1. Bài thơ An Quán Tảo Xuân (Kỳ 1):
安館早春(其一) An Quán Tảo Xuân (Kỳ nhất)
三更鐘斷雞咿喔, Tam canh chung đoạn kê y ốc,
落落數家聞爆竹。 Lạc lạc sổ gia văn bộc trúc.
出門倦倚立門看, Xuất môn quyển ỷ lập môn khan,
路少燈行室稀燭。 Lộ thiểu đăng hành thất hi chúc.
高伯适 Cao Bá Quát
* Chú thích:
- Y Ốc 咿喔: Từ Tượng thanh dùng để diễn tả tiếng gà EO-ÓC gáy.
- Lạc Lạc 落落: là Lác đác, là thưa thớt.
- Sổ 數: Tính từ chỉ số lượng, SỔ là Một vài; Động từ là Đếm; Danh từ đọc là SỐ : là Con số , chữ số.
- Bộc Trúc 爆 : Bộc là nổ, trúc là tre. BỘC TRÚC là tiếng tre nổ, nói đúng hơn là "tiếng mắt tre nổ." Ngày xưa, chưa có pháo, người ta đốt các mắt tre già ở dưới gốc cho nó nổ thành tiếng để xua tan những xui xẻo, buồn lo... của năm cũ cho nó qua đi. Sau nầy, khi chế tạo được pháo rồi, nhưng vì Tập Quán Ngôn Ngữ đã quen, người ta vẫn dùng từ Bộc Trúc để chỉ pháo luôn. Cho nên khi dịch từ Bộc trúc, phải biết đó là PHÁO, chứ không phải tiếng tre nổ nữa!
- Quyển Ỷ 倦倚: Vẻ Mõi mệt mà dựa vào (cái gì đó...)
- Chúc 燭: là ngọn đuốc, ngọn nến hay ngọn đèn... trong nhà.
* Nghĩa bài thơ:
Xuân Sớm Ở An Quán (bài 1)
Tiếng chuông trống canh ba vừa điểm xong thì tiếng gà cũng bắt đầu eo- óc gáy. Lác đác mấy nhà xa xa đã nghe tiếng pháo đì đẹt nổ. Bước ra đứng tựa cửa uể oải lặng ngắm cảnh đêm giao thừa, trên đường đã thưa người chong đèn đi lại mà trong nhà cũng chỉ leo lét có một ngọn nến mà thôi !
* Diễn Nôm:
An Quán Tảo Xuân (Kỳ nhất)
Tiếng gà eo-óc trống canh ba,
Lác đác pháo tre vẳng mấy nhà.
Ra cửa mõi mòn trông cảnh trí,
Đèn vắng đường thưa nến lập lòa!
Lục bát:
Tiếng gà eo-óc canh ba,
Pháo tre lác đác mấy nhà vọng sang.
Cảnh đêm tựa cửa bàng hoàng,
Đường thưa người vắng chập choàng nến đêm.
(Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm)
2. Bài thơ An Quán Tảo Xuân (Kỳ 2):
安館早春(其二) An Quán Tảo Xuân (Kỳ 2)
客話當初繁盛時, Khách thoại đương sơ phồn thịnh thì,
粉墻朱戶照江湄。 Phấn tường chu hộ chiếu giang my.
即今春早銜泥燕, Tức kim xuân tảo hàm nê yến,
猶倚胡家門裡飛. Do ỷ Hồ gia môn lý phi.
高伯适 Cao Bá Quát
* Chú thích:
- Đương Sơ 當初 : là Lúc ban đầu, là Trước đây.
- Phấn Tường Chu Hộ 粉墻朱戶 : là Tường quét vôi trắng như bột phấn, cửa sơn màu chu đỏ như son : Chỉ nhà giàu ngày xưa.
- Giang My 江湄 : là Ven sông, bờ sông , bến sông.
- Tức Kim 即今 : Như hiện nay, Hiện nay đây.
- Hàm Nê 銜泥 : là Ngậm bùn; HÀM NÊ YẾN 銜泥燕 : là Chim Én ngậm bùn để làm tổ, chỉ sự phồn vinh và đầm ấm của một gia đình đang thịnh vượng. Hai câu thơ chót lấy ý của hai câu thơ cuối trong bài Ô Y Hạng 烏衣巷 của Lưu Vũ Tích 劉禹錫 :
舊時王謝堂前燕, Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến,
飛入尋常百姓家. Phi nhập tầm thường bách tính gia.
Có nghĩa :
Chim én ngày xưa ở hai nhà Vương, Tạ, thì giờ đã bay hết vào nhà của những bá tánh bình thường hết cả rồi !
- Hồ Gia 胡家 : là nhà họ Hồ. HỒ là một họ lớn đứng hàng thứ 13 trong Bách gia tính 百家姓, nên cũng có thể dùng để chỉ chung các dân chúng bình thường sống chung quanh làng xóm.
* Nghĩa bài thơ:
Xuân Sớm Ở An Quán (bài 2)
Khách nói rằng : Trước đây khi nơi nầy còn phồn thịnh, thì cửa son đỏ loét tường phấn trắng tinh phản chiếu lấp lánh bên ven sông. Như hiện nay xuân về sớm và các con én cũng đã ngậm bùn để làm tổ bay vào cửa của các nhà dân bình thường khác cả rồi !
Bài thơ cảm khái trước cảnh tang thương biến đổi, vật đổi sao dời nhưng thiên nhiên thì vẫn vô tình dửng dưng, mùa xuân vẫn cứ đến sớm mặc cho cảnh trí đã đổi thay, lại làm cho ta nhớ đến hai câu thơ của Sầm Tham 岑參 trong bài SƠN PHÒNG XUÂN SỰ 山房春事 là :
庭樹不知人去盡, Đình thọ bất tri nhân khứ tận,
春來還發舊時花。 Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa.
Có nghĩa:
Cây vườn chẳng biết người đi hết,
Xuân về vẫn trổ những hoa xưa !
Thiên nhiên qủa vô tình đến dửng dưng trước cuộc thế tang thương biến đỗi !
* Diễn Nôm :
An Quán Tảo Xuân (Kỳ 2)
Khách bảo lúc xưa khi phồn thịnh,
Cửa son tường phấn chiếu ven sông.
Như nay xuân đến bầy chim én...
Ngậm bùn làm tổ cửa nhà dân!
Lục bát:
Khi xưa phồn thịnh nơi đây,
Cửa son tường trắng ánh đầy ven sông.
Nay thì xuân đến vắng không,
Ngậm bùn chim én bay vòng nhà dân !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
3. Bài thơ uân Dạ Độc Thư:
春夜讀書 Xuân Dạ Độc Thư
今人不見古時春, Kim nhân bất kiến cổ thời xuân
惆悵今春對古人。 Trù trướng kim xuân đối cổ nhân.
世事幾何今不古, Thế sự kỷ hà kim bất cổ,
眼前莫認幻為真。 Nhỡn tiền mạc nhận huyễn vi chân
幾多名利終朝雨, Kỷ đa danh lợi chung triêu vũ,
無數英雄一聚塵。 Vô số anh hùng nhất tụ trần.
自笑俗拘拋未得, Tự tiếu tục câu phao vị đắc,
邇來攜卷太諄諄。 Nhĩ lai huề quyển thái truân truân.
高伯适 Cao Bá Quát
* Chú Thích :
- Độc Thư 讀書 : là Xem Sách mà cũng có nghĩa là Học Hành nữa, vì ngày xưa Xem Sách tức là đang Học Tập đó.
- Trù Trướng 惆悵 : là Do dự, Ngập ngừng, là Chần chừ Ngơ Ngẩn.
- Huyễn Vi Chân 幻為真 : là Lấy ảo làm thực, lấy huyễn hoặc làm thực tế.
- Triêu Vũ 朝雨 : là Mưa buổi sáng.
- Tụ Trần 聚塵 : là Bụi phủ, Bụi mờ.
- Tục Câu 俗拘 : Tục ở đây có nghĩa là Thói Thường, nên Tục Câu có nghĩa là những câu nệ tầm thường, những thói xấu tầm thường khó bỏ. PHAO VI ĐẮC là Không dứt bỏ được.
- Nhĩ lai 邇來 : là Gần đây, là Dạo nầy.
- Huề Quyển 攜卷 : là Cầm quyển sách lên, ý chỉ Học tập.
- Truân Truân 諄諄 : là Cần mẫn, Chăm chỉ.
* Nghĩa Bài Thơ:
Đọc Sách Đêm Xuân
Người của ngày hôm nay không thấy được mùa xuân của thuở xưa, nên giờ ta đang ngẩn ngơ trước mùa xuân hôm nay mà đối mặt với người xưa trên sách vở. Chuyện đời biết như thế nào mà nói, vì hôm nay chứ không phải ngày xưa nữa, nên đừng có nhận lầm những cái huyễn hoặc trước mắt là thực tế (mà phải phân biệt cho rõ ràng). Biết bao nhiêu danh lợi chỉ đến trong đêm như một giấc mộng, rồi kết thúc bằng một trận mưa sáng trôi đi tất cả, cũng như vô số anh hùng tụ hợp rồi cũng tan biến như lớp bụi mờ. Ta tự cười mình vì cái tật xấu xưa nay không bỏ đi được, nên gần đây hễ cứ cầm quyển sách lên là cứ đọc một cách chăm chỉ như ngày xưa vậy!
Biết được rằng Xưa không phải là Nay nữa, Xuân xưa khác xuân nay và Chuyện xưa cũng khác với Chuyện ngày nay, bằng chứng là biết bao danh lợi chỉ thoáng qua như giấc mộng trong đêm, anh hùng hào kiệt rồi cũng tan biến như bụi trần. Biết thế, mà vẫn cứ thế, hễ cầm được quyển sách lên là lại cứ muốn chăm chỉ mà học tập theo gương của người xưa, để làm gì?! Vì rốt cuộc cũng có được gì đâu ?! Cao Bá Quát vừa cười mình ngớ ngẩn có thói quen xấu khó bỏ, lại vừa đề cao mình là người luôn luôn chăm chỉ học tập mặc dù biết rằng đọc sách chỉ là nhại lại những cái bã của cổ nhân!
* Diễn Nôm:
Xuân Đọc Sách Xưa
Người nay chẳng thấy được xuân xưa,
Ngơ ngẩn xuân nay trước cổ thư.
Bao nả chuyện đời kim khác cổ,
Chớ lầm trước mắt thực làm hư.
Biết bao danh lợi theo mưa sáng,
Vô số hùng anh khuất bụi mờ.
Thói xấu cười mình không bỏ được,
Hễ cầm quyển sách cứ khư khư!
Lục bát:
Người nay không thấy xuân xưa,
Xuân nay ngơ ngác người xưa đâu rồi.
Chuyện đời kim cổ đổi vời,
Chớ lầm hư thực thực rồi hóa hư.
Lợi danh như sáng mưa thu,
Anh hùng bao kẻ mịt mù trần ai.
Cười mình tật cũ khó phai,
Quơ nhằm quyển sách miệt mài thâu canh.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
***
Xuân Sớm Ở An Quán Kỳ 1
1-
Canh ba chuông dứt gà eo óc
Lác đác dăm nhà nghe pháo trúc
Ra cửa dựa buồn, trong cửa xem
Đèn đường chẳng mấy, nến phòng ít.
2-
Canh ba chuông dứt gà kêu
Vài nhà pháo trúc lèo tèo thinh không
Dựa buồn ngoài cửa, vào trong
Đèn đường hiu hắt, quanh phòng nến thưa!
***
Xuân Sớm Ở An Quán kỳ 2
Khách nói thời xưa lúc thịnh thời
Cửa son, tường trắng mé sông soi
Mà nay xuân sớm mang bùn-én
Làm tổ quẩn quanh Hồ xóm thôi!
***
Đêm Xuân Đọc Sách
Người nay chẳng biết thuở xưa-xuân
Buồn bã xuân nay với cổ nhân
Thế sự ra sao giờ khác trước
Đừng lầm trước mắt giả thành chân
Biết bao danh lợi, tan mưa sáng
Vô số hùng anh, hóa bụi trần
Thói tật, tự cười, không bỏ được
Gần đây nâng sách vẫn chuyên cần!
Lộc Bắc
Dec22