Đôi giày đầu tiên tôi mua năm 1954, năm tôi vào Đệ thất công lập sau kỳ thi
tuyển khá gay go. Hai tỉnh Vĩnh Long Sa Đéc gần ngàn thí sinh, trường
chỉ chọn một trăm tuyển sinh chánh thức thêm năm người dự khuyết. Ngày tựu
trường tôi cũng như bao học sinh miệt vườn khác, quần áo lè phè, guốc vông
lộp cộp đứng sắp hàng chọn lớp. Lúc bấy giờ quý vị Giám thị mới cho biết là
tất cả học sinh trường Trung học Nguyễn Thông phải đồng phục: nữ áo dài
trắng, quần đen hay trắng; nam áo sơ mi, quần tây, áo phải bỏ “vô
thùng” đàng hoàng, chân mang giày cho ra vẻ học trò trung học. Phải nói rõ
như thế để quý bạn biết là vì nhà trường bắt buộc nên tôi mới mua giày để đi
học chứ không phải là phần thưởng của ba má tôi tặng cho. Ba má tôi
quan niệm giản dị: đi học thì phải thi đậu, rớt đồng nghĩa với việc tự ý nghỉ
học do vậy không có gì phải thưởng cả.!
Tự lên nhà trọ, với số tiền nho nhỏ trong túi để vừa mua sách vở, quà
bánh, nay thêm đôi giày nữa khiến tôi phải đắn đo không ít. Giày vớ, đối với
tôi quá lạ lùng và mới mẻ. Kể từ khi biết đi lững chững không nghe mẹ kể là
đã mua giày vớ cho tôi, chắc là không có rồi! Sáu tuổi bắt đầu đi học
thì cứ chân đất như bao trẻ khác trong xóm. Tối đi ngủ tôi mượn tạm đôi guốc
của ba, hay bất cứ của ai trong gia đình rửa chân sạch sẽ rồi leo lên giường.
Đôi khi quên hay làm biếng, tôi chỉ làm vài động tác lếu láu bằng cách đưa
chân ra ngoài chà xát cho sạch đất, cát rồi chui vô mùng ngủ. Cũng
xong.
Tôi tới lui nhiều tiệm hy vọng tìm đôi giày
mình ưng ý mà giá nhẹ nhàng. Có những đôi giày da, giày săng đan rất quyến
rũ, nhưng đắt quá nên tôi lủi thủi tìm tiệm bình dân. Kìa một sạp ngoài trời
bán đủ đồ học sinh kể cả dép, giày Bata, tức loại giày thể thao. Trong số đó
có đôi màu “ dà”( đỏ sậm ) tương đối rẻ. Người bán, anh Chệt, luôn tô hồng
chuốt lục: nào là tất cả học sinh đều mang giày loại này vừa tiết kiệm, khỏi
phải đánh phấn hay si-ra, lâu lâu chỉ việc giặt phơi khô rất tiện. Tôi
cũng có ý chọn nó vì hợp với túi tiền, mặc dù tôi biết nếu mang vào tôi giống
với những ông Bắc Kỳ di cư. Nhưng thôi kệ, đời ta ba đời nó lo gì!.
Từ ngày có đôi giày tôi luôn khổ tâm với những
bình phẩm của các bạn ngồi gần như: “giống mấy anh Bắc Kỳ thứ thiệt, hơn nữa
còn mang dáng vóc của chú chệt bắt heo”. Rồi hắn dẫn chứng là mới hôm qua nhà
hắn bán heo, ông chệt mang đôi giày y chang giày của tôi.. Tôi làm
thinh chịu trận, nhưng bụng cảm thấy tức, phải chi mình thêm năm bảy đồng nữa
bây giờ không bị mấy thằng bạn cà chớn chọc tức thế này.
Về nhà trọ, giang sơn của tôi là một phần của bộ ngựa vừa làm nơi ngủ, học và
làm bài. Nhà chật, đông người, buổi chiều tới lúc đi ngủ, tiếng ồn ào huyên
náo giống như cái chợ nho nhỏ mãi chín giờ tối cảnh náo nhiệt mới giảm
dần. Bấy giờ là thời gian để tôi làm bài và học bài. Muốn tiện nghi hơn
cũng không thực hiện được. Ở tỉnh nầy gia đình tôi chỉ quen nhà bà dì.
Bà là chị họ của má tôi, nhà nghèo, đông con, nhưng tốt bụng. Tôi ở trọ
chỉ đóng chút ít tiền mua thức ăn, gạo thóc tôi mang đến mỗi tháng. Các anh
chị trong nhà ai cũng tốt với tôi. Ông dượng quanh năm đốn củi hoang bên cồn
về bán lấy tiền. Bình thường dượng ít nói, chỉ khi nào nhậu hơi xỉn dượng mới
lèn èng. Một hôm không biết bực tức điều gì, nhè tôi ông trút giận, ông nói
những điều khó nghe.đã vậy ông còn bắt tôi phải xuống ngang Bệnh Viện đội mớ
củi me ông bửa sẵn đem về nhà. Tôi uất ức quá độ, ở trọ có đóng tiền,
sao lại bắt tôi làm những việc như người ăn kẻ ở. Tôi toan phản đối, nhưng
nghĩ tội nghiệp cho dì nên nhịn. Công việc không có gì khó, tôi từng
xay lúa, giã gạo, nhưng vào lúc nầy, lúc đã nhổ giò, bắt đầu để ý đến bạn
khác phái, biết e thẹn khi đứng gần phái nữ. Đội củi khiến tôi mất mặt. Tôi
bất đắc dĩ phải làm, bụng ấm ức không vui. Để tránh gặp mặt bạn bè quen biết,
tôi vác cần xé củi một bên vai lầm lũi rảo bước, thầm vái van đừng gặp ai
quen. Nhưng vừa tới ngã tư Phan Thanh Giản và Võ Tánh trên đường ngược chiều,
bên kia lộ, một cô gọi tôi rối rít:
- Anh Văn, Anh Văn…
Tấn thối lưỡng nan, tôi toan giả đò như không
nghe đi luôn nhưng tiếng gọi quá quen nên đành dừng lại, để cần xé củi xuống
xem ai gọi. Cô gái mừng rỡ:
- Đúng là anh rồi, vậy mà em ngỡ mình lầm với
ai khác.
Tôi đưa tay áo chùi mặt cho bớt mồ hôi và xiết
bao mừng rỡ khi biết người gọi mình là Hương, cô bạn chung lớp ở bậc Tiểu
học, đã ra tỉnh gần năm nay. Tôi vừa ngượng nhưng vẫn lộ nét mừng vui, pha
chút cà riễu:
- Hương mà anh cứ ngỡ tiểu thơ nào.
- Anh ở gần đây không? Em hỏi thăm mấy nhỏ bạn
như Xuân, Sương nhưng không ai biết anh ở đâu cả.
- Anh vào học mấy tháng nay, có ghé chị Ba
thăm em nhưng không gặp thành thử không biết em ở đâu mà tìm. Em cho anh địa
chỉ nhà trọ để khi rảnh anh đến thăm.
Từ giã Hương tôi đi thẳng về nhà như trốn
chạy. May là Hương nếu người khác chắc Văn khó xử hơn. Hương từng đến nhà Văn
nhiều lần, Hương đã thấu hiểu tình cảnh của chàng. Về tới nhà trọ, Văn quăng
cần xé củi trước sân, mặt kém vui, lúc nầy nếu ai trêu ghẹo chắc chắn Văn sẽ
không nhịn nữa. Cũng may, mọi người đều đi vắng, bây giờ Văn lờ mờ hiểu: vì
không còn ai nên Văn bắt buộc phải làm việc vác củi. Thấu hiểu lý do của sự
việc khiến chàng như trút bỏ những ấm ức trong lòng. Chàng thay đồ, tắm
rửa và không quên giặt đôi giày cho sạch sẽ. Văn cẩn thận phơi nó ở phía sau
rồi đến nhà Tôn cùng học bài, làm bài và đấu láo. Văn nghe tâm hồn thư thái,
những lời săn đón, lo lắng của Hương khiến chàng thấy ấm áp, yêu đời.
Tôn ở với ông cậu làm Trắc Họa Viên, nhà rộng mênh mông, Tôn và cậu ăn cơm
tháng, cậu Năm của Tôn đi đo đạc suốt ngày, hôm nào không ra ngoài ông cặm
cụi vẽ họa đồ. Đến chiều Văn từ giã bạn về nhà. Gần khuôn viên trường Văn
thấy chú Năm xích lô, người hàng xóm đang lớn tiếng cãi cọ với ông khách mặc
đồ sang trọng, chàng không bỏ dịp may đến tận nơi xem việc gì xảy ra. Chàng
nghe một đoạn của câu chuyện như sau:
- Vào Nam Chính phủ chỉ cấp cho chừng ấy tiền,
nhận hay không tùy. Ông khách toan đi thẳng vào cổng trường.
Chú Năm thường chuyện trò với Văn mỗi
khi rảnh nên chàng biết chú là lính Nhảy Dù trong quân đội Pháp, giãi ngũ
không lâu, chú rất tốt, hay giúp đỡ kẻ yếu nhưng phải cái tật “du côn” ai
hiếp đáp, chú thường nói chuyện bằng chân tay. Ông khách đi xe chú ăn mặc
lịch sự nhưng có vẻ húng hiếp người. Ông vừa đi được vài bước, chú Năm rất
lẹ, tiến đến trước mặt ông hỏi gay gắt:
- Ông trả hay không, nói đi?
Ông khách vẫn cứng cỏi
- Số tiền ấy đủ rồi.
Chú Năm dang cánh tay vạm vỡ nắm chặt áo ông
khách tay kia toan tung quả đấm. Bây giờ ông khách phát hoảng la
lên: Tôi trả …Tôi trả.
Màn kịch hay kết thúc, chú Năm còn bồi thêm
mấy câu cho hả tức:
- Ê nhớ kỹ, đừng hòng lường gạt thằng nầy.
Nghe chưa?!
Văn về nhà, trời cũng vừa tắt nắng, việc
đầu tiên chàng ra phía sau đem đôi giày vô để hôm sau còn mang đi học. Văn
tìm khắp mọi nơi mà không thấy chả lẽ gió thổi bay xuống vũng nước đọng sau hai
dãy nhà đâu lưng màu đen ngòm, mùi hôi xông lên nồng nặc kia sao? Văn bối
rối: tiền đâu mua đôi giày khác, dì đi vắng; nêu có dì ở nhà chưa chắc dì sẵn
tiền hay là đến chị Ba Thảnh ở Cầu Lộ, người cùng xóm mượn tạm tuần sau về
nhà xin tiền trả. Bất đắt dĩ đành đến tìm Hương mượn tạm ít chục đồng. Văn
cảm thấy ngượng ngùng khi nghĩ đến việc hỏi mượn tiền Hương, mặc dù chàng
biết Hương rất thông cảm và sẵn lòng.
Văn vừa ra khỏi nhà thì anh Mười con Dì Năm
cũng về tới, mồ hôi nhuễ nhại, anh cho biết là mượn tạm đôi giày của tôi đá
banh chiều nay. Tôi vừa mừng, vừa giận, mừng vì khỏi đi mượn tiền, giận vì
anh ấy quá ngang tàng, mượn đồ của mình mà không thèm hỏi. Người trong nhà
chả lẽ mình hành động giống chú Năm ban chiều?.
Đôi giày Bata của tôi
không còn là đề tài nóng bỏng để các bạn trêu chọc nữa, giả sử không việc gì
xảy ra sau đó, có lẽ tôi đã quên mất là tôi từng có đôi giày bata theo kiểu
Bắc kỳ. Hôm đó, tới giờ Anh văn, lớp học khá nóng nực, tôi cởi một
chiếc giày cho mát, chẳng may, thầy gọi lên trả bài, tôi loay hoay tìm chiếc
giày mang vô, tìm mãi không thấy. Một phút trôi qua, thầy có vẻ giận, ông gọi
tên tôi lần nữa. Hoảng quá, tôi xách tập chạy lên, trong trạng thái một chân
mang giày, một chân không. Ông thầy không để ý đến bộ dạng của tôi lúc đó.
Thầy chỉ hỏi tôi thuộc bài không mà lâu lắc thế. Trả bài xong tôi toan về
chỗ, thình lình một tiếng ồ lớn của dãy bàn bên phái nữ. Thầy hỏi chuyện gì?
Một chị bạn trả lời:
- Không biết ai quăng chiếc giày vào tụi em
- Đâu nào? Ai quăng chiếc giày? Không
tiếng trả lời
Có lẽ thầy biết đây là màn chọc phá của
đám học trò, thầy dịu giọng.
- Ai mất giày thì đến lấy.
Tôi nghi đó chính là chiếc giày của
mình. Quả không sai. Tôi thẹn thùng đến nhặt chiếc giày mang vào chân. Thầy
nói như giải hòa:
- Học hành không lo, nếu còn tái diễn tôi sẽ
phạt.
Tôi về chỗ ngồi, mong cho mau hết giờ để tìm
cho ra thủ phạm. Tôi hỏi nhưng mấy thằng bạn ngồi gần đều chối leo lẻo. Tôi
rủa độc:
- Thằng nào phá tao có ngày sẽ gãy chân cho
hết mang giày.
Câu chuyện đôi bata “ Bắc Kỳ “ đi vào quên
lãng. Thời gian qua nhanh, mới đó mà chúng tôi đã ra trường, mỗi đứa một
ngành nghề tung ra bốn phương tìm sinh kế. Một hôm vào dịp nghỉ Tết, tôi tình
cờ thấy trên báo đăng tin rớt máy bay, anh phi công tên Đinh Th. N, tên
giống như tên thằng bạn ngồi bên tôi năm nào, tôi chạy tìm mấy đứa bạn cùng
tỉnh hỏi tin tức về N. Đúng là N. bị tai nạn máy bay gãy chân, may mắn sống
sót. Mừng cho bạn, nhưng tôi chợt hối hận nhớ lại năm xưa thời còn cắp sách,
N. thường đá dép, giấu giày chẳng những của tôi mà còn của các bạn ngồi gần,
N. nhận những lời rủa sả độc địa, vẫn cười thoải mái không bao giờ để ý. Phần
tôi, tôi hối hận tự nhủ: Chả lẽ những lời rủa sả lại linh ứng như thế sao?
Tôi hứa là sẽ cẩn trọng lời nói để khỏi làm hại người khác. Giờ đây gẫm lại
tôi chợt phì cười, nếu lời thề thốt rủa sả mà linh ứng chắc ngày nay tôi
không có mặt tại xứ này
Viết xong July 15, 2013
Nguyễn Thành Sơn
|