inculte, désert, bien que parfois on aperçoive un village, pareil à un tas de rochers au sommet d'un mont. Point de culture, aucune industrie, aucun art. On ne rencontre jamais un morceau de bois travaillé, un bout de pierre sculptée, jamais le souvenir du goût enfantin ou raffiné des ancêtres pour les choses gracieuses et belles. C'est là même ce qui frappe le plus en ce superbe et dur pays: l'indifférence héréditaire pour cette recherche des formes séduisantes qu'on appelle l'art.

L'Italie, où chaque palais, plein de chefs-d'oeuvre, est un chef-d'oeuvre lui-même, où le marbre, le bois, le bronze, le fer, les métaux et les pierres attestent le génie de l'homme, où les plus petits objets anciens qui traînent dans les vieilles maisons révèlent ce divin souci de la grâce, est pour nous tous la patrie sacrée que l'on aime parce qu'elle nous montre et nous prouve l'effort, la grandeur, la puissance et le triomphe de l'intelligence créatrice.

Et, en face d'elle, la Corse sauvage est restée telle qu'en ses premiers jours. L'être y vit dans sa maison grossière, indifférent à tout ce qui ne touche point son existence même ou ses querelles de famille. Et il est resté avec les défauts et les qualités des races incultes, violent, haineux, sanguinaire avec inconscience, mais aussi hospitalier, généreux, dévoué, naïf, ouvrant sa porte aux passants et donnant son amitié fidèle pour la moindre marque de sympathie.

Donc, depuis un mois, j'errais à travers cette île magnifique, avec la sensation que j'étais au bout du monde. Point d'auberges, point de cabarets, point de routes. On gagne, par des sentiers à mulets, ces hameaux accrochés au flanc des montagnes, qui dominent des abîmes tortueux d'où l'on entend monter, le soir, le bruit continu, la voix sourde et profonde du torrent. On frappe aux portes des maisons. On demande un abri pour la nuit et de quoi vivre jusqu'au lendemain. Et on s'assoit à l'humble table, et on dort sous l'humble toit; et on serre, au matin, la main tendue de l'hôte qui vous a conduit jusqu'aux limites du village.

Or, un soir, après dix heures de marche, j'atteignis une petite demeure toute seule au fond d'un étroit vallon qui allait se jeter à la mer une lieue plus loin. Les deux pentes rapides de la montagne, couvertes de maquis, de rocs éboulés et de grands arbres, enfermaient comme deux sombres murailles ce ravin lamentablement triste.
Autour de la chaumière, quelques vignes, un petit jardin, et plus loin, quelques grands châtaigniers, de quoi vivre enfin, une fortune pour ce pays pauvre.
La femme qui me reçut était vieille, sévère et propre, par exception. L'homme, assis sur une chaise de paille, se leva pour me saluer, puis se rassit sans dire un mot. Sa compagne me dit:
- Excusez-le; il est sourd maintenant. Il a quatre-vingt-deux ans.
Elle parlait le francais de France. Je fus surpris.
Je lui demandai:
- Vous n'êtes pas de Corse?
Elle répondit:
- Non, nous sommes des continentaux. Mais voilà cinquante ans que nous habitons ici.
Une sensation d'angoisse et de peur me saisit à la pensée de ces cinquante années écoulées dans ce trou sombre, si loin des villes où vivent les hommes. Un vieux berger rentra, et l'on se mit à manger le seul plat du dîner, une soupe épaisse où avaient cuit ensemble des pommes de terre, du lard et des choux.

Lorsque le court repas fut fini, j'allai m'asseoir devant la porte, le coeur serré par la mélancolie du morne paysage, étreint par cette détresse qui prend parfois les voyageurs en certains soirs tristes, en certains lieux désolés. Il semble que tout soit près de finir, l'existence et l'univers. On perçoit brusquement l'affreuse misère de la vie, l'isolement de tous, le néant de tout, et la noire solitude du coeur qui se berce et se trompe lui-même par des rêves jusqu'à la mort.
La vieille femme me rejoignit et, torturée par cette curiosité qui vit toujours au fond des âmes les plus résignées:
- Alors. vous venez de France? dit-elle.
- Oui, je voyage pour mon plaisir.
- Vous êtes de Paris, peut-être?
- Non, je suis de Nancy.
Il me sembla qu'une émotion extraordinaire l'agitait. Comment ai-je vu ou plutôt senti cela, je n'en sais rien.
Elle répéta d'une voix lente:
- Vous êtes de Nancy?
L'homme parut dans la porte, impassible comme sont les sourds.
Elle reprit:
- Ça ne fait rien. Il n'entend pas.
Puis, au bout de quelques secondes:
- Alors, vous connaissez du monde à Nancy?
- Mais oui, presque tout le monde.
- La famille de Sainte-Allaize?
- Oui, très bien; c'étaient des amis de mon père.
- Comment vous appelez-vous?
Je dis mon nom. Elle me regarda fixement, puis prononça, de cette voix basse qu'éveillent les souvenirs:
- Oui, oui, je me rappelle bien. Et les Brisemare qu'est-ce qu'ils sont devenus?
- Tous sont morts.
- Ah! Et les Sirmont, vous les connaissiez?
- Oui, le dernier est général.

Alors elle dit, frémissante d'émotion, d'angoisse, de je ne sais quel sentiment confus, puissant et sacré, de je ne sais quel besoin d'avouer, de dire tout, de parler de ces choses qu'elle avait tenues jusque-là enfermées au fond de son coeur, et de ces gens dont le nom bouleversait son âme:
- Oui, Henri de Sirmont. Je le sais bien. C'est mon frère.
Et je levai les yeux vers elle, effaré de surprise. Et tout d'un coup le souvenir me revint.

Cela avait fait, jadis, un gros scandale dans la noble Lorraine. Une jeune fille, belle et riche, Suzanne de Sirmont, avait été enlevée par un sous-officier de hussards du régiment que commandait son père.
C'était un beau garçon, fils de paysans, mais portant bien le dolman bleu, ce soldat qui avait séduit la fille de son colonel. Elle l'avait vu, remarqué, aimé en regardant défiler les escadrons, sans doute. Mais comment lui avait-elle parlé, comment avaient-ils pu se voir, s'entendre? comment avait-elle osé lui faire comprendre qu'elle l'aimait? Cela, on ne le sut jamais.

On n'avait rien deviné, rien pressenti. Un soir, comme le soldat venait de finir son temps, il disparut avec elle. On les chercha, on ne les retrouva pas. On n'en eut jamais de nouvelles et on la considérait comme morte.
Et je la retrouvais ainsi dans ce sinistre vallon.
Alors, je repris à mon tour:
- Oui, je me rappelle bien. Vous êtes mademoiselle Suzanne.
Elle fit "oui", de la tête. Des larmes tombaient de ses yeux. Alors, me montrant d'un regard le vieillard immobile sur le seuil de sa masure, elle me dit:
- C'est lui.
Et je compris qu'elle l'aimait toujours, qu'elle le voyait encore avec ses yeux séduits.
Je demandai:
- Avez-vous été heureuse, au moins?
Elle répondit, avec une voix qui venait du coeur:
- Oh! oui, très heureuse. Il m'a rendue très heureuse. Je n'ai jamais rien regretté.

Je la contemplais, triste, surpris, émerveillé par la puissance de l'amour! Cette fille riche avait suivi cet homme, ce paysan. Elle était devenue elle-même une paysanne. Elle s'était faite à sa vie sans charmes, sans luxe, sans délicatesse d'aucune sorte; elle s'était pliée à ses habitudes simples. Et elle l'aimait encore. Elle était devenue une femme de rustre, en bonnet, en jupe de toile. Elle mangeait dans un plat de terre sur une table de bois, assise sur une chaise de paille, une bouillie de choux et de pommes de terre au lard. Elle couchait sur une paillasse à son côté.

Elle n'avait jamais pensé à rien, qu'à lui! Elle n'avait regretté ni les parures, ni les étoffes, ni les élégances, ni la mollesse des sièges, ni la tiédeur parfumée des chambres enveloppées de tentures, ni la douceur des duvets où plongent les corps pour le repos. Elle n'avait eu jamais besoin que de lui; pourvu qu'il fût là, elle ne désirait rien.
Elle avait abandonné la vie, toute jeune, et le monde, et ceux qui l'avaient élevée, aimée. Elle était venue, seule avec lui, en ce sauvage ravin. Et il avait été tout pour elle, tout ce qu'on désire, tout ce qu'on rêve, tout ce qu'on attend sans cesse, tout ce qu'on espère sans fin. Il avait empli de bonheur son existence, d'un bout à l'autre.
Elle n'aurait pas pu être plus heureuse.

Et toute la nuit, en écoutant le souffle rauque du vieux soldat étendu sur son grabat, à côté de celle qui l'avait suivi si loin, je pensais à cette étrange et simple aventure, à ce bonheur si complet, fait de si peu.
Et je partis au soleil levant, après avoir serré la main des deux vieux époux.
Le conteur se tut. Une femme dit:
- C'est égal, elle avait un idéal trop facile, des besoins trop primitifs et des exigences trop simples. Ce ne pouvait être qu'une sotte.
Une autre prononça d'une voix lente:
- Qu'importe! elle fut heureuse.

Et là-bas, au fond de l'horizon, la Corse s'enfonçait dans la nuit, rentrait lentement dans la mer, effaçait sa grande ombre apparue comme pour raconter elle-même l'histoire des deux humbles amants qu'abritait son rivage.

Nouvelle parue dans le Gaulois, le 16 mars 1884
Guy De Maupassant
TháiLan Dịch

Thứ Tư, 17 tháng 11, 2021

Thu Vàng Trong Khu Phố

 Hình ảnh khu nhà Hồng Thủy đầu tháng 11, khi lá thu mới thực sự đổi màu


Hình Ảnh: Hồng Thủy