Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2015

Mai Tôi Đi



Mai tôi đi...đời còn ai trọng vọng
Chỉ là giọt sương rớt xuống ngoài hiên
Lá thu bay theo làn gió bên thềm
Hoa rơi nhẹ trong sóng đời mê loạn

Nẻo sinh tử biệt ly về thấp thoáng
Đi nhẹ nhàng lòng thanh thản bình an
Tiếc mà chi còn một chút hơi tàn
Thì thôi hãy cứ an lòng vĩnh biệt

Giờ đã đến còn gì mà tha thiết
Chuyện vui buồn xin trả lại nhân gian
Dù giàu sang danh lợi cũng không màng
Rồi tất cả cũng hoá thành tro bụi

Vậy mới biết cuộc đời này ngắn ngủi
Xuôi tay rồi hết cả những yêu thương
Cõi âm dương đã cách trở đôi đường
Thoát trần tục vui về nơi cõi lạ...

Khi ra đi mong bình yên thư thả
Đôi tay trần rũ sạch nợ cho nhanh
Mặc ai kia còn mê mõi tranh dành
Cứ ôm giữ mãi lợi danh quyền thế

Khi tôi đi xin đừng ai rơi lệ
Đừng lễ nghi đừng đưa tiễn u sầu
Những đau buồn không nên chất chứa lâu
Nếu thương tôi hãy thương khi còn sống

Đời trôi qua nhanh như là cơn mộng
Cuộc trầm luân không sắc sắc không
Hãy quên đi bao đau khổ chất chồng
Thuyền Bát Nhã sẽ đưa về đến bến

Nghĩ đến tôi xin âm thầm cầu nguyện
Cho tôi lên Thiên giới sống đời đời
Trần gian này chỉ thoáng chốc vui chơi
Thì cuộc sống có chi là tiếc nuối...

Hoàng Kim Mimosa



Thăm Bạn - Tình Bạn


Bài Xướng: Thăm Bạn

Cao Lãnh, Vĩnh Long mắy chặng đường 
Xót xa thi hữu ngập tình thương 
Quên Đi thống khổ, ôi vận nước!
Thơ Thẩn vườn nhà gió bốn phương 

Mailoc
***
Bài Họa: Tình Bạn

Người nơi cố quận kẻ tha phương
Quý mến dù xa vạn dặm đường
Nan bắc đông tây nào cách biệt
Vườn nhà thơ thẩn một trời thương

Quên Đi

* * *
Bài họa Tình Bạn

Chung Vườn Thơ Thẩn một trời thương
Há cách gian lao mấy chặng đường
Chỉ ngại trời mây không với được
Tấc lòng trải rộng chốn ngàn phương!

Nguyễn Đắc Thắng
* * *
Vài Lời Thăm Hỏi
(Thân tặng 2 bệnh nhân QĐ và KO và chúc mau bình phục)

Vài lời thăm hỏi chút thân thương
Mỹ - Á xa nhau vạn dặm đường
Dù có muộn màng xin mến chúc
Mail nầy gởi net dẫu xa phương

Song Quang
* * *
Đôi Lời Cảm Kích


Một câu thăm hỏi vạn lần thương
Dù xa xôi cách mọi ngã đường
Vẫn không ngăn được Vườn Thơ Thẩn
Ý tình trải rộng dẫu muôn phương

Kim Oanh

Ân Tình Cho Thơ Lãng Mạn


Tôi xin ghi nhận những ân tình cho các nhà thơ đã đóng góp những áng thơ yêu đương và lãng mạn qua bài viết cục bộ này. Mang nghiệp dĩ thi ca chất chứa khuynh hướng lãng mạn hay một tâm hồn văn thơ lai láng đắm say, bất cứ thi nhân nào cũng trải qua các giai đoạn tâm tư bị dằn vật vì yêu đương, vì tương tư hay vì nhớ nhung, vì vậy thế gian mới có những Chopin, Beethoven, Paul Verlaine, Jacques Prévert, Félix Avers, hay Việt Nam ta có những Đỗ Lễ, Hàn Mặc Tử, TTKH, Nguyên Sa, Nguyễn Bính hay Xuân Diệu, Hồng Vũ Lan Nhi,... Tất cả những nghệ sĩ này sống với hồn nhạc hay hồn thơ như cái nghiệp chướng mà họ mang. Tôi thích họ bởi cái đặc tính là họ đã nói lên những yêu đương đắm đuối, biết than vãn và họ nếm thú yêu thương hành hạ cho đêm dài thêm trăn trở, cho thổn thức chín đỏ tim yêu và đó là yếu tố làm cho những tác phẩm mà họ gây dựng thêm thăng hoa khi người đời còn nghĩ về họ và văn học sử hay âm nhạc sử liệt kê họ vào khuynh hướng lãng mạn, và âu đó là chủ đề của tôi muốn ghi nhận ra đây. Tôi thích thơ của những thi sĩ thuộc nhóm thi ca lãng mạn này, trong đó có Nguyên Sa nói về người em gái tuổi 13 chìa tay đón mưa rơi như bong bóng vỡ đầy tay, Nguyên Sa trong khung nhạc bất hủ của Ngô Thụy Miên, Nguyên Sa của màu vàng hoa cúc như màu áo em, Nguyên Sa của mực tím đề tình thơ, Nguyên Sa của tháng 6 trời mưa, mưa rơi mãi không dứt, Nguyên Sa của mùa thu Paris và Nguyên Sa của sự lãng mạn khi nhìn tóc em mà lòng ngỡ như từng áng mây bay trong tâm thức.


Đó là thi nhân làm tôi nhớ mãi từng câu ví von, từng lời thơ tâm sự dâng nỗi lòng mà ông bộc lộ thật hồn nhiên, thật thiết tha. Vì yêu là phải nói, mà nói là lời tâm sự khi yêu. Yêu là tâm trạng tự nhiên mà thượng đế ban cho con người. Một khi nhịp đập con tim dâng lên nỗi rung cảm, cái tần số rung động đó đã khiến các thi nhân biến nguồn cảm hứng đó thành những áng thơ bất tử cho vườn thi ca âm nhạc thêm phong phú hơn. Hãy nghe Nguyên Sa tâm sự trong bài "Tương Tư" như sau:
"Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần bay
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay ?"
Khi ta yêu, con tim ngân dài theo phím đàn, tâm tưởng kéo dài theo yếu tố thời gian qua đi. Từng nhịp tim, từng hơi thở, từng cung đàn, từng phút giây đều cho em, nét dịu dàng hiện trên ánh mắt đầy nhớ nhung:
"Có phải rằng tôi chưa được quen
Làm sao buổi sáng chờ đợi em
Hay từng hơi thở ra âm nhạc
Đàn xuống cung trầm, mắt nhớ thương"
(Thơ Nguyên Sa, 1958)
Trong nỗi niềm nhung nhớ cô liêu dâng tràn hồn thơ, Nguyên Sa sáng tác bài tình thơ "Ngừơi Em Sáng Trong Cô Độc" với lời thơ chờ đợi người em gái để rồi hao mòn tâm tư:
“Có thơ sáng thắp trong từng ánh nguyệt
Những lời êm bày biện với linh hồn
Có mùa thu thay áo ở đầu non
Cho dịu lối em về mai lá rụng”
Nhớ em như nỗi hôn mê phủ lấp chân trời tương lai trước mặt. Cả cuộc đời vắng em như ngàn sao đêm vắng lặng trên nền trời tâm tối. Tình yêu ôi, tình yêu !
“Em đã đến chưa ? Sao đêm chợt vắng
Cả cuộc đời xáo động chợt hao đi
Những ngón tay dần chuyển xuống hôn mê
Và tà áo phủ chân trời trước mặt”
(Thơ Nguyên Sa, 1958)
Nguyên Sa có những xao xuyến về mùa thu. Mùa thu trong thơ nguyên Sa chứa đựng hồn thơ vui tươi như trong bài "Áo Lụa Hà Đông", anh quen em vào mùa thu tóc ngắn, em duyên dáng trong tà áo lụa Hà Đông để nhà thơ mãi dâng hồn thơ ấp ủ:
“Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng,
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng.”
Mùa thu của Nguyên Sa có nét chờ mong tích cực thì mùa thu nhớ cố nhân của nhà thơ HVLN nghe như hồn đau buốt, chỉ là mùa thu tưởng nhớ cô liêu, tâm tư khắc sâu hình bóng cũ cố nhân:
“Giờ đây, tưởng nhớ người xưa,
Hồn đau, lòng lạnh, tâm tư lắng chìm.
Trong tim còn một chút tình,
Bởi chưng còn dấu vết hình cố nhân.”
(Nhớ Mùa Thu Xưa, HVLN)
Trong bài “Gửi Cố Nhân” nhà thơ Nguyễn Bính chia xẻ tâm tư thao thức tựa như HVLN. Ý thơ Nguyễn Bính ray rứt trong cơn mưa dầm gió bấc rét lạnh khi mơ tưởng bóng cũ của cố nhân:
“Mưa dầm gió bấc cố nhân ơi!
Áo rét nàng đan lỡ hẹn rồi
Sông lạnh khi nàng ra giũ lụa
Vớt giùm trong nước lấy hồn tôi.”
Ghi chú: HVLN: Hồng Vũ Lan Nhi.
Trong một bài thơ khác, bóng cố nhân lại hiện về khi mà Nguyễn Bính mơ trong nỗi nhớ dịu dàng của bướm say hương sắc, hoa cười hé môi về người mà ông yêu:
“Tôi chỉ thèm yêu lấy một lần
Có người di giữa xứ mùa xuân
Thấy con bướm bay thơ thẩn
Ý hẳn đi tìm Hương cố nhân”
(Bài "Hương Cố Nhân", NB)
Một bài thơ bướm hoa khác, ông thố lộ tâm tình khi dòng đời đen bạc vì bị phụ tình như:
“Ai đem rắc bướm lên hoa
Rắc bèo xuống giếng, rắc ta vào nàng ?
Ai đem nhuộm lá cho vàng ?
Nhuộm đời cho bạc, cho nàng phụ ta.”
Nguyễn Bính vốn là thi sĩ của sự lãng mạn, tôi thích bài thơ “Tương Tư” của ông khi tôi học đệ tam, cái thời gian cho tôi chớm yêu và say thơ lãng mạn của Xuân Diệu và Nguyễn Bính. Và câu thơ dưới đây đã dính chặc hồn tôi từ dạo ấy:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.”



Trong khi đó Nguyễn Bính còn bài tương lòng khác mà tôi thích là “Người Hàng Xóm”. Hai người ở cạnh nhà, nhưng oái oăm thay cái giậu mồng tơi lại chia cắt, cách trở hai tâm hồn yêu trong cô đơn:
“Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.”
Trong bài “Lòng Yêu Thương”, Nguyễn Bính tỏa tâm sự lòng như sau:
“Yêu yêu yêu mãi thế này !
Tôi như một kẻ sa lầy trong yêu”
Rồi nhà thơ lại tôn vinh, thờ phượng người mình yêu chính là vị nữ thần linh thiêng trong tâm hồn. Ngược về quá khứ 1940 khi Nguyễn Bính làm bài thơ này, khuynh hướng xã hội tại Việt Nam thời ấy vẫn còn khép kín chuyện tình yêu lứa đôi ngoài công cộng thì dư luận phải đồng ý là Nguyễn Bính thuộc lớp nhà thơ mới, vô cùng táo bạo và sự phóng khoáng của ông đã đi ra ngoài khuôn khổ thuận lợi của xóm làng hay xã hội cũ:
“Ai yêu như tôi yêu nàng
Họp nhau lại, họp thành làng cho xinh
Chung nhau dựng một trường đình
Thờ riêng một vị thần linh là Nàng.”
Đó là thi ca của Nguyễn Bính. Còn sự lãng mạn của Xuân Diệu trong thi ca như thế nào ? Ngày cũ của lớp đệ tam tôi thích bài “Vì Sao” của Xuân Diệu, chỉ mấy dòng thơ cho tôi say sưa ngâm nga, đã ru kỷ niệm cũ vào thuở biết mộng mơ vì khi đã yêu thì mơ mộng nhiều:
“Làm sao cắt nghiã được tình yêu
Có nghiã gì đâu một buổi chiều
Nó đến hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhè, gió hiu hiu...”
  
Nói về thơ tiền chiến về yêu, người ta không thể không nghĩ đến bài thơ "Yêu" của Xuân Diệu, nó vốn đã thịnh hành, phổ quát trong dân gian, ít ra là câu đầu:
“Yêu là chết trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết.”
Nói về thơ hôn, Xuân Diệu là một trong các nhà thơ khá táo bạo đề cao nụ hôn trong thi ca. Ông sáng tác bài "Hôn" như sau:
“Trời ơi ôm lấy say sưa
Mặt khao khát mặt, lòng mơ ước lòng
Hôn em nước mắt chảy ròng
Em ơi ! Như ngọc đèn chong vẫn chờ.”
Trong niềm khát khao, sung sướng khi yêu nhau và rồi hôn nhau đến lệ tuôn trào. Đó là biểu hiện cho tình yêu đích thật khi con tim rung động dâng cao quá bờ xúc cảm. Nói đến đây tôi bổng nhớ đến bài "Nụ Hôn Đầu" của nhà thơ nữ Hồng Vũ Lan Nhi, chị sáng tác bài này năm 1960 trong cùng nhịp điệu thổn thức tràn dâng, khi con tim xao xuyến đến rơi lệ vì được hôn như sau:
"Nụ hôn đầu, ôi, sao đắm say
Em úp mặt vào đôi bàn tay
Chẳng biết vì sao Em lại khóc
Cho môi hồng thấm lệ tràn đầy"
Xuân Diệu lại tiếp bài thơ “Hôn” khi diễn tả về người yêu của mình:
“Em hôn anh suốt một giờ
Anh hôn em mấy cho vừa lòng đau
Sao mà xa cách giữa nhau
Để cho tháng thảm ngày sầu thế em ?”
Nhà thơ HVLN là một trong những nhà thơ nữ có thơ hôn thặng dư phong phú, tôi đọc nhiều áng thơ của chị, thơ chị làm mượt mà, trau chuốt chan chứa nỗi lòng, nhất là những xúc cảm từ con tim. Bài thơ hôn khác mà tôi ghi nhận là "Nụ Hôn Trinh Nguyên", nó cũng tượng trưng cho kỷ niệm dấu yêu đầu đời khi con tim chớm yêu của thuở thiếu thời:
“Nụ hôn theo gió bay đi
Còn trên môi ấm chút gì nồng say
Hương trinh nguyên vẫn ngất ngây
Trọn đời vẫn nhớ phút giây bão tình”
Khi cơn bão tình đến cho nụ hôn thêm say đắm, cuồng nhiệt, hãy tận hưởng giấc nồng cuồng si vì yêu đương ngất ngây, khi tâm hồn tràn dâng ngàn sao lấp lánh của mùa ái ân đến trong bờ mắt em:
“Mắt em lấp lánh sao rơi
Môi em như đoá mộng đời ngất ngây
Hằn trên môi vị cay cay
Hồn anh ngơ ngẩn, đắm say một đời.”
(“Nụ Hôn Trinh Nguyên“, HVLN)

Đó là sự gợi nhớ ánh mắt đắm đuối khi người nữ được hôn. Xuân Diệu mô tả trong thơ ông về nụ hôn mà ông trao cho người yêu trong bài “Hôn Cái Nhìn” như sau:
“Không phải anh hôn nơi mắt
Anh hôn cái nhìn của em
Mắt em một vùng yêu mến
Thắt anh trong lưới êm đềm”
Xuân Diệu đắm say trong cái nhìn của người yêu đượm không gian chứa chan sự dịu vợi vì ánh mắt biểu lộ sự đồng loã khi được hôn:
“Xin em cho phép anh hôn
Cái nhìn em, gương tâm hồn
Cái nhìn em trong không gian
Trong hồn anh giữ chứa chan.”
Trong cái nhớ nhung, mãi vương vấn hình bóng người yêu, Xuân Diệu sáng tác bài “Vấn Vương”:
“Anh chả hiểu vì sao vấn vương
Năm năm, như mấy chục năm trường
Vẫn làn mắt ấy, làn môi ấy
Anh hãy còn thương, chẳng hết thương”
Khi người mình yêu thương nhiều mà tình không đến như ý muốn thì màn đêm trăn trở chỉ là nỗi niềm của nước mắt nhớ nhung:
 “Nằm đêm anh cứ thương em
Rơi nghiêng nước mắt một bên gối nằm
Thế này cho hết trăm năm
Đến muôn năm vẫn âm thầm thương em.”
(Nằm Đêm Anh Cứ Thương Em, XD)
Nhà thơ Xuân Diệu có nhiều áng thơ tự tình tiêu biểu cho mối tương lòng, những mối tình không trọn vẹn để cái hương thơ của ông trở nên lãng mạn vô cùng và nó như loài hoa bất tử trong vườn thơ Việt Nam:
“Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm
Anh nhớ em, em hỡi ! Anh nhớ em...
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm ! Em ơi !...” 

Trong thi ca lãng mạn của những tác giả và tác phẩm trên khi mà chiều dài của nỗi nhớ nhung chạy vào màn đêm vô tận, thì nhịp tim dâng tiếng lòng mãnh liệt và giấc ngủ bị chôn vùi trong lãng quên để thay thế bằng những áng thi ca bất hủ. Cuộc đời theo luật tương đối, nên không có nguyên tắc lý tưởng trong tình yêu, vì bản sắc tình yêu vốn trắc trở và nhiêu khê mới nẩy sinh ra những tác giả hay tác phẩm bất hủ cho đời vây. Vâng, chính những cái nhiêu khê trắc trở hay những cái dở dang không trọn ven đó trong tình trường mới là nguồn cảm tác được quần chúng ái mộ, tán thưởng trong các lãnh vực thuộc bộ môn nghệ thuật như thơ, văn, nhạc, kịch, phim ảnh và hội họa.

Trong sự ái mộ văn chương và cho tôi nỗi niềm ân tình gợi nhớ thi ca lãng mạn của những Nguyên Sa, Nguyễn Bính, Xuân Diệu và Hồng Vũ Lan Nhi, VH muốn trình bày cái thầm kín riêng tư mà các tác giả đã bày biện nỗi lòng mình lên trên nhiều trang giấy. Và chiều dài cho những tình yêu mà họ đã trải qua, những nhớ mong của nhịp đập con tim dù xao xuyến dấu yêu hay dù thất vọng dở dang vẫn là những chuỗi suy tư dài như thời gian và định mệnh đưa đẩy họ vào cái không gian bất tận của nghiệp thi ca hay những mối tình đã vào dĩ vãng yêu thương chỉ còn lắng đọng lại trong văn chương sau này.

Việt Hải Los Angel

Thứ Sáu, 29 tháng 5, 2015

Kính Mừng Phật Đản Sanh


Tháng Tư Âm Lịch ánh trăng thanh,
Rực rỡ huy hoàng Phật Đản sanh.
Hội tụ thế nhân lòng ngưỡng mộ,
Qui nguyên Tam Giáo tấm lòng thành*
Nguyện cầu nước Việt Nam yêu dấu :
Lạc nghiệp, an cư, chọn đất lành
Thế giới vui mừng sinh Thái Tử,
Đạt Đa đắc Đạo đuổi yêu tanh!

Mai Xuân Thanh
Ngày 28 tháng 05 năm 2015
(* Tam Giáo : Phật, Thánh, Tiên )

Thì Thôi, Cứ Ước...Cứ Chờ...


Vẫn biết như là...
Trang sử mới
Vì quê muôn thuở mãi là quê
Sông xa thao thức đôi dòng chảy
Lạc bước chênh chao một lối về.

Đêm say...
Ta ước đời thanh tịnh
Cho tấc lòng riêng khỏi nhọc nhằn
Trái tim chai đá như bừng sống
Có được quay về thuở ấy chăng?

Ngàn năm xin cứ là mây núi
Bay mãi muôn phương chẳng thể dừng
Như làn gió thoảng nơi hoang vắng
Mấy nẻo phong trần - lạc bước chân.

Trần gian trải quá nhiều mưa_nắng
Sông kiếp tha hương phủ bụi mờ
Cũng muốn quay về năm tháng cũ
Gom góp cho mình những nét thơ.

...
Biết rằng…
Mơ vẫn là mơ Thì thôi.
Cứ ước...cứ chờ...
Được chăng?

TiCa Nguyễn Xuân Hòa


Tình Dại




(Thân tặng CHS Nguyễn Trường Tộ)

1965
Nhớ chuyện tình si thời cắp sách
Mỗi ngày đi học liếc nhìn nhau
Làm thơ mấy chữ sai bình trắc
Gởi em, em bảo...dở làm sao

Nhà em đầu ngõ cao danh vọng
Ta nghèo học dở...điểm...thường không
Sáu năm mơ tưởng người trong mộng
Năm nầy thi rớt ..thế là xong

1970
Lơ thơ ...lẩn thẩn tàn năm học
Chữ nghĩa có chăng? Một bóng hình
Tú tài em đỗ....ta không đậu
Kinh phật từ nay bỏ chữ tình

1975
Thấm thoát năm năm tàn lửa đạn
Rời chùa trang trải nợ trần gian
Kinh kệ quên mau lời thầy giảng
Bóng hình ai ấy mãi còn mang

2000
Ta lại gặp nhau quá nửa đời
Em nghèo anh khổ cũng đành thôi
Còn duyên đọc lại bài thơ cũ
Chấp nối tình già như Phan Khôi

Phủ Hiền

Cô Vọng Ngôn Chi Cô Thính Chi

Đây là bài Thất ngôn Tứ Tuyệt của Hình Bộ Thượng Thơ lúc bấy giờ ( đời Thanh ) là Vương Sĩ Trinh 王士禎 , 4 câu thơ kết thúc cho bài Bình về quyển Liêu Trai Chí Dị 聊齋誌異 của Bồ Tùng Linh 蒲松齡 mà Vương rất thích, chỉ vỏn vẹn 4 câu thôi mà nêu hết được cái ý chính và chủ đích của tác giả về tác phẩm bất hủ " Liêu Trai Chí Dị 聊齋誌異 ". Toàn bài thơ như sau:


姑妄言之姑聽之 Cô vọng ngôn chi cô thính chi.
豆棚瓜架雨如絲 Đậu bằng qua giá vũ như ti.
料應厭作人間語 Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ,
愛聽秋墳鬼唱詩 Ái thính thu phần quỷ xướng thi !

Chú Thích :
1. CÔ 姑 : Danh từ, có nghĩa là Chị Em gái của Cha. Nhưng ở đây CÔ là Phó Từ, nên có nghĩa là TẠM, CÔ là CÔ THẢ 姑且, có nghĩa là Tạm hãy...
2. VỌNG 妄 : là Bậy bạ, Quá lố, Ngông cuồng. VỌNG NGÔN : là Nói Láo, Nói Ngông, Nói quấy nói quá. VỌNG THÍNH : Nghe quấy nghe quá chơi !
3. BẰNG 棚 : là Cái Giàn. GIÁ 架 : cũng là Cái Giàn. QUA là Dưa. Nên ĐẬU BẰNG QUA GIÁ là Giàn Dưa Giàn Đậu.
4. LIỆU ƯNG : là Vì Chưng , Chắc là Vì...
5. YẾM TÁC : là Ghét làm việc gì đó...
6. THU PHẦN : là Những nấm mộ mùa thu với gió thu hiu hắt.
7. XƯỚNG THI : là Ê A Ngâm thơ.

Nghĩa Bài Thơ:

1. Nói quấy nói quá, nghe quấy nghe quá chơi mà thôi.
2. Trong cảnh mưa rơi lất phất như tơ trên giàn dưa giàn đậu.
3. Vì chưng chán ngán với ngôn ngữ của người đời.
4. Nên thích nghe ma quỷ ngâm thơ trong các nấm mộ thu hiu hắt.

Bản Diễn Nôm của Cụ Đào Trinh Nhất:

“Nói láo” mà chơi, nghe láo chơi 
Dàn dưa lún phún hạt mưa rơi 
Chuyện đời đã chán không buồn nhắc 
Thơ thẩn nghe ma kể mấy lời.

Câu đầu còn có dị bản như sau:
Cô vọng ngôn chi thính chi.
姑 妄 言 之 姑
hoặc...
Cô vọng ngôn chi VỌNG thính chi.
姑 妄 言 之 妄
Nghĩa cũng tương tự như nhau mà thôi !

Bài Diễn Nôm của Đỗ Chiêu Đức:

Nói quấy mà chơi nghe quá chơi!
Giàn dưa giàn đậu tiếng mưa rơi.
Chán lời nhân thế nghe ma quỉ,
Dưới mộ thu ngâm ngán ngẩm đời!

Lục bát:

Nói chơi quấy quá mà chơi,
Giàn dưa giàn đậu mưa rơi ơ hờ!
Chán lời nhân thế xô bồ ,
Thà nghe ma quỉ dưới mồ ngâm nga!

Đỗ Chiêu Đức

Thứ Năm, 28 tháng 5, 2015

Giỗ Ba


21 năm nhớ ngày Ba mất
Con nghẹn ngào se thắt lòng đau
Cùng nhà cầu nguyện với nhau
Ba trên Thiên Quốc đời sau an bình

21 năm một mình thương tưởng
Con xứ người vất vưỡng nơi đây
Cuộc đời như gió , như mây
Xin Ba che chở con đây an lành

21 năm mỗi mong ngày giỗ
Đường mỏi mòn loang lỗ lối đi
Một ngày Má khóc biệt ly
Đến nay con vẫn khắc ghi không về

21 năm âm thầm đất khách
Hai phương tròi khoãng cách vẫn xa
Hôm nay con nhớ giỗ Ba
Đọc kinh lần hạt ,lệ sa ngậm ngùi

21 năm lại thêm lần nữa
Con bồi hồi ngồi giữa đêm nay
Không cầm chuổi hạt trên tay
Chỉ lời cầu nguyện đọc thay Kính Mừng....

Đỗ Hữu Tài
25- 5 - 2015

Báo Tin Buồn CHS Tống Phước Hiệp Nguyễn Trí Hiếu NK 62-69 Đã Qua Đời



Vô cùng thương tiếc báo cùng các bạn Cựu Học Sinh trường Trung Học Tống Phước Hiệp Vĩnh Long NK 62 - 69:
Bạn Nguyễn Trí Hiếu
Đã trút hơi thở cuối cùng, sau thời gian điều trị tại bệnh viện Thống Nhất Sài Gòn.
Lúc 20 giờ ngày 26-05-2015 (nhằm ngày mùng 9 - 5 năm Ất Mùi)
Tại Vĩnh Long
Hưởng thọ 64 tuổi
Lễ động quan sẽ được cử hành lúc 06 giờ ngày 28-05-2015 tại Thành Phố Vĩnh Long. 


Sẽ được hỏa táng tại Sa Đéc.

Nay Kính Báo

Huỳnh Hữu Đức


CHS Tống Phước Hiệp NK 62-69 Chia Buồn Cùng Gia Đình Nguyễn Trí Hiếu



Cựu học sinh Tống Phước Hiệp, niên khóa 62-69 rất đau buồn khi hay tin
Bạn Nguyễn Trí Hiếu
Đã từ trần, sau thời gian trị liệu tại bịnh viện Thống Nhất Sài Gòn.
Lúc 20 giờ ngày 26 - 05 - 2015 (nhằm ngày mùng 9- 05 năm Ất Mùi)
Tại Vĩnh Long
Hưởng thọ 64 tuổi
Lễ động quan vào lúc 06 giờ ngày 28 - 05 - 2015.
Sẽ được hoả táng tại Sa Đéc.
Thành kính phân ưu cùng Gia đình bạn Nguyễn Trí Hiếu. Nguyện cầu Hương Linh bạn sớm vãng sanh miền cưc lạc.

Đồng Kính Phân Ưu

Lê Thị Kim Phượng
Huỳnh Hữu Đức

Thứ Tư, 27 tháng 5, 2015

Chim Gọi Đàn - Tưởng Nhớ 49 Ngày Anh Thanh Tâm

Anh Cao Khải, Kim Phượng, Kim Oanh thương gửi chị Khánh Hà


Thơ: Kim Phượng
Photo: Nguyễn Cao Khải
Thơ Tranh; Kim Oanh

Tâm Thanh - Thiên Nga Không Còn Giữa Cõi Người

(Để tưởng nhớ Tâm Thanh, nhân giỗ 49 ngày của anh)

Giữa tháng 7-2014, anh Nguyễn Đắc Điều, người bạn thân thiết của anh Tâm, từ San Diego, California sang Na Uy thăm anh. Có anh chị Phạm Kế Viêm -Trần Diệu Tâm tháp tùng từ Paris. Vợ chồng tôi nhận lãnh việc đưa đón khách đường xa, vì với chúng tôi, anh Điều cũng khá thân tình, xem chúng tôi như em út. Sau khi làm thủ tục nhận phòng trong khách sạn xong, tất cả chúng tôi đến thăm anh chị Tâm. Tình trạng ung thư của anh đã sang thời kỳ cuối. Mất sức qua các lần hóa trị và không ăn uống được, anh đã gầy đi nhiều, trông khá tiều tụy, mệt mỏi. Chí tình và cố gắng lắm anh mới tiếp chúng tôi, dù anh chỉ ngồi nhìn chúng tôi ăn, và nở những nụ cười. Đã khá lâu, từ ngày bệnh tình của anh trở nên trầm trọng, bạn bè rất hiếm khi được gặp hay nói chuyện với anh qua điện thoại. Ai cũng biết anh cần phải nghỉ ngơi, và tâm lý người ốm đau thường không muốn người khác, bạn bè phải nhìn mình với đôi mắt âu lo thương hại. Đặc biệt, anh Tâm lại là một người cẩn trọng, dễ xúc cảm và luôn sống chí tình với mọi người.

Tôi sống ở Na Uy, nhưng từ khi về hưu vợ chồng thường trốn lạnh, sang Mỹ ở với mấy cô con gái sáu tháng mùa đông. Những tháng hè về lại Na Uy. Lúc anh Tâm còn khỏe, và ngay cả khi anh bị ung thư đã được giải phẫu, nhưng sức khỏe chưa đến nỗi tệ lắm, đám bạn chúng tôi thường rủ anh ra quán cà phê Morten, nằm bên hóc núi trên con đường vắng đi về hướng Nittedal, để chuyện trò, tán gẫu. Những lần sau này, anh không còn tự lái xe được, chúng tôi ghé nhà đón anh đi, có khi anh nhờ cháu Như Thủy, cô con gái cưng của anh đưa anh đến. Ngoài tôi, có các anh Dương Kiền, Cung Vĩnh Viễn, Phí Ngọc Hải, Nguyễn Văn Lập, thi thoảng có anh Nguyễn Đình Lưu từ Tønsberg lên. Bọn chúng tôi thường chọn một cái bàn ngoài nắng, ngồi ôn chuyện cũ. Anh Dương Kiền kể thời anh viết văn, làm tờ Văn Học, điểm danh những khuôn mặt văn nghệ một thời. Anh cũng kể vài kỷ niệm vui lúc anh là Phó Ủy Viên Chánh Phủ của Tòa Án Quân Sự Mặt Trận Vùng 2. Anh Viễn thì nói về bạn bè Nguyễn Trãi, Chu Văn An, những tháng ngày sau 75 bất đắc dĩ làm thầy giáo “lưu dung”, và lắc đầu xua tay khi bọn tôi khen những bài thơ anh viết. Anh Lập và tôi thì kể chuyên lính, chuyện đánh đấm và chuyện tù đày. Đôi lúc anh Lập kể cả chuyện tu hành, con đường nào đã dẫn anh đến kinh kệ. Anh Lập nguyên là thiếu tá phi công trực thăng, sau 75 là bạn chí thân cùng tù với tôi, qua nhiều trại, ngoài Bắc. Vượt biển chung một chuyến và cùng đến định cư ở Na Uy. Anh cũng là bạn đồng nghiệp Bưu Điện cùng sở với chị Tâm. Ăn chay trường, tu tại gia gần mười năm nay. Anh Phí Ngọc Hải, đồng môn QGHC với anh chị Tâm. Hai anh đã thân quen khá lâu, từ khi mới đến định cư ở Nauy và họp sức thành lập Hội Thân Hữu Người Việt Tự Do. Những lần sau này, anh Tâm không uống được cà phê như trước nữa, anh chỉ uống nước lạnh hay một tách trà nhạt. Sau đó, sức khỏe anh yếu dần qua những lần hóa trị, và nhất là không ăn uống được, anh cáo lỗi, không đến nữa.

Vắng anh, chúng tôi cũng thưa dần những buổi họp mặt. Không có anh, chúng tôi thấy trống vắng quá, khoảng trời trên vách núi không còn trong xanh, những ngọn gió mùa hè Bắc Âu lạnh lẽo hơn, và những tách cà phê trở nên nhạt thếch, không còn hương vị nồng nàn.

Viễn, Tâm, Ninh, Kiền, Hải 

Chúng tôi gọi nhau để hỏi tin tức về anh. Thỉnh thoảng gọi tới nhà, được nghe chị Tâm nói vài điều về tình trạng sức khỏe và việc chữa trị. Dù chị Tâm cố gắng vui vẻ, bình thản, nhưng chúng tôi hiểu được điều gì sẽ đến. Chúng tôi chỉ còn biết cầu nguyện và ước mong có một phép nhiệm màu nơi Đấng Tối Cao mà anh đã một đời thờ phượng và phó thác số mệnh của mình.

Viễn, Hải, Lập, Ninh, Tâm

Nếu căn bệnh ung thư là một bất hạnh, thì bù lại anh Tâm đã có một diễm phúc rất lớn. Đó là người bạn đời Khánh Hà, cũng vừa là bạn đồng môn QGHC và vừa là người bạn văn tâm đắc nhất của anh. Anh viết văn còn chị làm thơ. Tôi cũng rất mê thơ của chị, nhiều bài, nhiều đoạn rất dễ thương, từ khá lâu tôi đã thuộc nằm lòng:
…..
Thức dậy cùng em thuở ấu thơ
tiếng con tu hú gọi vang bờ
dòng sông tuổi nhỏ trôi đi mất
còn bãi sông buồn đứng ngẩn ngơ.
(Tháng Chạp Quê Nhà)
….
Đêm nghe tiếng sóng trong lòng
thấy ta thức dậy trên dòng sông xưa
trường giang lớp lớp sóng đưa
một con đò chở nắng mưa sớm chiều
(Đêm Nghe Tiếng Sóng)

“Thơ Khánh Hà dễ hiểu, nhưng không tầm thường, sẽ đi vào lòng mọi người đọc, trí thức cũng như bình dân, một phẩm tính ít nhà thơ nào tạo được” (nhận xét của nhà văn Nguyễn Văn Thà). Anh Tâm, phu quân của chị, “đọc thơ người nhà” cũng đã viết: “Thơ đối với Hà là hơi thở. Nhưng nàng lại ngại ngùng chia sẻ; nàng thích chia sẻ đồ ăn, của cải, nhưng tâm sự và thơ thì dè dặt. Đối với bạn bè, và cả với tôi, nàng chỉ coi thơ (và chính sự hiện diện của nàng) như một nụ cười vu vơ gởi tới bạn hiền.” Chị luôn đồng hành cùng anh trên mọi nẻo đường đời, luôn được tất cả mọi người quí mến, nể nang. Chồng Bắc vợ Nam, nhưng có lẽ đây là đôi tình nhân hạnh phúc nhất, cặp vợ chồng tâm đầu ý hợp nhất mà tôi biết được.

Anh Điều, anh chị Phạm Kế Viêm và vợ chồng tôi đến thăm anh chị hai lần. Chúng tôi rất ái ngại khi chị Tâm phải vừa săn sóc cho anh vừa làm cơm đãi khách, nhưng chị Tâm, ngoài bản tính chân tình, hiếu khách, cũng muốn cho chồng vui, nhất là được gặp lại anh Điều. Dù vóc dáng tiều tụy nhưng lúc nào anh cũng cố nở nụ cười, vui vẻ. Anh xin lỗi vì không thể nói chuyện nhiều được. Anh chị kéo chúng tôi ra vườn sau, chụp vài tấm ảnh. Những năm sau này anh nghiên cứu về nghệ thuật nhiếp ảnh như là một hobby trong tuổi già, bên cạnh chuyện viết lách Anh cho chúng tôi xem những tấm hình cũ và cả những tấm hình anh vừa mới chụp, có đủ mặt mọi người. Nhìn trong ảnh, thấy anh cười mà lòng tôi xúc động, thoáng hình dung ngày tháng tới đây, trong chúng tôi sẽ thiếu mất một người.

Tâm, Điều, Viêm, Ninh
Khánh Hà- Diệu Tâm-Gia Thức

Được có hai buổi gặp gỡ ở nhà anh chị lần này là một may mắn đặc biệt. Nhờ cái tình anh dành cho anh Nguyễn Đắc Điều, người bạn quí, có thể nói là thâm tình nhất mà anh xem như người anh trong gia đình. Bởi anh Điều vừa là bạn cùng khóa 6 QGHC với người anh quá cố của anh, anh Ngô Đức Lưu, và sau này lại là người đồng sự của anh tại Viện Tu Nghiệp Quốc Gia, cùng đi du khảo ở Mỹ, Đài Loan. Hơn nữa, chị Tâm cũng tốt nghiệp Cao Học từ Học Viện QGHC, đồng môn của phu quân và của cả anh Điều. Dù ở xa, nhưng lúc nào anh Điều cũng hết lòng lo lắng, khích lệ bạn mình. Khi anh Tâm viết xong những truyện trong Thiên Hương Về Trời, anh Điều thúc hối layout để anh mang đi in cùng với thi tập Cuối Đường của chị Tâm, giới thiệu trong cuộc triển lãm các tác phẩm của cựu sinh viên QGHC ở Nam Cali và gởi biếu bạn bè. Khi bệnh tình trở nên trầm trọng, biết trước số phận của mình, anh Tâm viết “Lệnh Triệu Ban Rồi” gói ghém những tâm tình như thay cho lời từ biệt. Anh Điều luôn khuyến khích và cuối cùng đã lo việc in ấn và chuyển đến những bạn bè của anh Tâm ở khắp các nơi. Bản tính anh chị Tâm không bao giờ muốn làm phiền bạn bè, đã tìm đủ cách khéo léo hoàn trả cho anh Điều mọi phí tổn, mà anh Điều không có cách nào từ chối được.

Tôi may mắn được quen biết anh Tâm trong hơn 30 năm, sau này lại quen biết anh Điều trong trường hợp khá bất ngờ để rồi trở nên thân thiết. Cả hai anh đều là những người đáng kính, luôn sống với nhau bằng trọn tấm lòng. Tôi hiểu được vì sao mà anh Tâm và anh Điều thân quí nhau như thế.

Lần cùng với anh Điều và anh chị Phạm Kế Viêm đến thăm, cũng là lần cuối cùng tôi gặp anh Tâm. Tháng 9.2014, vợ chồng tôi sang Mỹ. Trước ngày đi, nhóm bạn chúng tôi lại hẹn gặp nhau ở quán cà phê Morten bên hóc núi. Đó là lần họp mặt buồn nhất. Bọn tôi bảo nhau, có lẽ sau này chúng mình không còn gặp lại anh Tâm. Tôi chỉ còn có một ước mong duy nhất là ngày anh Tâm ra đi, tôi có mặt ở Na Uy để được tiễn anh lần cuối và nói với anh vài lời mà không thể nói lúc anh còn sống. Tính của anh không thích nghe những lời khen, những lời cám ơn hay ngưỡng mộ mình.

Nhưng rồi điều ước mong nhỏ nhoi duy nhất đó cũng không thành. Sáng sớm ngày 9 tháng 4.2015, khi đang ở nhà cô con gái út trên đồi Hacienda Heights, mừng cháu vừa sinh đứa con thứ nhì, mới thức dậy thấy trong lòng như nôn nóng một điều gì, tôi vội vàng mở máy check mail, thấy bạn Đinh Ngọc Cần (nhà văn Đoàn Mai Tâm) từ Oslo báo tin buồn: “Anh em mình đã thực sự mất một người anh đáng kính. Anh Ngô Thanh Tâm vừa mới ra đi lúc 6giờ chiều hôm nay, ngày 9.4. Chúng mình hãy cùng cầu nguyện cho anh.” (Giờ Na Uy đi trước Cali 9 tiếng).Tôi lặng người. Đầu óc tự dưng không còn cảm giác và trong lòng dường như chỉ còn là khoảng trống bao la.

Tôi gặp anh Tâm lần đầu trong một buổi hội Tết, sau gần hai tháng gia đình tôi đến định cư ở Na Uy. Tôi ở khác thành phố nhưng cùng một thị xã với anh. Gọi là hội Tết nhưng thực ra chỉ quy tụ khoảng 80-90 đồng hương, tổ chức một ngày Tết chung để hoài niệm những cái tết ở quê nhà. Tôi mới đến, nên bị mấy cụ già “bắt cóc” làm trưởng ban tổ chức. Có lẽ mấy cụ nghĩ là những người mới từ trại tỵ nạn sang còn chút năng nổ, chưa bị ngấm cái lạnh Bắc Âu. Hội Tết cũng được sự tham dự đông đảo của những người Na Uy trong chính quyền và Sở Tỵ Nạn. Ngay sau khi kết thúc, được cho là thành công, anh Tâm tìm đến bắt tay tôi với nụ cười thân thiện. Tôi biết anh từ đó, nhưng chưa thân tình lắm.

Thời gian này tôi hoạt động rất tích cực trong Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, mà tôi và nhiều bạn bè đã tham gia từ khi còn ở trại tỵ nạn Bataan, Phi Luật Tân. Lúc này Mặt Trận còn được nhiều người ủng hộ, và ngay tại Na Uy một vị linh mục Việt Nam đứng ra thành lập và làm Chủ Tịch Ủy Ban Yểm Trợ Kháng Chiến.

Một lần, tôi đứng ra tổ chức buổi nói chuyện cho giáo sư Tonaka từ Nhật sang, mà tôi được ông cựu Đại tá Phạm Văn Liễu, Tổng Vụ trưởng Hải Ngoại của Mặt Trận, giới thiệu là bạn thân của Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, đã từng vào chiến khu quốc nội(?), và là người đang vận động quốc tế ủng hộ Tướng Minh và Mặt Trận. Trước đó, trong vài lần tâm tình, tôi biết là anh Tâm không những không tin, không ủng hộ mà còn phản đối Mặt Trận, nhưng tôi vẫn mời anh đến nghe. Tôi bảo là tôi rất tôn trọng những suy nghĩ và quyết định của anh, nhưng vì đây là lần đầu tiên có một giáo sư ngoại quốc nói chuyện về Mặt Trận, nên tôi muốn anh đến nghe để tìm hiểu thêm và giúp tôi tìm một hướng đi đúng sau này. Anh nể tình tôi, nhận lời.

Buổi nói chuyện được tổ chức tại trung tâm thành phố Oslo, đông đảo bà con đồng hương tham dự. Khi giáo sư Tonaka kết thúc phần nói chuyện, đến phần trả lời các câu hỏi, thấy anh Tâm đưa tay hai lần, nhưng khi tôi mời thì anh im lặng, lắc đầu. Mặc dù trong vai trò điều hợp, tôi luôn lên tiếng mong muốn được nghe những ý kiến, phản biện về những tiêu cực của Mặt Trận để được cùng thảo luận, hầu tìm ra đáp số cho bài toán của niềm tin.Vài hôm sau anh ghé thăm, tôi nhắc lại việc anh đưa tay đến hai lần nhưng sao không hỏi. Anh cười, bảo là không muốn làm cho tôi buồn và thất vọng! (Và sau đó tôi đã thất vọng thật.)

Từ hôm đó anh thân tình với tôi hơn. Tôi nối gót anh vào ngành Bưu Điện, anh làm việc ở cấp quản trị cao hơn. Nhưng khi tôi học xong và đi làm được hai năm thì anh bỏ Bưu Điện sang làm ở Đài Truyền Hình NRK. Lúc này Hội Thân Hữu Người Việt Tự Do tai Na Uy do anh Phí Ngọc Hải, một người bạn thân của anh làm hội trưởng từ lúc các anh sáng lập, vì hoàn cảnh không thể tiếp tục, hội cũng đã không sinh hoạt một thời gian. Anh Tâm đã vận động tôi, và nhờ nhiều người uy tín khác, trong đó có một vị linh mục, khuyến khích tôi ra nhận lãnh trách nhiệm để gầy dựng lại. Ngày bầu cử, sợ tôi “trốn”, anh đích thân lái xe đến nhà thật sớm để chở tôi đi. Tôi làm hội trưởng, anh luôn ở bên cạnh như một người bạn đồng hành. Tôi mời, anh từ chối, không muốn nhận chức danh Cố Vấn hay Giám Sát, nhưng cam kết là luôn ở bên cạnh tôi. Và anh đã giữ lời hứa. Chúng tôi đã đổi danh xưng thành Hội Người Việt Tỵ Nạn Tại Na Uy, quy tụ thêm nhiều đồng hương, tạo được những thành công và sức mạnh. Hai anh em gắn bó với nhau trong sinh hoạt cộng đồng từ dạo ấy. Trong công việc, không phải là chúng tôi không có những bất đồng, nhưng tôi luôn tôn trọng, kính mến và biết ơn anh.

Giữa năm 1997, anh gởi cho tôi đọc một số truyện ngắn anh viết, đề tên tác giả Tâm Thanh. Truyện nào cũng rất hay, nhưng tôi mê nhất là truyện Trích Tiên. Tôi không ngạc nhiên về tài viết văn của anh, bởi tôi biết trước khi vào Cao Học QGHC anh đã tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Triết ở Đà Lạt và từng làm giáo sư môn Triết. Đúng như nhà văn quá cố Nguyễn Mộng Giác đã từng nhận định: “Người đọc bước vào truyện (Tâm Thanh) như lạc vào cõi mơ, và ra khỏi truyện thì ngơ ngẩn bàng hoàng vì băn khoăn không hiểu nổi những vấn nạn của nhân sinh. Có thể xem truyện ngắn của Tâm Thanh như những bài thơ triết lý.” Và sau này, người bạn văn của anh ở Na Uy, nhà văn Nguyễn Văn Thà, cũng đã có cái nhìn rất sắc bén về các tác phẩm của anh: “Tâm Thanh đã viết được nhiều truyện ngắn hay. Anh đã nâng truyện ngắn Việt Nam lên một bậc. Truyện ngắn anh có kỹ thuật cao, hóm hỉnh và đầy minh trí như thơ Nguyễn Khuyến, nhưng cũng lãng mạn một cách thâm trầm, ý vị.”

Từ khi mê tài viết của anh, tôi thường ghé lại anh hơn. Anh luôn bảo tôi kể cho anh nghe chuyện tình thời học trò và chuyện lính. Không ngờ những câu chuyện kể không đâu vào đâu ấy để chỉ vài hôm sau tôi bất ngờ đến ngỡ ngàng khi đọc truyện Cổ Thành, kèm thêm một bài thơ cùng tựa của chị Khánh Hà, anh chị viết gởi tặng tôi và “vầng trăng thơ ấu”(chữ của anh). Anh viết hay quá, đẹp quá, làm tôi cứ tưởng là chuyện của một chàng mục tử đa tình nào đó chứ không phải chuyện của mình. Tôi liên tưởng đến thằng bé chăn cừu trong truyện Les Étoiles của nhà văn Alphonse Daudet tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần lúc còn đi học. Tôi có cái diễm phúc được anh cho đọc nhiều truyện của anh trước khi in thành sách. Tác phẩm đầu tay Thiên Nga Giữa Cõi Người do Văn Học ấn hành mùa hè 1999 đã làm nên tên tuổi Tâm Thanh. Trong nền văn học hải ngoại có thêm một nhà văn đúng nghĩa, được độc giả ái mộ. Sau đó Gỗ Thức Trên Rừng, Thiên Hương Về Trời lần lượt ra đời. Tất cả đều là những tác phẩm giá trị, được bạn bè và độc giả khắp nơi đón nhận nồng nhiệt.

Ban đầu, anh bảo tôi kể chuyện cuộc đời cho anh nghe, để rồi anh âm thầm viết thành những truyện đẹp. Sau đó thì anh khuyến khích tôi viết, bảo tôi có sẵn cái vốn quý -những kỷ niệm đặc biệt thời ấu thơ, những thăng trầm trong cả một đời lính- vốn đã là những câu chuyện hay và cảm động. Anh muốn có người đồng hành cho vui. Vâng lời anh, tôi viết vội Nợ Đời Một Nửa, Một Nửa Nợ Ơn Em. Đây không phải là một truyện ngắn mà chỉ là một đoản văn, không đâu vào đâu. Tôi gởi đến anh với lời nửa đùa nửa thật: “Vâng lời ông thầy, gởi đến bài luận văn này nhờ ông thầy Triết xem qua và chấm điểm. Đủ điểm trung bình thì cố gắng viết, còn điểm dưới trung bình thì đành xin bẻ bút”. Ngay tối hôm ấy tôi nhận hồi âm: “Trả lại bài viết, vì ông thầy (bàn) không còn điểm để cho.”

Không ngờ lời nói đùa đó của anh lại là sự khởi đầu nghiệp viết lách của tôi. Anh rất xứng đáng là thầy tôi, nhưng không bao giờ chịu nhận. Đôi lúc tôi còn giận anh cái tính quá khiêm nhường.

Khi được anh và nhiều vị thầy cùng bạn bè khuyến khích tôi ấn hành tập truyện đầu tiên “Ở Cuối Hai Con Đường”, môt vài nhà văn tên tuổi thương tình, ngỏ ý viết tựa cho tập truyện. Tôi rất cảm kích tấm lòng của các bậc đàn anh, muốn nâng đỡ khích lệ một người tập tễnh cầm bút, nhưng tôi xin phép từ chối. Tôi muốn được anh Tâm Thanh làm điều ấy. Bởi ngoài việc tạo một cơ duyên, anh còn là người dẫn dắt tôi vào nghiệp viết. Bài tựa của anh, không những làm tăng thêm giá trị của tập truyện, mà với tôi, còn là một kỷ niệm đẹp đáng nhớ, nhất là sau khi anh không còn hiện hữu trên cõi đời này.

Thiên Nga Giữa Cõi Người, tên truyện ngắn mà anh dùng làm tựa cho tập truyện đầu tay. Tập truyên đã làm nên tên tuổi Tâm Thanh. Trong câu chuyện, anh kể về một đôi thiên nga đẹp nhất ở vùng sông hồ Telemark- Na Uy. Giống thiên nga vốn rất hiền lành và chung thủy, nhưng vì sống gần con người nên con thiên nga trống đã bị giết (oan), vì nó tấn công một chú bé đang bơi lội dưới hồ mà tưởng nhầm là con rái cá đã quấy phá ổ trứng của chúng. Cuối cùng, tác giả -người chứng kiến cái chết của con thiên nga và tìm ra lý do chết oan của nó- đã bộc bạch tâm sự của mình:

“Tôi có thể “tu luyện” để hưởng được hơi ấm của một giọt nắng trong vườn tuổi thơ ngay lúc còng người đi trong cơn bão tuyết. Nhưng lạ quá, tôi chưa bao giờ tránh được cơn gió bấc vô hình giữa những con người. Tôi biết hoàn toàn là lỗi tôi, buồn lòng lắm, nhưng không làm gì được”

Giờ thì tác giả không còn ưu tư, tự nhận lỗi về mình hay phải buồn lòng nữa, bởi Thiên nga Tâm Thanh đã ra đi, vĩnh viễn không còn giữa cõi người.

Phạm Tín An Ninh
Viết tại đồi Hacienda Heights
12.4,15