Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

Như Một Lời Chia Tay - Trịnh Công Sơn - Nguyễn Đức Tri Ân


Đàn Hát và Trình Bày: Nguyễn Đức Tri Ân

Có Ông Già

       "Có ông già lên!"
      Tiếng lơ xe buýt vang lên từ cửa sau, tài xế cho xe dừng hẳn lại. Lơ xe nắm vai tôi kéo lên qua bậc cửa lọt vào trong. Giờ học sinh đi đến trường, những người đi buôn bán sớm nên đã có nhiều khách đi xe phải đứng. 
      "Thanh niên nhường chỗ cho ông già ngồi!"
      Vẫn tiếng vang dễ thương quen thuộc, nhắc tôi nhớ mình cũng thuộc loại ưu tiên đây. Mặc dù đội nón kết như lúc còn đánh tennis ở sân trường Tống Phước Hiệp, mặt bịt khẩu trang vì hệ miễn nhiễm đã yếu, mà sao người ngoài vẫn nhìn ra có ông già. Không biết mình đã lên hàng ưu tiên đó từ hồi nào nữa, chỉ thấy mỗi khi ra đường một mình có những phụ nữ cở bà ngoại, bà nội đưa mắt nhìn mình, có lúc cũng hỏi thăm :
      "Anh bệnh gì mà vào đây? Bị lâu chưa?Bao lâu tái khám một lần? Có ai đi theo chăm sóc? Được bao nhiêu tuổi rồi?"
      Hình như mình có lớn tuổi thiệt, có được hai cháu nội hơn hai tuổi thật là hạnh phúc. Chỉ có bây giờ khi bước một chân lên ghế đẩu làm việc nhà trên cao hoặc bước lên bậc cửa sau xe buýt, phải vận sức kéo chân kia mới chịu lên. Hồi mới ra Đại Học Sư Phạm Sàigòn về trường Tống Phước Hiệp, ở nhờ nhà bác lò bánh mì Phước Thành, phía sau chỗ lò đun bằng củi, có không gian rộng treo được bao da và trụ quấn dây để tập thái cực đạo tiếp tục lúc học ở Sàigòn. Mỗi sáng bốn giờ dậy, luyện tập xong nhảy xuống sông tắm. Lên nấu bếp điện pha một café phin với chút đường, soạn bài dạy bữa đó.

( Giờ Toán - Tống Phước Hiệp - 1973)
      Lúc đó dạy lớp Đệ Nhị, Đệ Nhất trường Nguyễn Trường Tộ thầy Giám học Phong rất quý mến tôi. Hôm đó đang dạy giờ chót buổi sáng lớp Đệ Nhị, vừa sửa xong bài tập là còn năm phút hết giờ, tôi cho học sinh xếp tập nghỉ chuẩn bị chờ tiếng trống tan học. Đang xóa bảng thì mấy đứa bàn chót dùng tay gõ nhịp lên mặt bàn. Chưa kịp rầy thì thoáng bóng thầy Phong ở cửa sau lớp, nhìn xem ai đang dạy. Thấy tôi ngưng xóa bảng đi xuống cuối lớp, thầy không nói gì, quay trở về lớp dạy kế bên. Trường nghèo nên vách ngăn phòng học bằng phên tre, tôi biết lỗi đã làm ảnh hưởng đến giờ dạy của thầy dù đã sắp ra về. Tôi đã đấm xuống mặt bàn, rầy mấy em  bàn chót và nói cả lớp nghe: "từ nay, các em sẽ không bao giờ được nghỉ trước tiếng trống như hôm nay nữa". Vậy mà sáng chủ nhật tuần sau đó, đang lái xe Honda gặp mấy em lớp Đệ Nhất Nguyễn Trường Tộ đang ngồi uống café ở lề đường ngã tư bệnh viện lớn Vĩnh Long ra đón mời thầy. Mấy đứa đưa thầy rít thử điếu thuốc thơm, tôi ho sặc sụa. Bọn nó cười quá :"Thầy không biết hút thuốc!". Tôi cũng cười. Một đứa nói: "thầy thay ghi đông cong đi, xe 72 của thầy để ghi đông có cây ngang, nói thầy đừng giận, tụi nó nói là cây sào quần". Tôi cũng cười, sau đó không thay. Một đứa: "nói hôm trước thầy rầy mấy đứa lớp Đệ Nhị, tụi nó kêu thằng H. đâm thuê chém mướn, hôm trước thầy có gặp nó rồi, sẽ đón đường lúc thầy dạy về, đâm cho một nhát dằn mặt. Tụi em nói tụi bây hết chuyện làm, đòi đâm sư phụ tụi tao, còn thằng H. đã kêu ổng bằng sư phụ rồi". Mấy đứa học trò đối với tôi thiệt tốt, luôn bênh vực thầy.

( Lớp 12 Nguyễn Trường Tộ - Niên Khoá 73-74)
      Bỗng nhiên tôi nhớ đến mình đã biết uống rượu từ lúc vào Đại Học Sư Phạm, khỏi đóng học phí còn được học bổng ba tháng lãnh một lần. Bọn tôi thay phiên nhau từng đứa một dẫn các bạn trong nhóm bảy tám đứa đến quán ăn nấu món đặc sản của quê hương mình. Mỗi đứa uống hai chai bia để thưởng thức kèm theo lời giới thiệu của bạn coi như là đã theo bạn về quê. Về trường Tống Phước Hiệp gặp những đàn anh như thầy Khỏe, thầy Kiệt, hàng tháng lúc lãnh lương tôi được cho đi theo đến vũ trường. Tôi chưa biết nhảy đầm nên ngồi uống rượu mạnh pha soda, ngắm các anh đang lả lướt theo điệu nhạc cùng người đẹp. Tôi tự nhủ chừng nào mấy đứa em tôi đã học xong, ra đời sống tự lập, lúc đó mình học nhảy mấy hồi. Tôi thích ngồi lai rai cùng các chú tôi quen trong xóm lao động, các phụ huynh học sinh rồi còn bạn đồng nghiệp, bạn lao động làm thuê vào ngày nghỉ dạy. Những lúc như vậy tôi hòa mình vào cuộc sống bình thường, không còn phải cộng trừ nhân chia rút căn,...,đứa học sinh nào biết lo học, đứa nào phải kiểm tra nhắc nhở thường xuyên.

(Học sinh Tống Phước Hiệp - Trại Hè Năm 1973)
      Tới vụ hút thuốc nữa. Đến lúc về trường Tống Phước Hiệp dạy, tôi vẫn không hút thuốc và không thấy quê chút nào.Sau 75, dẫn học trò đi đào kinh dẫn nước ở Trà Ngoa thuộc Trà Vinh cũ, cả tuần lễ. Tôi còn trẻ khỏe nên có lúc ở chỗ móc cục đất mới đào lên đưa cho em đầu dây chuyền đến chỗ đấp bờ. Khuya ngồi cùng các thầy hàn huyên, kể chuyện, tôi cũng bập thử điếu thuốc mấy ổng vấn giùm, sau đó thì hết ho sặc sụa. Khi bệnh, lúc nằm viện dĩ nhiên là không hút. Mới đây xuất viện về nhà bỏ luôn gần tám tháng không cầm điếu thuốc cũng không thấy khó khăn gì. Vợ tôi nói "hồi đang điều trị mới đây, hai lá phổi của tôi bác sĩ nói trắng hết sợ không hồi phục được kỳ nầy. Lần nầy về nhà mà còn uống rượu khi gặp bạn thân, dự đám cưới, rồi hút thuốc nữa thì vợ bỏ luôn không còn nuôi bệnh như thời gian qua".
      Tuần rồi ngồi uống café cùng bạn học thời trung học ở Long An, một bạn tâm sự "Từng tuổi nầy mà bà biểu tôi không uống rượu, hút thuốc cũng không thì sống không thấy vui. Thôi chết cho rồi". Tôi chưa từng dám nói như vậy với vợ, vẫn luôn biết vợ lo cho mình.
      Hình như khi gọi tôi bằng thầy, học trò không có gắn thêm chữ già khi đến thăm. Vẫn là thầy, thầy ơi. Giờ đây tôi mới dám vịn vai, bắt tay học trò nữ cũ sì. Hồi trẻ chưa vợ còn không dám nhìn lâu học trò nữ, nhất là mấy đứa được bạn coi là có duyên, còn tôi không nhìn lâu nên không biết.

      "Sắp đến Chợ Rẩy! Ai xuống bước ra cửa sau!".
      Xe buýt dừng hẳn lại, một bàn tay cứng cáp nắm giữ vai tôi, chờ tôi đặt chân sau trên mặt lộ, sau tiếng hô quen thuộc:
      "Có ông già xuống!".
Huỳnh Hữu Trí
Long An 01/01//2013

43 Năm Nhớ Bạn



( Nhớ Tống Hữu Ngọc Hùng Cảnh sát chết trước 75
Nguyễn Văn Long Nhảy dù chết trước 75
Lê Văn An chết năm 75)


Bốn thằng bạn học cùng chung lớp
Khốn khó thân nhau bởi cảnh nghèo
Ở trọ chen chân nhà nhỏ hẹp
Cơm chiều hết gạo ...gói mì khô

Đệ nhị năm nay thi tú tài
Mấy thằng chắc đậu nắm trong tay
Thằng đi Biệt động, thằng Cảnh sát
Có thằng mơ được Nhảy dù bay

Học tài thi mạng hên với rủi
Bốn thằng rớt hết đổ thừa xui
Đêm cuối xả buồn say khướt rượu
Xỉn rồi khóc ngất "tại vì yêu"

Đà Lạt năm sau đành lỗi hẹn
Thủ Đức kỳ nầy đã trượt thi
Đống Đế cánh gà thôi cũng tạm
Có thằng xuống tóc chọn qui y

Bỏ trường xa lớp nhớ người yêu
Năm nay chắc đã đẹp hơn nhiều
Nàng đậu giáo viên vào đại học
Chuông chiều buồn tủi chốn hậu liêu

Mỗi thằng mỗi ngả thời ly loạn
Kinh kệ cầu mong lửa đạn tàn
Trường xưa trở lại cùng thầy, bạn
Học tiếp thi hoài chắc cũng quan

Chiến tranh bỏ lại tiếng khóc cười
Người đi kẻ ở mãi trùng khơi
Rời chùa phố lạ tình không đợi
Bạn bè tản lạc khắp cùng nơi

Hương khói nhang cay ngày gặp lại
Mẹ già em dại bạn đành sao?
Hai thằng chết trận ngoài biên ải
Một đứa phơi thây biết chốn nào

Mỗi năm mưa bão nằm chờ sáng
Nhớ bạn đêm nào uống biệt ly
Rượu đắng khuya nay mình tôi cạn
Chếnh choáng trong mơ thấy bạn về

Phủ Hiền

 

Sài Gòn Của Tôi



Sài Gòn ơi! Sao thương nhớ quá!
Bao lâu rôi ta đã xa nhau?
Chia tay lưu luyến hôm nào
Con tim tan nát lệ trào hoen mi

Buồn da diết chẳng chi nói được
Mưa hạ buồn trút nước ban trưa
Lao xao xào xạt tàu dừa
Hàng cây phượng đỏ tiễn đưa gục đầu

Đời tha hương nỗi sầu viễn xứ
Quang âm ngày tháng cứ lặng trôi
Tà dương dần khuất ven đồi
Chân trời én liệng mình ngồi cô đơn

Chẳng buồn tủi giận hờn oán trách
Dẫu quê hương xa cách nghìn trùng
Cõi lòng tràn ngập nhớ nhung
Xin làm mây trắng không trung lững lờ

Về quê hương ấu thơ trước mắt
Nghe sáo diều hiu hắt trên đê
Xa xa tiếng quốc vọng về
Ểnh ương than khóc não nề trong mương

Lũy tre làng con đường ra ruộng
Bò tràn lan rau muống xanh xanh
Chim cu gáy tiếng trên cành
Con thuyền tam bản chòng chành trên sông

Khói lam quyện ngọn sầu đông
Tình hoài hương dậy đáy lòng thâm sâu
Quê hương còn nào đâu có mất
Cớ sao ta tất bật quê người?

Éo le xoay vận cơ trời
Khiến ta đành phải cuộc đời tằm tơ
Lòng vẫn nhớ ước mơ cố quận
Dẫu còn lưu lạc tận trời xa

Quê hương bốn biển cùng nhà
Đơn thân độc mã mình ta giữa trời

Lê Phạm Trung Dung

10 Lý Do Không Nên Bỏ Qua Mướp Đắng

      Dù có vị hơi đắng, nhưng mướp đắng (hay khổ qua) lại rất hữu ích với sức khỏe. Để có được lợi ích đó, hãy tìm mua và nấu ăn nó thường xuyên
1. Bệnh tiểu đường loại II

Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng mướp đắng làm giảm lượng đường trong máu thông qua việc tăng cường trao đổi glucose. Uống một cốc nước ép mướp đắng mỗi ngày và trải nghiệm hiệu quả. Ngừng uống nếu bạn bị đau bụng, tiêu chảy hoặc sốt. Theo dõi lượng đường trong máu thường xuyên và điều chỉnh thuốc khi cần thiết, với sự trợ giúp của bác sĩ.

2. Sỏi thận
Sỏi thận cực kỳ đau đớn. Mướp đắng có thể giúp bạn thoát khỏi căn bệnh này một cách tự nhiên. Mướp đắng làm giảm axit cao gây ra sỏi trong cơ thể. Hòa bột mướp đắng với nước để tạo thành một loại trà hữu dụng cho sức khỏe. Loại trà này có hương vị hấp dẫn và bạn có thể sử dụng mà không cần thêm đường.

3. Giảm lượng cholesterol
Mướp đắng giúp làm giảm lượng cholesterol, từ đó giúp bạn thoát khỏi nguy cơ mắc bệnh đau tim và đột quỵ. Cholesterol cao chỉ có thể được chẩn đoán bằng xét nghiệm máu. Ăn mướp đắng thường xuyên sẽ đem lại hiệu quả đáng ngạc nhiên.

4. Ung thư tuyến tụy
Một trong những lợi ích sức khỏe đáng ngạc nhiên nhất của mướp đắng là đặc tính chống ung thư. Mướp đắng đã được chứng minh có tác dụng làm gián đoạn việc sản xuất đường, có khả năng ức chế sự tăng trưởng của tế bào ung thư tuyến tụy. Nó cũng có thể ức chế tế bào ung thư khác trong gan, đại tràng, vú, hoặc tuyến tiền liệt.

5. Tốt cho da
Mướp đắng rất có lợi cho da. Uống nước ép mướp đắng thường xuyên có thể làm làn da trắng và mịn màng, giảm mụn trứng cá. Mướp đắng thậm chí còn giúp điều trị bệnh vẩy nến và eczema... Hãy thử món canh mướp đắng để chữa các bệnh ngoài da hoặc cho làn da đẹp hơn.

6. Giảm cân
Mướp đắng rất ít calo và rất nhanh làm bạn cảm thấy no. Ăn mướp đắng thường xuyên giúp bạn giảm cân hoặc duy trì mức cân nặng lý tưởng. Loại quả này cũng chứa hàm lượng dinh dưỡng cao.

7. Bổ gan
Mướp đắng là thực phẩm bổ gan, hỗ trợ tiêu hóa, cải thiện chức năng túi mật, và làm giảm tích trữ chất lỏng. Xơ gan, viêm gan, táo bón có thể thuyên giảm bởi mướp đắng. Bạn nên uống nước ép mướp đắng ít nhất một lần một ngày. Mướp đắng cũng hỗ trợ giảm cân và làm giảm triệu chứng ruột kích thích.

8. Chuyển hóa carbonhydrate
Đây là một lợi ích rất quan trọng đối với những người có bệnh tiểu đường loại II. Carbohydrate chuyển sang đường, và mướp đắng giúp chuyển hóa các loại đường. Chuyển hóa carbohydrate nhanh hơn có nghĩa là ít chất béo được lưu trữ trong cơ thể hơn dẫn đến giảm cân và duy trì cân nặng khỏe mạnh. Chuyển hóa carbohydrate nhanh cũng hỗ trợ tăng trưởng và phát triển cơ bắp.

9. Nguồn Vitamin K dồi dào
Vitamin K giúp tăng cường sức khỏe của xương, chống đông máu, và là chất chống viêm. Vitamin K giúp cải thiện chứng viêm khớp, đau khớp. Việc bổ sung mướp đắng đáp ứng nhu cầu vitamin K hàng ngày cho cơ thể bạn. Ngoài ra, nó cũng là nguồn chất xơ tuyệt vời mà bạn không nên bỏ qua.

10. Tăng cường miễn dịch
Một hệ miễn dịch khỏe mạnh là quan trọng cho việc chống nhiễm trùng và bệnh tật. Mướp đắng giúp ngăn ngừa cảm lạnh và có lợi cho hệ tiêu hóa. Nó còn giúp ngăn chặn hoặc hạn chế dị ứng thực phẩm, loại bỏ các bệnh nhiễm trùng nấm men tự nhiên. Một lợi ích khác là giúp điều trị chứng trào ngược axit và chứng khó tiêu.

Lê Quan Vinh - Sưu tầm

Trắng Nuốt Màu Hoa



Đêm ngào ngạt hương thơm hoa bưởi
Trăng nguyên tiêu vằng vặc sáng trưng
Cám ơn em đã có lời thăm hỏi
Đông sắp tàn buốt lạnh đã nhường xuân

Cành nãy chồi non lá mướt non
Thợ trời chấm phá đẹp màu sơn
Hoa vườn rộ nở trăng đầy ắp
Óng ả vàng tơ gió lượn vờn...

Hoa chanh, hoa quýt cùng khoe sắc
Trắng một màu hoa trắng mẫu đơn
Lóng lánh sương buồn đêm yên lặng
Tình cách xa, tình thương nhớ hơn

Phải chi bước dạo vườn linh ảo
Ta có em cùng bước song đôi
Tay nắm bàn tay hương dạ thảo
Hoa cam, hoa bưởi ... Đẹp môi cười ...

Đêm tháng giêng lành lạnh trăng mơ
Trời xa em có ý mong chờ
Tình em ta gởi vào trang giấy
Ngàn chữ yêu đọng lại thành thơ

Thy Lan Thảo

Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014

Odyssey - Nguyễn Đức Tri Tâm Soạn Hòa Âm và Trình Bày



Soạn Hòa Âm và Trình Bày: Nguyễn Đức Tri Tâm


Lá Thư Định Mệnh

    

    Từ bên trong song cửa nhìn ra sân, thấy thấp thoáng bóng một phụ nữ đang lui cui khoá chiếc xe đạp vào gốc cây mận trước nhà, Hồng tự hỏi “Không biết là ai mà sao dáng người trông quen quá!”. Đến khi cô ta bước vào gần bên thềm và lấy nón lá xuống, tươi cười chào, Hồng mới nhận ra là Tuyết, con gái riêng của mợ mình.
- Lâu quá mới gặp lại em, từ xa chị nhìn hoài nhưng đoán không ra là ai.
-Dạ! Từ khi toàn khu xóm của cô bị giải tỏa, nhà cô dời vào khu đất mới nên Tuyết không tiện để ghé thăm. Sẳn sáng nay ra chợ mua ít đồ nên Tuyết ghé ngang qua nhà chị, may mắn bửa nay có chị ở nhà.
Hồng mời Tuyết vào nhà, mở tủ lạnh rót cho Tuyết một ly trà lạnh trao cho Tuyết:
- Chị cũng rất vui mừng gặp lại em!
Hồng bảo Tuyết ra băng đá trước nhà ngồi cho mát để hai chị em tâm sự.
- Ừ! Cũng hơn mười năm rồi, căn nhà của má chị dời vào khu đất mới. May mắn nhà của chị không nằm cạnh mé sông nên vẫn còn đến nay.

      Hồng chỉ tay về công viên đối diện bên đường:
- Em thấy đó, từ chân cầu đến trường học trung học Nguyễn Tường Tộ bây giờ là khu công viên Sông Tiền; cái xui thành ra cái may đó em!
Tuyết ngạc nhiên:
- Sao vậy chị?
- Dọc mé sông đất lở sụp gần hết, còn vài căn nhà nữa là đến ngôi nhà của má chị rồi! Mấy người trong xóm đều dọn vào khu đất mới, xưa là đồng ruộng, tiền bồi thường chỉ vừa đủ xây một căn nhà nhỏ để ở. Lúc đó bà con lo rầu và than vãn hoài! Nhưng bây giờ khu đất đó có giá nhất ở tỉnh mình đó em!
- Dạ! Em có nghe qua!
- Bây giờ ai ở căn nhà của cô vậy chị?
Hồng trả lời:
- Thì mẹ con của con Cúc nó ở đó em!
- Còn anh Đức, Mai Thảo và Nguyệt Lan bây giờ ra sao hở chị?
- Ba đứa nó ở nước ngoài, cuộc sống bây giờ cũng ổn định. Thỉnh thoảng hai cô em có về thăm gia đình nhưng Đức thì chưa về bao giờ.
- Chị nhắc đến Nguyệt Lan làm cho em nhớ lại chuyện xưa khi mới quen chồng em. Lan có kể cho chị nghe không?

      Chợt Tuyết nhìn qua công viên đối diện. Xưa nơi đó có một căn nhà lầu nhỏ, trước nhà có hai cây me rợp bóng, phía sau là xóm nhỏ dọc theo sông Tiền Giang. Từ bờ nhìn qua bên kia là cù lao An Thành, xa hơn nữa thì nhìn thấy được bắc Mỹ Thuận. Tuyết nghe cô kể lại là sau khi dượng mất, khoảng năm 1960 từ tiệm tạp hóa cô sửa lại thành quán cà phê nho nhỏ, có đèn màu, nhạc yêu cầu, nhạc Việt, và nhạc Ngoại Quốc từ sáng cho đến 12 giờ khuya, từ đầu xóm đến cuối xóm ai cũng nghe. Lúc đó không nghĩ đến tiếng nhạc lớn quá sẽ làm phiền người trong xóm, mà từ lâu không nghe ai phàn nàn gì cả!
Tuyết buông tiếng thở dài….nhớ lại những ngày tháng xưa, nơi đã cho nàng biết bao là kỷ niệm.
***

      Tuyết là con riêng của người mợ thứ Sáu, trước khi gặp cậu của Hồng. Gia đình cậu mợ sống trong một xã nhỏ ở huyện Tam Bình-Vĩnh Long. Cậu thương Tuyết như con ruột nhưng vì nhà nghèo và sống xa huyện nên Tuyết không được đi học như các cô gái đồng lứa tuổi. Khi vừa qua mười tuổi Tuyết giúp mợ mang trái cây vườn ra bến đò hay chợ bán mỗi ngày. Sau đó Hồng và em trai là Đức tốt nghiệp sư phạm, được cử đi dạy học xa nhà vì thế cậu cho Tuyết lên nhà má Hồng để phụ giúp cho quán cà phê.

      Tuyết mới mười lăm tuổi, sống ở ruộng vườn nhưng nàng là cô gái quê duyên dáng, nước da trắng, đôi mắt đẹp đuôi mắt hơi xếng lên, sóng mũi dọc dừa, miệng nhỏ, môi son, hàm răng trắng đều đặn, nét đẹp tự nhiên không cần trang điểm, dễ gây thiện cảm với nhiều người.
      Thời gian đầu làm việc, Hồng dạy cho Tuyết giá tiền, tên gọi của các loại nước ngọt, cà phê đen (xây chừng) cà phê sữa (xây nạy), bạc xỉu phé, v. v… Với tính lanh lẹ, thông minh và nhớ dai nên Tuyết học rất nhanh.
Mỗi lần được tiền lương,Tuyết gởi một ít về quê cho cậu mợ và nhín lại chút đỉnh để mua quần áo. Vài tháng, Tuyết sắm thêm một cái áo bà ba bằng tơ và quần sa teng đen bóng; có lẽ đây là ước mơ của Tuyết từ lâu. Mỗi ngày trong tuần,Tuyết mặc một màu áo vì thế ai cũng nói Tuyết có cá tính đặc biệt. Khách của quán hường gọi Tuyết là “Cô Tuyết quán Cây Me”.

      Từ ngày có Tuyết quán đông khách hẳn lên! Buổi trưa khi các nam học sinh có giờ trống hoặc lúc tan trường thường ghé lại uống cà phê hoặc ngồi cạnh cửa quán để nhìn các cô nữ sinh tan trường về. Chiều cuối tuần quán thêm đông khách, đôi khi là các anh sinh viên từ Saigon về thăm nhà hay các anh lính, sĩ quan thường ghé quán, nơi đây cũng là điểm hẹn để bạn bè gặp nhau..Đăc biệt, có một khách hàng quen thuộc là một nam học sinh của ngôi trường gần quán , trưa nào cũng hay đến ngồi hàng giờ. Tuyết nghĩ anh chàng này có giờ trống hay cúp cua mà ngày nào cũng thế! Đến một ngày nhân lúc Tuyết đến bàn để tính tiền, anh ta len lén đưa cho Tuyết một cuốn tiểu thuyết và nói:
- Tôi vừa coi xong cuốn tiểu thuyết này thấy rất hay, muốn đưa cho Tuyết xem thử!
Tuyết nhận quyển sách nói thầm trong bụng: “Trời ơi! Làm sao mà mình đọc được đây!” nhưng miệng vẫn tươi cười:
-Tuyết cám ơn anh Dân. Khi đọc xong Tuyết sẽ trả lại anh!
Dân mỉm cười, đứng dậy trả tiền rồi ra về.
Tuyết vội vã cất cuốn tiểu tuyết vào ngăn tủ để chờ đến lúc vắng khách mở ra xem. Bên trong có một phong thơ với bao bì trang nhã, nét rất đẹp. Nhìn lá thơ Tuyết mãi phân vân: “Ừ, không biết Dân viết gì trong ấy!”.

      Đứng ngồi không yên nhưng đành phải đợi Nguyệt Lan tan học về mới nhờ đọc dùm. Cuối cùng Nguyệt Lan cũng về đến! Chưa kịp vào phòng thay áo dài và cất cặp vở, thì Tuyết vội vàng trao thư cho cô em nhờ đọc dùm. Nhỏ đọc xong và nói:
- Tuyết ơi, lá thư “tỏ tình” mà sao đưa cho Lan đọc chi vậy?
Từ lâu Nguyệt Lan cũng quên hẳn là Tuyết không biết đọc và viết. Nhỏ chợt nhớ lại trước đây má có kể cho gia đình nghe hoàn cảnh của Tuyết, lâu nay dường như trong gia đình ai cũng quên điều nầy!
Nhớ khi xưa Tuyết làm cho cả nhà ngạc nhiên về tài tính nhẩm nhanh nhẹn và chính xác. Có những lần trong quán có vài bàn đông khách từ tám đến mười người ngồi một bàn, ai gọi thức uống gì Tuyết đều nhớ rõ, khi dọn ra cho khách không bao giờ sai lệch!
      Lưỡng lự và có chút tò mò, Nguyệt Lan cười và nói:
- Ừ, xin lỗi! Vây để Lan đọc tỉ mỉ cho Tuyết nghe nha!
Theo lời yêu cầu của Tuyết, Lan đọc đi đọc lại lá thư không biết là mấy lần. Thấy gương mặt Tuyết rạng rỡ, nhỏ hỏi:
- Bây giờ Tuyết tính làm sao trả lời?
- Còn hỏi gì nữa? Sẳn đọc thư thì viết trả lời luôn giùm đi!
- Trời ơi, đâu có được!
- Ừ, thì viết đại khái là Tuyết cám ơn lá thơ và nhận lời mời đi “Vườn dưa gang” với Dân là được rồi!
- Tuyết biết khi nam nữ học sinh hẹn hò đi vườn dưa gang là để chi không?
Tuyết ngập ngừng giây lát, rồi nói:
- Bởi vì không biết nên Tuyết muốn đi thử cho biết!
Nguyệt Lan đùa:
- Ồ! Chỉ có ý nầy thôi sao?
Thấy Tuyết thẹn đỏ mặt, nên Lan cười thương hại:
- Vậy thì chờ Lan học bài xong thì sẽ viết thử!

* * *
      Như lời hứa và vì tò mò nên sau khi học bài xong, Lan lấy lá thơ ra đọc lại vài lần nữa. Nhỏ bắt đầu ngồi “thả hồn” viết thư hồi âm cho cô chị nầy.
      Viết thư xong Lan đọc lại cho Tuyết nghe, rất hài lòng lá thư hồi âm nên Tuyết yêu cầu Lan đọc đi đọc lại đến năm bảy lần! Cầm lá thư trên tay mà lòng Tuyết vô cùng hớn hở. Tuyết đâu có biết cô em này là dân ghiền chuyện “Hoa Tím”, kệ sách trong phòng đầy chuyện tình thơ mộng của tuổi hoa học trò mà Mai Thảo và Nguyệt Lan thay phiên nhau mua từ lúc bắt đầu bước vào Trung học.
      Tuyết xem đi xem lại lá thư miệng luôn khen Nguyệt Lan có chữ viết rất đẹp, nét nghiêng nghiêng thêm mực tím thật lãng mạn. Tuyết nhủ thẩm:“Chắc là Dân sẽ vui lắm khi nhận được lá thư này!”.

      Như thườnng lệ, Dân đến quán tìm vào góc bàn hay ngồi mỗi trưa. Khi quán hơi vắng khách, Tuyết trao vội quyển tiểu thuyết cho Dân mà gương mặt ửng hồng vì thẹn! Dân mỉm cười khi nhận lại quyển sách, ngồi nán lại thêm một vài phút, trả tiền cà phê rồi ra về.
      Ngày sau, Dân đến quán cũng gọi ly cà phê sữa đá như mọi ngày nhưng dường như vị cà phê trưa nay hương vị thơm ngon và ngọt lạ lùng! Đang lim dim phì phà khói thuốc thả hồn mơ mộng, Dân bỗng giựt mình khi nghe Tuyết đến cạnh bàn và hỏi:
- Anh Dân đọc lá thư của Tuyết chưa?
Có chút lúng túng, Dân trả lời:
- Rồi Tuyết ạ! Anh muốn hẹn với Tuyết trưa thứ Sáu mình đi được không?
Không chần chờ, Tuyết trả lời:
- Vậy cũng tiện, vì trưa thứ sáu quán sẽ vắng hơn buổi chiều, Tuyết có thể xin phép cô, ra ngoài vài tiếng, chắc là không sao!
***
      Ngày chờ đợi rồi cũng đến, Tuyết mặc áo bà ba mới màu hồng đào và quần sa teng đen bóng, chảy lại mái tóc rồi nhìn thoáng trong gương, mỉm cười hài lòng với chính mình! Tuyết xuống lầu thưa cô rồi rời nhà.
Dân đứng đợi Tuyết bên dốc cầu phía bên kia quán cà phê, dưới chân cầu có bóng mát của cây xoài hoang. Dân cười tươi khi Tuyết tiến lại gần, mời nàng lên Honda chở đến điểm hẹn. Dân cho xe ngừng lại trước một quán lá trong một đường nhỏ hơi xa phố, Dân nắm tay Tuyết bước vào quán và chọn một góc bàn trống.
Tuyết nhìn xung quanh có chút ngạc nhiên nên hỏi nhỏ Dân:
- Vườn dưa gang đâu sao không thấy mà anh dẫn Tuyết vô quán lá này vậy?
      Muốn cười thật lớn vì câu hỏi ngây thơ của cô quán cà phê đáng yêu nầy, Dân chỉ tay ra sau quán:
- Vườn ở phía sau của quán, nếu Tuyết quay lưng lại thì sẽ nhìn thấy!
Tuyết nhìn theo hướng Dân chỉ thì thấy nhiều luống đất thẳng hàng, các trái dưa gang được cẩn thận bọc lại bằng rơm khô nằm xen lẫn trong dây và lá xanh.
      Dân nói tiếp:
- Tuyết có biết tại sao học trò hay hẹn đi “vườn dưa gang” không?
- Dạ không!
Dân ngập ngừng trả lời:
- Vì nơi đây yên tỉnh, các cô cậu thường vào quán vắng ăn dưa gang và tâm tình!
      Dân ngừng giây lát, rồi nói tiếp:
- Vào mùa dưa chín, chủ vườn không hái dưa đem ra chợ bán nhưng chỉ bày bán tại quán cho khách đến ăn dưa tươi.
Tuyết nói:
- Người có ý kiến này cũng hay quá anh Dân há!
- Ừ, thật ra dưa gang không ngọt nhưng mình cho đường và đá sẽ thơm ngon và mát. Có người sang hơn thì cho thêm chút sữa đặc vào, khi ăn sẽ ngon hơn nhiều!
Cô bé hầu bàn đến hỏi:
- Anh chị dùng chi?
      Dân quay sang hỏi Tuyết, nhưng Tuyết để cho Dân quyết định dùm mình.
- Cho hai ly dưa gang đường, sữa và đá nhưng dùng đá đập chứ không dùng đá bào nhe em!
- Dạ, anh chị chờ một chút!
Ngồi chờ vài phút, thức uống mang đến, hai ly dưa gang thơm và mát lạnh. Dân thân mật khuấy ly thức uống cho Tuyết. Hai người vừa uống vừa nói chuyện cũng gần hai tiếng, đến khi hết ly dưa gang thứ hai thì mới tính tiền ra về.

      Chuyện Tuyết và Dân quen nhau, người trong gia đình của cô dường như ai cũng biết. Một buổi chiều sau sáu tháng liên tiếp hẹn hò, Tuyết xin phép cô cho về quê để gia đình của Dân đến coi mắt. Tuyết cũng ngỏ lời xin lỗi cô vì sợ bị rầy nên đã giấu cô mình mấy tháng qua. Tuyết đâu có biết là cô vui mừng khôn xiết vì cháu gái mình có người hỏi cưới đàng hoàng, mai nầy sẽ có một nơi nương tựa tốt.

* * *

      Ba tháng sau, Thảo theo mẹ về quê phụ mợ lo đám cưới cho cô chị này! Tuy ở quê nhưng tiệc cưới khá long trọng, các bà con trong xóm thức khuya, dậy sớm để phụ nấu đám. Người thì làm gà vịt, người lo ra chợ mua thịt heo, thịt bò và các nguyện liệu để nấu ăn. Bạn nam nữ trong xóm thì lo việc treo đèn kết hoa, có vài anh học sinh ở Tỉnh thành về nghỉ hè nên cũng họp nhau ca hát để giúp vui suốt đêm. Ai cũng mong để xem mặt chú rễ từ thành về cưới vợ quê!
      Chuẩn bị đâu vào đó, Tuyết nhờ Thảo pha trà, mang bánh ra để cúng trên bàn thờ ông bà và tiếp đãi họ hàng. Cậu mợ đang ngồi chờ Tuyết lạy xuất giá . Tuyết mặc chiếc áo dài màu hồng thêu bông, trên đầu cài một đóa hoa vải, thoa một tí son môi, ngắm mình sơ qua trước gương rồi bước ra chào ba má và họ hàng. Lễ lạy xuất giá bắt đầu, vừa dâng rượu cho ba má mà Tuyết khóc nức nở.
Sau khi xong lễ, Tuyết vào trong thay đồ, Thảo hỏi:
- Sao lúc lạy ba má Tuyết nhiều khóc vậy?
- Ừ, khi nào Thảo có chồng thì sẽ biết!

      Tuy là nguời tỉnh thành nhưng Dân thích làm lễ cưới theo miệt vườn. Thay vì xe đò, Dân thuê ba chiếc ghe lớn có hàng ghế hai bên để ngồi, đủ cho gia đình đi xuống quê rước dâu và mời họ hàng đàn gái lên thành dự tiệc. Buổi rước dâu cử hành khá trịnh trọng. Cậu của Tuyết thật vui mừng và hảnh diện với người trong xóm, tuy Tuyết không phải là con gái ruột của mình.
      Gia đình chồng của Tuyết không giàu nhưng cuộc sống cũng gọi là sung túc. Tuyết được sự thương yêu của ba má chồng và các em. Nghỉ học sau khi lập gia đình, Dân cùng vợ phụ giúp ba má lo chuyện bán buôn của tiệm tạp hóa trước nhà, hai vợ chồng son sống thật hạnh phúc.

Sống với nhau gần nửa năm thì Dân mới khám phá ra Tuyết không biết viết và biết đọc! Lòng mãi thắc mắc về lá thư hồi âm của Tuyết khi xưa, vì nó đã cho Dân nhiều ấn tượng về cô quán cà phê dễ mến. Sau bao ngày suy nghĩ, cuối cùng Dân quyết định hỏi vợ cho ra lẽ. Kể cho Dân nghe sự thật mà Tuyết không cầm được nước mắt.
      Sự thất vọng hiện lên nét mặt của chồng làm cho Tuyết lo lắng vô cùng! Riêng Dân miên man nghĩ ngợi đến những ngày tháng quen nhau, chuỗi ngày sống êm đềm sau ngày cưới, sự yêu thương của Tuyết dành cho mình, sự hiếu thảo với cha mẹ chồng, thương và chăm sóc đàn em như ruột thịt . Tất cả điều nầy đã bù đấp lại lỗi của Tuyết, bao nhiêu hờn giận dần tan biến trong lòng của Dân. Từ đấy hai vợ chồng vui sống hạnh phúc vài năm sau thì hạ sanh được một bé gái và một bé trai.

* * *

      Sau 1976, cuộc sống của gia đình ngày càng khó khăn, từ thành thị đến thôn quê nơi nào cũng đều gặp cảnh gạo châu củi quế, dường như số lượng người bán nhiều hơn người mua. Ba mẹ chồng sức khỏe ngày càng yếu, buôn bán không mang lại lợi nhuận nhiều nên hai vợ chồng Tuyết thay ba má lo chuyện cơm áo cho gia đình.
      Sau ngày ba mẹ chồng qua đời, Tuyết vất vã hơn nhiều! Đóng cửa tiệm tạp hóa, Dân chạy Honda ôm ngày hai buổi,Tuyết bán cơm và hủ tiếu trước nhà, quần quật suốt ngày. Vừa lo việc buôn bán, vừa chăm sóc con, vừa lo cho mấy đứa em chồng ăn học, trách nhiệm trĩu nặng đôi vai nhưng không bao giờ Tuyết than thở.
      Riêng Dân, chạy xe cũng ế ẩm, giang nắng suốt ngày mà tiền kiếm không được bao nhiêu. Sau đó bán đi chiếc Honda để đủ chi phí trong gia đình và mua một chiếc xe đạp đón đưa khách để tiếp tục phụ vợ kiếm cơm hai bữa. Nghề xe đạp ôm thật vất vả lại ít tiền làm cho Dân thất chí nên sau giờ nghỉ anh ta thường theo bạn bè trong xóm nhậu cho đến tối. Trách nhiệm kiếm tiền của Dân ngày càng thưa thớt, khi về đến nhà lúc nào cũng say bí tỉ.

      Nhớ đến đây Tuyết rưng rưng khóc, rút lấy khăn “mù xoa” ra lau mắt, nói tiếp:
- Chị có biết đôi khi em thấy chồng của người ta chết mà phát ham!
Hồng vội nói:
- Em không nên nói như vậy, tội chết đó cưng!
- Chồng em lúc đầu chỉ qua lại nhậu lai rai với bạn, riết thành ghiền! Lúc đầu chỉ vào buổi chiều, nay thì sáng sỉn chiều say!
Nghe Tuyết kể đến đây, Hồng khẻ thở dài và hỏi:
- Còn hai đứa con em bây giờ ra sao?
Nghe Hồng nhắc đến con mình, ánh mắt của Tuyết chợt sáng lên:
- Dạ! Hai đứa vẫn được em lo cho đi học đàng hoàng. Tụi nó học cũng khá vì trước đây chồng em thường xuyên kềm cho chúng mỗi tối!
Tuyết ngừng giây lát rồi nói tiếp:
- Đứa con gái của em có chồng cũng hơn năm nay rồi đó chị!
- Còn cháu trai thì sao?
- Dạ, nó đang học lớp mười một.

      Thấy Tuyết vui trở lại và vơi bớt nước mắt, Hồng bớt lo lắng! Thân mật nắm lấy bàn tay của cô em và nói:
- Chị thấy Tuyết giỏi giang lắm! Em vừa làm mẹ, vừa làm cha mà chu đáo lo cho hai con học hành. Bây giờ lại làm sui gia với người ta nữa chớ!
- Vì em không muốn cuộc đời của con bị khổ như em chị Hồng ạ!
      Nghe Hồng khen làm Tuyết thấy vui và ấm lòng vì đã lâu lắm rồi nỗi lòng của mình không dám tỏ bày cùng một ai cả!
      Tuyết nán lại chơi với Hồng vài phút rồi đứng dậy từ giã ra về, Hồng tiễn Tuyết ra cửa. Nhìn cô em ọp ẹp trong chiếc xe đạp cũ kỹ đang cố leo lên dốc cầu mà lòng của Hồng thật bùi ngùi cho số phận của cô em này!

Yên Dạ Thảo
Mùa Đông 2012

Mưa Học Trò - Từ Kế Tường

Sơ Lược Tiểu Sử:

      Từ Kế Tường tên thật là Võ Tấn Tước, sinh ngày 2 tháng 3 năm 1946, quê quán tại xã Phú Vang, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Ông sống ở Sài Gòn từ trước năm 1975. Từ 1969 ông đã bắt đầu viết văn, làm báo. Tính đến 1975, ông đã xuất bản nhiều sách gồm: thơ, tập truyện ngắn, tiểu thuyết, trong đó có các sách viết cho thiếu niên và nhi đồng.
      Tháng 5 năm 1975, Từ Kế Tường gia nhập Hội Văn nghệ Giải phóng Sài Gòn – Gia Định. Từ 1979 đến 1986 ông làm việc trong ngành Văn hóa thông tin; từ 1986 đến 2003 làm Thư ký tòa soạn báo CA.Hiện nay, ông làm việc tại tuần báo Văn nghệ.
      Từ Kế Tường là Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Ông còn có bút danh khác là Phan Tường Niệm.
Tác phẩm đã xuất bản:
* Tiểu thuyết : Huyền xưa – Đường Phượng bay – Mùa áo vàng – Con đường sỏi buồn – Áo tím qua đường- Còn những bóng mưa tan – Mối tình sương khói – Tuyệt vời khi giã từ nhau – Một chút hương thời gian – Tới một tuổi nào – Tình yêu có màu gì – Tìm nhau trong hương khói – Bông hồng cho tình đầu – Áo vàng qua ngõ – Bờ vai nghiêng nắng – Cánh hồng gai – Ngày vắng mưa thưa – Bầu trời màu trứng sáo – Hoa lưu ly không về…
* Thơ: Trên xác lá mùa hè – Thơ hồng – Khi bỏ trường mà đi – Tái hiện một giấc mơ – Nửa đời ta yêu em – Áo còn vướng lại – Có tên một dòng sông…

Cùng nhiều tác phẩm viết cho thiếu nhi. 



Hình như là lất phất mưa
Đủ cho hạt bụi lên vừa mắt em
Tiếng ve ru cánh phượng mềm
Cháy trong vòm lá nỗi niềm tháng năm

Tóc dài từ thủa xa xăm
Thả trên vạt nắng xưa nằm nghiêng nghiêng
Mộng về một khoảng trời riêng
Mắt xanh cửa lớp ưu phiền gửi theo

Tay lùa ngọn gió trong veo
Mới thương mùa hạ rơi vèo như không
Hàng me xanh đến nao lòng
Tiếc chi một nét môi cong với chiều

Em về khua guốc liêu xiêu
Áo bay cuối phố dài theo mắt người
Hình như mưa lất phất cười
Hồn nhiên làm tuổi hai mươi biết buồn.
  
Từ Kế Tường
( Suối Dâu sưu tầm)


Nghẹn Ngào


Đêm khuya ánh sáng muôn màu
Phố xưa lặng lẻ kề nhau mái đầu
Anh ca em hát vui câu
Đôi ta thề hẹn một màu yêu thương

Bông hoa lài nở tỏa hương
Cách nhau mấy khúc sông tương sum vầy
Rồi ngày qua tháng lặng nầy
Anh đi em ở không may lạc loài

Mất nhau một cõi nghẹn ngào
Để đâu hơi thở dìu nhau cuối đường
Còn đâu phố cũ tên đường
Mộng còn hay thật viễn phương thẩn thờ


Lục Lạc


Thơ Tranh: Bình Minh Trên Sông


Thơ &Thơ Tranh: Kim Quang

Thu Melbourne



Trời Melbourne vào Thu
Buổi sáng khoác sương mù
Ngồi đây nhớ Phố núi
Một thuở em và tôi

Buổi chiều chầm chậm trôi
Lặng lẽ trong ngậm ngùi
Nhớ em và Phố núi
Cuốn trôi một phận người.

Nguyễn Đức Tri Ân
Melb, 03/03/2014


Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

Gia Đình Bác Bùi Văn Thân Cảm Tạ



Bác Bùi Văn Thân và con Bùi Thị Mỹ lệ,
Vô cùng xúc động với lòng ưu ái của mấy cháu, cùng đồng hành, chia sẻ,
phân ưu và cầu nguyện hương linh Hiền Nội của Bác là Nguyễn Thị Xinh,
Pháp danh Đức Sanh vừa từ giã cõi trần.
Bác xin ghi nhận nơi đây và thành thật tri ân sâu xa cùng mấy cháu.
Bác xin cảm tạ cháu Huỳnh Hữu Đức
Cảm tạ hai cháu Phụng & Nhung Lê Quang
Cảm tạ cháu Kim Phượng
Cảm tạ cháu Kim Oanh
Cảm tạ cháu Suối Dâu
Cảm tạ cháu Lục Lạc
Tang gia đồng cảm tạ



Những Lời Cho Người Nằm Xuống

Sinh ra trong ba vạn sáu ngàn ngày
Sinh thì hữu hạng, tử bất kỳ nào hay
Sống còn lặn hụp biển khổ trần thế
Thác đi rồi một kiếp nghiệp trả vay

Những tưởng phu thê xum hợp mãi
Nào ngờ đâu tan rã kiếp bèo mây
Đành đôi đường u hiễn kể từ đây
Một phút chia ly ngàn năm nhung nhớ!

Trăm năm sóng biển bạc đầu
Người thương đã mất biết đâu mà tìm
Từ nay tăm cá bóng chim
Vào ra hiu quạnh con tim thẩn thờ!

Quang Thân



Bùi Văn Thân

Thành Kính Phân Ưu Cùng Gia Đình Bác Bùi Văn Thân

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU



Kính Gửi Bác Thân cùng Trung và Mỹ Lệ
Chúng cháu vừa nhận được tin muộn, Bác Gái Bùi Văn Thân, nhũ danh Nguyễn Thị Xinh,Pháp danh Đức Sanh đã mãn phần.
- Bác Gái sinh năm 1923
- Qua đời  ngày 22-03 2014 - Nhằm ngày 22-02 năm Giáp Ngọ
- Tại Sydney - Australia
- Thượng Thọ 91 tuổi.
- Lễ an táng được tổ chức ngày 25-3-2014

Chúng cháu xin chia sẻ nỗi buồn mất mát với Bác Trai và Gia đình Trung, Mỹ Lệ.
Kính nguyện Hương Linh Bác Gái được sớm về Cõi Niết Bàn.

Đồng Kính Phân Ưu
Hai cháu Phụng, Nhung Lê Quang
Các cháu: Huỳnh Hữu Đức, Suối Dâu, Kim Phượng, Lục Lạc, Kim Oanh

Lên Chùa




Tinh sương bỏ bước lên chùa
Thấy con sông chảy giữa mùa xuân xanh
Chừng như hương bưởi hương chanh
Và hương thượng Phật trong manh áo vàng
Cỏ nằm đợi nắng sương tan
Tôi còn đợi tiếng chuông vang lên trời.

Lý Thừa Nghiệp


Lời Hay Ý Đẹp: Ấm Áp!



- Ấm áp không phải khi ngồi bên đống lửa, mà là ngồi bên cạnh người mà bạn thương yêu!
- Ấm áp không phải khi bạn mặc một lúc hai, ba áo, mà là khi bạn đứng trước gió lạnh, từ phía sau đến có ai đó khoác lên bạn một tấm áo.
- Ấm áp không phải khi bạn nói "ấm quá", mà là khi có người thì thầm với bạn:
"Có lạnh không?".
- Ấm áp không phải khi bạn dùng hai tay xuýt xoa, mà là khi tay ai kia khẽ nắm lấy bàn tay bạn.
- Ấm áp không phải khi bạn đội chiếc mũ len, mà là khi đầu bạn dựa vào một bờ vai tin cậy.

  Chúc bạn mỗi ngày đều tốt hơn ngày hôm.


  Về Chiều -Sưu tầm

Ngàn Thu Áo Tím - Hoàng Trọng - Thái Thanh

      Có một thời cách nay đã lâu lằm rồi một sồ trường nữ sinh trung học mặc áo dài màu tím đi học, như Đồng Khánh ở Huế, Gia Long Trưng Vương ờ Sài gòn. . .Những tà áo dài ấy đã đi vào thơ nhạc của một số thi sĩ, nhạc sĩ. Bài hát này cũng là nhắc đến hình bóng tà áo dài tím ấy với một mối tình êm đẹp nhưng phải chia lìa trong đau thương như ý nghĩa của màu tím luôn buồn là như vậy.


Nhạc Sĩ: Hoàng Trọng  
Ca Sĩ Thái Thanh
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình

Thứ Tư, 26 tháng 3, 2014

Bố Tôi


1.

       Tuần trước, chúng tôi đã có cơ hội kể cho quý vị nghe 1 câu chuyện thật riệng tư, đó là chuyện về mẹ tôi, người đã từ giã cõi trần này vào đêm vọng lễ giáng sinh. Nói chuyện về 1 người đàn bà có chồng mà không nói đến ‘phân nửa còn lại’ thì có lẽ cũng có vài thiếu xót, nên xin 1 lần nưã, mượn những khoảng khắc sáng thứ bảy này để nói về ‘phân nửa kia’, đó là bố tôi.

       Năm nay bố tôi đã 86 tuổi. Ông không bao giờ ngờ rằng người đàn bà kết duyên chồng vợ với mình 54 năm trước, trẻ hơn mình 1 con giáp lại ra đi trước mình. Năm 80 tuổi, bố tôi nói: “Mọi sự ở trần gian bố giao cho mấy mẹ con, lo sao thì lo; còn bố, bố chỉ lo suy nghĩ về chuyện đời sau”.

       Người ta bảo ‘sống gửi thác về”. Lẽ sống chết trong đời sống con người phải chăng là thế. Trong 4 cái khổ theo nhà Phật là ‘Sinh Lão Bịnh Tử’ thì bố tôi đã trải qua được ba cái rồi, chỉ còn cái khổ cuối cùng thì ông đang chiêm niệm để chờ ngày bước tới. Ấy thế mà trong những ngày chơi vơi cuả tuổi già, Thiên Chuá lại cất đi cái xương sườn cụt cuả bố tôi để ông vốn chao đảo với cuộc đời, nay lại càng chao đảo thêm.
       Thánh vịnh 89, câu 10 ghi nhận như sau:

“Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục
Mạnh giỏi chăng là được tám mươi
Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ
Cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi”


2.
       Cái khổ nhất cuả tuổi già là sự cô đơn. Bố tôi từ trước đến nay dường như chỉ có 1 người chính để tâm sự, để nâng đỡ, để nhờ vả. Người đó là mẹ tôi. Trước đây mẹ tôi hay phàn nàn là bố không để cho mẹ ngủ qua đêm. Bởi vì mẹ tôi có thói quen ngủ sớm. Mới 9 giờ thì gà đã lên chuồng. Còn bố tôi thì mãi 10g30 tối mới ngủ. Mắt đã loà thì làm sao coi TV, đọc sách; nghe radio thì tai nghễnh ngãng phải mở thật to; thành ra mẹ tôi vẫn thường hay chiều bố ráng thức để nghe bố tỉ tê chuyện cuộc đời.

       Không hiểu có phải vì thế hay chăng mà mẹ tôi trở thành phát ngôn viên cho bố. Điều gì bố muốn anh em trong nhà làm thì đều nói cho mẹ, rồi mẹ nói với anh em. Thế cho nên khi mẹ tôi chết, dường như trong gia đình mất đi hẳn cái gạch nối giưã bố và mọi người trong gia đình.
Trước đây, tôi vẫn chờ đến 8 giờ tối để nói chuyện với mẹ vì sau 8 giờ tối gọi Optus free. Thực ra, nhiều khi chuyện cũng chẳng có gì, lắm khi chỉ là 1 chuyện tầm phào nào đó nhưng có lẽ chỉ để nghe được tiếng cuả nhau, biết rằng mẹ khoẻ, bố khoẻ mà yên tâm.

       Đã biết bao nhiêu lần tôi muốn tung hê tất cả mọi sự để trở về Adelaide sống, ấy thế mà cũng đã lê lết ở đất Melbourne này hơn 15 năm. May mà Trời cho bố mẹ tôi khoẻ mạnh, không mang 1 chứng bịnh gì gọi là nghiêm trọng nên 1 năm đôi lần gặp nhau xem ra cũng yên tâm 1 phần nào.
Có 1 tâm nguyện cuả mẹ mà tôi chưa toại nguyện là việc mẹ tôi muốn về lại quê hương thăm gia đình và bạn bè mà trong gia đình chẳng có ai đi cùng. Mấy năm trước khi bố tôi còn khoẻ mạnh thì cả hai người đã đi từ bắc ra nam trong 1 chuyến đi gọi là ‘dối già’ và giã biệt mọi người cùng 1 nhóm bạn già.
       Bố tôi nay không đủ sức đi đâu nữa mà mẹ tôi, vốn là chân chạy vẫn còn muốn về nhưng ngại về 1 mình. Đã mấy lần rủ mà chúng tôi cứ khất lần. Mẹ tôi gạ gẫm: “Mẹ chỉ cần đưá nào cùng đi, đến được Saigon thì chả cần nữa, muốn đi đâu thì đi”. Bà vẫn ngại chuyến đi xa lỡ có trục trặc gì thì không biết ứng phó ra sao.

       Chuyến đi ấy đã chẳng bao giờ xảy ra dù rằng đã thấp thỏm hẹn hò với bà bác bên Mỹ, hay với bạn bè ở những nơi xa xôi để cùng về gặp nhau nơi quê hương. 3.
Người xưa bảo rằng: “Hãy để kẻ chết lo cho kẻ chết, còn kẻ sống hãy lo cho kẻ sống”. Đám tang cho mẹ xong, điều làm bản thân chúng tôi lo nhiều nhất là cuộc sống cuả bố tôi từ đây. Căn nhà tổ mà bố mẹ tôi sinh sống từ trước đến nay, bây giờ 1 mình ông cụ không thể ở. Có cho 1 đưá cháu đến ở với ông thì cũng không xong vì vẫn phải lo cơm nước cho cả hai ông cháu. Thế nên đành phải bán nhà và bố tôi nay là kẻ không nhà, đi lưu vong thay phiên đến nhà 4 đưá em còn ở lại Adelaide mỗi đưá 1 tháng. Ông cụ nhất định không chịu lên Melbourne chơi vì muốn mỗi ngày có dịp ra mộ thăm.

       Sáng thứ hai khi chúng tôi lái xe trở về Melbourne. Cả gia đình giã biệt căn nhà tổ, đưa bố tôi đến ở nhà đưá em, trên đường ghé thăm mộ, ông cụ đứng lặng thinh rồi quỳ xuống đầu mộ kể kể như bao lần đã kể lể cho mẹ tôi nghe mỗi tối. Ngày hôm ấy, khi đến nhà đưá em, ông cụ âm thầm lặng lẽ vào phòng dành cho mình, và ở luôn trong ấy không chịu ra ăn uống gì cả, suốt ngày chỉ ngồi nhìn bức hình cuả mẹ tôi mà thẫn thờ cầu nguyện, làm cho đưá em phải gọi tất cả những anh em còn ở Adelaide đến nhà dỗ dành ông cụ. Rủ ra mộ thăm thì mới xem ra nguôi ngoai đôi chút.
Có lẽ mấy tuần trước đây, dù thiếu mẹ, nhưng ngày nào tất cả các con cái đều quây quần chung quanh ăn uống đọc kinh mỗi tối. Nay mỗi người 1 phương hẹn nhau 100 ngày mới trở lại gặp nhau, làm cho ông cụ bỗng dưng thấy như hụt hẫng.

      Bố ơi,
      Nếu bố có nghe đài sáng hôm nay thì hãy can đảm lên nhé. Hành trình làm người phải chăng chỉ như đi đến 1 điểm hẹn để sống gửi thác về. Thiên Chuá ban cho con người 1 thân xác như chiếc áo bọc bao phủ phần hồn để sống để thở trong cõi đời này. Rồi cũng có lúc cái áo đó cũ kỹ đi, mục nát đi.
       Con người như 1 giọt nước tình thương đi lang thang, đến cuộc đời để học hỏi và có để lại chăng chỉ là chút ít tình thương rải rác nào đó rồi trở về cùng Thiên Chuá là cha tình thương, là biển đại dương cuả yêu thương. Giọt nước lang thang đó nhập vào đại dương tình thương để làm thành 1 gạch nối giưã trời và đất, giưã đời này và đời sau.
Để từ nay, chúng ta tin rằng trên thiên quốc, sẽ có 1 người trong gia đình phù hộ cho chúng ta là những người còn phải đi cho trọn kiếp lầm than làm người cuả mình.

4.
       Chuyện xưa kể rằng khi Huệ Tử thắc mắc tại sao Trang Tử lại vỗ trống mà hát khi vợ mình qua đời thì Trang Tử đáp:

Lúc nàng mới chết, tôi làm sao không khỏi buồn rầu.
Nhưng xét đầu tiên cả nàng vốn không sinh
Không những không sinh mà vốn không hình
Không những không hình mà vốn không khí
Lộn xộn trong cõi hoảng hốt,
biến mà có khí,
khí biến mà có hình,
hình biến mà có sinh;
nay lại biến mà chết:

những việc ấy có khác gì sự đi lại cuả bốn muà, xuân hạ thu đông ?
Người đã nằm yên trong ngôi nhà lớn, mà tôi lại đi theo khóc lóc,
như vậy tự thấy mình không thông hiểu mệnh, cho nên tôi không khóc”
Chúng ta sinh ra trần truồng, rồi lại trần truồng mà trở về lòng đất; chúng ta vốn từ cõi vô hình mà đến, rồi lại trở về cõi vô hình. Trang Tử vả các đệ tử cuả ông phải chăng đã hiểu được ý nghiã cuả thế giới vô thường, cho nên ‘cỡi trên sự biến hoá cuả lục khí, để dong chơi trong cõi vô cùng”.


       Bản thân chúng tôi đã đi tham dự nhiều đám ma, nhưng chưa bao giờ có cái cảm nhận vưà đau xót vưà lạ thường như khi đi đám ma cuả mẹ mình. Phải chăng trước đây, khi đi đám ma là đi đám ma cuả ai đó, 1 người dù thân quen nhưng cũng không thể có cái cảm giác như xé ruột xé gan.
Nói như 1 chia sẻ cuả 1 nữ thính giả gửi đến thì những giọt nước mắt không chảy ra ngoài thì nó lại chảy vào tim, làm cho nhức nhối và đau đớn bội phần hơn nưã. Những cuộc chia ly, dù biết ‘sinh hữu hạn, tử vô kỳ’ và chẳng có ai trên đời này đưcợ trường sinh bất tử, rằng cha mẹ già rồi sẽ qua đời, nhưng khi điều ấy xảy đến, chúng ta lại dường như không thể chấp nhận được nó.
Thế cho nên, có những thoáng chợt khi kỷ niệm cũ ào đến, nước mắt ưá ra, chính lúc đó mới bật khóc trong lặng lẽ mà than rằng “má ơi, sao má bỏ con má ra đi”.

5.
       Ngày xưa ở Việt Nam, gia đình chúng tôi theo thói thượng cuả người Hà Nội gọi cha mẹ mình là ‘cậu mợ’. Khi khôn lớn bố tôi bảo, người kinh đô lạ kỳ, chọn hai người xa họ nhất là cậu mợ để bảo con cái dùng gọi cha mẹ mình, thôi từ nay phải gọi lại cho chính danh. Ấy thế mà không hiểu sao trong khi người ta thường gọi ‘bố mẹ’ hay ‘ba má’ thì anh em chúng tôi lại nửa nam nưả bắc mà gọi là ‘bố má’.
       Bài điếu văn đọc trong thánh lễ an táng trước khi tiễn mẹ tôi ra lòng đất, đoạn cuối ghi nhận như sau:
       Chúng con nào có bao giờ ngờ rằng ngày hôm nay má ra đi, bỏ bố, bỏ các con bỏ các cháu ở lại cõi đời này. Còn biết bao nhiêu chuyện ngổn ngang trong lòng con muốn hỏi má, nay biết hỏi ai.
Từ trước đến giờ lúc nào má cũng là cột trụ cuả gia đình mình, chuyện lớn chuyện nhỏ đều từ tay má lo liệu. Những lúc anh em không đồng ý kiến, má là người kết hợp cho tình gia đình vẹn toàn.

       Má là chỗ nương tựa từ tinh thần đến vật chất cho chúng con. Không biết có phải vì thế mà má đã ôm trọn những lo âu vào lòng âm thầm chịu đựng. Bao nhiêu lần cuộc đời làm cho má đau khổ, lắm khi má muốn tâm sự, thế mà chúng con lại vô tình không biết đến để chia sẻ cùng má.

       Bố vẫn bảo, má họ VŨ, nên đã đem mưa hồng ân trên trời đến để tưới cho cây LÊ nhà mình tốt tươi. Cây LÊ ấy ngày hôm nay không còn được má chăm sóc dưới thế này nữa, nhưng với Đức Tin cuả người công giáo, chúng con luôn khẩn nài Thiên Chuá là cha tình yêu tha thứ những lỗi lầm nếu có cuả má ở trần thế. Chúng con tin rằng trên cõi trời cao, má sẽ vẫn phù trợ cho mọi người trong gia đình để các con, các cháu cũng sống sao cho nên người như sự trông mong dưỡng dục sinh thành cuả bố má.
       Con có nói ngàn lời cũng không đủ cho hết những điều muốn nói. Giã biệt má yêu thương cuả chúng con.
        Thân phận con người là bụi tro, đến từ bụi tro và trở về bụi tro, hôm nay chúng con xin tiễn đưa má trở về lòng đất.

       Má ơi,
       Má cuả con ơi, má có nghe tiếng con không ?

Minh Duy

Cảm Tác: Lạc Vào Chùa Hoa Âm




Lạc Vào Chùa Hoa Âm

Tình cờ lạc lối cửa Chùa
Ghé thiền nửa chiếc chõng thưa Sư già
Nước reo suối nguồn hoang dã
Tịnh tâm! Màn mây mượn ngã qua đêm
Ngoài song tùng hát êm êm
Xa xa vượn hú cảnh thêm hữu tình
Tiếng chày đánh thức bình minh
Mưa hoa lất phất giật mình tỉnh mơ.
Kim Oanh
* * *  
Lạc Vào Chùa Hoa Âm

(Cảm tác từ Vào Chùa Hoa Âm của Kim Oanh)

Tình cờ lạc lối đến chùa Hoa
May thay được nửa chõng sư già

Sáng dậy ta tìm nơi xúc miệng
 Đêm nằm trong trướng với mây sa
Trái thông rụng đập vô cửa sổ
Vượn hú bên sông muốn nhào qua
Bổng dưng tiếng mỏ làm ta thức
Mới biết mình đang mộng dưới hoa

Biện Công Danh


Thơ Tranh: Hai Đầu Nỗi Nhớ


Thơ: Dương Hồng Thủy
Thơ Tranh: Kim Oanh

Người Về


Người đã đến từ trùng khơi sóng dữ
Tay trần lao dâng tặng ngút ngàn mưa
Mưa đẫm tình xanh
Mưa tràn tuổi dại
Mưa trùng phùng dập nát một thời vui
Người đã đến vung tay chèn mắt lửa
Miệng cười hư không
Môi méo mó lời ru
Ru đêm mây mưa
Ru ngày tục lụy
Đội trên đầu vụn vỡ mấy lời ru.

6/2/2004
Tín Đức

Nhớ - Tô Như

                       
Đêm qua Phạm Thái nhớ Quỳnh Như
Đồng mạ xanh non nhớ vũng hồ
Chiêm nữ bâng khuâng ngồi nhớ bạn
Ngũ Hành Sơn... có nhớ Tây Du

Trọng Thủy lên đường nhớ Mỹ Châu
Ngưu Lang Chức Nữ nhớ nhau sầu
Cô Tô buồn nhớ Hàn Sơn Tự
Bến nước Tầm Dương... nhớ thuở nào

Biết rồi... Phạm Lãi nhớ Tây Thi
Chim nhớ... cành đa muốn trở về
Đêm cũ... xa xưa... đèn nhớ bóng
Đường Minh Hoàng... nhớ Dương Quý Phi

Khắc Chung... rong ruổi nhớ Huyền Trân
Kim Trọng... thương Kiều nhớ Thúy Vân
Trăm năm... bến nhớ con đò cũ
Biết Tấn rồi đây có nhớ Tần?

Lưu Bình trở giấc nhớ Châu Long
Lạc nẻo ai kia nhớ giống dòng
Nguyễn Huệ, Trưng Vương mình nhớ mãi
Con Hồng cháu Lạc... nhớ non sông

Bạch mã bên thành nhớ Trạng Nguyên
Chế Bồng Nga nhớ gót chinh yên
Mỵ Nương nhớ sáo Trương Chi lắm
Trăng nhớ hoàng hôn...em nhớ anh!!!!

Tô Như

(Huỳnh Hữu Đức sưu tầm)

Đỗ Vỡ (Ái Hữu 72)

      Thế mà đã mười hai năm mài miệt ở ghế nhà trường,mười hai năm đầy kỹ niệm,giờ đây kết quả mười hai năm học là nhập ngủ.Đỗ vỡ tất cả,những gì hiện tại trong tầm tay đã vượt khỏi, tất cả đều đổỉ thay không còn gì cả .

      Bây giờ mới thấy là mình đã quá ngu xuẩn, đã đánh mất tương lai không suy nghĩ,đã dìm sâu tất cả những gì hiện có và sẽ có xuống vũng bùn,nhưng đã quá muộn khi hối tiếc lại những gì mà mình đã đánh mất. Dù sao đi nữa thì ngày nhập ngủ đã gần, hối tiếc cũng bằng thừa,cứ nghĩ rằng ta sống với hiện tại xóa nhòa quá khứ và che lấp tương lai.


A.H.8 Quang  & A.H 15 Lộc dâng sớ trước Hoàng Thái Hậu( Má Tùng) 

      Sự săn sóc lo lắng của gia đình đã làm cho mình nghẹn ngào tủi thẹn,vì sao gia đình mình đã lo lắng săn sóc cho mình từng miếng ăn giấc ngũ với kỳ vọng độc nhất là đặt chân vào ngưỡng cửa đại học,nhưng mình đã làm phụ lòng tất cả kỳ vọng,xung quanh bất cứ ở đâu luôn luôn mình cũng thấy một dấu hỏi to tướng là mình đã làm được gì vừa lòng cha mẹ hay chưa? Chắc hẳn là không vì mình không đáp lại được sự mong ước của cha mẹ nơi mình là phải vào đại học.Không thể qui trách nhiệm cho ai,không thể đổ thừa cho định mạng,mà mình nhận thấy rằng đã chính mình tự đào hố để chôn mình,tuy đã tự hứa không nghĩ gì đến hiện tại và quá khứ nhưng mình vẫn cứ nghĩ,nghĩ mãi đến ngày phải rời xa thành phố Vĩnh Long thân yêu mang đầy kỹ niệm yêu đẹp nhất của mình nơi bao gồm tất cả những người thân của mình để vào quân trường,để khép mình vào khuôn phép sống một cuộc sống với câu châm ngôn hay đúng hơn là kinh nhật tụng “quân đội không ý kiến “

      Còn sự khổ sở cùng cực nào khác hơn không? Nếu còn hãy đến ngay tức khắc,con người không thể chịu đựng quá mức, sự chán nản đến tột độ,tất cả sự khổ nhục hãy đến ngay trong giờ phút này,để rồi sau đó xin miễn đừng bao giờ đến với ta nữa,mình giờ đây chỉ còn ước mong duy nhất là được sống mãi dưới mái nhà thân yêu luôn gần gũi mấy người thân,đó chỉ là những ước vọng mà có, là những gì mình ước không bao giờ đến. Mình muốn gào thét lên, muốn sụp đổ tất cả, muốn điên lên được khi nghĩ rằng tại sao mình không được như người khác?

      Dẫu sao đi nữa chuyện cũng đã rồi,giờ mình mới là Nguyễn Tất Nhiên là hữu lý khi sáng tác bài thơ
“thà như giọt mưa"  với câu “ hy vọng mất rồi ta đợi ngày đi“ ./.

Phan Tấn Lộc

Nguyễn Khoa Nam - Thủ Khoa Đại Học Võ Bị Liên Quân Hoàng Gia Úc

      Ngày 12/12/2013 vừa qua Nguyễn Khoa Nam là một em Việt Nam được sinh ra và lớn lên tại Melbourne, Úc Châu, đã tốt nghiệp Đại Học Võ Bị Liên Quân Hoàng Gia Úc tại Canberra và Học Viện Hàng Hải Hoàng Gia Úc HMAS Creswell với cấp bực Trung úy. 

Nguyễn Khoa Nam 

      Nhưng điều đáng nói là Khoa Nam đã tốt nghiệp với ngôi vị thủ khoa của khoá huấn luyện bốn năm. Khoa Nam được vinh dự đại diện khóa cầm kiếm dẫn đầu các tân sĩ quan tiến ra lễ đài và đại diện trường để chào đón bà Toàn Quyền, đại diện Nữ Hoàng Anh tại Úc, và giới thiệu các bạn đồng trang lứa với bà và các quan khách.

Nguyễn Khoa Nam được vinh dự đại diện khóa cầm kiếm dẫn đầu các tân sĩ quan tiến ra lễ đài 

      Điều ngạc nhiêu hơn nữa khi vị chưởng ấn của Đại Học Võ Bị Liên Quân Hoàng Gia Úc xướng tên Khoa Nam Nguyễn được nhận lãnh huy chương cao qúi “Commander-In-Chief’s Medal” dành cho sinh viên sĩ quan xuất sắc nhất trong mọi lãnh vực của toàn trường do Bà Toàn Quyền Quentin Bryce trao tặng. 

Nguyễn Khoa Nam nhận lãnh huy chương cao quý “Commander-In-Chief’s Medal” do Bà Toàn Quyền Quentin Bryce trao tặng 

      Đặc biệt nữa là Khoa Nam cũng là người xuất sắc đã giữ được huy chương “Megan Anne Pelly Perpertual Memorial Award” dành cho sinh viên sĩ quan xuất sắc trong mọi lãnh vực của Học Viện Hải Quân trong hai năm liền, điều chưa từng xảy ra tại Học Viện.
      Là con trai trưởng của anh Nguyễn Minh Khoa và chị Bạch Mai, Khoa Nam khi còn là học sinh tiểu học đã từng là sói con Hướng Đạo Thăng Long (West Footscray) và Hướng Đạo Hoa Lư (Broadmeadows), khi lên trung học đã tham gia Thiếu Sinh Quân trường Melbourne High School và cuối tuần em thường tới Giáo xứ St Margaret Mary’s North Brunswick tham gia sinh hoạt đoàn Thanh Thiếu Niên Salesian và Nam đã tỏ ra xuất sắc là một trưởng có tài chỉ huy trong Đoàn Thanh Thiếu Niên Salesian, và cũng là nơi mà ba mẹ của Khoa Nam có tên trong Ban Mục Vụ của Giáo xứ. Khoa Nam cũng đã từng theo ba mẹ giúp các cô chú bác rất tích cực trong các hội chợ Tết do Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do Victoria tổ chức.
      Trong bốn năm huấn luyện tại Đại Học Võ Bị Liên Quân Hoàng Gia Úc tại Canberra và Học Viện Hàng Hải Hoàng gia Úc HMAS Creswell, Khoa Nam tuy là một sinh viên trẻ nhưng đã biết dấn thân trong nhiều lành vực xã hội và từ thiện, và sinh hoạt rất tích cực.

      Khoa Nam dù sinh ra và lớn lên tại Úc nhưng rất thông thạo tiếng Việt nên đã từng là thông dịch viên cho những cuộc gặp gỡ giữa quân đội Úc Việt. Khoa Nam cũng đã được bộ trưởng quốc phòng Stephan Smith và thủ tướng đương nhiệm Tony Abbott, khi ông còn nắm giữ vai trò chủ tịch Liên Đảng trong cương vị là nhân vật đối lập tại Quốc Hội trước khi thắng cuộc bầu cử Liên Bang vào tháng 9/2013 và trở thành vị Thủ Tướng thứ 28 của nước Úc, đề cử làm đại diện Bộ Quốc Phòng Úc để tham gia Đại Hội An Ninh Toàn Cầu tại Slovakia và Singapore.

Nguyễn Khoa Nam và Thủ Tướng Tony Abott 
Nguyễn Khoa Nam và Cựu Thủ Tướng Kevin Rudd 

      Vào tháng 7/2013 Khoa Nam đã nghiên cứu về mối liên hệ và giao tiếp hỗ tương của Hải Quân các nước Á Châu trước việc tranh chấp tại vùng biển Đông Nam Á nên đã được mời tham dự cuộc họp bàn về các vấn đề biển đảo của Biển Đông tại Singapore.
      Ước vọng của Khoa Nam là mong có được nhiều cơ hội nói chuyện, chia sẻ cùng các bậc phụ huynh để khuyến khích con em mình chọn con đường binh nghiệp cho tương lai, nếu đó là điều các em mơ ước, và có dịp khuyến khích các bạn trẻ và các em nhỏ tham gia dấn thân phục vụ đất nước và cộng đồng để nâng cao tinh thần yêu nước, làm rạng danh Con Rồng Cháu Tiên.
      Vì sự mến mộ và cảm phục đối với Khoa Nam, một vị Trung Uý Hải Quân 22 tuổi, nên Học viện Hàng Hải Anh Quốc Britannia Royal Navy College Dartmouth đã gởi lời mời Khoa Nam tham dự buổi lễ tốt nghiệp vào 20/12/2013 này. Đây là một niềm vinh dự vô cùng lớn lao cho Khoa Nam, gia đình và cộng đồng Người Việt hải ngoại.

Britannia Royal Navy College Dartmouth 
      Khi được hỏi những yếu tố nào đã giúp Khoa Nam chọn con đường binh nghiệp và nguyên nhân nào đã giúp em đạt được thành qủa này, Khoa Nam cho biết ngoài cha mẹ và em gái mình, một trong những điều đã có ảnh hưởng lớn đến sự chọn lựa và nỗ lưc giúp em cố gắng trong 4 năm qua, còn có những yếu tố quan trọng không kém đó là sự tham gia các sinh hoạt cộng đồng, tôn giáo, hướng đạo, thiếu nhi, và học tiếng Việt.
      Qua những công việc này, Khoa Nam học được cách phục vụ, dấn thân từ các linh mục tu sĩ, các ông bà chú bác, những người luôn đóng góp vào những mục tiêu cao cả hơn bản thân, và nhờ đó Khoa Nam có được động lực giúp mình chọn con đường phục vụ có ý nghĩa cho một công cuộc chung. 
      Tương lai Khoa Nam sẽ phục vụ trên những tầu chiến tại vùng biển Úc Á. 

  
Nguyễn Khoa Nam cùng gia đình và Bà Toàn Quyền Quentin Bryce 


Melbourne 19/12/2013
Lê Quan Vinh sưu tầm