Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2014

Túc Tấn Xương Đình Văn Kinh Cầm

 
Phút giây hồi tưởng về tuổi-thơ-tôi. Nhạt nhòa, những năm tháng bão loạn, trôi giạt, và một tối ngủ đình.  
Túc Tấn Xương Đình Văn Kinh Cầm -Lý Thương Ẩn (813 - 858)

Ky tự quan quan dạ cảnh xâm
Cao song bất yểm kiến kinh cầm
Phi lai khúc chử  yên phương hợp
Quá tận nam đường thụ cánh thâm
Hồ mã tê hòa du tái địch
Sở viên ngâm tạp quất thôn châm
Thất quần quái mộc tri hà hạn
Viễn cách thiên nhai cộng thử tâm


Ngủ Đỗ Ở Đình Tấn Xương Nghe Tiếng Chim Hót Hoảng

Trời tối dần, lòng kẻ ngủ đình nơi đất khách, ngổn ngang trăm mối 
Qua cánh cửa sổ trên gác không khép, nhìn thấy một con chim bay hoảng
Bay lạc lõng xuyên qua đám khói vừa tụ lại ở đầu bến sông
Rồi mất dạng, khuất vào bụi cây rậm trên bờ đê ở phía nam
Văng vẳng nghe như tiếng ngựa Hồ hí, xen với tiếng sáo từ ải Du
Tiếng vượn Sở hú, lẫn trong tiếng chầy giặt quần áo ở thôn Quất
Lạc bầy,lìa tổ, đêm phải ngủ treo ở trên cành cây, cho đến bao giờ đây
Chim ạ, ven trời xa cách, thân ta lúc này cũng như chim mà thôi

Một Tối Ngủ Đình 
 
Chiều tối, ngủ đình, dạ vấn vương,
Cánh chim lẻ bạn, thoáng trong sương.
Xuyên quàng đám khói thưa đầu bến,
Chúi lủi bụi cây rậm cuối đường.
Khúc sáo ải xa, sầu viễn xứ,
Tiếng chầy thôn vắng, hận tha phương.
Lạc bầy, đất lạ, đời phiêu bạt,
Vò võ ven trời, ôi cố hương.
 
                  Phạm Khắc Trí
*** 

Ở Tạm Đình Tấn Xương    

Đêm tối cô đơn càng héo hắt
Ngoài song chim hoảng sợ  vô cùng 
Bay qua bãi khói sương dầy phủ
Vượt khỏi đê cây cỏ bịt bùng
Sáo ải ngựa Hồ văng vẳng tiếng
Chày thôn vượn Sở cảnh mông lung
Lạc đàn ở tạm bao giờ dứt
Ngăn cách trời xa thật não nùng 
                                    Quên Đi 

*** 
Cảm Tác Trong Đêm Ngủ Đình  

Lỡ bước, ngủ đình, dạ ngổn ngang 
Thấy ngoài cửa sổ cánh chim hoang 
Lạc bầy, hoảng loạn trong màn khói 
Chấp chới, bơ vơ giữa bụi tàn 
Ngựa hí, sáo ngân nơi cửa ải 
Chầy khua, vượn hú chốn thôn trang 
Ta đây, chim đó cùng đơn độc
Đất khách thân côi, phận bẽ bàng. 
                              Phương Hà
 

Sự Tích Con Muỗi

 

Có hai vợ chồng nhà nọ yêu nhau rất mực. Ngày mới lấy nhau, họ đã từng ăn thề hẹn không bỏ nhau. Nếu không may một trong hai người chết đi thì người kia sẽ chết theo để xuống âm ty cho có bạn. Sau đó không bao lâu, người vợ trẻ tự nhiên bị chết mang đi một cách đột ngột. Không ai có thẻ tả được hết tình cảnh đau thương của người chồng. Anh chàng đã mấy lần toan tự tử, nhưng bị người nhà ngăn trở và canh phòng ráo riết. Hôm sắp sửa cất đám bỗng có một đạo sĩ đến bày cho chàng phép cải tử hoàn sinh mà theo lời ông ta, đã từng có nhiều người dùng rất ứng nghiệm. Phép của ông ta chẳng có gì khó, chỉ cần người sống gan dạ và kiên trì một chút là được. Nghĩa là người sống mỗi ngày ba lần ôm ấp và truyền hơi ấm của mình vào cho tử thi. Làm luôn như thế không nghỉ ngày nào thì chỉ trong khoảng ba tháng mười ngày là người chết sẽ sống lại. Người chồng cảm ơn đạo sĩ và làm đúng như lời dặn, hi vọng đưa người yêu trở lại cõi thế. Ngày ngày chàng ôm ấp vợ, truyền sức nóng, hơi thở của mình vào cái xác đã lạnh toát. Nhưng sau đó ba ngày, mùi thối của tử thi bay ra khắp xóm làm cho mọi người không chịu được. Họ kéo nhau đến nhà bắt chàng phải chôn lập tức. Bất đắc dĩ, người chông nhờ xóm giềng chặt nứa làm giúp một cái bè để mình đưa xác vợ đi một nơi khác. Nhiều người vui lòng giúp anh chàng trong việc này. Chỉ trong nửa ngày, hắn đã chở xác người yêu đi biệt. Chiếc bè theo dòng nước trôi mãi. Người chồng vẫn ngày ngày ấp ủ vợ không thôi. Cái tử thi đó trông vẫn như người nằm ngủ. Lòng anh chàng tràn trề hy vọng. Đến một nơi kia, hắn cắm bè lại kề một bãi cỏ rộng, lên bộ nấu ăn. Tình cờ trong khi đi nhặt củi chàng ta gặp một cụ già. Nhìn thấy ông cụ chống gậy đi một mình giữa cảnh trời nước hoang vu, lại râu tóc trắng xóa, hình dung không có gì là lam lũ, chàng trẻ tuổi lấy làm ngạc nhiên. Hắn đang suy nghĩ thì thoáng  cái ông cụ đã đứng trước mặt. Hiểu ngay đó là bậc Tiên Phật, hắn vội phục xuống chân cụ già rồi kể lể sự tình, cuối cùng không quên cầu khẩn ông cụ sinh phúc giúp cho vợ mình sống lại. Cụ già đó chính là đức Phật, thấy anh chàng nài nỉ hết sức, bèn thương tình, đi theo xuống bè, bảo hắn chích máu ngón tay nhỏ ba giọt vào miệng vợ. Tự nhiên người đàn bà mấp máy môi rồi từ từ ngồi dậy như vừa tỉnh một giấc mơ. Trước khi ra về đức Phật có hỏi người vợ: - Anh chàng này cho vay ba giọt máu để ngươi được hồi sinh. Vậy nhà người có yêu anh ta chăng? Trước câu thề thốt chắc nịch của người đàn bà, đức Phật bảo: - Không can gì. Nếu không yêu nữa thì chỉ việc trả lại ba giọt máu cho anh ta là đủ!
bọn họ nóng lòng muốn trở về quê hương, đức Phật gọi một con cá sấu khổng lồ từ vực sâu lên bảo chở họ đi. Cá sấu vượt sông được nửa ngày đường thì bụng đã đói. Nó bảo hai vợ chồng lên bộ nghỉ ngơi để cho nó đi tìm cái ăn. Hai vợ chồng dắt nhau vào quán cơm. Trong quán hôm đó có một người khách thương sang trọng. Hắn ta thấy nhan sắc người vợ diễm lệ ít ai sánh kịp thì bỗng nảy tà dâm, mưu toan chiếm đoạt. Hắn lân la lại gần, đưa các mẫu hàng tơ lụa và đồ trang sức ra vờ chào khách, kỳ thực là để tán tỉnh người đàn bà đẹp. Hắn nói trong thuyền hắn đậu ở gần đấy còn có nhiều món hàng nữa rất quý và rẻ, muốn mời họ xuống xem. Nhưng người chồng thì chẳng thiết một tí nào. Cơm nước xong, bỏ mặc người khách thương, dắt vợ ra bến vắng, ở chỗ hẹn với cá sấu, ngồi đợi. Họ ngồi dưới bóng cây trò chuyện một chốc rồi vì mệt quá, ngủ quên lúc nào không biết. Họ cũng chẳng ngờ sau lưng họ, người khách thương kia vẫn theo hút không rời. Khi thấy hai người nằm ngủ, hắn đi nhẹ đến thức riêng người vợ dậy, mời nàng xuống thuyền đậu kề đó để hắn biếu một món trang sức; - "Thuyền của tôi chỉ cách đây mươi bước. Bà không phải đợi lâu đâu!". Nghe nói thế, lòng người đàn bà bỗng thấy lay chuyển. Nàng đứng lên, đi theo người khách thương xuống thuyền. Chỉ trong nháy mắt, theo ám hiệu của chủ, bọn thủy thủ chiếc thuyền buôn nhổ neo và giong buồm cho thuyền chạy mất.   Lại nói chuyện cá sấu lúc ngoi lên chỗ hẹn thì thấy chỉ có một mình người chồng, bấy giờ vẫn đang ngủ say. Cá sấu thức chàng dậy hỏi chuyện. Anh ta ngơ ngác không hiểu thế nào. Một mất mười ngờ, hắn đổ tội cho cá sấu đã ăn thịt mất vợ. Để giải mối ngờ, cá sấu mới bảo hắn kiếm cây luồn qua miệng mình, khua trong dạ dày xem thử cho biết. Anh chàng làm theo, chỉ thấy trong bụng cá sấu toàn là xương cá và đá cuội, mới biết mình ngờ sai. Tìm khắp mọi nơi chẳng thấy vợ, hắn trở về bến, ôm đầu kêu khóc rất thảm thiết. Cá sấu thương tình bèn bảo hắn cưỡi lên lưng rồi phóng đi, đuổi theo những chiếc thuyền vừa qua lại để dò tìm tung tích. Sau mấy lần dò hỏi, người ta cho biết một chiếc thuyền buôn vừa đi qua, trong đó có một người đàn bà trẻ và đẹp. Họ tả nét mặt và hình dạng thì đúng là vợ chàng. Cá sấu bèn cố công đuổi riết.   Khi nhìn thấy vợ ngồi trong thuyền khách thương, người chồng nói với vào: - Nàng cứ nhảy ra đây... Tôi không thể sống xa nàng được... Tôi sẽ làm cho nàng sung sướng... Nhưng người vợ trả lời chồng: - Chàng về đi! Em đành phụ chàng. Chàng tha thứ cho em vậy. Rồi đưa cho chồng một gói vàng: - Chàng hãy nhận lấy vật này và coi như em đã chết từ hôm nào rồi. Vừa bực tức vừa thất vọng, chồng ném gói vàng xuống nước rồi nhờ cá sấu đưa mình trở lại tìm đức Phật. Khi đức Phật gặp bọn họ, liền giục cá sấu hối hả rượt theo chiếc thuyền khách thương để cho anh chàng thất tình đòi lại ba giọt máu của mình. Lại nói chuyện người đàn bà sau khi chích máu ở tay để lấy ra ba giọt trả nợ cho chồng thì ngã vật xuống chết ngay. Người khách thương hết sức chữa chạy nhưng vô hiệu. Rồi sau đó hắn ném xác nàng xuống biển. Nhưng do phép màu của đức Phật, người đàn bà ấy hóa thành con muỗi. Vì thiếu máu, nên lúc nào muỗi cũng lén lút đi chích trộm của mỗi người một tí để sống[1].
  KHẢO DỊ

                                                     


Việt-nam còn có truyện Lương Nhân có lẽ cũng từ truyện Sự tích con muỗi phát triển ra.
Lương Nhân quê ở Vĩnh-yên, lấy vợ là Thị Xuân. Vợ chết, Lương Nhân quá thương cõng xác vợ theo mình không rời. Phật thương tình hiện lên phun ba ngụm nước cho Thị Xuân sống lại. Một hôm vợ chồng có việc đi xa, ngủ nhờ ở thuyền. Trong lúc Lương Nhân ngủ say thì vợ bỏ chồng theo ông chủ thuyền. Lương Nhân gặp lại đức Phật. Phật bảo đến đòi ba ngụm nước. Thị Xuân phun xong lăn ra chết.

Sau đó Lương Nhân gặp Hán Chân. Hai người lấy nhau, kiếm ăn rất chật vật. Một hôm Lương Nhân đi vắng, một người khách lạ thấy Hán Chân có sắc đẹp liền ve vãn nhưng bị nàng cự tuyệt. Để mua chuộc, người khách xin hai miếng trầu và đưa cho nàng hai trăm lạng bạc. Hán Chân nhận và khi chồng về kể lại sự thật. Lương Nhân ngờ vợ và định giết vợ. Vợ trốn đi, cải trang làm con trai vào học ở một ngôi chùa tại Sơn-tây. Đã đẹp lại học giỏi nên sư nữ Thị Vân đâm mê Hán Chân, hẹn hò làm vợ chồng.

Được mấy năm Hán Chân đội tên Lương Chân đi thi đỗ trạng, được vua gả công chúa. Hán Chân xin phép về quê mở hội làm chay. Lương Nhân bấy giờ làm nghề nông, nghe có hội, đem rau đến bán. Vợ chồng gặp nhau. Phật hóa phép cho Lương Nhân thành một chàng trai đẹp đẽ thông thái. Hán Chân đưa chồng về triều tâu rõ sự thật. Vua gả công chúa cho Lương Nhân làm vợ hai. Thị Vân cũng được đón về làm vợ ba[2].

Truyện Sự tích con muỗi tương tự với một số truyện cổ tích phương Tây. Trước hết là cổ tích Đức do Grim (Grimm) sưu tập:
Xưa có một người lính can đảm lấy vợ là một nàng công chúa. Ngày mới lấy nhau, hai bên cùng hẹn sống chết có nhau. Nếu vợ chết trước chồng thì chồng sẽ tự chôn sống với người yêu. Ngược lại, nếu chồng chết trước vợ thì vợ cũng sẽ làm như vậy.

Ít lâu sau người vợ mang bệnh qua đời. Người chồng quyết chết theo vợ, chàng tự chui vào huyệt nằm bên cạnh cái xác. Trong lúc đợi chết, chàng bỗng thấy một con rắn bò đến gần vợ, bèn ngồi dậy giết chết con vật. Sau đó, một con rắn khác đến tìm, thấy đồng đội đã chết, liền trở về mang ba cái lá cây đến làm cho sống lại. Người đàn ông bèn nhặt lấy ba lá và bắt chước phương pháp cứu chữa của con rắn làm cho vợ mình cũng sống. Đoạn, chàng đưa vợ về nhà, giao ba cái lá cây quý báu kia cho một người đầy tớ tin cậy giữ.

Từ khi sống lại, người vợ trẻ tự nhiên thay đổi tình cảm đối với chồng. Nàng không yêu chồng nữa. Một lần vợ chồng đi tàu trên biển, người vợ phải lòng viên cai tàu. Giữa lúc chồng đang ngủ say, nàng cùng viên cai tàu nâng bổng người chồng vứt xuống biển. Nhờ được người đầy tớ trung thành vớt lên và dùng ba lá cây cứu sống lại, người đàn ông mới thấy lòng dạ bạc bẽo và gian ác của vợ. Cuối cùng hắn đã trị tội vợ đến chết.

Trong kho cổ tích của người Ý (Italia) cũng có hai truyện nói đến việc người chồng làm cho cô vợ trẻ của mình sống lại, Ở truyện thứ nhất, người chồng ban đêm ngồi gác tại một ngôi đền, trong đó có quan tài của vợ. Bỗng dưng thấy một con rắn bò đến cạnh quan tài, bèn giết đi. Nhưng con rắn lại sống lại, nhờ có một con rắn khác đưa đến một thứ cỏ "cải tử hoàn sinh". Anh ta bèn dùng cỏ ấy cứu sống vợ. Ở truyện thứ hai, người chồng giết chết một con thằn lằn đến gần quan tài của vợ nhưng con vật đã được mẹ nó cứu sống nhờ có một thứ hoa hồng. Anh bèn cứu vợ bằng hoa hồng ấy.

Một truyện cổ tích Pháp cũng có nội dung gần giống những truyện đã kể:
Một chàng trai trẻ tuổi tên là Hoa Hồng lấy vợ nhưng không may hai tháng sau khi cưới, vợ chàng bị bạo bệnh rồi qua đời. Thương nhớ vợ hết sức, anh chàng cứ chiều chiều đến khóc ở mộ vợ. Một hôm, theo lệ thường anh bước vào nghĩa địa, bỗng có con ma hiện ra trao cho một cái hộp bằng bạc trong có một đóa hoa hồng. Ma bảo anh muốn cho vợ sống lại thì cứ nạy quan tài ra rồi ghé đóa hoa vào mũi vợ ba lần. Anh làm theo lời, vợ bèn sống lại.

Ít lâu sau, người chồng có việc phải đi Paris gặp người em ruột. Lúc đến nơi thấy em đau nặng, anh bận chữa chạy cho em, quên cả việt viết thư cho vợ như đã hứa. Vợ lấy làm lạ, chắc chồng đã chết. Cũng lúc đó, có một viên quan ba ở đội quân "đầu rồng" làm một bức thư giả báo tin là người chồng đã chết. Rồi hắn âm mưu lấy được người đàn bà kia làm vợ.

Qua một thời gian, bệnh tình của em có phần đỡ. Hoa Hồng bèn trở về thì vợ đã bỏ nhà đi lấy chồng. Anh rất buồn, bỏ ra tỉnh đầu quân. Anh không ngờ mình trở thành một người lính đầu rồng và càng không ngờ trở thành thư ký riêng cho viên quan đã đoạt vợ mình. Khi gặp mặt vợ cũ, anh biết vợ không yêu mình nữa.

Một hôm Hoa Hồng được viên quan mời ăn tiệc và trong lúc ăn người ta lén bỏ và túi anh một bộ thìa nĩa bằng bạc. Tiếp đấy, anh bị người ta lục soát và kết án xử tử vì tội ăn trộm. Trong ngục, anh chàng đút lót tiền cho một người lính già, đưa cho hắn cái hộp bạc của con ma ngày trước, dặn hắn phương pháp làm cho mình được sống lại sau khi bị bắn. Sau khi anh chết, người lính già tiêu hết tiền rồi mới nghĩ đến việc cứu anh, nhưng anh vẫn sống lại khi đóa hoa đặt vào mũi.

Bấy giờ ở một tòa lâu đài gần bên có một nàng công chúa đêm đêm biến thành quái vật giết chết những người lính gác. Hoa Hồng đến cứu nàng thoát khỏi phép độc của mụ phù thủy. Anh lấy nàng làm vợ và sau đó được thừa kế ngai vàng.

Ông vua mới đi khắp nước để duyệt đội ngũ. Duyệt đến đội lính "đầu rồng" cũ, vua bảo họ còn thiếu một người. Khi người ta dẫn người lính già, ân nhân của mình đến, vua tháo lon của viên quan ba, người đã đoạt vợ mình ngày trước, gắn cho người lính già. Đoạn vua bắt viên quan ba cùng với vợ hắn lên giàn hỏa[3].

Người Ả-rập (Arabes) có truyện Sự gian dối của đàn bà:
Một người Ít-xra-en (Issrael) có người vợ đẹp, hắn yêu hết sức. Bỗng nhiên vợ chết, hắn đến ở bên mộ không rời. Chúa Jê-su thấy hắn khóc lóc luôn cạnh bèn hỏi chuyện. Khi nghe hắn kể nỗi lòng, Chúa bảo: "Có muốn làm cho nàng sống lại không?". Thấy hắn nói không muốn gì hơn thế, Chúa bèn làm cho một người da đen sống lại. Hắn vội nói: - "Ô không phải, vợ tôi ở mộ kia". Chúa lại làm cho người da đen chết mà hà hơi cho vợ hắn sống lại. Hắn mừng quá, sau đó bảo vợ: - "Tôi canh mộ mình bấy lâu quên ăn quên ngủ, bây giờ mệt quá cho nghỉ một tí". Rồi hắn gối đầu lên chân vợ chuyện trò, dần dần ngủ quên. Trong khi đó, một hoàng tử xinh trai cưỡi ngựa đi qua, người đàn bà đặt đầu chồng xuống đất, đi theo. Hoàng tử cho ngồi sau lưng.
Chồng tỉnh dậy không thấy vợ bèn theo dấu, đuổi kịp gót ngựa. "Đây là vợ tôi, hắn nói, xin ngài làm ơn bỏ lại cho!". Vợ hắn nói: - "Tôi thuộc về nhà vua rồi". Hoàng tử dừng ngựa, nói: "Anh ghen với vợ ta ư?" - "Không. Đây là vợ tôi. Chúa vừa mới giúp tôi làm cho nàng sống lại". Bỗng Chúa Jê-su hiện ra, hắn reo lên: - "Có phải Chúa vừa làm sống lại người này cho tôi không?". Vợ hắn lấp liếm: - "Láo, ta là vợ hoàng tử". Chúa hỏi: - "Có phải ngươi là kẻ do ý Chúa mới được sống lại không?" - "Vâng, nhờ hơi thở của Chúa" - "Vậy thì trả lại cho ta cái mà ta cho". Người đàn bà thở ra và chết ngay. Chúa phán: - "Nếu ai muốn thấy một người lần trước chết bất nghĩa, được cứu sống và lần sau chết có nghĩa thì nhìn người da đen kia; còn muốn thấy người lần trước chết có nghĩa, được cứu sống và lần này chết bất nghĩa thì nhìn người đàn bà này". Người chồng thề sẽ không lấy vợ nữa, sau đó ở lại sa mạc tu hành cho đến chết[4].
Trong Liêu trai chí dị có truyện Ông hiếu liêm họ Vũ phần nào giống với Sự tích con muỗi. Ở đây kẻ bạc tình lại là người đàn ông. Hắn đi kinh đô tìm công danh, bị bệnh thổ huyết, lại bị đầy tớ lừa đảo, sắp chết dọc đường. Nhờ có một người đàn bà - vốn là một hồ ly chung tình - cho một viên thuốc thần khỏi bệnh và từ đó trở nên giàu có, danh giá. Hai người thành vợ chồng. Nhưng sau hắn chê vợ già, đi lấy một người đàn bà họ Vương làm thiếp. Lâu rồi vợ cũng biết tin, bèn tìm đến, kết chị em thân mật với họ Vương. Thấy chồng bạc bẽo lại mưu toan giết mình, vợ đòi lại chồng viên thuốc. Hắn nôn ra xong, thì bệnh cũ dần tái phát rồi chết.
Người Khơ-me (Khmer) cũng có truyện Sự tích con muỗi nhưng nội dung khác hẳn:
Ngày xưa loài muỗi được thần Xi-va sáng tạo, mình như mình chim, mõm như mõm chó. Chúng bay hàng đàn, chuyên ăn thịt người làm cho người chết mòn chết mỏi. Một hôm có nàng tiên mách cho loài người đốt lửa xung quanh chỗ ở để ngăn không cho muỗi đến. Không làm gì được người, muỗi bèn nhờ thần Xi-va làm cho mình trở nên thật bé để tiện lén lút ăn thịt. Nhưng cũng không làm gì được người vì hể thấy ở đâu bị cắn đau là người đánh ngay vào đấy. Muỗi lại đi kêu nài thần Xi-va lần nữa. Thần cho mỗi con một cái vòi thay cho mõm để hút máu vừa lanh lẹ vừa không ai biết. Từ đó mà có giống muỗi ngày nay[5].

( Theo http://maxreading.com )

Huỳnh Hữu Đức sưu tầm

Mừng Chúa Sống Lại


Khi thế giới mừng ngày Chúa sống lại
Như mặt trời tỏa rạng khắp bốn phương
Mang ánh sáng, tình thương cho nhân loại
Để mọi người ca ngợi Chúa Giêsu

Xin cảm tạ Chúa ngôi hai sống lại
Con vui mừng được nhận ơn thứ tha
Dù Thánh Giá theo Cha còn tồn tại
Nhưng nhọc nhằn , đau đớn đã đi qua

Chúa sống lại là tin mừng cứu độ
Cho con người lảnh ngộ nghĩa tình yêu
Biết đùm bọc kẻ cô liêu khốn khó
Biết cuộc đời được , có chỉ lêu bêu

Chúa sống lại quang vinh trên Thiên Quốc
Chúa lên trời cứu rỗi cho trần gian
Chúa ban xuống bình an , ơn tha thứ
Chúa nhân từ che chỡ kẻ lầm than

Chúa sống lại ta tìm ra lẻ sống
Đã lơ là trống rỗng trong tâm linh
Biết tìm Chúa cầu xin khi lầm lỡ
Có tình Ngài nâng đỡ giữ đức tin

Xin cảm tạ một ngày Chúa sống lại
Ban đời con êm ả từng ngày qua
Xin cảm tạ một tình yêu quảng đại
Con không còn ái ngại nhìn ảnh Cha

Đỗ Hữu Tài(Thế Thôi)
(4/18/2014)

Anh Chị Tuấn Yến Chúc Mừng Mùa Phục Sinh 2014

  

Hình ảnh ghi được trong buổi Tỉnh tâm tại Fatima Bình Triệu, Chủ nhật Lễ Lá Apr.13 vừa qua.
Gởi tặng Kim Oanh và gia đình nhân Mùa Phục Sinh 2014.

Than men,
TuanyenDang

Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2014

Các Thánh Đường Ở Châu Âu

Notre Dame de Paris
Eglise Des Reformes, Marseille, France
Monmartre, Paris, France.
 Bên trong Gothic Cathedral, Barcelona, Spain.
Bên trong St Peters, Vatican, Rome, Italy.
 Notre Dame De La Garde, Marseille, France
Cathedrale De La Major, Marseille, France
 Bên trong Cathedrale De La Major
Francis Xavier Church "De Krijtberg", Amsterdam, Holland.
St Pauls, London.

Biện Công Danh

Xin Sống Lại...


Tháng tư buồn nằm trong ngăn nhỏ
Tim xưa từng giọt tím xậm màu
Ngỡ là dòng máu thấm thương đau
Nhưng không! Hạ về hoa phượng nở

Tháng Tư buồn nghe tình trăn trở
Nhặt cánh rơi bỡ ngỡ tàn phai
Không cõng hoa sao trĩu đôi vai
Nhưng có! Hạ đọa đày tình lỡ

Tháng Tư buồn thuyền chở ra khơi
Sóng cuồng nộ kéo đời nghiệt ngã
Đưa vào bờ vội vã ...hạ xa
Nhưng không! Phượng gần ta nỗi nhớ

Tháng Tư buồn bao mươi năm ở
Cõi sầu nhuộm tím ngắt thương đau
Phải làm sao đưa hạ từ đầu
Nhưng chắc! Hạ vẫn một màu bất diệt

Tháng Tư ơi! Nỗi buồn ai biết
Có nhớ về một thoáng xa xưa
Trời nắng chang lòng lệ đổ mưa
Lạnh buốt giá... tình vừa nhen nhún

Tháng Tư ơi! Chân bùn ta lún
Rơi vực sâu lúng túng van xin
Níu đôi tay Chúa vị cứu tinh
Ngài Phục Sinh đỡ kẻ tội tình

Con sống lại với hình hài mới!

Kim Oanh
Mùa Phục Sinh 4/2011

Lại Quên


Tháng tư đang đến mùa chay
Tâm tôi chưa tịnh còn say mê đời
Lại quên Con Một Chúa Trời
Mão gai Ngài đội chịu đời nhạo khinh

Thế mà mỗi lúc đọc kinh
Tôi không ngần ngại cầu xin cùng Ngài
Được ơn...cửa đóng then cài
Lại quên Chúa ở bên ngoài chờ tôi

Mùa chay vẫn sống lôi thôi
Vẫn không sốt sắng trong ngôi nhà thờ
Đọc kinh tâm trí thẫn thờ
Về nhà vội vã hững hờ xa Cha

Đến khi gặp nạn kêu ca
Cầu xin Chúa giúp vượt qua mọi bề
Lại quên xưa Chúa não nề
Vác Cây Thập Tự ê chề đắng cay

Tháng tư đang đến mùa chay
Tôi mong Chúa đón tôi quay về nhà
Nhà Cha hạnh phúc đậm đà
Có tình yêu Chúa thật là ấm êm

Để tôi thành khẩn từng đêm
Mỗi khi cầu nguyện lòng thêm rộn ràng
Để tôi được Chúa dịu dàng
Trên cây Thánh Giá nồng nàn nhìn tôi

Mùa chay hết sống lôi thôi
Đồng hành với Chúa song đôi trên đời
Tạ ơn Con Một Chúa Trời
Tôi mừng ngày lễ sáng ngời Phục Sinh

Thế Thôi (Đỗ Hữu Tài)
09.04.2011


Nhà Thờ Phú Đa - Chợ Lách - Bến Tre

Nhà thờ ở Cồn Phú  Đa thuộc Chợ Lách, Bến Tre





 Bờ kênh nước ròng trướng nhà Thờ Phú Đa

Kế sinh nhai của người già ở Cồn Phú Đa

Trương Văn Phú
18/4/2014

Niềm Mơ Ước Phục Sinh


Lạy Chúa đưa con về dòng sông mộng
Một lần hằng sống lại tuổi thơ ngây
Tâm bình yên thân thoát phận đọa đày
Sớm mai thức ngày mới dài trở giấc
Ban tin yêu thường nhật chẳng lo âu
Đường Thánh Giá nguyện cầu thôi thao thức
Mở lòng con xa bờ vực bi ai
Che chở hình hài tơi tả thương ôi

Lạy Chúa! Bên con Ngài sống lại rồi

Kim Phượng

Chân Dung Các Vị Vua Triều Nguyễn Được Khắc Họa Tuyệt Đẹp

Chân dung các vị vua triều Nguyễn được khắc họa qua những họa phẩm tuyệt đẹp,
được đăng tải trên website ABS Travel ( thiếu vua Dục Đức )


1/ Vua Gia Long (1762 – 1820) là vị Hoàng đế đã thành lập nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh(thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh), trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820.


2/Vua Minh Mạng , cũng gọi là Minh Mệnh (1791 – 1841), tức Nguyễn Thánh Tổ, là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Nguyễn, Được xem là một ông vua năng động và quyết đoán, Minh Mạng đã đề xuất hàng loạt cải cách từ nội trị đến ngoại giao, trong đó có việc ngăn chặn quyết liệt ảnh hưởng phương Tây đến Việt Nam.


3/ Vua Thiệu Trị(1807 – 1847) là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1841 đến 1847. Ông có tên húy là Nguyễn Phúc Miên Tông, ngoài ra còn có tên là Nguyễn Phúc Tuyền và Dung. Ông là con trưởng của vuaMinh Mạng và Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa.


4/ Vua Tự Đức (1829 – 1883), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Nguyễn. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm hay còn có tên Nguyễn Phúc Thì, là con trai thứ hai của vị hoàng đế thứ 3 triều Nguyễn, Thiệu Trị. Ông là vị vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847 đến 1883. Trong thời gian trị vì của ông, nước Đại Nam dần rơi vào tay quân Pháp.


5/ Vua Hiệp Hòa (1847 – 1883) là vị vua thứ sáu của vương triều nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Tên thật của ông là Nguyễn Phúc Hồng Dật, còn có tên làNguyễn Phúc Thăng, là con thứ 29 và là con út của vua Thiệu Trị và bà Đoan Tần Trương Thị Thuận. Ông lên ngôi tháng 7/1883, nhưng bị phế truất và qua đời vào tháng 10 cùng năm.


6/ Vua Kiến Phúc(1869 – 1884), tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, thường được gọi là Dưỡng Thiện, là vị vua thứ bảy của vương triều nhà Nguyễn. Ông là con thứ ba của Kiên Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, được vua Tự Đức chọn làm con nuôi. Kiến Phúc lên ngôi năm 1883, tại vị được 8 tháng thì qua đời khi mới 15 tuổi.


7/ Vua Hàm Nghi (1871 – 1943) là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn, là em trai của vua Kiến Phúc. Năm 1884, Hàm Nghi được đưa lên ngôi ở tuổi 13. Sau khi cuộc phản công tại kinh thành Huế thất bại năm 1885, Tôn Thất Thuyết đưa ông ra ngoài và phát hịch Cần Vương chống thực dân Pháp. Phong trào Cần Vương kéo dài đến năm 1888 thì Hàm Nghi bị bắt. Sau đó, ông bị đem an trí ở Alger (thủ đô xứ Algérie).


8/ Vua Đồng Khánh(1864 – 1889), miếu hiệu Nguyễn Cảnh Tông, là vị Hoàng đế thứ chín của nhà Nguyễn, tại vị từ năm 1885 đến 1889. Tên húy của nhà vua các tài liệu ghi khác nhau, nơi thì ghi là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ,Nguyễn Phúc Ưng Thị, Nguyễn Phúc Ưng Biện, Nguyễn Phúc Chánh Mông, ngoài ra còn có tên Nguyễn Phúc Đường. Ông là con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, được vuaTự Đức nhận làm con nuôi năm 1865.


9/ Vua Thành Thái (1879 – 1954) là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyễn, tại vị từ 1889 đến 1907. Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Bửu Lân, còn có tên làNguyễn Phúc Chiêu. Ông là con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Từ Minh Hoàng hậu (Phan Thị Điểu). Do chống Pháp nên ông bị đi đày tại ngoại quốc.


10/ Vua Duy Tân (1900 – 1945) là vị vua thứ 11 của nhà Nguyễn (ở ngôi từ 1907 tới 1916), sau vua Thành Thái. Khi vua cha bị thực dân Pháp lưu đày, ông được người Pháp đưa lên ngôi khi còn thơ ấu. Tuy nhiên, ông bất hợp tác với Pháp và bí mật liên lạc với các lãnh tụ khởi nghĩa Việt Nam. Vì lý do này, ông bị người Pháp đem an trí trên đảo Réunion ở Ấn Độ Dương.


11/ Vua Khải Định (1885 – 1925), hay Nguyễn Hoằng Tông là vị Hoàng đế thứ 12 nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ 1916 đến 1925. Ông có tên húy làNguyễn Phúc Bửu Đảo, còn có tên là Nguyễn Phúc Tuấn, con trưởng của vua Đồng Khánh và bà Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu Dương Thị Thục.

12/ Vua Bảo Đại Bảo Đại (1913 – 1997) là vị Hoàng đế thứ 13 và cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam. Tên húy của ông làNguyễn Phúc Vĩnh Thụy, còn có tên là Nguyễn Phúc Thiển , tục danh "mệ Vững" là con của vua Khải Định và Từ Cung Hoàng thái hậu. Đúng ra "Bảo Đại" chỉ là niên hiệu nhà vua nhưng tục lệ vua nhà Nguyễn chỉ giữ một niên hiệu nên nay thường dùng như là tên nhà vua.


Nguyễn Thế Bình sưu tầm

Thứ Năm, 17 tháng 4, 2014

Thơ Tranh: Lời Ru


Thơ Và Thơ Tranh: Kim Quang

Huế Thương Yêu




Em về thăm lại Huế thương yêu
Vĩ Dạ hàng cau ngát nắng chiều
Lá trúc nghiêng che vườn trĩu trái
Trời xanh lánh lót tiếng chim kêu

Gió mơn lối gío lướt sông dài
Áo trắng đôi tà lả lướt bay
Xa cách tình em vương nỗi nhớ
Giọng anh âu yếm đọng hồn say

Trăng rụng dòng Hương soi đáy nước
Tiếng hò kỷ nữ vọng trong sương
Em đi bước nhẹ lay hồn cỏ
Ai hởi tình ai có đượm vương?

Kim Hương

Tàn Phai


Anh đừng nói với em lời rất vội
Cho một lần vĩnh viễn chia tay
Bởi lời tuôn ra không dễ gì lấy lại
Đánh đổi một thời môi đắng mi cay

Anh đừng vất ước mơ vào mưa móc
Kẻo rồi mai mộng cũ cũng tàn phai
Và mình cũng chẳng bao giờ có lại
Yêu dấu một ngày tay ấm trong tay

Có những tình cảm đâu dễ gì thôi dứt
Có những cảm tình đâu dễ quên mau
Vì lẽ đó xin anh đừng có vội
Nói lời buồn cho thấu tận tim nhau

Cũng đừng nhìn em hững hờ xa vắng
Một bóng hình anh ghi khắc bao lâu
Bởi đoan chắc anh chưa hề xoá mất
Kỷ niệm ban đầu thân ái tin yêu

Chỉ xin anh cứ bình tâm an ổn
Xem mọi điều như chưa quá hư hao
Xem mọi điều như dòng sông êm chảy
Dù tình mình đã hoá kiếp xanh xao


Vĩnh Trinh


Đôi Giày Bata


      Đôi giày đầu tiên tôi mua năm 1954, năm tôi vào Đệ thất công lập sau kỳ thi tuyển khá gay go.  Hai tỉnh Vĩnh Long Sa Đéc gần ngàn thí sinh, trường chỉ chọn một trăm tuyển sinh chánh thức thêm năm người dự khuyết. Ngày tựu trường tôi cũng như bao học sinh miệt vườn khác, quần áo lè phè, guốc vông lộp cộp đứng sắp hàng chọn lớp. Lúc bấy giờ quý vị Giám thị mới cho biết là tất cả học sinh trường Trung học Nguyễn Thông phải đồng phục: nữ áo dài trắng, quần đen hay trắng; nam áo sơ mi, quần tây, áo phải  bỏ “vô thùng” đàng hoàng, chân mang giày cho ra vẻ học trò trung học. Phải nói rõ như thế để quý bạn biết là vì nhà trường bắt buộc nên tôi mới mua giày để đi học chứ không phải là phần thưởng của ba má tôi tặng cho.  Ba má tôi quan niệm giản dị: đi học thì phải thi đậu, rớt đồng nghĩa với việc tự ý nghỉ học do vậy không có gì phải thưởng cả.! 

      Tự lên nhà trọ, với số tiền nho nhỏ trong  túi để vừa mua sách vở, quà bánh, nay thêm đôi giày nữa khiến tôi phải đắn đo không ít. Giày vớ, đối với tôi quá lạ lùng và mới mẻ. Kể từ khi biết đi lững chững không nghe mẹ kể là đã mua giày vớ cho tôi, chắc là không có rồi!  Sáu tuổi bắt đầu đi học thì cứ chân đất như bao trẻ khác trong xóm. Tối đi ngủ tôi mượn tạm đôi guốc của ba, hay bất cứ của ai trong gia đình rửa chân sạch sẽ rồi leo lên giường. Đôi khi quên hay làm biếng, tôi chỉ làm vài động tác lếu láu bằng cách đưa chân ra ngoài chà xát cho sạch đất, cát rồi  chui vô mùng ngủ. Cũng xong.
      Tôi tới lui nhiều tiệm hy vọng tìm đôi giày mình ưng ý mà giá nhẹ nhàng. Có những đôi giày da, giày săng đan rất quyến rũ, nhưng đắt quá nên tôi lủi thủi tìm tiệm bình dân. Kìa một sạp ngoài trời bán đủ đồ học sinh kể cả dép, giày Bata, tức loại giày thể thao. Trong số đó có đôi màu “ dà”( đỏ sậm ) tương đối rẻ. Người bán, anh Chệt, luôn tô hồng chuốt lục: nào là tất cả học sinh đều mang giày loại này vừa tiết kiệm, khỏi phải đánh phấn hay si-ra, lâu lâu chỉ việc giặt phơi khô  rất tiện. Tôi cũng có ý chọn nó vì hợp với túi tiền, mặc dù tôi biết nếu mang vào tôi giống với những ông Bắc Kỳ di cư.  Nhưng thôi kệ, đời ta ba đời nó lo gì!.
      Từ ngày có đôi giày tôi luôn khổ tâm với những bình phẩm của các bạn ngồi gần như: “giống mấy anh Bắc Kỳ thứ thiệt, hơn nữa còn mang dáng vóc của chú chệt bắt heo”. Rồi hắn dẫn chứng là mới hôm qua nhà hắn bán heo, ông chệt mang đôi giày y chang giày của tôi..  Tôi làm thinh chịu trận, nhưng bụng cảm thấy tức, phải chi mình thêm năm bảy đồng nữa bây giờ không bị mấy thằng bạn cà chớn chọc tức thế này.


      Về nhà trọ, giang sơn của tôi là một phần của bộ ngựa vừa làm nơi ngủ, học và làm bài. Nhà chật, đông người, buổi chiều tới lúc đi ngủ, tiếng ồn ào huyên náo giống như cái chợ nho nhỏ mãi chín giờ tối cảnh náo nhiệt mới giảm dần.  Bấy giờ là thời gian để tôi làm bài và học bài. Muốn tiện nghi hơn cũng không thực hiện được. Ở tỉnh nầy gia đình tôi chỉ quen nhà bà dì.  Bà là chị họ của má tôi, nhà nghèo, đông con, nhưng tốt bụng.  Tôi ở trọ chỉ đóng chút ít tiền mua thức ăn, gạo thóc tôi mang đến mỗi tháng. Các anh chị trong nhà ai cũng tốt với tôi. Ông dượng quanh năm đốn củi hoang bên cồn về bán lấy tiền. Bình thường dượng ít nói, chỉ khi nào nhậu hơi xỉn dượng mới lèn èng. Một hôm không biết bực tức điều gì, nhè tôi ông trút giận, ông nói những điều khó nghe.đã vậy ông còn bắt tôi phải xuống ngang Bệnh Viện đội mớ củi me ông bửa sẵn đem về nhà.  Tôi uất ức quá độ, ở trọ có đóng tiền, sao lại bắt tôi làm những việc như người ăn kẻ ở. Tôi toan phản đối, nhưng nghĩ tội nghiệp cho dì nên nhịn.  Công việc không có gì khó, tôi từng xay lúa, giã gạo, nhưng vào lúc nầy, lúc đã nhổ giò, bắt đầu để ý đến bạn khác phái, biết e thẹn khi đứng gần phái nữ. Đội củi khiến tôi mất mặt. Tôi bất đắc dĩ phải làm, bụng ấm ức không vui. Để tránh gặp mặt bạn bè quen biết, tôi vác cần xé củi một bên vai lầm lũi rảo bước, thầm vái van đừng gặp ai quen. Nhưng vừa tới ngã tư Phan Thanh Giản và Võ Tánh trên đường ngược chiều, bên kia lộ, một cô gọi tôi rối rít:
      - Anh Văn, Anh  Văn…
      Tấn thối lưỡng nan, tôi toan giả đò như không nghe đi luôn nhưng tiếng gọi quá quen nên đành dừng lại, để cần xé củi xuống xem ai gọi. Cô gái mừng rỡ:
      - Đúng là anh rồi, vậy mà em ngỡ mình lầm với ai khác.
      Tôi đưa tay áo chùi mặt cho bớt mồ hôi và xiết bao mừng rỡ khi biết người gọi mình là Hương, cô bạn chung lớp ở bậc Tiểu học, đã ra tỉnh gần năm nay. Tôi vừa ngượng nhưng vẫn lộ nét mừng vui, pha chút cà riễu:
      - Hương mà anh cứ ngỡ tiểu thơ nào.
      - Anh ở gần đây không? Em hỏi thăm mấy nhỏ bạn như Xuân, Sương nhưng không ai biết anh ở đâu cả.
      - Anh vào học mấy tháng nay, có ghé chị Ba thăm em nhưng không gặp thành thử không biết em ở đâu mà tìm. Em cho anh địa chỉ nhà trọ để khi rảnh anh đến thăm. 


      Từ giã Hương tôi đi thẳng về nhà như trốn chạy. May là Hương nếu người khác chắc Văn khó xử hơn. Hương từng đến nhà Văn nhiều lần, Hương đã thấu hiểu tình cảnh của chàng. Về tới nhà trọ, Văn quăng cần xé củi trước sân, mặt kém vui, lúc nầy nếu ai trêu ghẹo chắc chắn Văn sẽ không nhịn nữa. Cũng may, mọi người đều đi vắng, bây giờ Văn lờ mờ hiểu: vì không còn ai nên Văn bắt buộc phải làm việc vác củi. Thấu hiểu lý do của sự việc khiến chàng như trút bỏ những ấm ức trong lòng.  Chàng thay đồ, tắm rửa và không quên giặt đôi giày cho sạch sẽ. Văn cẩn thận phơi nó ở phía sau rồi đến nhà Tôn cùng học bài, làm bài và đấu láo. Văn nghe tâm hồn thư thái, những lời săn đón, lo lắng của Hương khiến chàng thấy ấm áp, yêu  đời.
      Tôn ở với ông cậu làm Trắc Họa Viên, nhà rộng mênh mông, Tôn và cậu ăn cơm tháng, cậu Năm của Tôn đi đo đạc suốt ngày, hôm nào không ra ngoài ông cặm cụi vẽ họa đồ. Đến chiều Văn từ giã bạn về nhà. Gần khuôn viên trường Văn thấy chú Năm xích lô, người hàng xóm đang lớn tiếng cãi cọ với ông khách mặc đồ sang trọng, chàng không bỏ dịp may đến tận nơi xem việc gì xảy ra. Chàng nghe một đoạn của câu chuyện như sau:
      - Vào Nam Chính phủ chỉ cấp cho chừng ấy tiền, nhận hay không tùy. Ông khách toan đi thẳng vào cổng trường.
      Chú Năm  thường chuyện trò với Văn mỗi khi rảnh nên chàng biết chú là lính Nhảy Dù trong quân đội Pháp, giãi ngũ không lâu, chú rất tốt, hay giúp đỡ kẻ yếu nhưng phải cái tật “du côn” ai hiếp đáp, chú thường nói chuyện bằng chân tay. Ông khách đi xe chú ăn mặc lịch sự nhưng có vẻ húng hiếp người. Ông vừa đi được vài bước, chú Năm rất lẹ, tiến đến trước mặt ông hỏi gay gắt:
      - Ông trả hay không, nói đi?
      Ông khách vẫn cứng cỏi
      - Số tiền ấy đủ rồi.
      Chú Năm dang cánh tay vạm vỡ nắm chặt áo ông khách tay kia toan tung quả đấm. Bây giờ ông khách  phát hoảng la lên:  Tôi trả …Tôi trả.
      Màn kịch hay kết thúc, chú Năm còn bồi thêm mấy câu cho hả tức:
      - Ê nhớ kỹ, đừng hòng lường gạt thằng nầy. Nghe chưa?!
       Văn về nhà, trời cũng vừa tắt nắng, việc đầu tiên chàng ra phía sau đem đôi giày vô để hôm sau còn mang đi học. Văn tìm khắp mọi nơi mà không thấy chả lẽ gió thổi bay xuống vũng nước đọng sau hai dãy nhà đâu lưng màu đen ngòm, mùi hôi xông lên nồng nặc kia sao? Văn bối rối: tiền đâu mua đôi giày khác, dì đi vắng; nêu có dì ở nhà chưa chắc dì sẵn tiền hay là đến chị Ba Thảnh ở Cầu Lộ, người cùng xóm mượn tạm tuần sau về nhà xin tiền trả. Bất đắt dĩ đành đến tìm Hương mượn tạm ít chục đồng. Văn cảm thấy ngượng ngùng khi nghĩ đến việc hỏi mượn tiền Hương, mặc dù chàng biết Hương rất thông cảm và sẵn lòng.
      Văn vừa ra khỏi nhà thì anh Mười con Dì Năm cũng về tới, mồ hôi nhuễ nhại, anh cho biết là mượn tạm đôi giày của tôi đá banh chiều nay. Tôi vừa mừng, vừa giận, mừng vì khỏi đi mượn tiền, giận vì anh ấy quá ngang tàng, mượn đồ của mình mà không thèm hỏi. Người trong nhà chả lẽ mình hành động giống chú Năm ban chiều?.
          Đôi giày Bata của tôi không còn là đề tài nóng bỏng để các bạn trêu chọc nữa, giả sử không việc gì xảy ra sau đó, có lẽ tôi đã quên mất là tôi từng có đôi giày bata theo kiểu Bắc kỳ. Hôm đó, tới giờ Anh văn, lớp học khá nóng nực, tôi  cởi một chiếc giày cho mát, chẳng may, thầy gọi lên trả bài, tôi loay hoay tìm chiếc giày mang vô, tìm mãi không thấy. Một phút trôi qua, thầy có vẻ giận, ông gọi tên tôi lần nữa. Hoảng quá, tôi xách tập chạy lên, trong trạng thái một chân mang giày, một chân không. Ông thầy không để ý đến bộ dạng của tôi lúc đó. Thầy chỉ hỏi tôi thuộc bài không mà lâu lắc thế. Trả bài xong tôi toan về chỗ, thình lình một tiếng ồ lớn của dãy bàn bên phái nữ. Thầy hỏi chuyện gì?
       Một chị bạn trả lời:
      - Không biết ai quăng chiếc giày vào tụi em
      - Đâu nào? Ai  quăng chiếc giày? Không tiếng trả lời
      Có lẽ thầy biết đây là màn chọc phá của đám  học trò, thầy dịu giọng.
      - Ai mất giày thì đến lấy.
      Tôi  nghi đó chính là chiếc giày của mình. Quả không sai. Tôi thẹn thùng đến nhặt chiếc giày mang vào chân. Thầy nói như giải hòa:
      - Học hành không lo, nếu còn tái diễn tôi sẽ phạt.
      Tôi về chỗ ngồi, mong cho mau hết giờ để tìm cho ra thủ phạm. Tôi hỏi nhưng mấy thằng bạn ngồi gần đều chối leo lẻo. Tôi rủa độc:
      - Thằng nào phá tao có ngày sẽ gãy chân cho hết mang giày. 


      Câu chuyện đôi bata “ Bắc Kỳ “ đi vào quên lãng. Thời gian qua nhanh, mới đó mà chúng tôi đã ra trường, mỗi đứa một ngành nghề tung ra bốn phương tìm sinh kế. Một hôm vào dịp nghỉ Tết, tôi tình cờ thấy trên báo đăng tin rớt máy bay, anh phi công tên Đinh Th. N, tên  giống như tên thằng bạn ngồi bên tôi năm nào, tôi chạy tìm mấy đứa bạn cùng tỉnh hỏi tin tức về N. Đúng là N. bị tai nạn máy bay gãy chân, may mắn sống sót. Mừng cho bạn, nhưng tôi chợt hối hận nhớ lại năm xưa thời còn cắp sách, N. thường đá dép, giấu giày chẳng những của tôi mà còn của các bạn ngồi gần, N. nhận những lời rủa sả độc địa, vẫn cười thoải mái không bao giờ để ý. Phần tôi, tôi hối hận tự nhủ: Chả lẽ những lời rủa sả lại linh ứng như thế sao? Tôi hứa là sẽ cẩn trọng lời nói để khỏi làm hại người khác. Giờ đây gẫm lại tôi chợt phì cười, nếu lời thề thốt rủa sả mà linh ứng chắc ngày nay tôi không có mặt  tại xứ này


Viết xong July 15, 2013 

Nguyễn Thành Sơn


Thơ Tranh: Bài Thơ Không Đề

Bài thơ của Cựu Học Sinh Lê Thị Cúc Lớp 12, niên khoá 1976 Đã qua đời.
- Cô là bạn của Ngọc Hải - Vĩnh Long


Thơ: Lê Thị Cúc
Thơ Tranh: Kim Oanh

Đêm Nghe Hát Dân Ca Ở Fontvannes




                  (Tặng bạn Anh Vân)

Đã tới đêm rồi, những núi xa
Bóng sao chưa lóe, nắng chưa nhòa
Cửa gương còn sáng, trời trong vắt
Họp mặt ngồi vây một ấm trà.

Cây đàn trên vách treo suông mãi
Hãy lót nhạc mềm cho tiếng ca
Để khách quanh bàn thương quá khứ
Chia lòng gửi tận chốn mây xa.

 Tiếng hát lắng khơi mạch nước nguồn
Chảy trong đất mẹ buổi tang thương
Giờ ta đánh mất nôi hồng cũ
Tàn mộng ngày xanh, bỏ phố phường.

Thoáng hiện giữa lời hát mật ong
Những đồng lúa ngát, những dòng sông
Bao hình ảnh rực trong tâm tưởng
Tiềm thức đen sâu bật lửa hồng.


Ơi, bóng chiều trôi sao muộn màng!
Dâng đầy thung lũng áng sương lan
Chuyến xe về muộn, đường hun hút
Tiếng thị thành xa vọng ngỡ ngàng.

Theo tiếng dân ca, lòng mở ngõ
Trời Tây tìm gặp gió phương Đông
Mềm trong nước mắt hồn xa xứ
Biết thuở nào nguôi dáng núi sông?

Xô những cánh chim lìa tổ ấm
Hỡi dòng lịch sử dậy phong ba!
Giờ trong tiếng hát ta tìm lại
Bếp lửa đoàn viên dưới mái nhà.

Để ta uống lại nguồn sinh lực
Dịu mảnh hồn đầy những vết thương
Từ khởi điểm nầy ta cất bước
Vào trong ánh sáng cõi thiên lương.

Hồ Trường An


Thứ Tư, 16 tháng 4, 2014

Chiều Trên Phá Tam Giang - Tô Thùy Yên

 Sơ Lược Tiểu Sử:
 
Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò Vấp. Cha là chuyên viên phòng thí nghiệm Viện Pasteur, sau về công tác ở Bệnh viện Chợ Rẫy.
Thuở nhỏ học trung học trường Petrus Trương Vĩnh Ký, có ghi danh theo học ở Đại học Văn khoa Sài Gòn, ban văn chương Pháp, một thời gian rồi bỏ dở.
Ông bắt đầu có thơ đăng trên báo Đời Mới (thập niên 1950) trước khi xuất hiện và nổi tiếng trên tạp chí Sáng Tạo. Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, cùng với các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng là những người nòng cốt của nhóm Sáng tạo, một nhóm sáng tác đã từng được biết đến với phong trào khai sinh “Thơ Tự Do” trên văn đàn Miền Nam vào thập niên 1960.
Cuối năm 1963 ông nhập ngũ, phục vụ ngành Chiến Tranh Chính Trị. Chức vụ cuối cùng là Thiếu tá, trưởng phòng Tâm Lý Chiến.
Sau 30/4/1975, ông đi " cảo tạo" gần 13 năm. Cuối năm 1993 cùng gia đình sang Mỹ định cư. Hiện nay ông đang ở Houston, tiểu bang Texas.



Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận.

Giờ này thương xá sắp đóng cửa.
Người lao công quét dọn hành lang.
Những tủ kính tối om.
Giờ này thành phố chợt bùng lên
Để rồi tắt nghỉ sớm.
(Sài Gòn nới rộng giờ giới nghiêm.
Sài Gòn không còn buổi tối nữa.)
Giờ này có thể trời đang nắng.
Em rời thư viện đi rong chơi
Dưới đôi vòm cây ủ yên tỉnh
Viền dòng trời ngọc thạch len trôi.

Nghĩ tới ngày thi tương lai thúc hối,
Căn phòng cao ốc vàng võ ánh đèn,
Quyển sách mở sâu đêm.
Nghĩ tới người mẹ đăm chiêu, đứa em quái quỉ.
Nghĩ tới đủ thứ chuyện tầm thường
Mà cô gái nào cũng nghĩ tới.
Rồi nghĩ tới anh, nghĩ tới anh
Một cách tự nhiên và khốn khổ.
Giờ này có thể trời đang mưa.
Em đi nép hàng hiên sướt mướt,
Nhìn bong bóng nước chạy trên hè
Như những đóa hoa nở gấp rút.
Rồi có thể em vào một quán nước quen
Nơi chúng ta thường hẹn gặp,
Buông tâm trí bập bềnh trên những đợt lao xao
Giữa những đám ghế bàn quạnh quẽ.

Nghĩ tới anh, nghĩ tới anh,
Cơn nghĩ tới không sao cầm giữ nỗi
Như dòng lệ nào bất giác rơi tuôn.
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Của chiến tranh mà em không biết rõ.
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Một điều em sợ phải nghĩ tới.
Giờ này thành phố chợt bùng lên.

Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận.

Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Rực chiếu bao nhiêu giấc mộng đua đòi
Như những mặt trời con thật dễ thương
Sẽ rơi rụng dọc đường lên dốc tuổi,
Mỗi sáng trưa chiều tối đêm khuya.
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi,
Coi chuyện đó như lần đi tuyệt tích
Trong nước trời lãng đãng nghìn trùng,
Không nghe thấy cả tiếng mình độc thoại.
Anh yêu, yêu nuối tuổi hai mươi,
Thấy trong lòng đời nở thật lẻ loi
Một cành mai nhị độ.
Thấy tình yêu như vận hội tàn đời
Để xé mình khỏi ác mộng
Mà người đàn ông mê tưởng suốt thanh xuân.

Ôi tình yêu, bằng chứng huy hoàng của thất bại !

Thơ: Tô Thùy Yên


Phổ Nhạc: Trần Thiện Thanh
Tiếng Hát: Thanh Lan & Nhật Trường