Ai đã từng xa cách người yêu, vợ chồng những năm dài dằng dặt, trông ngóng tin nhau, chờ nhau? Xin mời bạn thưởng thức bài thơ nầy của thi nhân Lý Bạch. Mời các bạn thơ góp vần cho vui.
Cửu Ly Biệt
Biệt ly kỷ xuân vị hoàn gia
Ngọc song ngũ kiến anh đào hoa
Huống hữu cẩm tự thư
Khai giam sử phân ta
Chí thử trường đoạn bỉ tâm tuyệt
Vân hoàn lục mấn bãi sơ kết
Sầu như hồi phiêu loạn bạch tuyết
Khứ niên ký thư báo Dương Đài
Kim niên ký thư trùng tương thôi
Đông phong hề đông phong
Vị ngã xuy hành vân sử tây lai
Đãi lai cánh bất lai
Lạc hoa tịch tịch ủy thương đài
Lý Bạch
* * *
Dịch nghĩa:
Xa Cách Lâu Dài
Từ ra đi đến nay đã mấy xuân chưa về nhà
Trước cửa sổ ngọc đã năm lần thấy anh đào nở hoa
Huống nữa lại có bức thư chữ gấm
Mở phong bì ra khiến người than thở
Đến nổi ruột nầy đứt lòng đây cắt
Cuộn tóc mây không chải tóc mai xanh
Buồn như cơn gió lốc thổi tuyết trắng tung bay
Năm trước đã gửi thư nhắn tới Dương Đài
Năm nay lại gởi thư giục giả lần nữa
Gió đông chừ gió đông!
Hãy vì ta thổi đám mây bay về phía tây
Đợi người về mà chưa thấy ai về
Hoa rơi lặng lẽ phủ trên rêu xanh
Dịch Thơ:
Xa Cách Lâu Dài
Đã mấy Xuân người đi biền biệt
Năm mùa đào, lòng biết ngoài song
Huống chi thư gấm đôi dòng
Đọc xong , nét chữ thấy lòng tái-tê
Xé buồng tim , ê-chề , ruột cắt
Cuộn tóc mây thôi thắt , mai lay
Sầu theo gió cuốn tuyết bay
Năm rồi thư gởi đến ai Dương Đài
Nay lần nữa thư này vội gởi
Đông đã vê, Đông hỡi! Gió ơi!
Xua mây tan hết chân trời
Trông người về mãi , hoa rơi, rêu bày!.
Mailoc phỏng dịch
Thu Cali 11-16-12
Chú thích:
Thư chử gấm ( cẩm tự thư ): Đời Hán, Đậu Thao đi lính thú lâu năm không được về . Vợ là Tô Huệ dệt bức thư gấm thêu bài thơ dâng vua.Vua phục tài, cảm động, hạ chiếu cho Đậu Thao về.
Mấn : tóc mai
Dương Đài : nơi Sở Tương Vương gặp thần nữ, cùng ân ái
* * *
Song Quang đã có những ngày ly biệt xa cách vợ con nên cũng cảm thông được nỗi sầu xa cách.Nay xin chia sẻ qua bài dịch nghĩa và ý thơ của huynh Mailoc. xin có bài phỏng dịch theo nhưng không xác nghĩa với ý chính của Lý Bạch tiên sinh.
Sầu Ly Biệt
Người đi biền biệt mấy xuân
Năm mùa đào nở bâng khuâng trước thềm
Thêm thư gấm nét chữ mềm
Mở ra đọc thấy lòng thêm não nề
Buồng tim ,ruột thắt ê chề
Tóc mai biếng chải,lời thề lắt lay
Sầu theo gió cuốn tuyết bay
Gởi theo thư tới Dương Đài năm qua
Hôm nay thúc giục nữa mà !
Gió Đông đã đến...thât là gió Đông??
Thổi xua tan nổi cô phòng
Chờ người về mãi ...hoa lòng phủ rêu
Song Quang
* * *
Đỗ Chiêu Đức xin được bổ sung các phần sau đây :
1. Bản chữ Hán cổ của bài thơ : Những chữ đánh HOA là những chữ khác với bản của Thầy Lộc đã phiên âm, sẽ nói rõ ở phần Chú thích bên dưới :
李白 久別離 Lý Bạch CỬU BIỆT LY
別來幾春未還家, Biệt lai kỷ xuân vị hoàn gia,
玉窗五見櫻桃花。 Ngọc song ngũ kiến anh đào hoa.
況有錦字書, Huống hữu cẩm tự thư,
開緘使人嗟。 Khai giam sử NHÂN ta.
至此腸斷彼心絕。 Chí thử trường đoạn bỉ tâm tuyệt.
雲鬟綠鬢罷梳結, Vân hoàn lục mấn bãi sơ kết,
愁如回飆亂白雪。 Sầu như hồi phiêu loạn bạch tuyết.
去年寄書報陽臺, Khứ niên ký thư báo Dương đài,
今年寄書重相催 Kim niên ký thư trùng tương thôi.
東風兮東風, Đông phong hề đông phong,
為我吹行雲使西來 Vị ngã xuy hành vân sử tây lai.
待來竟不來, Đãi lai cánh bất lai,
落花寂寂委青苔。 Lạc hoa tịch tịch ủy THANH đài.
2 . Chú Thích :
* chữ NHÂN : Có thể bản mà Thầy Lộc có, người ta đã đánh máy nhầm chữ N thành chữ P mà thôi,
vì câu thích nghĩa của Thầy Lộc vẫn đúng theo chữ NHÂN : " Mở phong bì ra khiến NGƯỜI (ta)
than thở."
* chữ THANH : Tính từ chỉ Màu Xanh. Đây là một dị bản của bài thơ, chữ THANH nầy không
hay bằng chữ THƯƠNG là Xanh om trong bản của Thầy, chỉ chép lại đây để tham khảo mà thôi !
* Về từ " ĐÔNGPHONG ": Thường một số người cứ lầm tưởng ĐÔNG PHONG là gió của mùa đông, sự thật ĐÔNG PHONG 東風 là : Gió từ Phương Đông thổi đến, tức là gió XUÂN đó ! Như trong câu : Đào hoa y cựu tiếu ĐÔNG PHONG, và trong bài nầy là "ĐÔNG PHONG hề ĐÔNG PHONG". ĐÔNG PHONG ở trong 2 câu nầy đều chỉ GIÓ XUÂN, chớ không phải gió Mùa Đông. Vì Gió
Mùa Đông là Bắc Phong , ta đọc trại ra thành Gió Bấc.
* SỬ TÂY LAI 使西來 : Nghĩa là " ... khiến cho từ hướng tây tới." Chớ không phải " Hãy vì ta
thổi đám mây bay về phía tây ". Chữ LAI và chữ KHỨ là XU HƯỚNG ĐỘNG TỪ. LAI chỉ di
chuyển đến gần người nói, chữ KHỨ chỉ di chuyển xa người nói. Ví Dụ :
- Tẩu LAI : là chạy lại ( gần người nói ).
- Tẩu KHỨ : là Chạy đi ( xa người nói ).3. Diễn Nôm:
Lục bát:
Chia tay xuân ấy chưa về,
Năm mùa hoa đã đổi thay anh đào.
Mở thơ gấm, dạ nao nao,
Can tràng quặn thắt như bào ruột gan.
Tóc mây càng biếng điểm trang,
Sầu trông gió cuốn hoa tàn tuyết rơi.
Tương tư dạ nhớ khôn nguôi,
Năm qua một bức Dương đài Vu sơn .
Năm nay lại giục cơn buồn,
Gió xuân hây hẩy vẫn luôn mơ màng.
Mây mưa e ấp lỡ làng,
Vì ta mau hãy vội vàng gió tây.
Chờ hoài chờ mãi ai đây ?
Hoa rơi lặng lẽ phủ đầy rêu xanh!
Đỗ Chiêu Đức
* * *
Dịch Thơ:
Mấy xuân chẳng về nhà
Năm lần đào trổ hoa
Có thơ của vợ hiền
Xem lại càng xót xa
Ruột này đau như thắt
Tóc mai buồn bỏ mặc
Sầu như tuyết loạn bay
Thư cũ hẹn Dương Đài
Thư nay vẫn đợi trông
Gió đông hỡi gió đông
Vì ta nhắn phương đoài
Chờ chi sầu vời vợi
Rêu phủ hoa buồn rơi
Quên Đi