Thứ Bảy, 1 tháng 2, 2020

Thành Kính Chia Buồn Cùng Gia Đình Nhà Văn Hồ Trường An





Xuân Thanh Bình - Lan Thanh - Ca Đoàn Ngàn Thông


Sáng Tác:Lan Thanh
Ca Đoàn: Ngàn Thông


Xuân Đang



Xuân tươi xuân sắc sắc xuân đang
Ngàn đóa hoa lay dưới nắng vàng
Cánh én miệt mài đưa đẩy gió
Say sưa hương nhụy bướm mơ màng
Vô tư trẻ nhỏ đang đùa giỡn
Lặng với nỗi buồn ông lão mang
Khi nhớ năm xưa ngày tết đến
Má ngồi nấu bánh đếm canh tàn

Má ngồi nấu bánh đếm canh tàn
Gió bấc theo từng đợt rét lan
Sương phủ đêm về trời buốt lạnh
Nước sôi hơi tỏa tiếng reo vang
Bập bùng ánh lửa soi lên tóc
Cằn cỗi tuổi già Má nặng mang
Chợt thấy niềm vui trong ánh mắt
Khi nồi bánh chín lúc xuân sang...


Quên Đi

Chúc Mừng Năm Mới( Hát Nói)



MƯỠU:
Hân hoan đón Tết, mừng xuân
Gia đình đoàn tụ quây quần bên nhau
Chung vui hai tiếng đồng bào
Nâng ly ta chúc chúc nhau an lành…

NÓI:
Kìa tươi thắm sao đồng hoa nội cỏ
Tô nên màu rực rỡ tháng ngày xuân
Tiết thời như như thể đãi thế nhân
Lặng mà nghe bước Chúa Xuân đang đến
Tân Niên Vạn Phúc Bình An Tiến. Xuân Nhất, Vinh Hoa Phú Quý Lai

Lòng nhân thế nhụy nở hoa khai
Mừng năm mới ước tương lai hạnh phúc
Mong nhà nhà thảy ấm no, sung túc
Chúc người người đầy phúc lộc bình an

Cầu đồng bào được sức khỏe Thiên ban
Cùng đón Tết trong xum vầy vui vẻ
Ly rượu mừng làm tâm hồn tươi trẻ
Ôi bao nhiêu mơ ước gửi ngày mai
Chúc nhau muôn sự lành may…

Cao Bồi Già
24-01-2020
(30 TẾT CANH TÝ)
*Ghi Chú:
Tân Niên Vạn Phúc Bình An Tiến: Năm mới, hạnh phúc bình an đến
Xuân Nhất, Vinh Hoa Phú Quý Lai: Ngày xuân, vinh hoa phú quý về

Tết Đến Tôi Mong



Tết Đến Tôi Mong

Tết về còn chúc nhau... mừng nhau
Đã lão xá chi nghèo với giàu.
Buông bỏ rọi đường thêm hạnh phúc
Vị tha soi ngỏ giảm buồn đau.
Đám con hòa thuận bà tươi mặt
Lũ cháu ngoan hiền ông vểnh râu.
Như thế đủ đầy cho một kiếp
Giữ gìn sức khoẻ nhớ lo đầu.


Anh Tú
***
Tết Canh Tý 2020

Vui xuân Canh Tý chúc mừng nhau,
Hết thảy bàng dân Phú, Túc, Giàu!
Vạn sự hanh thông thôi lận đận,
An khang thịnh vượng hết buồn đau.
Bạc tiền rủng rỉnh vui ra mặt,
Con cháu đầy nhà phúc vễnh râu.
Hạnh phúc Thuận Hòa là số một,
Kính trên nhường dưới lấy làm đầu!


Đỗ Chiêu Đức
Tết Canh Tý 2020

* Ông bà ta dạy:
Gia hòa vạn sự hanh 家和萬事亨, có nghĩa : Gia đình mà HÒA THUẬN thì muôn việc đều hanh thông (suông sẻ). Nhưng người đời thường nói trại thành " Gia hòa vạn sự hưng 家和萬事興" : là Gia đình hòa thuận thì mọi việc đều Hưng Vượng. Hai cách nói trên về ý nghĩa thì cũng tương đương nhau mà thôi; nhưng HANH là muôn việc đều suông sẽ rộng nghĩa hơn là HƯNG chỉ có một mặt Hưng Vượng mà thôi! 

Xuân Gọi Nắng Vàng



Xướng:
Xuân Gọi Nắng Vàng

Nắng đã vàng thêm tự lúc nào
Một trời xuân sắc lại xôn xao
Vườn sau cúc muộn tưng bừng nở
Sân trước mai tươi rực rỡ chào
Có phải lan buồn sương thấm lạnh
Hay là trúc đợi gió lên cao
Bao nhiêu năm bước lưu vong nhỉ
Khanh tướng chờ ai tiếp lửa đào ...

Hawthorne 3-3-2018
Cao Mỵ Nhân
***
Các Bài Họa:
Nhớ Xuân Kỷ Dâu

Xuân nay vọng tưởng Tết năm nào
Tướng sĩ quân dân dạ xuyến xao
Nam quốc kiêu hùng hô bắc tiến
Thanh triều khiếp vía vẫy tay chào
Tây Sơn võ nghệ lừng thiên hạ
Kỷ Dậu chiến công tuyệt đỉnh cao
Công chúa Ngọc Hân mừng tiếp nhận
Tin vui đại thắng với cành đào

Austin, 3-3-2018
Hồ Công Tâm
***
Xuân Đã Về Chăng?
 

Xuân đã về chăng, ở chốn nào?
Ngập trời nắng gió chuyển lao xao
Chập chờn lũ bướm khoan thai lượn
Lay động ngàn hoa rộn rã chào
Thơ đợi ngâm nga lời diễm tuyệt
Bút chờ thêu dệt ý thanh cao
Ai người tri kỷ tri âm nhỉ?
Hãy cạn cùng ta chén rượu đào

Nguyễn Kinh Bắc
3-4-2018

2019 Virus Corona Mới (2019-nCoV) Từ Vũ Hán (Wuhan) – Trung Quốc


Từ tháng 12.2019, một loại virus corona mới (2019 – nCoV) gây viêm phổi tại thành phố Vũ Hán (Trung Quốc) đã được xác định và đang lan rộng tới nhiều nước trên thế giới.

Cho tới nay (25/01/2020) trên thế giới đã có khoảng 1320 trường hợp đã được xác định là mắc bệnh viêm phổi do virus corona mới. Trong số 1320 trường hợp này, 1297 là người Trung Hoa. 324 người đã trong tình trạng sức khỏe nguy kịch

1965 trường hợp bị tình nghi là mắc bệnh viêm phổi do virus corona mới từ 20 tỉnh, vùng và thành phố từ Trung Quốc.

23 trường hợp đã nhiều quốc gia ở châu Á (Nhật, Hàn Quốc, Singapore, Việt Nam) cũng như một số nước ở các châu lục khác như Australia, Pháp, Nepal và Mỹ, cũng ghi nhận các trường hợp lây nhiễm.

41 người mắc bệnh viêm phổi do virus corona mới đã tử vong. Tình trạng của các bệnh nhân nhiễm virus corona chủng mới “ít nguy hiểm hơn” so với các bệnh nhân nhiễm chủng corona gây Hội chứng Viêm đường hô hấp cấp (SARS). Ở thời điểm hiện tại, tỷ lệ tử vong do chủng corona mới là chưa đến 5%. Trong khi đó, các đợt bùng phát virus SARS năm 2002-2003 và virus gây Hội chứng Hô hấp vùng Trung Đông (MERS) năm 2012 có tỷ lệ tử vong lần lượt là 9,5% và 34,5%.

Loại virus corona mới thuộc gia đình vi khuẩn Corona. Một số loại virus corona gây bệnh cho con người trong khi những loại khác ảnh hưởng những thú vật như dơi,lạc đà hay mèo. Hiếm khi một số loại virus corona có thể truyền từ thú sang người và sau đó được truyền từ người sang người tương tự như những trường hợp MERS and SARS.

Virus corona mới có thể lây theo đường hô hấp, ở mức độ tiếp xúc gần hay qua những đồ vật như quần áo, dụng cụ cá nhân của các bệnh nhân nhiễm virus corona.

Thời gian ủ bệnh của virus corona chủng mới tối đa 2 tuần.

Hiện chưa có vaccine phòng ngừa virus corona. Các thử nghiệm vaccine phòng chủng virus gây bệnh MERS vẫn đang trong giai đoạn phát triển. Thuốc trụ sinh không hiệu quả đối với virus corona mới.

CÁCH PHÒNG NGỪA:

1- Tránh tiếp xúc với những người mắc bệnh viêm phổi do virus corona mới hay có triệu chứng bị bệnh đường hô hấp.

2- Thường xuyên rửa tay bằng chất sát trùng (Antiseptic) hay xà bông sau khi tiếp xúc với người bệnh.

3- Che miệng mỗi khi ho, cố gắng tránh đưa tay chạm lên mắt, mũi, miệng.

4- Cần gặp bác sĩ gắp nếu bị sốt, ho, cảm thấy khó thở (triệu chứng của sưng phổi), triệu chứng chảy nước mũi, hắt hơi hoặc đau họng. Virus corona mới không gây ra các vấn đề về dạ dày như tiêu chảy, vốn là triệu chứng của 20-25% số bệnh nhân nhiễm SARS.

Bác sĩ NCT

Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2020

Xuân Xưa - Thơ: PhamPhanLang -: Mai Hoài Thu - Ca sĩ: Diệu Hiền


Thơ: PhamPhanLang 
 Mai Hoài Thu 
Ca sĩ: Diệu Hiền

Khai Bút Đầu Năm



Canh Tý Đầu Năm chấp bút Xuân
Niềm vui rộn rã tiết Xuân nồng
Không gian rực sáng nhưng yên ắng
Dịu dặt Xuân phong thoảng bụi hồng
Cẩm Chướng khoe màu tươi thắm sắc
Mai vàng thanh khiết quyện hương trầm
Lâng lâng hạnh phúc niềm an lạc
Vọng Pháp tâm nương chốn cửa không…

Kim Phú
Sáng Mồng 1 Tết Canh Tý
CA Jan.25/ 2020

Ngày Đầu Năm



Đón giao thừa xong cũng xuất hành
Mùa đông không lá, chỉ trơ cành
Lộc non không có làm sao hái?
Đành trở về với hai tay không
Trước bàn thờ cúi đầu đọc kinh
Chỉ xin sức khoẻ với an bình
Không ham tiền bạc và danh vọng
Xin Chúa cho lòng mãi sáng trong
Cuộc đời quá ngắn ngủi bạn ơi!
Chỉ mong đời sống được thảnh thơi
Chị em mình mãi là NGỌC SÁNG
Vui, khoẻ, cùng nhau hưởng tuổi vàng.


Hồng Thuỷ


Chúc Mừng Nhà Thơ Minh Thúy


(Ảnh: Minh Thúy)
Minh Thúy làm thơ phải tuyệt vời
Thể nào cũng biết chắc mà thôi
Tham gia xướng họa chung cùng khắp
Vừa mới lên ngôi chủ quản* rồi

"Nếu Đời Không Thơ " chán buồn ghê
Có cả "Tranh Thơ Hòa Điệu" nè
Với "Bốn Mùa Thơ Gọi" bạn hữu
"Bốn Mùa Tranh Thơ " đẹp say mê

Như thế đủ mừng, quí vị ơi
Cho in tác phẩm tưởng xa vời
Thế là mơ ước đà tâm đắc
Ba bốn tập thơ nhuyễn quá trời!

Tạ Vương Kim

Chuột



Này chuột, trông mày gớm ghiếc sao
Ai cho cuốn lịch nghiễm nhiên vào
Ra oai rúc rích năm cùng tháng
Rửng mỡ ị đầy trước đến sau
Nầy bẫy, này mèo đang đợi sẵn
Nọ keo, nọ thuốc đã giàn chào
Sống chung, đành vậy, lòng gượng gạo
Năm hết, mau mau đón sửu vào  

Thúy M.

Chính Là Chân Như



Khi tôi sang tuổi vàng Thu
Lòng như hoa huệ, tâm như hoa thiền
Còng lưng cõng nghiệp gánh duyên
Ngày vui đọc sách... xua phiền não rơi

Khi tôi buông xuống gánh đời
Càn/Khôn thanh thản cùng tôi giao hoà
Cúi hôn nụ bỗng khai hoa
Đất/Trời rộ nở hằng hà đoá sen

Khi tôi khoá cổng bon chen
Đóng tâm chấp niệm ghét ghen tị hiềm
Bản ngã im im ẩn tiềm
Niêm cài cửa trước lần tìm cửa sau

Khi tôi chẳng nói câu nào
(Vô Ngôn Vô Tự ... hít vào thở ra )
Sát na tỉnh thức... vỡ oà
Sắc/Không, không dính chính là Chân Như

Kiều Mộng Hà

Jan 21-2020
***
Dẫu Rằng 

Dẫu rằng đời đã tàn thu
Âm thầm ngày tháng giống như tịnh thiền
Số còn vướng víu nợ duyên
Nên mang nghiệp dĩ gánh phiền muộn rơi

Dẫu rằng hiu quạnh bên đời
Vẫn tâm tự tại luyện tôi hài hoà
Sáng chiều tĩnh lặng ngắm hoa
Vô ưu thanh khiết mượt mà đoá Sen

Dẫu rằng thế tục đua chen
Quay lưng chẳng muốn hờn ghen khích hiềm
Vươn vai mọi sự xoá tiềm
Chân trời mở rộng đón niềm vui nao

Dẫu rằng vạn pháp thế nào
Lắng nghe hơi thở đưa vào thải ra
Bao nhiêu chất chứa tuôn oà
Tâm không dính mắc đẹp là Tánh Như 


Minh Thuý
Tháng 1/23/2020

Những Dữ Kiện Mới Về 2019-nCoV (2019-nCoV) Từ Vũ Hán (Wuhan) – Trung Quốc


Lancet, một tạp chí y khoa nổi tiếng, đã công bố những dữ kiện khoa học sau đây về 2019-nCoV :

1- Những triệu chứng của 2019-nCoV giống như SARS và 2019 Virus Corona mới có thể được truyền từ người sang người.

2- Hiện giờ 7 loại corona virus ( kể cả 2019 nCoV) có thể gây bệnh cho người. Tỉ lệ tử vong vì virus Corona thấp hơn SARS và MERS nhiều.

3- Cho tới ngày 24/01/2020, nhiều người bệnh Trung Hoa nhiễm virus corona mới có tiếp xúc với chợ hải sản Vũ Hán. Hiện giờ chưa ai có thể xác định loại động vật hoang dã buôn bán trong chợ đã truyền virus qua người.

4- Đa số người bị nhiễm virus corona mới là người khỏe mạnh. Dước 1/3 người bị nhiễm virus corona mới có bệnh kinh niên như tiểu đường, áp huyết cao và các bệnh tim khác.

5- Đa số bệnh nhân nhập viện vì sưng phổi do virus corona mới đều bị sốt, ho, cảm thấy khó thở. Khác với những triệu chứng của bệnh SARS, bệnh nhân bị nhiễm virus corona mới thường không bị sổ mũi, hắt xì, đau cổ và chỉ một số ít bị nhức đầu hay bị đi cầu chảy.

6- Khoảng 1/3 bệnh nhân nhiễm virus corona mới phát bệnh đường hô hấp nặng cần vô ICU.

Bác Sĩ NCT

Thứ Năm, 30 tháng 1, 2020

Thơ Tranh: Nhạt Nhòa


Thơ & Thơ Tranh: Kim Oanh


Chúc Mừng Năm Mới Canh Tý 2020


(Ảnh của Quý)

Đưa Kỷ Hợi, đón Canh Tý
Chúc mọi người thân Phú Quý Giàu Sang *
Luôn vui khỏe đẹp, bình an
Học tập, làm việc dễ dàng thành công
Gặp người yêu thương thật lòng
Chúc Vạn Sự Như Ý trong năm Tý...

Phượng Trắng
Canada, Tết Canh Tý 25/1/2020
* Bà Nội của Quý chọn đặt tên này cho con cháu với mong ước
mang Phú Quý Giàu Sang cho mọi người vào năm mới ...

Tết Đoàn Viên


(Ảnh của Tác giả)
Xướng:
Tết Đoàn Viên

Canh Tý xuân hồng rực vạn hoa,
Đoàn viên mừng Tết, nhứt nhà ta.
Ông bà hoan hỉ tươi mày mặt,
Con cháu vui mừng híp mắt ra.
Hạnh phúc ngập tràn ba thế hệ,
Niềm tin chan chứa vạn lời ca.
Biết bao vất vả bao năm tháng,
Bỉ cực thái lai hợp một nhà !

Đỗ Chiêu Đức
***
Họa vần: Y Đề

Ông Bà Chiêu Đức tươi như hoa
Con cháu rể dâu về với ta
Cách biệt bao xuân dìm nỗi nhớ
Đoàn viên đón Tết rộn vui ra
Gia đình bè bạn đều thăm hỏi
Thân thích đồng môn hẳn hoan ca
Kính chúc Ông Đồ vui lễ hội
Đại gia đình hạnh phúc chung nhả

Phạm Tương Như
***
Chúc Xuân Đoàn Tụ

Xuân vàng rực rỡ đã thăng hoa
Ông với bà ngồi giữa ảnh ta
Sáu cháu, 3 con, dâu rể nữa
Tháng giêng mười bốn tình thêm ra
Chào năm Canh Tý quan Đồ ĐỨC
Vui suốt " 2020 " chuỗi PHƯỚC CA
Hoè quế xanh rờn tươi tốt mãi
Từ đây tài lộc Đỗ quanh nhà ...


Hawthorne 26 - 1 - 2020
( Mùng Hai Tết nguyên đán )
Cao Mỵ Nhân
***
Xuân Đoàn Tụ

Gia đình ai nấy thảy như hoa
Chiêu Đức bạn hiền của chúng ta
Thế hệ ba đời cùng hiện diện
Cháu con đủ tuổi rộn vào ra
Tươi cười rôm rã vang lời chúc
Hoan hỉ tưng bừng cất tiếng ca
Hạnh phúc vẹn toàn như ước nguyện
Hương xuân tràn ngập khắp trong nhà.

Phương Hà
***
Chúc Mừng

Tết đến vườn hồng rộn bướm hoa
Gia đình Chiêu Đức đón Xuân ta
Mừng thay! Sầu muộn đà buông xả
Quý hoá! Lo âu đã thở ra
Đoàn tụ chung nhau niềm hạnh phúc
Sum vầy cùng hưởng khúc hoan ca
Chúc Năm Canh Tý tràn may mắn
Phước Lộc Tài vô ngập cửa nhà...

Phương Hoa
Mồng 6 Tết Canh Tý 2020

Xuân Canh Tý Gia Đình Đoàn Tụ

Mái ấm gia đình Tết nở hoa
Nụ cười hạnh phúc thấy vui ta ...
Ông bà trẻ mãi luôn hoan hỉ...
Con cháu xinh hoài vẫn khỏe ra
Rễ thảo hai đôi ngồi xúm xít
Dâu hiền, nội ngoại hát vang ca
Đón Xuân đoàn tụ đầy hy vọng...
Mừng Tết năm nay rộn cửa nhà

Mai Xuân Thanh
***
Chúc Xuân Đoàn Viên


Mai vàng Canh Tý nở đầy hoa
Hạnh phúc hòa chung một mái nhà
Rạng rỡ sum vầy ba thế hệ
Vui mừng thỏa nguyện họ dòng ta
Gái trai chững chạc yên lòng lắm
Dâu rể ngoan hiền khoái dạ ra
Nội ngoại vừa gom tròn sáu cháu
Thái lai phấn khởi xướng đồng ca

Mai Thắng
200131

Dậy Đi Em


Lời nói đầu:

Tính tới bài này, Con Cò đã viết được 124 bài Liêu Trai Chí Dị thế kỷ 21, trong đó đã giới thiệu trên 130 bài thơ Đường và 15 bài thơ Việt do mình sáng tác. Tất cả những bài thơ Đường đều là những con yêu tinh đã sống trên dưới 1200 năm nên công lực rất thâm hậu. Mấy bài thơ Việt thì chưa mấy người biết tới. Chúng mới ra đời trong vòng 25 năm và sống lay lắt nhờ bà con thân thích thỉnh thoảng mớm thêm công lực. Bài Dậy Đi Em ra đời năm 2005, lúc bà Cò ở năm thứ 6 của bệnh Alzheimer và bị cảm cúm trong một chuyến viễn du cách nhà nửa vòng trái đất. Bà nằm suốt ngày trong khách sạn không chịu dậy, không chịu ăn… Nó được ghép với bài phú Ngũ Cổ Đại Phu Phu Nhân để thành bài Liêu Trai Chí Dị thế kỷ 21 số 127, nhân ngày giỗ bà Cò.

Ngũ Cổ Đại Phu Phu Nhân
(Phỏng theo Sử Ký của Tư Mã Thiên và Đông Châu Liệt Quốc)

Bách Lí Hề làm quan đại phu tại nước Ngu. Nước Tấn diệt nước Ngu. Hề bị bắt. Tấn Hiếu công gả con gái cho Tần Mục công và dùng Hề làm lính theo hầu sang Tần. Hề lấy làm xấu hổ (không cam lòng hầu hạ đàn bà), bỏ trốn sang nước Uyển làm nghề chăn bò. Sau Hề bị vua Sở bắt và cho làm lính giữ ngựa (cam lòng giữ ngựa nhiều năm, không coi nghề giữ ngựa là hèn!).

Tần Mục công nghe đồn Bách Lí Hề là người hiền, muốn sai người đem lễ vật tặng vua Sở để xin Hề về dùng. Tôn Công Chi can rằng: "Vua Sở bắt Bách Lí Hề chăn ngựa chỉ vì không biết y là người hiền. Chúa công làm như vậy khác gì mách cho vua Sở biết tài của y mà trọng dụng. Chi bằng chúa công gỉa vờ nêu cái tội theo hầu công nương nước Tấn sang làm dâu nước Tần mà bỏ trốn, rồi dùng 5 bộ da dê mà chuộc y về đây để trị tội. Đó cũng là kế của Tề Hoàn công đánh lừa nước Lỗ cho Quản Di Ngô thoát thân về Tề vậy".

Tần Mục công y kế, đón được Bách Lí Hề về, nhưng thoạt nhìn thấy thân hình tiều tụy thì than rằng: "Tiếc thay! gìa qúa rồi!". Bách Lí Hề thưa: "Nếu chúa công sai tôi bắt chim bay hoặc đuổi thú dữ thì tôi gìa thực. Nhưng nếu khiến tôi bàn việc chính trị thì tôi còn trẻ hơn Lã Vọng mười tuổi. Ngày xưa, Lã Vọng lúc 80 tuổi mới được vua Văn vương phong làm quốc phụ".

Tần Mục công lấy làm hài lòng và phong Bách Lí Hề làm tể tướng. Nước Tần trở nên thịnh vượng nhờ Bách Lí Hề. Người dân nước Tần gọi Bách Lí Hề là Ngũ cổ đại phu (cổ: bộ da dê đậm màu, nhồi bông).

Đỗ Thị kết hôn với Bách Lí Hề từ thuở thơ ấu, hàn vi. Lúc gần sanh đứa con trai duy nhất (tên là Mạnh Minh), thấy chồng cam tâm sống nghèo hèn bên cạnh vợ, nàng hết lòng khuyên chàng nên thoát ly gia đình để mưu cầu danh vọng. Hôm chồng ra đi, nàng mổ con gà mái đang ấp trứng trong ổ và nấu nồi cơm nếp gạo lức (kể như nửa gia tài của mình) để tiễn chân. Nàng kiên cường sống đời nghèo khổ. Sau cùng lưu lạc sang nước Tần; Mạnh Minh (lúc này đã ngoài 40 tuổi) vẫn quen thói lêu lổng, suốt ngày theo chúng bạn săn bắn làm kế sinh nhai.

Đôi lần nàng thấy Bách Lí Hề ngồi xe chạy qua mà không dám nhận. Hỏi ra thì biết vua Tần dùng 5 bộ da dê mua ông từ nước Sở về và tôn làm tể tướng. Nàng bèn cậy cục xin làm người giặt thuê trong dinh.

Một hôm, nhân lúc Bách Lí Hề ngồi nhà trên nghe phường nhạc tấu ở dưới thềm, nàng lân la tới xin hát tặng tể tướng một bài. Được cho phép, nàng ôm đàn mà ca rằng:

Bách Lí Hề! 5 bộ da dê! Nhớ ngày nào, tiễn biệt chàng, mổ con gà mái ấp, thổi nồi cơm gạo nâu. Chứ thương thì thương… nay giầu sang, quên ta chăng?
Bách Lí Hề! 5 bộ da dê! Cha ăn thịt cá, con đói khát hoài. Chứ thương thì thương… nay giầu sang, quên ta chăng?
Bách Lí Hề! 5 bộ da dê! Chồng mặc gấm vóc, vợ đi giặt thuê. Chứ thương thì thương… nay giầu sang, quên ta chăng?
Bách Lí Hề! 5 bộ da dê! Nhớ ngày xưa, tiễn chàng ra đi, thiếp tôi nước mắt chứa chan. Tới bây giờ, thấy chàng ngồi đó, thiếp tôi ruột đứt từng cơn. Chứ thương thì thương… nay giầu sang, quên ta chăng?
Bách Lí Hề quá đỗi ngạc nhiên và xúc động. Gọi lại gần. Hỏi rõ tên. Nhìn tận mặt. Nhận ra vợ mình. Bèn ôm nhau mà khóc. 
Tần Mục công biết chuyện, tặng vàng lụa cho Đỗ Thị và phong Mạnh Minh làm quan đại phu, coi việc binh bị, dưới quyền tể tướng Bách Lí Hề. Vợ chồng, cha con, từ đó đề huề vinh hiển.

Suy Diễn:

Đọc bài ca bất hủ của Đỗ Thị, Cò nghĩ rằng tuy mình kém xa Bách Lí Hề về nhiều phương diện nhưng lại hơn Y một điều: cam lòng rửa đít cho bà Alzheimer (trái ngược với Bách Lí Hề không cam lòng theo hầu công nương nước Tấn sang làm dâu nước Tần). Cò bèn cảm hứng đặt lời hai cho đời mình. Bài rằng:

Bà Cò Alzheimer! Nhớ ngày nào, ta cưới nhau lúc tuổi tròn trăng. Chung sống keo sơn. 3 cuộc chiến tranh. 2 lần di tản. Chứ thương thì thương… nay thanh bình, còn nhận ra ta chăng?
Bà Cò Alzheimer! Nhớ ngày nào, em chân lấm tay bùn, anh học trò thời loạn. Túng thiếu không sờn. Gian nguy không nản. Chứ thương thì thương… nay về hưu, còn nhận ra ta chăng?
Bà Cò Alzheimer! Nhớ ngày nào, em mù chữ, anh giảng bài. Em miệt mài, anh nhồi nhét. Chứ thương thì thương… nay chữ trả lại thày, còn nhận ra ta chăng?
Bà Cò Alzheimer! Tới hôm nay, em 80 tuổi rưỡi, anh sắp 81 rồi. Em phóng uế trên giường, anh vui lòng tắm rửa. Chứ thương thì thương… nay hôn mê, còn nhận ra ta chăng?
Bà Cò Alzheimer! Nhớ ngày nào, anh nhủ em đừng sợ chết, em rằng muốn chết trên tay anh. Chứ thương thì thương... mai kia chết trên tay ta, còn nhận ra ta chăng?*

Chú giải
*Một hôm, em có vẻ sợ chết. Anh khuyên em đừng sợ vì thánh thần cũng phải chết. Em cãi rằng em không sợ chết mà chỉ sợ không được chết trên tay anh… Rồi mai đây em sẽ được chết trên tay anh, nhưng chắc chắn em sẽ không nhận ra điều đó. Hơn một lần trong mỗi ngày, em vẫn than rằng anh phụ bạc, nỡ bỏ em mà đi biệt tăm (anh ở bên em từng giờ nhưng em cứ tưởng là người hàng xóm). Ngày xưa, em muốn chết trên tay anh giống như một tín đồ muốn chết trên tay giáo chủ. Bây giờ, anh giữ vững lời thề như giữ gìn tính mạng của mình. Nhưng nhiều năm qua, ngày nay và mãi mãi em sẽ không biết rằng em được chết trên tay anh! Cái "không biết" ấy là điều ân hận nhất trong đời ta đó! Cò Bà ơi!


Đoản văn này viết hồi tháng giêng năm 2014, một năm trước khi bà Cò nhập diệt ngày 30-1-2015

Dậy Đi Em

Dậy đi em nắng đã lên
Hoa thơm đang ngóng trước thềm chờ ta
Dậy đi em nắng đã già
Hướng dương xoay mặt dần dà về tây
Dậy đi em nắng đã gầy
Và em vừa vặn một ngày chưa ăn
Dậy đi em dẫu khó khăn
Đau lưng cũng dậy chứ nằm mãi sao?
Đêm nay trăng vẫn ngọt ngào
Đêm mai anh biết thế nào cũng mưa
Dậy đi! Em đã dậy chưa?
Ăn tô cháo cá cho vừa lòng ai
Ngày đau đã kéo quá dài
Ngày lành như những quân bài chia nhanh
Tuổi già như trái chín cành
Em ơi cố dậy cho mình khoan rơi!

Con Cò
***
(This poem was written in Jan 2014, one year before the passing of my wife on Jan 30, 2015

Get Up, Darling

Get up my love, the sun has risen
Fragrant flowers are waiting for us out front
Get up my love, the sun is setting
To the west all sunflowers are slowly turning
Get up my love, the sun is weakening
For the whole day, you haven’t been eating
Get up my love, in spite of your plight
Even with back pain, don’t keep lying in bed
The moon is still sweet tonight
I know it will rain tomorrow night
So please get up, darling
Have a bowl of fresh-made fish porridge
Your days of ill health have lasted too long
While good days speed by like a quick hand of cards
Old age is similar to tree-ripened fruit
Try to get up, darling, to delay its fall.

Translated by Hoang-Tam
On the flight from Taipei to LA
3/17/19

Mật Mã Của Hạnh Phúc

Howard Dickinson

Hạnh phúc của một người phụ thuộc vào điều gì?
Tháng 4 năm 1988, Howard Dickinson 24 tuổi đệ trình luận án tốt nghiệp PhD của ông nhan đề “Hạnh phúc của con người phụ thuộc vào điều gì?”

Vì muốn hoàn thành đề mục này ông đã phân phát 10.000 bảng câu hỏi cho người dân trong thành phố, trên đó có ghi chi tiết dữ liệu định danh cá nhân, còn có năm hạng mục trắc nghiệm:

1. Vô cùng hạnh phúc
2. Hạnh phúc
3. Bình thường
4. Thống khổ
5. Vô cùng thống khổ

Trong hơn hai tháng, cuối cùng Howard Dickinson đã thu hồi được hơn 5.200 bảng câu hỏi hợp lệ. Sau khi thống kê, chỉ có 121 người nghĩ rằng họ vô cùng hạnh phúc. Howard Dickinson tiến hành một cuộc khảo sát và phân tích chi tiết về 121 người này. Ông thấy rằng 50 trong số 121 người này là những người thành công trong thành phố và hạnh phúc của họ chủ yếu là do thành công trong sự nghiệp mang đến. 71 người khác là bà nội trợ bình thường, nông dân bán rau, nhân viên nhỏ trong công ty, và thậm chí là những người vô gia cư đã nhận được trợ cấp. Những người có cuộc sống bình thường đạm bạc này làm thế nào có thể sở hữu hạnh phúc lớn lao đến thế? 

Qua điều tra thực tế của tiến sỹ Howard Dickinson thì điều kiện sống của 121 người rất khác nhau, khiến ông cảm thấy rất thú vị.

Qua nhiều lần tiếp xúc và trao đổi với những người này, Howard Dickinson phát hiện rằng, mặc dù nghề nghiệp của họ đa dạng bất đồng nhưng bản thân họ lại có một điểm chung. Đó chính là họ không có yêu cầu quá cao hoặc quá nhiều đối với vật chất. Họ sống rất đơn giản và yên bình, vừa lòng với hiện tại. Kết quả của cuộc khảo sát này khiến Howard Dickinson rất hứng khởi, vì vậy ông đã viết ra tổng kết luận văn như thế này:

“Trên thế giới này có hai loại người hạnh phúc nhất:
Một là những người sống đạm bạc yên bình, hai là những người thành công nổi tiếng.

Nếu như bạn là một người bình thường, thì thông qua việc tu luyện nội tâm, giảm bớt dục vọng bạn cũng có thể đạt được hạnh phúc. Nếu như bạn là một người thành công nổi tiếng thì bạn có thể thông qua việc chăm chỉ, biết cách nắm bắt thời cơ mà đạt được thành công trong sự nghiệp và thứ hạnh phúc lớn lao nhất.”

Sau khi nhìn thấy luận văn của Howard Dickinson giáo sư giám khảo đã vô cùng tán thưởng, phê một chữ “xuất sắc” thật lớn. Sau khi tốt nghiệp, Howard Dickinson ở lại trường giảng dạy. Thoáng chốc đã hơn hai mươi năm trôi qua, hôm nay Howard Dickinson đã trở thành một giáo sư nổi tiếng ở Mỹ.

Vào tháng 6 năm 2009, nhân một cơ hội ngẫu nhiên, ông đã lật lại luận văn tốt nghiệp năm đó. Ông rất hiếu kỳ không biết điều gì đã xảy ra với những người cảm thấy mình “vô cùng hạnh phúc” năm đó? Có phải họ vẫn cảm thấy bản thân rất hạnh phúc hay không? Ông tìm lại địa chỉ liên lạc của những người đó, mất hơn ba tháng một lần nữa làm điều tra. Kết quả 71 người bình thường năm đó trừ hai người qua đời tổng cộng thu lại được 69 phần bảng câu hỏi.

Những năm gần đây, cuộc sống của sáu mươi chín người này xảy ra nhiều biến hóa: Một số người trong số họ đã nằm trong hàng ngũ những người thành công, những người khác vẫn sống những ngày bình thường, và số còn lại đang sống trong khó khăn do bệnh tật và tai nạn. Tuy nhiên, đáp án của họ vẫn như ngày nào, cảm thấy bản thân “vô cùng hạnh phúc”.

Ngược lại, 50 người thành công nổi tiếng trước kia lại xảy ra biến hóa cực lớn. Trong đó chỉ có 9 người vẫn lựa chọn giống như lúc đầu, bởi vì sự nghiệp của họ vẫn thuận lợi. Có 23 người lựa chọn “bình thường”, 16 người sự nghiệp xuống dốc hoặc phá sản lựa chọn “thống khổ”, 2 người còn lại lựa chọn “vô cùng thống khổ”.

Lật lại cuộc điều tra sau 20 năm, kết quả đã có sự thay đổi đáng kể khiến tiến sỹ Howard Dickinson không khỏi trầm tư suy nghĩ (Ảnh: biolympiads.com)

Nhìn vào kết quả như vậy, Howard Dickinson rơi vào trầm tư vài ngày, hai tuần sau, Howard Dickinson viết một luận văn mới đăng trên tờ báo “The Post” với tiêu đề “Mật mã hạnh phúc”. Trong luận văn của mình, Howard Dickinson đã trình bày chi tiết về quá trình và kết quả của hai cuộc khảo sát.

Cuối cùng ông tổng kết: “Tất cả cảm giác hạnh phúc dựa trên vật chất đều không thể kéo dài, nó sẽ biến mất khi vật chất biến mất. Chỉ có sự yên bình và tĩnh lặng trong tâm hồn, niềm vui được sinh ra từ thân tâm mới thật sự là hạnh phúc”.

Vô số người sau khi xem xong phần luận văn này đều kinh ngạc thốt lên: “Howard Dickinson đã phá giải mật mã của hạnh phúc!”. Bài viết này thu hút sự chú ý rộng rãi, tờ báo “The Post” phải in sáu lần trong một ngày.

Trong một cuộc phỏng vấn với giới truyền thông, Howard Dickinson tâm sự rằng: “Hơn hai mươi năm trước, tôi còn quá trẻ nên đã lý giải sai hàm nghĩa chân chính của “hạnh phúc”. Hơn nữa, tôi còn đem quan niệm “hạnh phúc” không chính xác này truyền đạt cho rất nhiều học sinh của tôi. Hôm nay ở đây, tôi xin chân thành gởi lời xin lỗi đến tất cả học sinh của tôi, cũng xin lỗi “hạnh phúc”. Tất cả cảm giác hạnh phúc dựa trên vật chất đều không thể kéo dài, nó sẽ biến mất khi vật chất biến mất. Chỉ có sự yên bình và tĩnh lặng trong tâm hồn, niềm vui được sinh ra từ thân tâm mới thật sự là hạnh phúc”.

Tất cả những chuyện bi thảm đều có liên quan đến tiền bạc, tất cả những chuyện hạnh phúc đều không liên quan gì đến bạc tiền.

Theo Soundofhope 
Khải Phong biên dịch 
***
Cảm Tác: Mật Mã Của Hạnh Phúc



Cuộc đời là bể khổ
Phật chẳng dậy thế sao?
Vì thế nên Hạnh Phúc
Ai nấy đều ước ao.

Người đời đã tìm thấy
Hạnh Phúc: chỉ có hai
Lọai thành công, nổi tiếng
Loại cần đủ sống thôi.

Những người loại thứ nhất
Thương chăm chỉ, cần cù
Có ý chí cương quyết
Và biết nắm thời cơ.

Loại thứ hai đông hơn
Bà nội trợ tầm thường
Bác nông phu bình dị
Không mộng ước cao sang.

Qua cuộc sống nổi trôi
Nhiều người có danh vọng
Đã cảm thấy hạnh phúc
Cuốn theo lớp mây trôi.

Những người sống đạm bạc
Trong tự tại an nhiên
Vẫn ngập tràn hạnh phúc
Trong cuộc sống bình yên.

Vậy thì, bạn đời hỡi
Vật chất là vô thường
Và Mật mã Hạnh Phúc:
Sống cuộc đời ung dung.

Hoàng Xuân Thảo

Sơn Phòng Xuân Sự Kỳ 2 山房春事其二 - Sầm Tham

Sầm người huyện Nam Dương, tỉnh Hà Nam, sinh năm 715, đậu Tiến Sĩ năm 744, đời Đường Huyền Tông. 
Mới đầu, ông được phong là Tham Quân, sau đổi làm Tả bổ khuyết, là một chức quan trong Trung Thư Tỉnh (cùng Thượng Thư và Môn Hạ, họp thành Tam Tỉnh đời Đường) 
Vì tính khí khái, cương trực, hay chỉ trích đại thần, nên bị biếm đi xa, hầu như cả cuộc đời, không được ở kinh đô. Sau cùng, ông làm tùng sự cho Đỗ Hồng Tiệm, trấn thủ Tứ Xuyên. Ông từ chức và mất ở Thục năm 770, hưởng dương 55 tuổi. 



山房春事其二        Sơn Phòng Xuân Sự Kỳ 2 

梁園日暮亂飛鴉, Lương viên nhật mộ loạn phi nha, 
极目蕭條三兩家。 Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia. 
庭樹不知人去盡, Đình thụ bất tri nhân khứ tận, 
春來還發舊時花。 Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa. 
                                 Sầm Tham
***
Dịch nghĩa: 

Nét Xuân  Nhà Trong Núi Kỳ 2 

Trong vườn Lương, lúc chiều tà những con quạ bay hỗn loạn 
Cố trông hết tầm mắt cũng chỉ thấy vài ba nhà tiêu điều 
Cây trong sân không biết rằng người ta đà đi hết 
Xuân về lại nở những bông hoa thời xa xưa. 

Dịch Thơ:

Vườn Lương quạ loạn lúc chiều tà, 
Trước mắt tiêu sơ mấy mái nhà, 
Cây sân nào biết người đi hết, 
Xuân về, cành cũ lại nở hoa. 

Chú thích: 

- Sơn phòng là phòng trên núi. Trần Trọng San nói là phòng đọc sách. 
- Lương Viên: Vườn Lương 
Wikipedia giải thích là vườn của Lương Hiếu Vương, con thứ của Lương Vũ Đế Tiêu Diễn, thời Nam Bắc Triều, từ 502 tới 550. Lúc trước, vườn có tên là Đông Uyển, trong thành Thư Dương, về sau mới gọi là Lương viên. Tôi không tin giải thích này vì 2 lý do: 
1- Lương Vũ Đế là ông vua văn võ toàn tài, nhưng lại mộ đạo Phật, xây nhiều chùa, và đời sống rất đạm bạc, không lý gì để con xa hoa, phí phạm. 
2- Quốc hiệu là Lương, thiếu gì chữ mà phải dùng lại chữ này. 

Theo cụ Trần Trọng Kim thì đây là vườn của Lương Hiếu Vương Lưu Vũ, em ruột của Hán Cảnh đế Lưu Khải. Là hoàng đệ, lại có công lớn dẹp loạn, nên được ưu đãi, sống rất xa xỉ, phóng túng. Và vườn Lương một thời là nơi phồn hoa đô hội, đủ các món ăn chơi... 
Bài này đã có rất nhiều người dịch, đại khái cũng na ná, đôi khi phải dùng những chữ không được hay vì kẹt vần... Bản của Bát Sách như sau: 

Bát Sách. 
***
Nét Xuân Ở Nhà Trong Núi Kỳ 2 

Ngày tắt, vườn Lương loạn quạ bay 
Nhướng trông dăm nóc hắt hiu bày 
Cỏ cây nào biết người đi hết 
Xuân tới hoa xưa vẫn nở đầy! 

Lộc Bắc 
***
Dịch Nghĩa: 
Cảnh Xuân Nơi Nhà Trên Núi 

Trong vườn nhà họ Lương lúc chiều tà, quạ bay hỗn loạn
Cố trông hết tầm mắt cũng chỉ thấy vài ba nhà tiêu điều
Cây trong sân không biết rằng người ta đã đi hết
Xuân về lại nở những bông hoa thời xa xưa. 

Dịch Thơ: 
Cảnh Xuân Nơi Nhà Trên Núi 

Quạ bay loạn xạ trong vườn chiều 
Hoang vắng vài nhà cảnh đìu hiu 
Cây cỏ nào hay người bỏ phế 
Xuân về hoa cũ nở thêm nhiều. 

Anh Ngữ:
Spring In A Mountain House 

In late afternoon, crows fly in the disorderly yard 
There are only a few desolated houses to the end of the view 
Plants and trees do not realize that all men have left 
But spring is coming back and lots of old flowers will blossom. 

 Phí Minh Tâm  
 ***
Nét Xuân Ở Nhà Trong Núi Kỳ 2

Vườn Lương chiều xuống quạ la đà. 
Mỏi mắt tiêu điều ba bốn nhà. 
Cây cũ chẳng hay người vắng bóng, 
Xuân về còn cứ nở hoa xưa! 

 Con Cò 

* Sầm Tham mượn vườn Lương để tả nỗi xúc động trước cảnh biến đổi tiêu điều tại miền sơn cước. 
2 câu đầu: 
Ông than rẳng nhìn mỏi mắt mà chỉ thấy lũ quạ bay loạn xạ và vài ba căn nhà thưa thớt! 
2 câu sau: 
Ở một nơi vốn dĩ đã vắng vẻ tiêu điều, dân cư lại bỏ đi hết. Thế mà cái cây mọc trước đình lại vẽ vời nở hoa như xưa! 
Bài thơ muốn nói cảnh vật đã tiêu điều vắng vẻ, người lại bỏ đi hết thì hoa kia còn nở làm gì? 

***
Cảnh Xuân Trong Núi kỳ 2 

Quạ loạn vườn Lương lúc xế tà 
Tiêu sơ đứng đó mấy khung nhà 
Cây sân đâu biết người đi cả 
Xuân tới vườn xưa lại trổ hoa 

Lạc Thủy Đỗ Quý Bái
***
Họa bài Nét Xuân Ở Nhà Trong Núi Kỳ 2 của Lộc Bắc

Vườn Lương chiều xuống quạ tung bay
Dõi mắt nhìn: nhà mấy nóc gầy
Sân trước vắng người cây chẳng biết
Phô màu hoa cũ đón xuân lai

Tuệ Quang TTT

Thứ Tư, 29 tháng 1, 2020

Câu Đối Tết - Huỳnh Hữu Đức



Câu Đối:Huỳnh Hữu Đức
Trình Bày: Kim Oanh


Sầu Xuân


Mừng xuân rộn rã gọi mời
Bướm ong nô nức hoa đời bơ vơ
Đón chào xuân mới hững hờ
Vườn xưa lối cũ mịt mờ xót xa
Tại mình hay bởi người ta
Lúc mùa xuân chín lơ là với xuân
Thuyền tình bể ái trầm luân
Hồn trôi theo mộng gian truân một đời


Kim Phượng

Gượng Cười - Khóc Cười


Bài Xướng:

Gượng Cười

Tết quê rộn rã phải không người?
Đất khách xuân màu héo hắt tươi
Cạn chén thì ra sầu vị cũ...
Cười!

Kim Oanh
***
Bài Họa:


Khóc Cười

1/
Lữ khách đêm trăng muốn gặp người.
Giãi bầy tâm sự kém niềm tươi
Quê hương đang khóc mình không thể...
Cười!

2/
Mờ ảo trời đêm chẳng thấy người
Có mang theo một đóa hoa tươi
Nghĩ rằng muốn tặng người trong mộng...
Cười!

3/
Từ lâu nhung nhớ một bóng người
Mắt sáng như sao lộ nét tươi
Niềm thương nỗi nhớ tan đi mất...
Cười!

Khôi Nguyên

Sài Gòn Từ Độ Em Đi



Sài Gòn từ độ em đi
Phố còn nhớ dáng nhu mì tóc bay
Phố buồn nghiêng ngả hàng cây
Ngẩn ngơ giọt nắng rơi đầy nhớ thương

Áo bay bỏ lại làn hương
Đường Duy Tân ngọn gió luồn mơn man
Sông Sài Gòn sóng mơ màng
Bóng em thấp thoáng lang thang con đò

Trường xưa còn nhớ thơm tho
Em dài mái tóc học trò nghiêng nghiêng
Hàng cây nghiêng xuống nỗi niềm
Bàn nâu ghế gỗ nhớ em , lớp buồn

Thương hoài tuổi dại chưa khôn
Áo em bay trắng nẻo hồn thơ ngây
Chào thầy cô khép vòng tay
Tấm lòng kính quí lời dài thốt thưa

Sài Gòn nhớ đổ cơn mưa
Em qua xứ lạ gió mùa lạnh không ?
Có nghe xao xuyến trong lòng
Nhớ trường nhớ lớp ngóng trông phương trời

Thôi thì đôi ngả xa xôi
Chúc em vui đẹp nụ cười hoa giăng
Bao giờ em trở về thăm
Mái trường xưa lại ân cần đón em

Tìm về kỷ niệm êm đềm
Khoảng trời xanh ngát tiếng chim vui đùa
Áo bay đôi vạt đong đưa
Mùa xuân chừng đến cho vừa ngát hương

Trầm Vân

Yên Phận Gối Rơm - Truyện: Lưu Phương Lan.


Truyện: Lưu Phương Lan. 
Người đọc:Hải Lan 
Nguyễn Hữu Nhung -Châu Hiệp. 
Hình ảnh: Internet.

Tuổi Tý Là Con Chuột Nhà



Tuổi Tý là con chuột ở nhà,
Đào hang khoét lổ cứ như pha.
Chẳng kiêng chẳng kỵ thây mèo chó,
Không nể không nang mặc chủ gia.
Cắn phá tứ tung còn tưởng bở...
Sinh sôi bừa bãi cứ như là ...
Miếng ăn của sẵn, đêm vừa xuống,
Chút chít đầy nhà tiếng bạn ta!

Đứng đầu Hoa Giáp chính là ta,
Tý Thử cùng chung... giống Chuột mà!
Xông đất Địa Chi còn để ngõ,
Cháy Nhà Mặt Chuột Mới Lòi Ra.
Đầu Voi Đuôi Chuột không nên việc,
Măt Chuột Tai Vơi vốn dĩ tà!
Giả bộ từ bi Mèo Khóc Chuột.
Suốt đời Hũ Nếp sướng thân Sa.

Đỗ Chiêu Đức

Canh Tý 2020
***
Ông Tý ơi!!!

Đứa mô phá nhứt ở trong nhà ?
Khoét lỗ đào hang biết mấy pha
Lục lạo nhiều hơn là chú chó
Tung hoành chẳng bớt đúng oan gia
Uống ăn lộn xộn lùa chăn vải
Sinh đẻ tùm lum cắn lụa là
Đêm xuống thời gian vui của Chuột
Chút cha chút chít mệt tai ta!

Ghét con Tý nhỏ cũng là ta
Phá hoại môi sinh khổ lắm mà
Đặt bẫy mong rằng lơi hoạt động
Nhữ mồi ao ước ít chui ra
Đâu ngờ ngày tháng như con quỉ
Rốt cuộc thời gian hệt giống tà
Buồn quá lão gia đành khấn nguyện
Chuột này, mi hãy đớp.... cần sa!

Paris, 31/12/2019
Trịnh Cơ
***
Chuột Trong Nhà Bếp

Cứ tưởng mèo hoang hoá Chuột nhà
Cãi nhau chút chít, lại rèm pha
Miệng chu, má lõm, vờn chân mẹ
Chân chạy, đuôi lê, thọc lão gia
Phỉnh chó, kêu ran, ồ lấp liếm
Đợi gà, ăn vụng, ố la là
Nửa đêm đói bụng ông già Tý
Xuống bếp, coi chừng Thử cụ ta

Cụ cũng co chân đạp Thử ta
Ố ô Chuột rúc, nghĩ xa mà
Có đâu thịt cá trên sàn rớt
Chắc tại đồ yêu dưới mái ra
Bếp lửa ấm thân mèo đuổi Cống
Mâm cơm nóng mũi Nhắt xua tà
Chó ngồi ngắm nghía đôi hàng xóm
Chúng trốn tìm, làm chén đũa sa...

Hawthorne 30 - 12 - 2019
Cao Mỵ Nhân
***
Tuổi Con Chuột

Cầm tinh đệ nhất, ở trong nhà
Vách trổ hang đào dễ tựa pha
Bẩm tính chui lòn sinh đã vậy
Thời cơ chớp lụi bỡn như là …
Ra đồng chực nẻo thừa bông lúa
Lẻn phố chen tường lệch bẫy gia
Tháng vợi năm dài trui bản lĩnh
Mèo đe chó giữ … nghiệt thay mà!

Mèo đe chó giữ … nghiệt thay mà!
Đảm nhận danh truyền hũ nếp sa
Lão Hợi bàn tua rời cuối bảng
Vòng can chiếm vị thủ Canh nhà
Tha hồ hưởng thú tràn sôi động
Mặc sức vênh hầu ngẫm nhẩm ra
Thế sự tồn sinh đầy thiểu não
Nằm ôm vận ách phủ dương tà!

Mai Thắng

Thứ Ba, 28 tháng 1, 2020

Thơ Tranh: Hương Xuân - Kim Oanh




Thơ & Thơ Tranh: Kim Oanh


Xuân Mộng




Thơ xuân say chếnh choáng
Chập chờn cùng chiếu chăn,

Mộng xuân trôi chầm chậm
(Chắc chắn chẳng chi cần).

Trên tầng mây trắng xóa
Lơ lửng giữa không gian
Em tha hồ tưởng tượng
Mặt trăng xa dặm ngàn.

Không thấy đâu bờ bến
Chao thân trong mông mênh
Mây trôi trôi thanh thản
Lãng đãng hồn bồng bềnh.

Ngại gì mưa hay nắng
Thơ thẩn theo trắc bằng,
Thả trôi bao lo lắng
“Tiên nữ” cõi vĩnh hằng!

Đâu lằn ranh giới hạn
Những áng mây nhẹ nhàng?
Em cứ ngắm mãn nhãn
Tạo Hóa đáng nể nang!

Tuyệt vời như sương tản
Thật dại không rong chơi
Trời cho không chịu nhận
Anh ơi à! Anh ơi!

Trôi trôi về vô tận
Trong cảm giác phiêu bồng
Quên kiếp người lận đận
Với có có, không không!

Ý Nga


Mồng 1 Tết Canh Tý-25.1.2020
*Vĩnh hằng: tồn tại mãi mãi

Tết Nơi Viễn Xứ



Tình Mẹ hiền bao la như trời bể
Đất nào nuôi ta khôn lớn vỗ về
Người viễn xứ tâm luôn hướng tận quê
Xin hẹn nhé một ngày thăm đất Tổ

Trời mùa đông thêm quạnh hiu tuyết đổ
Như cố khơi tâm sự kẻ ly hương
Tết sắp về bao kỷ niệm thân thương
Dường sống lại những ngày nơi thôn cũ.

Đêm giao thừa trời Tây người lữ thứ
Họp gia đình nâng chén chúc an khang
Hát nhạc Xuân mà tâm vẫn mơ màng
Nhớ da diết Tết xưa nơi cố quốc

Xuân ở đây cũng bánh chưng, kẹo mứt
Hoa cúc, mai vàng, thịt trứng dưa chua
Diện áo dài mới, hái lộc lễ Chùa
Cầu mong gia đạo an bình thịnh vượng

Xuân đến bên thềm tất lòng cùng hướng
Chúc gia đình bè bạn ở quê hương
Sức khỏe dồi dào may mắn cát tường
Hạnh phúc như ý muôn đường thông đạt


Trúc Lan KTP
Xuân 2020 

Nhớ Xuân Xưa



Bài xướng:

Nhớ Xuân Xưa

Tuôn nước muôn khe, núi thoải mình
Mưa nhuần nghe tịnh chữ trang kinh
Giơ cao đuốc tuệ soi dâu bể
Thắp nén tâm hương vọng miếu đình
Mơ ánh trăng xưa thương Hậu Nghệ
Nhìn hoa đèn ấy nhớ Trang Sinh
Chợt như khơi dậy nơi tiềm thức
Nhịp trống nguyên tiêu giục nở Quỳnh

Cao Tiêu
***
Bài Họa:

Nỗi Niềm


Càng nghĩ càng thêm chạnh nỗi mình
Niệm hoài, khôn dứt một thời kinh
Thoảng hơi sương lạnh giăng đầu ngõ
Quyện ánh trăng non rọi trước đình
Hiu hắt dặm trường thân lữ khách
Ngậm ngùi bóng xế buổi tàn sinh
Bao giờ giũ sạch hờn vong quốc
Hẹn với tri âm cạn chén quỳnh

Nguyễn Kinh Bắc

Chúc Mừng Xuân Canh Tý 2020



Bài Xướng:
Chúc Mừng Xuân Canh Tý 2020

CHÚC tụng toàn năm Canh Tý an,
MỪNG mong đất nước được huy hoàng!
XUÂN tươi hoa nở tình thân mến,
MỘNG thắm đời vương cảnh vẻ vang.
PHƯỚC vững trời ban vui thế giới,
HẠNH hoà nhân chuộng đẹp trần gian!
TRÙNG khai thơ hoạ xinh màu bút…
LAI khứ bình yên trổ ngọc vàng!

Liêu Xuyên
***
Bài Họa:

Bút Vàng Canh Tý


(Điệp tự)

CHÚC Tết nhà nhà đặng vạn an
MỪNG vui chốn chốn thảy trang hoàng
XUÂN sang phố phố lân nhào rộn
MỘNG trải nơi nơi pháo nổ vang
PHƯỚC trí bừng bừng bình bốn bể
HẠNH tâm rỡ rỡ hiệp nhân gian
TRÙNG trùng điệp điệp thơ hoà xướng
LAI đáo niên niên khuấy bút vàng

Phương Hoa 
JAN 6th 2020
***
Chúc Mừng Năm Mới

CHÚC cuộc đời này mãi ổn an
MỪNG năm Canh Tý đến đường hoàng
XUÂN đem hy vọng dần lan tỏa
MỘNG thắp niềm vui mãi rộn vang
PHƯỚC đến nhà nhà toàn thế giới
HẠNH tràn chốn chốn khắp nhân gian
TRÙNG phùng, thi hữu cùng ngâm họa
LAI láng hồn thơ đẹp tuổi vàng.

Sông Thu

Bức Tranh Chợ Tết Ở Làng Hauts De Seine


Mỗi lần Tết đến, dòm những bức tranh dân gian treo trong nhà như cái diều cốc dang cánh đưa lão về tuổi ấu thời với đì đẹt ngòai sân tràng pháo chuột, om sòm trên vách bức tranh gà. Lão nhớ ngày nào trước năm 54, lão và cô em gái theo ông cụ bà cụ đi sắm Tết. Đi qua phố phường, trong khi cô em gái lão lo thổi cái tò he xanh xanh, đỏ đỏ, thì lão dán mắt vào những bức tranh gà lợn. Bây giờ đến tuổi mười tầng mây chín tầng trời, lão sưu tầm được bộ tranh Đông Hồ, theo lão túm tó bức Tranh gà.cũng lại đỏ đỏ, xanh xanh…Tây quá thể. Không những thế bức “Tranh gà” đâm ra làm lão rối trí tợn như thể dưới đây. 


Không có mây sao có mưa, nhè vào một ngày lão vác xác đi Tây thăm cô em gái với cái tò he “tò te, tò te” để thành chuyện…có sao kể vậy. 
Chú em rể đón lão ở phi trường Charles De Gaulle với chiếc xe Citroen 2CV lụm cụm như con cóc cụ. Từ phi trường về hướng tây, chú lái theo tỉnh lộ 92 thẳng tới làng Hauts de Seine. Làng có nhà thờ cổ lỗ sĩ với con gà cồ đứng trên tháp chuông, cái cầu đá bắc qua con sông nhỏ, hai bên ghềnh đắp đá tảng chả lớn hơn con rạch ở quê nhà là bao. Nói cho ngay làng mạc ở bên Tây chán chết, chả như làng quê ở bên nhà với ao chuôm ruộng vườn này nọ. 

Chú em dẫn xuống basement chỉ lão chỗ ngủ nghê. Vừa dậm bước xuống chân cầu thang va vào mắt lão Bức tranh Chợ Tết (xem tr 2 & 5). Lão thấy chẳng khác mấy bức tranh lão đang có ở nhà. Chỉ khác cái khung gỗ nâu sần sùi lên nước mốc meo, trong khi tranh nhà lão chỉ treo với hai ống trúc nhỏ. Lão lậu bậu đúng là dở người, qua đây chú đâm đầu chơi đồ cổ…như lão. Lão bụng bảo dạ chú ta đổ đốn mua bức tranh để làm cảnh vì cái khung lắm ạ. Quẹt vào mặt lão có con ruồi vướng mắc trong cái màng nhện mỏng tang ở mặt khung. Lão định giơ tay quẹt một cái cho đỡ ngứa mắt, chú giữ tay lão lại, nhấm nhẳng rằng cả bức tranh sống động ở…cái màng nhện. Nghe quái. Chưa hết, lão còn bắt gặp một lỗ thủng to bằng móng tay út ở góc bức tranh. Săm soi cái lỗ, lão thấy dường như được đốt bằng đầu thuốc lá nên có mầu vàng đen nên dòm cũng hay hay vì bức tranh ra dáng cổ lỗ. 

Đang búi bấn cái màng nhện và cái lỗ, chú em rủ ra vườn và mang theo chai Bordeaux. Lão lại kỳ cổ rằng vạn lý quan san đến chốn này, khi không vặn cổ chai vang cho khốn khổ cái thân già. Ra đến vườn vừa ngồi xuống, chú miệng đá lưỡi: “Chẳng dấu gì bác…” với ý đồ bắt qua chuyến về thăm quê nhà năm ngoái. Khi mới đến, ngỡ chú em rể…cùng một lứa bên trời “lận đận” với lão, hoá ra chú ấy khọm mươi niên hơn lão, hở miệng ra là giở cái giọng Bắc kỳ hương lý với “bác, bác, em, em”. Lão vạy vọ chả hiểu ở Sài Gòn bộ hết người hay sao mà cô em gái lão lại rước thằng chồng vừa “cụ”, vừa khọm như…chiếc xe Citroen 2CV. 

Ấy thế mà nhằm vào tuổi khọm lại hay bám víu những rêu phong ẩm mốc của miếu đình. Chú róc đời về gặp…ông từ giữ đền làng Thổ Khối của dòng họ. Nhờ vậy, chú em rị mọ ra cơ ngơi bản quán của chú em cạnh làng Đông Hồ. Lão dều người ra với chú em Bắc kỳ hương lý chuyện Tranh Tết của ai đấy viết về nghề làm tranh làng Đông Hồ… 

“…Viên quan hai Léc nói sõi tiếng Việt, thích tìm hiểu phong tục xứ Tonkin. Về làm sếp bốt Ngã Tư Hồ, hôm sau vào làng bước trên con đường lát gạch. Tên thông ngôn rành phong tục ở đây, giải thích: “Con đường có lịch sử của nó, con gái đi lấy chồng, theo tục lệ, phải lát cho làng một đoạn đường gạch. Những lớp gạch cũ, mới cứ nối nhau kéo dài dưới rặng tre xanh thế này”..

Lão bòn mót với chú em tên thông ngôn đây chả biết quái gì sất. Bởi lệ “nộp cheo” chả hẳn là lát gạch cho làng. Lão khoe chữ với chú ấy “Cheo hay cheo làng” từ tiền qua hiện vật tùy theo quy định của mỗi làng, làng bắt nộp mâm đồng, chén bát để dùng cho hội làng. Có làng bắt làm giếng nước, cổng làng. Tuy nhiên làng giàu có đường lát gạch Bát Tràng (xem tr 6) xuyên qua làng, làng nghèo đường đất mưa đi lõm bõm. Vì vậy ở Bắc Ninh có lệ con gái đi lấy chồng phải nộp cheo cho làng cả trăm viên gạch vồ. 

Nghe thủng rồi, từ con đường làng, ra cái điều cũng dầy chữ như…lão, chú em vắt qua làng tranh Đông Hồ trên dưới 500 năm. Khi Trịnh Tùng dẹp tan nhà Mạc ở Cao Bằng, họ Mạc chạy tứ tán khắp nơi, phải thay tên, cải họ để tránh cuộc truy lùng thành họ Phạm, Hoàng, Nguyễn với tên đệm bộ mộc. Riêng họ Nguyễn ở làng Thổ Khối của chú chữ đệm là Đăng, từ tên đệm “Đăng” của Mạc Đăng Dung. Lão ớ ra chú em họ…Nguyễn Đăng mà lão chả hay. 

Vì vậy lão đành lẫn đẫn chống gậy trở lại cái bót Ngã Tư Hồ… 

“…Tên thông ngôn đưa Léc ngoặt vào chiếc cổng tre, nhìn thấy một ông già ngồi ngoài hiên với bộ dao khắc và tấm gỗ vàng ươm. Ông cụ với những ngón tay xương xẩu tinh tế, sử dụng bộ "ve" khắc thuộc lòng trên mặt gỗ. Léc nhìn vào trong nhà thấy bà lão chấm chổi lông phết vào tờ giấy gì đó óng ánh trắng vàng. Ở góc nhà, hai đứa trẻ thò lò mũi, một đứa quệt mầu lên khuôn gỗ; một đứa đặt giấy. Những người bên cạnh chấm bút vào các chậu mầu và tô lên rất nhanh. Chỉ một loáng Bức tranh Chợ Tết được in và đem ra sân phơi. Léc đưa bức tranh lên ngắm nghía. Hắn quệt ngón tay vào bức tranh thấy mầu vàng, mầu trắng lấm tấm họ chấm lên bức tranh, như họ trộn nó với nhựa thông, phết lên tranh thì phải. Rồi Léc bỏ xuống. 

Vừa lúc có tên lính đi theo bước vào sân, Léc nháy mắt …” 

Đến đây chú em nói dón: Tranh dân gian đất Bắc với giấy dùng để in tranh là giấy dó mịn, làm bằng vỏ cây dó. Giấy được phết nhựa thông, bồi bột điệp óng ánh nghiền từ vỏ hến, vỏ sò để làm nền. Giấy nhũ được quét bằng hồ pha bột vàng hoặc bạc gọi là giấy điệp. Màu lấy từ cây vườn nội cỏ, màu đen từ than lá tre khô, màu xanh lam từ lá chàm, màu nâu từ qủa bứa, màu vàng bằng hoa hòe hay quả giành giành, và màu đỏ từ vỏ…cây vang. Lão nhòm ly Bordeaux đỏ như cây vang ắt hẳn thiên hạ sự gọi là…rượu vang chăng? Chưa kịp rọ mồm hỏi, chú em nói vấy thêm ván tranh từ gỗ thị, gỗ mít cả trăm năm không mọt. Đến xeo giấy, quậy hồ đặc quá thì vênh như bánh đa quá lửa. Tới phơi tranh, gặp gặp tiết hanh nồm, tranh bị bị vó. Tết đến, chợ tranh mở ra khách khắp nơi về mua tranh, để “vờn” tranh, “ăn” tranh, tức xem và mua tranh. Cả làng rậm rịch giã điệp, khói đốt than ẩn hiện là đà trên ngọn cây. 

Chú vun chyện với tranh mộc bản chẳng thể bỏ qua làng tranh Kim Hoàng ở Hà Đông, tranh Hàng Trống ở Hà Nội cũng từ bản khắc gỗ như tranh Đông Hồ, nhưng in trên giấy bản. 
Tranh Hàng Trống khổ lớn làm cho đền, chùa như bức Ngũ hổ hiện lưu giữ ở chùa làng Kim Liên (Hồ Tây). Những bức tranh đặc thù là Đức thánh Trần, Bà chúa mẫu, Đồng tử, Tiên dung hầu hết những bản khắc gỗ cổ nguyên bản nay đã thất truyền. Tranh Hàng Trống nay lan ra đến Hàng Mã nhờ trống tế trống hội, cờ phưỡn võng lọng, quần áo chầu của ông đồng bà bóng, mão với hia. 

Cùng cô lý, cô liêu, chú em dắt díu lão về làng tranh Đông Hồ… 


Qua cầu Chương Dương trên sông Hồng, dọc theo Quốc lộ 1 lên Bắc Ninh, khỏang mấy cây số gặp một ngã tư (Ngã Tư Hồ). Men theo sông Đuống, nhìn qua con đê sẽ thấy chùa Đình Bảng, chùa Bút Tháp. Khi nào qua cầu Hồ, đến nền đất cũ bên ven sông có tấm bia đá trên nền chùa cổ có hàng chữ “Đông Hồ tự bi”, khắc thời nhà Mạc (1527-1592), (xem tr 6). 

Được thể lão vật vờ với chú em tranh Tết, tranh gà đang dở dang …

“….Tình cờ Léc cầm bản mới in của ông già lên xem. Hắn thấy một con gà trống mầu sắc lạ lùng, tấm thân đường bệ, cái mào và chân hiên ngang; con gà như sắp gáy. Con gà Tonkin nào có khác con gà Gaulois. 

- Ông bán cho ta bản khắc bức tranh này, ta sẽ trả giá ông muốn. 
- Thưa quan đồn, cái này không bán. 

Bất chợt Léc nhìn thấy bản khắc gỗ khác in Tranh gà bị bỏ đi vì đã cũ, nó dùng để cài then cửa chuồng gà. Léc đưa mắt cho tên thông ngôn. Tên lấy bỏ vào túi dết và đi thẳng ra cổng…”. 

Nhớ lại vừa vào làng Hauts de Seine có con gà Gaulois đứng trên tháp chuông nhà thờ. Buồn tình lão đốt điếu Gaulois và nhả khói. Qua khói thuốc mờ nhân ảnh lão nhìn ra cổng nhà chú ấy, hẳn là làm hai, ba ly vang nên ngất ngư: Lão thấy chú em rể lụi đụi bước ra…từ cánh cổng gỗ của quá khứ, chú ấy đang trôi sông lạc chợ vào một ngày giáp Tết về thăm quê nhà: Thế là lão ngật ngừ rong ruổi theo chú em trong một ngày có gió heo may. Mặt trời lên nửa con sào, khói sương còn vẩn vơ trên mái rạ, ngọn cỏ, đất bãi. Dòng sông Đuống cứ lặng lẽ nổi trôi, chẩy mãi và nhìn khuất cuối con đê là đền Gióng. 

Đường xưa lối cũ, thêm một lần, chú em đẩy đưa lão về với Lý, Trần, Lê, Nguyễn: Những bản in tranh Đông Hồ ngày nay, cho ta hình dung đến công việc in sách cách đây 9 thế kỷ vào đời Lý. Khởi đầu từ các sứ thần sang Trung Hoa xin kinh và cho người học nghề khắc bản gỗ. Năm 1018, Lý Thái Tổ sai hai quan là Nguyễn Đạo Thành và Phạm Hạc sang nhà Tống để thỉnh kinh Tam Tạng, thiền sư Tín Học cho khởi công khắc bản gỗ để in. Sau đó đến kinh Kim Cương, Pháp Hoa, Dược Sư, Viên Giác. Theo sách Thiền Uyển tập, tổ của nghề in mộc bản nước ta là Lương Nhữ Hộc, trú quán ở Liễu Chàng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. 

Đến tao đọan này, lão ngay mặt như cán tàn vì chuyện Ts’ai Lun (Thái Luân) họan quan đời Hán, sách Bách Việt hiền chí – Lĩnh Nam di thư, do sử gia Âu Đại Nhận đời Minh viết:: Ts’ai Lun gốc Quý Dương thuộc đất Bách Việt, năm 105 CN tìm ra giấy in được gọi là “Giấy tước hầu Thái”. Nhà nho Trần Lam Giang ta luận giải rằng Thái Luân là…người Việt, người đầu tiên…phát minh ra giấy nghe um thủm sao ấy. 

Nhẽ này lão không vạy vọ với chú em nên đành căng tai nghe… 

Đồng thời sách vở để lại ghi: Thế kỷ thứ III, làng Yên Hòa có một thứ giấy gọi là “Mật hương chỉ”. Năm 1295, Trần Anh Tông sai Trần Khắc Dụng và Phạm Thảo sang nhà Nguyên xin kinh Đại Tạng. Thiền sư Pháp Loa, trụ trì chùa Qùynh Lâm bắt tay vào việc khắc bản in. Mỗi trang sách là một bản gỗ, phải khắc lên chữ trái để khi in ra giấy bản là chữ phải. Vì có những bộ kinh lớn, bản gỗ lên tới 600.000 tấm, thời gian hòan tất trên 20 năm. Với hàng trăm người khắc, hàng trăm người in, cho khỏang 1.400 chùa chiền ở thôn xóm, đại tự, quốc tự. 

Chú ta ngược dòng với thiền sư Pháp Loa, lão cũng ngược về với thằng Tây, thằng Tàu… 

“…Tây nó bắt giam ông đã một tuần nay. Nhiều lúc ông mệt thiếp đi, hình vẽ trong Bức tranh Chợ Tết cứ chập chờn trước mặt. Làm sao mà ông không nhớ cho được khi ông gắn bó với nó. Kỷ niệm hồi nhỏ của ông những lần bị các cụ đánh sưng tay vì vô ý chệch một đường "ve".. Các cụ dạy, trước khi bắt tay vào tranh, bao giờ ông cũng mặc áo dài, sửa lễ cầu ông tổ nghề tranh mộc bản (ông tổ Lương Nhữ Hộc). Có thế khắc mới đẹp. Ông nhớ lại chuyện cụ tổ mấy đời làng này từng bị giặc Tầu bắt đi khắc tranh cho chúng, các cụ cắn lưỡi tự tử chết chứ không chịu. Bây giờ đến lượt ông đây, ông không thể làm thẹn mặt tổ tiên…”. 

Khi không chú em lại rủ rê lão thả rong về phường Yên Thái làm giấy, phường Nghĩa Đô dệt lĩnh và phường Thụy Khê cất rượu.. Ba phường Yên Thái, Nghĩa Đô, Thụy Khê gọi gồm là Kẻ Bưởi. Tuy nhiên nhắc đến Kẻ Bưởi hàm nghĩa phường làm giấy dính liền với chiều dầy của dòng lịch sử kéo dài cả mấy trăm năm. Mỗi mảnh đất hình như có dòng sinh mệnh riêng nó. Làng Yên Thái bây giờ, giấy bồi, giấy hội đang đi vào buổi hòang hôn. Chuyển qua làm nồi, làm đồng, vì vậy gần đây có câu “lệnh cồng chiêng Bưởi” là thế đấy, thưa bác. 

Trưa ngả sang chiều, chú em đảo về những phiên chợ tranh của một thời xa xưa… 

Mầu vàng rộm lên như cánh đồng lúa chín, mầu xanh ẩn sau lũy tre làng, mầu đỏ gấc như yếm thắm của áo tứ thân, mầu xám nhiễu như áo lam giang, trong lót nền hồ thủy, mầu đen như váy lĩnh giữa mùa quan họ. Qua những bức tranh có từng đường nét, từng góc cạnh cùng những bố cục, sáng tạo theo cảm tính này nọ. Qua bức Lợn đàn, từng mảng mầu này phủ lên mảng kia với sắc độ tự nhiên, tươi rói trên nền hồ điệp, trong veo vàng óng. 

Ấy là chưa kể bức Trê cóc bộc lộ được vẻ tươi vui cho việc trang hoàng nhà cửa. Cùng nét tranh khắc sâu, nét in phẳng lặng, lúc hớn hở như Chú bé ôm con vịt phú qúy. Khi thanh thản như cậu bé vắt vẻo ngồi trên lưng trâu thổi sáo. Có lúc ngờ nghệch với con lợn ỷ, mặt chành bành to bè. Với Chuột vinh quy, đánh dâu nền khoa cử xa xưa. (xem tr 6) 

Bỗng dưng chú em một tấc tận giời: “Các cụ ta xưa cũng hóm lắm đấy, bác nhỉ”. Như bức Hái dừa (do ông Nguyễn Đăng Chế người làng Đông Hồ vẽ cácg đây 102 năm): Chàng trai leo chót vót lên ngọn cây, dưới là cô gái quê mặc yếm, vén váy đứng đợi hứng dừa. Chú em bợm bãi: “Nhào, bác ngẫm nguội mà xem nếu trái dừa rơi tõm xuống váy thì…thì sao nhẩy, bác nhể”. Được thể chú ấy bốc nhằng: Vì vậy các cụ ta xưa mới có câu con gái chơi với con giai, ngày sau cái vú bằng hai quả dừa. 

Tiếp đến chú em lại nháo nhác đến bức Đánh ghen, hai bà một cô, dí dỏm một nỗi trong đó có một bà đánh hôi cầm kéo…Rồi chú ấy xớn xác hỏi lão: “Chứ theo bác nhỡ bà đánh hôi không lấy kéo sởn tóc mà cắt toẹt cái…váy thi sao đây, hở bác. Bác cứ ngẫm mà xem”. Hở với hang rõ nhiễu sự này, quả tình lão cũng chịu chết nghĩ không ra những cái oái oăm của các cụ gửi gấm trong những bức tranh tình tự dân gian. 

Ấy thế mà chưa hết chuyện “cái vú bằng hai quả dừa”… 


Chú em chỉ cho lão bức tranh Đánh đu phỏng theo thơ dân gian bà chúa thơ Nôm họ Hồ thì phải? Trái phải đâu chưa biết, hãy dòm bên phải bức tranh, cấu vào mắt lão có đàn anh từ đằng sau luồn hai tay vào cái yếm thiếu thước tấc…bóp vú đàn chị Quan họ Bắc Ninh. 

Thôi thì lão đành bày vẽ chữ nghĩa với chú ấy: Lễ hội là giao hòa, giữa trời và đất, giữa cỏ cây và muôn loài, giữa người và người, giữa nam và nữ. Ông bà mình vẫn thường nói ngày xưa trai gái đi xem lễ hội, tuồng chèo là để…chim chuột nhau, sờ soạng nhau ấy thôi. Chuyện tình tự dân gian với đất lề quê thói của các cụ ăn sâu vào tâm khảm, bàng bạc như tiếng sáo diều, câu ca dao tình tự mộc mạc từ ngàn xưa.
 

Đất khách quê người với bóng ngả đường chiều, chú em lãng đãng thả hồn về năm ngóai, như mới đâu đây. Lang thang ở con đê Cổ Ngư, qua một dải đất hẹp, rồi lạc về vùng Bưởi lúc nào không hay. Lững thững trên con đường lát gạch Bát Tràng rộng khoảng năm thước ta, để mỗi năm rước hội, kéo ngựa gỗ đi được. Qua chuyện kể: Chú em đứng lại thẫn thơ ngắm nét hoa văn trên cổng làng, nghỉ chân dưới bóng cây đa già, đằng sau là căn nhà cổ xưa u tịch còn sót lại, như vấn vương u uẩn, nghe vang vọng của nhịp chày Yên Thái, lẫn trong hươg trời sắc nước của Tây Hồ. Lão hòa nhập vào chú em khọm của lão cảm nhận được cái hồn của trời đất và hồn người, trong lão như bừng dậy âm vọng rậm rịch, rộn rã của một ngày xeo giấy, khắc ván, in tranh, phơi tranh. Cùng những nỗi niềm tiếc nhớ về một làng nghề giấy đang đang chìm dần vào quá khứ với mịt mùng khói sóng ngàn sương, nhịp chày Yên Thái, mặt gươm Tây Hồ mà một thời làm giấy sắc vua, kinh kệ, giấy lụa để in. 

Bỗng dưng không đâu lão bắt gặp chú em lặng lờ đứng ngắm cái cổng làng ắt là hết chuyện nên lão cũng chấm hết truyện viết Tranh Tết của ai đấy cho xong chuyện: ”Năm sau, Léc nhận được thư của bạn là họa sĩ từ Pháp gửi: "Léc. Moa nhận được Bức tranh Chợ Tết và Bản khắc gỗ Con gà. Cả hai đều là tác phẩm vô giá”. 

Vừa lúc chú em móc điếu Gaulois và mồi lửa, trong khi chờ đợi lão buôn chuyện mắc chứng gì Bức tranh Chợ Tết dưới chân cầu thang có cái lỗ cháy đen thui lủi. Chú em nhả đụn khói: “Nhào, một ngày lang thang bên sông Seine, bắt gặp bức tranh ấy ở quán sách cũ. Thế là em thửa về”. Chú em đùn khói tiếp: “Mang về rồi, nom thấy thằng Tay nào đó ký tên ở góc bức tranh. Bực mình, em dí một điếu thuốc vào tên nó”. Thằng Tay nào đó, lão đồ là tên họa sĩ bạn thằng Léc. Có đầu có đũa như chuyện Tranh Tết ở trên: ”Ở ngòai sân thằng Léc cầm Bức tranh Chợ Tết vừà in, xem xong bỏ xuống. Vừa lúc có tên lính đi theo bước vào sân, Léc nháy mắt“, thế là bức tranh biến mất. Còn bản khắc gỗ để in Tranh gà, chạy trời không khỏi nắng từ chuyện: “Bất chợt Léc nhìn thấy bản khắc gỗ khác in Tranh gà bị bỏ đi vì đã cũ, nó dùng để cài then cửa chuồng gà. Léc đưa mắt cho tên thông ngôn....bỏ vào túi dết và đi thẳng ra cổng”. 

Lão lễnh đễnh vậy vì lão vồ được nhiễu sự tấm mộc bản này hiện đang tàng trữ ở bảo tàng Mỹ Thuật Paris. Người làng Đông Hồ tìm cách đòi lại mấy năm nay vẫn chưa được (1). Ấy là chưa kể, nhiều và rất nhiều bản khắc gỗ tranh Đông Hồ (2) người Nhật mang về nước được họ bảo tồn kỹ lưỡng, nhưng trong đó không có bức mộc bản Tranh gà. 

Lão đang ngồi nhà chú ta ngay tại làng Hauts de Seine với nhân sinh quý thích chí qua những khúc mắc mà lão ghép nối hay hớm thế đấy để viết thành truyện Bức tranh Chợ Tết này đây. Thế là lão ngửa cổ nốc cạn ly rượu đỏ. Ngồi đụt ra, lão không biết làm gi hơn là…Là làm hết chai Bordeaux màu lá vang, lão say say đứ đừ như cóc cụ ngậm thuốc lào. 

Chiều về, lão lờ đờ ngả người ra ghế, ve ve mắt nhìn lên tàng cây… 

Nắng quái chiều hôm len lỏi qua rặng lá xanh thao thiết, lão chập chờn với giấy dó, giấy điệp. Dường như có cơn gió lùa lao xao qua cụm lá, nghe loáng thoáng như âm vọng rậm rịch của những ngày xeo giấy, in tranh. Lão chơi vơi trong một ngày heo may chớm lạnh, khói bếp vẩn vơ len lỏi chui qua mái rạ, cùng ngọn cỏ gió đùa, dòng sông Đuống lặng lẽ nổi trôi, chẩy mãi. Qua con đê, ẩn hiện không khí sầm uất vào cữ tháng Chạp, chợ tranh được mở tại đình làng để khách các thuyền xứ Đông, xứ Đòai ghé để “vờn” tranh, “ăn” tranh. 

Lão chống cây gậy trúc khua cua ngược dòng thời gian về tuổi ấu thời ở Hà Nội đi sắm Tết với ông cụ bà cụ. Ấy thế mà lão gặp cụ Hòang Cầm mà lão không hay với đì đẹt ngòai sân tràng pháo chuột, om sòm trên vách bức tranh gà (3). Lão thẫn thờ quanh con trên đường làng Bắc Ninh, nay lão lại gặp cụ Hòang Cầm eo óc với cuối xóm buồn teo một tiếng gà. 

Lão trở vê tuổi thơ của lão với O chuột: “Anh chuột chù có cái mõm dài nghêu, cứ vác cái mõm đã đủ mệt. Chú chuột nhắt nhỏ nhắn, leo vun vút, chạy nhoăn nhoắt”. Nhà văn Tô Hòai vẽ chuyện tiếp: “Ông mèo rất khác. Ông lờ đờ và nghiêm nghị tựa một thầy giáo nhà dòng, trên mình có khoác bộ áo thâm. Lúc nào hắn cũng ra vẻ nghĩ ngợi như sắp mưa”. Lão mơ mơ nghe có tiếng cóc nhái gọi mưa “ì ộp…ì ộp…” như ai đấy gọi đò sang sông về một bến nước… 

Lão chìm vào giấc hòe thấy Chuột vinh quy, Thầy đồ cóc… 


Chui vào đầu lão bức Chuột vinh quy, trước khi đi thi chuột phải điếu đóm ông mèo ít cá, tôm. Tích này sách xưa ghi: “Vua Lê Trung Hưng (1533-1789) vì thiếu tiền, ra lệ đóng ba quan tiền Minh Kinh để nộp quyển đi thi, nên có nạn quan trường thông đồng mua bán”. 

Với bức Thầy đồ cóc, lão lọ mọ sao cóc lại là ông đồ, không là ông mèo hay chú chuột, ắt hẳn…mèo bắt chuột giã gạo bằng thích, bởi: “Bia đá trên nền chùa cổ làng Đông Hồ có hàng chữ Đông Hồ tự bi, khắc thời nhà Mạc (1527-1592), trạm hai con chuột đang giã gạo”. Mà ông đồ cóc nát chữ như trấu trát chỉ dậy ễnh ương, cóc nhái. Võng anh đi trước võng nàng đi sau chỉ thấy…chuột. Chẳng thấy cóc đâu. Bông chui vào tai lão mấy chú chuột cắn nhau chí chóe trong cót thóc, lão trộm nghĩ làng Đông Hồ của chú em chả báu gì sất vì nhiều…chuột. 

Chợt có cơn gió thoảng, lão ho khùng khục như người hen. Chiều tối ập đến, trong nhà đã đỏ đèn. Ngoài sân, đằng góc vườn đâu đó có tiếng cóc cụ ho… 

Thạch trúc gia trang 
Nhâm Thìn 2012 
Ngộ Không Phi Ngọc Hùng 

(chỉnh sửa 2017, 2020) 

(1) Các cụ trong làng kể lại: Hồi Pháp thuộc, người ở viện Bác Cổ thỉnh thoảng lại đánh xe ô tô về mua tranh, mua cả bản khắc tranh nữa. Nhà cụ Lữ có bản khắc tranh gà rất quý đưa đi đóng cửa chuồng gà, người Pháp phát hiện ra hỏi mua cụ bán liền. Nghĩ mà tiếc đứt ruột! 
(2) Những bản khắc gỗ hiện lưu trữ tại Nhật 
(3) Bởi có bạn đọc cho rằng hai câu thơ trên của cụ Vũ Hòang Chương. Vì vậy người sưu tầm rị mọ trong bài Vịnh tranh gà lơn của cụ Vũ như dưới đây:                

Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành 
Gà lợn om sòm rối bức tranh 
Rằng vách có tai, thơ có hoạ 
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh 
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng 
Lòng lợn âm dương một tấc thành 
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn