Nhạc: Nguyễn Văn Thơ
tiêu đề Nhãn
- BIÊN KHẢO
- CÂU ĐỐI
- CỔ THI
- GIA CHÁNH
- GIẢI TRÍ
- HÌNH ẢNH HỘI NGỘ
- HÌNH ẢNH NAY
- HÌNH ẢNH XƯA
- HỘI HỌA
- KHOA HỌC
- LƯU NIỆM
- LỊCH SỬ
- LỜI HAY Ý ĐẸP
- NHẠC
- SƯU TẦM
- SỨC KHOẺ
- THƠ
- THƠ CẢM TÁC
- THƠ DIỄN NGÂM
- THƠ DỊCH
- THƠ NHẠC
- THƠ PHỔ NHẠC
- THƠ SƯU TẦM
- THƠ TRANH
- THƠ TRANH NGHỆ SĨ
- TIN BUỒN
- TIN VUI
- VĂN
- VŨ HỐI THƯ HỌA
- VƯỜN THƠ VIÊN NGOẠI
- XƯỚNG HỌA
- YOUTUBE
Thứ Ba, 25 tháng 3, 2025
Vắng Xa

Thuận:
Sân vắng cảnh buồn mãi thế thôi
Khói loang chiều lạnh phố xa rồi
Gần hoa bướm đợi mùa xanh lá
Cận ngõ em sầu mộng đắng môi
Thân xác mỏi mòn đêm ngả bóng
Gió trăng hờ hững tối nghiêng đồi
Vần xoay cuộc thế , tình thay đổi
Ngân vọng tiếng đàn điệu nổi trôi ...
Nghịch:
Trôi nổi điệu đàn tiếng vọng ngân
Đổi thay tình thế , cuộc xoay vần
Đồi nghiêng tối hững hờ trăng gió
Bóng ngả đêm mòn mỏi xác thân
Môi đắng mộng sầu em ngõ cận
Lá xanh mùa đợi bướm hoa gần
Rồi xa phố lạnh chiều loang khói
Thôi thế mãi buồn cảnh vắng sân ./.
LCT
18/O3/2O25
Hoàng Hạc Cám Cảnh
Bể dâu có phải cơ trời
Lầu hoang vắng ngắt cả đời vẩn vơMong chi hoàng hạc mà chờ
Đành thôi mây trắng lững lờ trôi trôi
Xót thương phần số dập vùi
Lấy ai san sẻ ngùi ngùi tương thân
Trái ngang âu chỉ một lần
Thân dòn phận mỏng đến ngần ấy sao
Kim Phượng
***
Cảm Tác:
Tính chi đến chuyện cơ trời
Lầu cao chi phải cuộc đời vẩn vơ
Còn đâu hoàng hạc Em chờ?
Mong chi hoa gấm lập lờ mãi trôi!
Đừng lo thân phận dâp vùi
Trên đời lắm kẻ ngậm ngùi đỡ thân
Mới vừa vấp ngã một lần
Cam tâm bỏ cuộc đến ngần ấy sao?
Hàn Thiên Lương
Thành Ngữ Điển Tích: Va, Vặc, Vách, Ván, Vàng
Thành môn thất hỏa...
VẠ LÂY CHÁY THÀNH là thành ngữ có xuất xứ nói lên sự liên can lý thú như sau :
* Theo〈Hịch Lương Văn 檄梁文〉cua Đỗ Bậc 杜弼 đời Bắc Tề ghi chép :「Sở quốc vong viên, họa diên lâm mộc; Thành môn thất hỏa, ương cập trì ngư 楚國亡猿,禍延林木;城門失火,殃及池魚。」Có nghĩa : "Nước Sở mất vượn, Tai họa đến rừng cây gần đó; Cửa thành bị cháy, Tai ương đến cá ở trong ao cạnh thành" Tại sao ?! Vì vượn sống trong rừng cây, nên mất vượn thì nghi là vượn đã trốn vào rừng cây, bèn ra lệnh đốn hết rừng cây để tìm vượn. Còn cửa thành bị cháy thì phải lấy nước ở các ao gần đó để chửa cháy, nước bị lấy hết thì cá trong ao sẽ... chết. Rừng cây bị đốn vì mất vượn; Cá bị chết vì hết nước do cửa thành bị cháy... đều là những tai họa mà trước đó không ai lường trước được cả ! Trong văn học gọi là bị "Họa Lây". Giới bình dân thì gọi là bị "họa lan can", bị "văng miểng"...
Trong Thiên Nam Ngữ Lục 天南語錄, tác phẩm thơ Nôm dài nhất Lịch sử theo thể lục bát của thời Hậu Lê, đoạn nói về Trai Sò Tương Tranh có câu :
LỬA THÀNH AO CÁ đẩy xô,
Nếu trai mà mắc thì cò không ăn.
Còn trong truyện thơ Nôm "Trê Cóc" thì gọi là VẠ LÂY CHÁY THÀNH :
Đèn trời soi xét gian ngay,
Lẽ đâu ao cá VẠ LÂY CHÁY THÀNH!
VẠC CẢ: là cái ĐĨNH lớn. Vào đời thượng cổ Trung Hoa, tương truyền vua Vũ nhà Hạ chia thiên hạ làm chín Châu (Cửu Châu). Đó là : Dương Châu 揚州, Kinh Châu 荆州, Lương Châu 梁州, Từ Châu 徐州, Dự Châu 豫州, Ung Châu 雍州, Thanh Châu 青州, Đoái Châu 兖州 và Ký Châu 冀州. Rồi ra lệnh cho các Châu phải nộp đồng xanh để đúc thành chín cái đĩnh lớn (Cửu Đĩnh 九鼎) tượng trưng cho chín Châu; trên các đĩnh có khắc núi sông, sản vật, dân cư và số thuế mà các Châu phải cống nạp, để tượng trưng cho uy quyền của thiên tử. Ở nước ta, vua Minh Mệnh lúc hùng mạnh nhất cũng cho đúc chín cái Đĩnh lớn để ở triều đình Huế.
Trong tác phẩm thơ Nôm khuyết danh Lâm Tuyền Kỳ Ngộ (Bạch Viên Tôn Các) gọi là CHÍN VẠC để chỉ ngôi vua và uy quyền cũng như cơ nghiệp của nhà vua :
Giữa trời chúa thánh nối ngôi càn,
CHÍN VẠC xây nền vững thái bàn.
Còn trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái thì gọi là VẠC CẢ :
Thế mà VẠC CẢ duy-trì ,
Bởi tiên-liệt-thánh Nam-Kỳ Nối ngôi.
VẠC MAI: VẠC là cái Chảo lớn; MAI là trái MƠ, miền Nam gọi là trái ME. Nên VẠC MAI là Cái chảo lớn để nấu canh chua. Theo sách Thượng Thư quyển mười《尚書》卷十〈Thương Thư . Thuyết mệnh hạ 商書·說命下〉: Vua Cao Tông Võ Đinh đời nhà Thương 商高宗武丁 nói về Tể Tướng Phó Duyệt 傅說(1335-1246 trước Công Nguyên) :"Nếu nấu canh chua thì ngươi là người biết điều phối giữa muối và me cho canh được ngon hơn". Ý nói : Phó Duyệt biết điều hòa chính sự, khiến cho mọi việc được tốt lành hơn. Quả nhiên, Phó Duyệt đã giúp vua Thương an bang trị quốc, tạo nên thời huy hoàng thịnh thế mà sử gọi là thời kỳ “Võ Đinh Trung Hưng 武丁中興”.
Cho nên VẠC MAI dùng để chỉ quan Tể Tướng có tài. Trong truyện thơ Nôm "Mai Đình Mộng Ký 梅亭夢記" của Nguyễn Huy Hổ 阮輝琥 có câu :
Đền Thương cùng nếm VẠC MAI,
Cũng trong Y Phó, cũng ngoài Tôn Ngô.
Tích Phó Duyệt và Mai Đình Mộng Ký
VÁCH QUẾ : Theo sách Hán Thư 漢書 và Nam Bộ Yên Hoa Ký 南部烟花記 thì Hán Vũ Đế và Trần Hậu Chúa trong cung đều có trồng rất nhiều cây quế, cho nên mới gọi các phòng trong cung vua là CUNG QUẾ. VÁCH QUẾ chỉ là nói trại đi của CUNG QUẾ mà thôi. Cũng như vách trong các phòng của cung nhân ở đều được trát hồ tiêu để chống rét, nên phòng của các cung nhân ở cũng được gọi là TIÊU PHÒNG.
Mở đầu Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã sử dụng hết hai từ nêu trên để chỉ chỗ ở của các nàng cung phi:
Trải VÁCH QUẾ gió vàng hiu hắt,
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng;
Oán chi những khách TIÊU PHÒNG,
Mà xui phận bạc nằm trong má đào!
VÁN ĐÃ ĐÓNG THUYỀN có xuất xứ từ thành ngữ MỘC DĨ THÀNH CHU 木已成舟 là câu nói của tác giả Lý Nhữ Trân đời Thanh trong truyện "Kính Hoa Duyên" hồi thứ 34 清·李汝珍《镜花缘》第三十四回:“ Như kim MỘC DĨ THÀNH CHU, dã thị Lâm huynh mệnh định như thử liễu 如今木已成舟,也是林兄命定如此了。” Có nghĩa : "Như nay VÁN ĐÃ ĐÓNG THUYỀN, cũng là mệnh số của Lâm huynh đã định như thế nầy rồi !". Ý chỉ, chuyện đã rồi, không còn hy vọng hay thay đổi gì được nữa cả !
Trong Truyện Kiều, khi chàng Kim trở lại vườn Thúy tìm Kiều, Vương Viên Ngoại cho biết nàng đã bán mình chuộc cha và đã theo Mã Giám Sinh đi rồi, không còn vãn hồi gì được nữa cả :
Bây giờ VÁN ĐÃ ĐÓNG THUYỀN,
Đã đành phận bạc khôn đền tình chung !...
VÀNG ĐÁ chữ Nho gọi là KIM THẠCH 金石 : Kim là kim loại rắn chắc không đổi màu; thạch là đá, cứng ngắt và bền vững. Nên Kim Thạch Chi Giao 金石之交 là sự giao tình bền vững và rắn chắc như vàng như đá vậy. Tương tự ta có thành ngữ Kim Thạch Chi Ngôn 金石之言 : là lời nói hoặc lời hứa chắc chắn như vàng như đá không hề thay đổi. Ta nói là "Những lời VÀNG ĐÁ hoặc ĐÁ VÀNG", là những lời nói lời hứa ” Chắc như đá, vững như vàng”, của trai gái dùng để hứa hẹn thề thốt khi yêu nhau, như khi Kim Trọng tỏ tình trong cảnh “Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng” thì Thúy Kiều cũng nhận lời bằng câu đổ thừa rằng :
Đã lòng quân tử đa mang,
Một lời vâng tạc ĐÁ VÀNG thủy chung !
Lần đầu tiên gặp nhau để thề nguyện hẹn ước, Thúy Kiều lo cho thân mình "...phận mỏng cánh chuồn, khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?" Chàng Kim đã an ủi và đoan chắc với người yêu là :
Ví dù giải kết đến điều,
Thì đem VÀNG ĐÁ mà liều với thân !
Quả là tấm chân tình của hai kẻ yêu nhau. Đến khi gặp Thúc Sinh thì chàng Thúc cũng mê Thúy Kiều đến liều mạng mà hứa hẹn một cách lớn lối rằng :
Đường xa chớ ngại Ngô Lào;
Muôn điều xin hãy trông vào một ta.
Đã gần chi có đường xa,
ĐÁ VÀNG cũng quyết, phong ba cũng liều.”
Khi trở lại vườn Thúy tìm Kiều không gặp, Kim Trọng cũng đã rất đau khổ mà bày tỏ lòng mình với Vương Viên Ngọai:
Rằng: Tôi trót quá chân ra,
Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo.
Cùng nhau thề thốt đã nhiều,
Những điều VÀNG ĐÁ phải điều nói không !?...
Trong truyện thơ Nôm "Hoa Tiên Truyện" của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện cũng có câu :
Duyên này chẳng được bàn dai,
Nhẹ đem VÀNG ĐÁ mà coi làm thường!
Hẹn bài viết tới!
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Thứ Hai, 24 tháng 3, 2025
Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên - Sáng Tác; Nguyễn Đình Toàn - Trình Bày: Mã Thị Lợi / TS3 / TX
Trình Bày: Mã Thị Lợi / TS3 / TX
Tình Bầu Chung Đôi

( Ảnh: Tác Giả gửi)
Gởi tặng những mối tình chung thủy bên nhau...
Tình bầu từ thuở ban sơ
Đơm bông kết trái tóc tơ thề nguyền
Ông Tơ Bà Nguyệt trao duyên
Giàn bầu rợp mát vững bền đôi ta
Dù cho nắng đổ mưa sa
Dù bao gian khó đôi ta chẳng lìa
Mâm cơm dưa mắm quả cà
Bao năm nồi cháo cho qua tháng ngày
Tình bầu nặng trĩu chung tay
Hạt cơm bát nước vui vầy nghĩa ân
Bên nhau đạm bạc thanh bần
Lá xanh bông trắng phong vân nặng tình
Dù bao gian khó đôi ta chẳng lìa
Mâm cơm dưa mắm quả cà
Bao năm nồi cháo cho qua tháng ngày
Tình bầu nặng trĩu chung tay
Hạt cơm bát nước vui vầy nghĩa ân
Bên nhau đạm bạc thanh bần
Lá xanh bông trắng phong vân nặng tình
Gần nhau như bóng với hình
Mây trôi làn gió thuyền tình vầng trăng
Dẫu cho mõi bước phong trần
Giây bầu kết nối tựa gần bên nhau
Tình ta điểm bạc mái đầu
Vui màu xanh lá đôi bầu liền dây
Ngư Sĩ
Mây trôi làn gió thuyền tình vầng trăng
Dẫu cho mõi bước phong trần
Giây bầu kết nối tựa gần bên nhau
Tình ta điểm bạc mái đầu
Vui màu xanh lá đôi bầu liền dây
Ngư Sĩ
Người Qua Đời Tôi - Tình Cờ Tao Ngộ!

Người Qua Đời Tôi
(Viết riêng cho một người)
Một người đã bước đến đời tôi
Kỷ niệm in sâu mãi chẳng rời
Tựa vị men nồng cay ánh mắt
Như hương khói ấm thấm làn môi
Em làm dạ ngẩn trong xao xuyến
Ta khiến lòng say giữa tuyệt vời
Hạnh phúc đang chìm trong lạc cảnh
Thì tình vội cách. . . nát tim côi
Song Quang
20250321
***
Ga Cuối Vắng Người
Hẹn chờ ga cuối, đón tàu tôi
Những chuyến đi xa, mệt rã rời
Một kẻ lữ hành mong tới bến
Đôi dòng lệ tủi chảy qua môi
Năm mươi thu trước còn ngần ngại
Nửa thập kỷ nay vẫn vẽ vời
Chẳng lẽ người quên , sân vắng khách
Thôi rồi trạm chót, bước đơn côi …
Hawthorne 22 - 3 - 2025
Cao Mỵ Nhân
***
Cảm Tác:
Tình Cờ Tao Ngộ!
(Bài Hát Nói cảm hứng từ bài Đường Thi của Thi Sĩ Song Quang mang tựa đề “Người Qua Đời Tôi”.
Kính mời Quý Thi Hữu họa lại bài Hát Nói này.)
Tất cả đều là Duyên! Tình cờ tao ngộ!
“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ! Vô duyên đối diện bất tương phùng”!
Ôi! Sao mà chí lý, hay ho! Đi đối diện hàng triệu người! Mà không hề “nhớ nhung”!
Nhưng chỉ gặp ai một lần! Rồi trùng trùng muôn năm thương nhớ!
Người qua! Bước dẫm tràn! Sao nỡ?
Bóng đến! Bay vào tận! Có hay?
Bước qua đời nhau! Niềm đau day dứt, bào bọt, sầu hận, mê say!
Va chạm đời nhau! Tình sâu, nghĩa nặng, hợp tan, ngất ngây, tiếc nuối!
“Người đâu gặp gỡ làm chi? Trăm năm biết có duyên gì hay không?” Niệm Khúc Cuối!
“Tình yêu như nắng! Nắng đưa em về bên dòng suối mơ!” Hiện thành thơ!
Cho Em khúc khích lưng cơ!
Cho Em bóp nát Tình Hờ gió lay!
Cho Em đẹp mãi vàng bay!
Cho Em phụ rẫy lòng này xót xa!
Xin đừng mai một, phôi pha!
Đức Hùng
Sydney, Úc Châu, 23/03/2025
24 Tháng Hai (Thiếu) Âm Lịch Năm Ất Tỵ, Ngày Tân Mão. Hành Mộc, Trực Kiến, Sao Mão. Cát Thần: Lục Nghi, Phúc Sinh, Minh Đường.
Tướng Tinh Con Mèo
Là “Cô” cọp dữ! Dáng khoan thai!
Thân thiết, “meo meo” dạo gót hài!
Bắt chuột, trông nhà, luôn tận tụy!
Linh Miêu hiển hiện tiếng danh tài!
Đức Hùng
Sydney, Úc Châu, 23/03/2025
Mộng Giang Nam Kỳ 1 夢江南其一 - Ôn Đình Quân(Vãn Đường)
(Từ)
Ôn Đình Quân (溫庭筠, 812-870), vốn tên Kỳ (岐), tự Phi Khanh (飛卿); là nhà thơ, và là nhà làm từ Trung Quốc thời Vãn Đường.
Ôn Đình Quân là người đất Kỳ, phủ Thái Nguyên (nay là huyện Kỳ, tỉnh Sơn Tây), là cháu nội của Ôn Ngạn Bác, tể tướng triều Đường Cao Tông.
Ông thông minh, giỏi văn thơ, âm nhạc; nhưng dung mạo xấu xí và có tính phóng đãng. Ông “thường cùng bọn con em vô lại các nhà quý tộc ra vào nơi ca lâu, rượu chè, bài bạc, say đắm nữ sắc, vì thế bị các sĩ đại phu đương thời khinh rẻ, suốt đời không đỗ được tiến sĩ”.
Có một thời, ông hay lui tới nhà quan tướng quốc Lệnh Hồ Đào (con Lệnh Hồ Sở), nhưng sau vì việc riêng, Hồ Đào đâm ra ghét ông.
Đến khi người ông quen là Từ Thương đi trấn giữ Tương Dương, ông được theo làm tuần quan, nhưng rồi vì bất đắc chí, ông xin thôi chức để sống đời phiêu lãng.
Mãi đến khi tuổi đã cao, đời vua Đường Tuyên Tông, ông mới nhận làm chức úy ở Phương Thành, rồi đổi sang huyện Tùy. Năm 866, ông được cử làm chủ thí, cuối cùng Quốc tử trợ giáo. Sau, ông lại bỏ chức, từ giã kinh thành Trường An, đi lưu lạc giang hồ cho đến khi mất.
Trước đây, người ta thường coi Lý Thương Ẩn và Ôn Đình Quân là hai nhà thơ cùng một phái, và gọi là “Ôn Lý”. Song, theo các nhà nghiên cứu văn học gần đây, thì gọi như thế có phần không chính xác, vì phong cách nghệ thuật của hai ông rất khác nhau. Về thành tựu thơ ca, Ôn Đình Quân còn kém xa Lý Thương Ẩn, vì thơ ông có phần “phù phiếm, nông cạn, thiếu những tình cảm chân thành”; nhưng nói về từ thì ông có nhiều bài rất đặc sắc. Từ của Ôn Đình Quân hiện còn hơn 70 bài trong Kim thuyên tập, nội dung hầu như đều viết về phụ nữ, về những mối sầu tương tư; và lấy màu sắc nồng đượm, lời lẽ hoa mỹ, tạo thành phong cách “thơm tho mềm mại, tràn ngập hương vị son phấn” của riêng ông. Phong cách này có ảnh hưởng đến các nhà làm từ đời sau, hình thành “Phái trong hoa” (Hoa gian phái) mà ông được tôn vinh là người đứng đầu.
Cho nên khi nói về từ đời Đường, học giả Nguyễn Hiến Lê cũng đã có lời khen ngợi từ của ông như sau:
Từ Ôn Đình Quân rất diễm lệ, lại sáng tác được nhiều điệu mới, ảnh hưởng đến đời sau rất nhiều. Ông đứng đầu trong nhóm từ gia có tác phẩm chép trong bộ “Hoa gian tập”. Ông chiếm một địa vị đặc biệt ở giữa cái thời thơ suy mà từ thịnh.
Tác phẩm của ông có Hán Nam chân cảo và Ác Lan tập, song đều tán lạc không còn nhiều.
(Trích trong Thi Viện)
Nguyên tác Dịch âm
夢江南其一 Mộng Giang Nam kỳ 1
千萬恨 Thiên vạn hận,
恨極在天涯 Hận cực tại thiên nhai.
山月不知心裡事 Sơn nguyệt bất tri tâm lý sự,
水風空落眼前花 Thuỷ phong không lạc nhãn tiền hoa.
搖曳碧雲斜 Dao duệ bích vân tà.
Chú giải
空 không: hư không; hư ảo, trống rỗng, (từ của nhà Phật)
水風空 thủy phong không: nước và gió hư ảo, trống rỗng
搖曳 dao duệ: lôi, kéo, dắt đi xa.
Dịch từ
Mộng Giang Nam kỳ 1
Ngàn vạn hận,
Hận thấu tận chân trời.
Trăng núi biết gì tâm lý nhỉ,
Nước mây hư ảo trước hoa rơi.
Mây xanh trôi lả lơi.
Lời bàn
Bài từ theo điệu Mộng Giang Nam kỳ 1. Đây là kỳ 1 trong một cụm hai bài từ tả tâm trạng của một kẻ thất tình ngóng người yêu biệt tăm. Bài có 5 câu; ngôn từ lãng mạn và ai oán.
Hai câu đầu nói mình có hàng ngàn nỗi hận tình sâu đậm; trọng tâm của bài từ nằm trong 3 câu cuối nói rằng trăng, núi, nước, gió là những vật vô tri, không biết gì về tâm lý con người, nhìn hoa rơi mà lòng trống rỗng!
Con Cò
***
Mộng Giang Nam.
Ngàn vạn oán,
Oán giận tới chân trời.
Trăng núi chẳng hay trong dạ nát,
Gió mưa nào thấu trước hoa rơi.
Mây biếc mãi xa vời.
Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Mar. 8/2025.
***
Mộng Giang Nam
Đu thương đếm đến vạn lần
Buồn phiền áo não tràn lan chân trời
Trăng sáng núi non cao vời
Gió mưa hư ảo để rơi hoa tàn
Mây xanh hờ hững trên ngàn
Nào đâu thấu hiểu mênh mang nỗi sầu
Thanh Vân
***
Nhớ Giang Nam
Ngàn thống khổ
Khổ vút ngút trời cao
Trăng núi nào hay lòng oán hận
Gió sông áo não lá hoa xao
Mây biếc nổi, trời chao
Kiều Mộng Hà
March.10.2025
***
Mộng Giang Nam kỳ 1
Muôn Vạn Hận
Hận thấu tận chân trời
Trăng núi chẳng biết gì tâm lý
Gió mưa mờ hoa rụng nhãn tiền
Đung đưa mây biếc nghiêng!
Muôn vạn hận thấu chân trời
Núi trăng nào biết lòng người ra sao
Gió mưa hoa rụng mắt sầu
Mây xanh lay động trời cao, ráng chiều
Lộc Bắc
***
Góp Ý Cho Bài Mộng Giang Nam Kỳ 1, Kỳ 1 Của Ôn Đình Quân.
Bài từ này ngắn, BS rất thích. Theo ý BS, cái tựa là tên một điệu từ, điệu ỨC GIANG NAM thì có lẽ hợp lý hơn.
Lại một bài rất lãng mạn: thiếu phụ thương nhớ người yêu xa tận ven trời, các vật vô tri như trăng và núi đâu hiểu được lòng nàng. Gió mưa chẳng rụng được mấy bông hoa trước mắt, chỉ lay động đám mây biếc bay la đà, ( thiếp vẫn còn đây, nhưng lòng vô cùng dao động, tựa đám mây bị cuốn bay đi ).
*Cực : Cái xà nhà. Ngôi vua ( đăng cực ). Xa xôi. Đầu địa cầu ( nam cực).
Ở đây là hết, đến, tận, như cực đoan, cực mục…
*Không : trống không, không có gì, hết sạch, uổng công. Không ngôn là lời nói xuông, nói hão. Chữ nhà Phật.
*Chữ đầu câu chót, viết với bộ thủ, Thi Viện, anh Tâm phiên âm là DAO, theo Nguyễn Tôn Nhan, đó là chữ DIÊU, là lay động, lắc lư, không an ổn. Diêu lạc là điêu tàn, rơi rụng.
*Duệ là kéo, dắt, mỏi mệt..
*Tà là nghiêng, lệch.
Mộng Giang Nam hay Ức Giang Nam Kỳ 1
Theo điệu từ:
Ngàn Vạn Hận
Hận đến tận ven trời,
Trăng núi biết đâu lòng khổ não,
Nước gió nào rơi mấy cánh hoa,
Lay mây biếc la đà…
Theo lục bát:
Vạn ngàn mối hận chơi vơi,
Hận kia tới tận ven trời chửa xong,
Núi trăng nào hiểu nỗi lòng,
Gió mưa chẳng rụng mấy bông trước nhà,
Chỉ lay mây biếc la đà…
Bát Sách.
(Ngày 10/03/2025)
***
Mộng Giang Nam Kỳ 1 - Ôn Đình Quân
夢江南其一 - 溫庭筠
Bài từ này có tựa nguyên thủy là Mộng Giang Nam 夢江南 đăng trong sách thời Đường. Các sách thời Minh Thanh đổi tựa là Ức Giang Nam 憶江南, nên chỉ có từ phổ dưới tựa này. Điển hình là bài Ức Giang Nam của Bạch Cư Dị. Bài có 27 chữ, 5 câu, ngắn dài khác nhau, câu 2, 4 và 5 vần bằng, có mộc bản trong các sách:
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁
Hoa Thảo ? Biên - Minh - Trần Diệu Văn 花草稡編-明-陳耀文
Hoa Gian Tập - Đường -( Hậu Thục ) Triệu Sùng Tộ 花間集-唐-(後蜀)趙崇祚
Dịch nghĩa:
Ức Giang Nam Nhớ Giang Nam
Thiên vạn hận Ngàn vạn điều buồn phiền
Hận cực tại thiên nhai Điều phiền muộn nhất đang ở chân trời
Sơn nguyệt bất tri tâm lý sự Trăng sáng trên núi không thấu rõ lòng ta
Thủy phong không lạc nhãn tiền hoa Mưa gió hư ảo làm lá rơi trước mắt
Dao duệ bích vân tà Những đám mây xanh đung đưa trên bầu trời.
Người phụ nữ cô đơn dưới ánh trăng, đau khổ nhớ người yêu đang ở tận chân trời. Trong trăm ngàn điều phiền muộn, điều buồn nhất là người ở phương xa không trở về. Trăng trên núi không hiểu lòng nàng. Mưa gió làm hoa rơi rụng trước mắt nàng. Mây xanh cứ đung đưa trên bầu trời, không biết về nỗi buồn của nàng. Điều làm nàng buồn phiền hơn nữa là thiên nhiên hờ hững không quan tâm đến lo lắng ưu tư của nàng.
Phí Minh Tâm
***
Ý kiến về:
Dung nhan Ôn Đình Quân.
Các hình Ôn Đình Quân thường thấy trên internet vẽ một người thanh tao, đẹp trai, hay trang nghiêm. Các trang Wikipedia tiếng Việt, Anh, Pháp không nói đến nhưng trang 温庭筠 - zh.Wikipedia bảo rằng người đồng thời gọi thi nhân thường lui tới chốn bình khang này là Ôn Chung Quỳ vì tướng tá xấu xí:
由於形貌奇醜 ,因號“溫鍾馗”。do ư hình mạo kì xú, nhân hào “Ôn Chung Quỳ”。
và dẫn chứng bằng những gì Tôn Quang Hiến (孫光憲), văn nhân tk 10 thời Ngũ Hồ-Thập Quốc, viết trong cuốn Bắc Mộng Tỏa Ngôn (北夢瑣言) mà người thời sau hay dùng để bổ túc sử liệu thời NHTQ và Tống. Theo huyền thoại, Chung Quỳ là người đồng thời với (tiên) Lữ Đồng Tân, đỗ trạng nguyên thời Đường Cao Tổ nhưng bị … truất bằng vì tướng tá xấu xí; Chung Quỳ đập đầu vào đá tự tử và được Diêm Vương cho làm Trảm Quỷ điều khiển 80 ngàn âm binh để … diệt quỷ. Điểm tương đồng giữa huyền thoại và sử liệu là chuyện lận đận thi cử vì thái độ, quan điểm của người cầm quyền. Dĩ nhiên các hư cấu về Chung Quỳ chỉ là huyền thoại nhưng hình như rằng các tranh vẽ Ôn Đình Quân cũng chỉ là … sản phẩm tưởng tượng.
Viết thêm:
Hì hì ... Tôi nghĩ rằng cái tên Ôn Chung Quỳ đó có thể đến từ một hư cấu do Tôn Quang Hiến sáng tác, sau khi đọc huyền thoại về Chung Quỳ.
Hội Ngộ Tân Niên Bỏ Túi YKH Hải Ngoại
Phan Chánh Đức, Nguyễn Chi, Võ Đại Lợi, Nguyễn Ngọc Thạch, Hồ Đăng Thuận, Vĩnh Chánh.
Thật là may mắn cho tôi gặp Bs. Phùng Anh Thư, con gái của Thầy Cô Phùng Hữu Chí trong tiệc mừng Tân Niên của Tổ Hợp Y Tế UCMG do Bs. Võ Văn Cầu làm chủ tịch, vào tháng 2, 2025 tại khách sạng Hilton, Costa Mesa. Tôi cho Bs. Anh Thư biết là Hội YKH chúng ta rất tiếc bị mất liên lạc với Thầy Cô trên cả mươi năm nay. Bs. Anh Thư cho biết tình trạng sức khỏe của Thầy khá ổn định dù bị ảnh hưởng phần nào sau tai biến mạch máu não từ vài năm qua, và tỏ ý vui mừng khi tôi đề nghị sẽ rủ một nhóm nhỏ anh chị em trong Hội đến thăm Thầy Cô tại nhà.
Thầy Phùng Hữu Chí (Quân Y) thuộc nhóm bác sĩ đầu tiên thi vào làm Giảng Nghiệm Viên cho ĐH YK Huế năm 1963, gồm: Nguyễn Bá Khôi (Quân Y. RIP), Trần Trọng Hà (Quân Y. Con rể của chủ tịch Thượng Nghị Viện Vũ Văn Huyền), thầy Lê Bá Vận (Bộ Y Tế/Khoa Trưởng YK Huế 1973-75), thầy Vũ Công Thưởng (Quân Y. RIP), thầy Nguyễn Khoa Mân (Bộ Y tế / tốt nghiệp Pháp. RIP), thầy Nguyễn Văn Tự (Quân Y/ Lực Lượng Đặc Biệt/ Phó Khoa Trưởng YK Huế, 1972-75) – dưới sự khảo sát của một ban giám khảo, với chánh chủ khảo là GS. Agrégé Lê Tấn Vĩnh Khoa Trưởng, ĐHYKH), cùng 2 vị phó khảo về Nội Thương người Đức, là GS. Krainick và GS. Disher thuộc ĐHYK Freiburg, và 4 vị phó khảo khác về Ngoại Thương, gồm GS. Agrégé Séror (khoa trưởng ĐHYK Phnom Penh), GS. Perin (Anatomie, ĐHYK Freiburg), cùng 2 vị GS Pháp khác từ ĐHYK Saigon. Đại diện Nha Quân Y là Đại Tá Vương Quang Trường; Bs. Đinh Văn Tùng, đại diện cho Bộ Y tế VNCH, giữ chức Tổng thư Ký của ban Giám Khảo. Năm 1964, thầy Phùng Hữu Chí du học 3 năm về chuyên khoa GI tại ĐHYK Wursburg, Tây Đức, cùng một thời gian với thầy Võ Đăng Đài du học ở Freiburg. Về lại nước, thầy Phùng Hữu Chí dạy chúng tôi năm thứ Ba và thứ Tư về các môn Triệu Chứng Học và môn Nội Thương về Tiêu Hóa. Thầy luôn giữ một thái độ hiền hòa, khiêm nhượng và giảng bài hầu như không cầm tài liệu trong tay. Giọng nói của Thầy mang âm hưởng ngọt ngào của xứ dừa Miền Nam.
Đầu tháng 3, Bs. Nguyễn Ngọc Thạch, tuy là đàn em lớp 12, nhưng thuộc loại “tài không đợi tuổi”, cho tôi biết anh sẽ ghé Nam Cali vài ngày trong giữa tháng 3, và nhờ tôi đứng ra tổ chức giùm anh một cuộc gặp gở thân mật với một số ACE YKH. Tôi nhận lời ngay, thầm nghĩ đây là cơ hội tốt để chúng tôi mời luôn Thầy Cô Phùng Hữu Chí đến cho các trò cũ gặp lại Thầy. Cá nhân tôi cũng không gặp mặt anh Thạch cả mươi năm qua, kể từ khi song thân của anh mất tại Irvine, CA. Khi anh vượt biển rồi định cư tại Mỹ, anh cũng phải trải qua những giai đoạn khó khăn đầu tiên như bao bs khác muốn trở lại hành nghề YK, nhưng anh may mắn vào được chuyên môn Cardiology, rồi theo thời gian anh là một fellow của American College of Cardiology (ACC), đồng thời là một thành viên của Hội Đồng American Heart Association và của Society for Cardiovascular Angiography and Intervention (SCAI). Bs. Thạch còn là giám đốc viện nghiên cứu Tim Mạch tại BV Methodist ở Merrillville, Indiana. Anh Thạch từng mở rộng cửa nhà mình, đón tiếp, chỉ dẫn, dạy ôn bài thi cho một số không nhỏ các em tốt nghiệp YK về sau tại VN, và giúp các em vào thực tập tại BV Merriville để có thêm kinh nghiệm khi matching cũng như viết giấy giới thiệu, tạo thêm điều kiện cho các em thành công xin vào các chương trình residency. Rất đáng ngưỡng mộ.
Rồi ngày Hội Ngộ Tân Niên bỏ túi YKH cũng đến, vào trưa Chủ Nhật, ngày 16 tháng 3, tại nhà hàng Ngọc Sương. Thời tiết ấm áp với mặt trời trong sáng. Các học trò hân hoan đón chào thầy Phùng Hữu Chí từ ngoài cửa. Đi với Thầy là con gái Thầy, Bs. Phùng Anh Thư, chuyên khoa Nhi Đồng, và chồng là Bs. Trần Đình Nam, chuyên khoa Tim. Tuy Thầy phải di chuyển với walker, nhưng Thầy vẫn còn giọng nói dễ mến như ngày nào và trí nhớ vẫn tốt đẹp. Bên trong, phòng tiệc riêng tư, rộng cho 36 người tham dự, không khí thân mật và ấm cúng, có phần ồn ào nữa là đằng khác vì các trò thay phiên nhau đến cạnh Thầy hỏi chuyện. Chúng tôi được biết Cô không đến được vì bận đi chùa. Đầu đàn các trò YKH hôm nay là anh chị Đoàn Yến, thuộc khóa bô lão, dù anh trông chẳng bô lão chút nào- nên xin dùng chữ Beau Lão- Handsome old gentleman- kế đến có 3 bạn khóa 7 là các anh Võ Văn Phác, Bùi Thạch Thuần và Vĩnh Chánh. Rồi anh Võ Đại Lợi, khóa 8. Nhiều nhất là các bạn khóa 9, khóa 10, 13, 14 và trở về sau, gồm: Nguyễn Chi, Lê Cảnh Luận, Bửu Phụng, Phan Chánh Đức (cùng khóa với anh Nguyễn Ngọc Thach), Bảo Tiên, Hồ Đăng Thuận, Vĩnh Quý, Võ Lâm Quang, Hồ Văn Bảo, Phan Cảnh Hưng, và Dương Tấn Khánh, người đồng môn trẻ tuổi nhất (tốt nghiệp thủ khoa YKH khóa 42 vào năm 2012. Với sự hướng dẫn của anh Nguyễn Ngọc Thạch, em Khánh đã nhanh chóng xong chương trình Internal Medicine của Methodist Hospital, Dallas sau khi qua Mỹ năm 2015, và hiện tại đang hành nghề tại Nam CA từ 5 năm qua). Người đồng môn đến xa nhất trong TB Cali là anh chị Hồ Văn Bảo, từ San Diego. Người đồng môn đến từ nơi xa nhất ngoài nước Mỹ là anh chị Diệc Kiến Quân, Montreal, Canada (TB 51??!! không răng mô, hí!).
Bs. Trần Đình Nam (con rể thầy Phùng Hữu Chí), Bs. Nguyễn Ngọc Thạch và vợ chồng Bs. Dương Tấn Khánh.
Trong phần giới thiệu thầy Phùng Hữu Chí vì có nhiều đồng môn hiện diện chưa biết về Thầy, nhất là với các em tốt nghiệp YKH sau 1975, tôi kể câu chuyện làm hồ sơ bệnh án khi đi thực tập Nội Thương với Thầy tại BV, tôi sót hỏi tiền căn gia đình của bệnh nhân, nên bị Thầy khiển trách nặng. Nhờ vậy mà tôi nhớ đời, nên về sau khi làm History & Physical Exam, tôi luôn nhớ hỏi về tiền căn gia đình của bệnh nhân - cho dù có nhiều khi vẫn phải viết hay dictate: family Hx non contributory. Ngoài tôi còn có anh Đoàn Yến, anh Võ văn Phác, anh Võ Đại Lợi, cũng có lên tiếng. Thầy nghe, hiểu hết và trả lời với tiếng nói hơi yếu, nên có thể nhiều bạn ngồi bàn xa không nghe được rỏ. Tôi cũng cho Thầy biết là Thầy Cô Võ Đăng Đài không đến hội ngộ với Thầy được vì thầy Đài dạo này không mấy khỏe.
Thầy Phùng Hữu Chí và Bs. Trần Đình Nam, con rể của Thấy
Kế đến, anh Nguyễn Ngọc Thạch “bị” tôi mời ra trình bày nghiên cứu mới nhất của anh trong cuốn Practical Handbook of Advanced Interventional Cardiology (có in bằng 3 thứ tiếng: Anh, Nga và Quan Thoại) là: Water Hammer Shock in Coronary Arteries: An Acoustic Analysis + Detecting and Capturing the Images of Pressure Wave Retrograde Propagation due to Water Hammer Shock in Coronary Arteries – cả hai đề tài này đã được anh Thạch trình bày trước đây tại Hội Nghị APS (American Physics Society) ngày 21 tháng 2, 2025 tại ĐH Lewis, Illinois, và tại hội nghị Global Physics Summit / APS, ở Anaheim Hilton, chỉ vài giờ trước khi đến dự Tiệc Hội Ngộ Tân Niên Bỏ Túi của YKH Hải Ngoại. Chuyện lạ vì sao nghiên cứu của anh Thạch lại liên hệ đến Vật Lý? Vì vậy mọi người có mặt thích thú lắng nghe anh Thạch trình bày ngắn gọn, dễ hiểu khi anh ví von đưa hình ảnh của hệ thống nước chảy trong nhà, rồi sau đó bạn Võ Đại Lợi cũng thêm ví dụ hình ảnh giòng sông chảy ngang qua những nơi bị kẹt nhỏ…
Nhờ có 2 tấm hình tôi in sẳn trước đưa cho các đồng môn vừa xem vừa nghe anh Thạch nói, nên mọi người tỏ vẻ ít nhiều hiểu được nguyên tắc vi sao coronary arteries bị nghẽn tại những nơi có thể đoán và biết trước được. Trong phần kết, anh Thạch cho biết quan trọng nhất trong phòng ngừa động mạch tim bị nghẽn là giữ huyết áp không cao, và nhịp tim không nhanh, nên xử dụng loại thuốc Beta Blockers là tốt nhất (dù thuốc đưa đến Erectile Dysfunstion).
Khi thức ăn đang dọn ra, tôi cho mọi người biết đây là một bửa tiệc healthy nhất vì tất cả các món ăn dứt khoát không có bột ngọt; nếu thức ăn không ngon miệng cho lắm thì xin thông cảm. Menu do bà xã tôi giúp chọn trước gồm có: Gỏi bò tái chanh, Tôm rang muối, Bò lúc lắc Salad, Phở áp chảo dòn hải sản, Đậu hủ non chiên dòn, Cá bông lau kho tộ & Cơm cháy mở hành, và cơm chiên Tôm Cua. Thức ăn thơm ngon, hơp khẩu vị của thực khách, màu sắc bắt mắt, nên tôi được khen dù người trả tiền là anh Thạch. Vui ghê!
Trước khi ra về, mọi người bước ra bên ngoài nhà hàng, chụp chung tấm hình kỷ niện, với thầy Phùng Hữu Chí đứng giữa.
Nhìn nét mặt tươi cười và ánh mắt sáng hơn so với khi mới đến, chúng tôi biết cuộc họp mắt ngắn hôm nay làm Thầy vui hơn, sưởi ấm lòng Thầy vì Thầy cảm nhận được lòng biết ơn và sư thương mến của những học trò xưa của Thầy.
Vĩnh Chánh
Ngày 19 tháng 3, 2025
Tôi bắt đẩu gỏ gỏ bài này trong khi chờ xem truyền hình về tin vui 4 phi hành gia trở lại trái đất bằng SpaceX Dragon với cảnh thâu lượm capsule hạ xuống biển của Gulf of America, mà trong đó có 2 phi hành gia Barry “Butch” Wilmore và Sunita Williams đã bị kẹt trên trạm không gian quốc tế đến 286 ngày, thay vì chỉ 8 ngày như dự định ban đầu. Ngoài ra còn có 2 phi hành gia là Nick Hague, trưởng phi hành đoàn và Alexander Gorbunow, một phi hành gia gốc Nga – điều này nói lên, dù có nhiều bất đồng ý kiến và căng thẳng về chính trị, quân sự, kinh tế… giữa 2 nước Hoa Kỳ và Nga, nhưng sự hợp tác về khoa học không gian, thám hiểm vũ trụ, vẫn được duy trì tốt đẹp và được cả 2 nước hỗ trợ lẫn nhau. Nếu có bạn nào giải thích được sự khác biệt giữa 3 danh từ Astronaut (Mỹ), Cosmonaut (Nga), và Taikonaut (TQ), và khác biệt giữa 4 danh từ Sky, Universe, Space và Cosmos, xin cho diễn đàn cùng biết nhé.
Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2025
Ngày Em Xa Phố Núi - Thơ Khiếu Long - Nhạc Võ Vĩnh Thuận - Ca Sĩ: Cao Huy Thế
Nhạc Võ Vĩnh Thuận
Ca Sĩ: Cao Huy Thế
Thực Hiện: Kim Oanh
***
(Cảm Tác từ Ngày Em Xa Phố Núi của Khiếu Long)
Thơ hay tiếng hát ngẩn ngơNgày Em Xa Phố Núi chờ mòn trông
Đồi cao ngơ ngác tiếng thông
Tiếng chim líu ríu qua lòng nhớ nhung
Xưa bầu trời biếc che chung
Giờ ngùi sương lạnh chập chùng cô đơn
Áo xưa đôi vạt dỗi hờn
Phiêu bay mãi ngát hương thơm xa vời
Phố buồn ngồi ngắm chiều rơi
Dòng sông uốn khúc hát lời tình đau
Tình xa gãy mấy nhịp cầu
Ngày Em Xa Phố Núi sầu nhớ em...
Trầm Vân
Rất hay, đẹp. Cám ơn anh Khiếu Long, nhạc sĩ, ca sĩ và toàn ban. Thân mến
Cánh Bằng Lướt Gió Em Tôi

(Lê Kim Hiệp-Pleiku 1972)
Lót đường rộn phố bước chân sang
Pleiku xoãi cánh trong màu ấm
Cánh Thép tung mây đón gió ngàn
Thấm thạch đất trời màu lấp lánh
Hòa hồn vách núi nét hiên ngang
Em đi đi mãi từ thu ấy
Lướt gió em tôi thoát nhẹ nhàng
Kim Phượng
11.8.2019
Về Chiến Trường Xưa

(Phi Trường Pleiku 1971)
Mấy mươi Hè vẫn nóng ở Cù HanhSao tim ta mãi ôm lạnh trong lòng
Phi trường đây đâu người hùng vắng bóng
Làm cảnh buồn nhanh chóng rớt đầy sân
Xưa thành phố từng xanh màu áo trận
Kỷ niệm đau như còn tận hôm qua
Đồng đội mơ xây đắp mộng yên nhà
Điều ước nhỏ miệt mài xa tầm với
Đồi thông oai giờ hót tiếng tả tơi
Khóc hợp tan cho đời đồng đội cũ
Kẻ bôn ba, người yên trong giấc ngủ
Biết bao giờ mộng ấp ủ nở hoa
Cánh chim gãy tại tháng Tư buồn quá
Bởi Trời xui gieo bão thả lầm than
Thành phố lính nay áo trận ngã vàng
Trăng đầy nỡ khuyết phũ phàng thế sao!
Đời người xoay giấc chiêm bao khó lường
Núi Hàm Rồng ơi! Xin đưa đường dẫn lối......
Pleiku Tháng Tư 2011
Lê Kim Hiệp
Mộng Pleiku
Chưa lần viếng phố Pleiku
Nghe trong tâm tưởng hồn du núi đồi
Ngập ngừng rung nhẹ bờ môi
Má hồng e thẹn tim côi thấm tình
Cõng nắng một sớm bình minh
Tiếng cười khúc khích nguyên trinh học trò
Trên đường đến lớp thầm dò
Liếc nhìn lữ khách âu lo ngại ngần
Vào lớp một thoáng bâng khuâng
Dấu yêu một thuở ân cần xinh sao
Pleiku phố núi tình trao
Lòng côi lữ khách đậm màu đất hung
Kim Oanh
Australia 24-9-2009
Còn Chút Gì Để Nhớ - Thơ: Vũ Hữu Định - Phổ Nhạc: Pham Duy
_1.jpg)
Còn Một Chút Gì Để Nhớ
Phố núi cao phố núi đầy sương
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
Anh khách lạ đi lên đi xuống
May mà có em đời còn dễ thương
Phố núi cao phố núi trời gần
Phố xá không xa nên phố tình thân
Đi dăm phút đã về chốn cũ
Một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng
Em Pleiku má đỏ môi hồng
Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
Nên mắt em ướt và tóc em ướt
Da em mềm như mây chiều trong
Xin cảm ơn thành phố có em
Xin cảm ơn một mái tóc mềm
Mai xa lắc bên đồi biên giới
Còn một chút gì để nhớ để quên
Thơ: Vũ Hữu Định(sáng tác năm 1970)
Phổ Nhạc: Pham Duy
***
Cảm Tác:
Pleiku Phố Núi
Pleiku, phố núi đầy sương
Cây xanh trời thấp thật buồn, nhớ chăng
Anh là khách lạ loanh quanh
Đi lên đi xuống gập ghềnh khói mây
May mà còn có em đây
Đời còn dễ thở những ngày rong chơi
"Pleiku má đỏ môi hồng"
Ở đây năm tháng mùa đông buổi chiều
Tóc em và mắt yêu kiều
Quanh năm ẩm ướt phủ nhiều rong rêu
Môi mềm như áng mây chiều
Áng mây trong vắt bên đèo thông xanh
Pleiku, phố núi loanh quanh
Cho nên xa lạ cũng thành người thân
Tình thân phố xá thật gần
Nên tôi nhớ mãi một lần ghé thăm
Một vòng đi có bao lăm
Ðã về chốn cũ, lại nằm thảnh thơi
Chiều nao lòng bỗng chơi vơi
Cảm ơn phố núi tuyệt vời, có em
Tuổi xuân một mái tóc mềm
Mai xa phố núi êm đềm lên non
Trên đồn biên giới chon von
Hỏi em lên đó có còn nhớ chi
Hay anh còn có quên gì ?
Pleiku xinh đẹp, tình si cả đời
Đèo Văn Trấn
Thầy Và Trưởng
Tôi rất may mắn có một người đưa đò đó là Thầy Tôn thất Hàn. Ngoài những giờ học trong lớp, tôi còn đến nhà Thầy mỗi tháng hai lần. Lãnh lương giùm cho chị tôi (Thầy nhận tiền lương cho các giáo sư Trường Trung Học Pleiku, phát tại nhà tăng thêm thu nhập) và hàng tuần họp Tuần lãnh đạo (kha đoàn Bắc Bình Vương rồi Xuyên sơn).
Vào lớp khi điểm danh lớp đệ tứ THPK, Thầy đùa ai đặt Liệt ngồi cạnh Dương vậy! Cả lớp cười lớn. Dạy toán, môn học khô khan và khó nuốt.
Phương pháp giảng dạy rất sinh động, hấp dẫn và dễ hiểu. Đặc biệt tay cầm phấn và giảng bài, không có sách vở hay bài soạn. Thầy rất nghiêm, bộc trực.
Tôi vẫn còn nhớ như in giọng nói oang oang và thuyết phục của Thầy.
Thêm một may mắn nữa Thầy còn là kha trưởng kha đoàn Bắc Bình Vương đạo Gia lai, Pleiku, sau đổi tên Xuyên sơn. Tôi là tuần trưởng, sinh hoạt kha đoàn từ năm 1967 - 1970. Đi học xa. 1972 về sinh hoạt lại và là kha phó cho đến ngày 16/3/1975 tan hàng không một lời tạm biệt kha đoàn.
Trưởng giới thiệu tôi tham dự những khóa huấn luyện cơ bản, dự bị Ấu và Thiếu (Pleiku và Nha trang), huy hiệu rừng Thiếu tại Đà nẵng, trại trường Quãng Tế tháng 7 năm 1974. Ngoài ra tôi còn may mắn theo Trưởng tham dự những khóa cơ bản do Trưởng huấn luyện, phụ trách tập bài hát, đôi khi kèm điệu bộ trong những giờ nhàn rỗi ngoại khóa. Tôi đi bên cạnh, được dìu dắt và hướng dẫn vào nghề Trưởng.
Sinh hoạt kha đoàn Trưởng áp dụng phương pháp động não hội, tập một vài bài hát kèm điệu bộ như Ging Gang Goo, Bắc Bình Vương.v.v...Trò chơi máng xối, bịt mắt tìm ra tuần trưởng dứng trên đỉnh đồi.v.v...
Tôi còn may mắn nhiều lần nằm trong lều với Trưởng ôn lại sinh hoạt trong ngày và dặn dò cho sinh hoạt ngày mai trong những kỳ trại.
Tên rừng của tôi là một kỷ niệm suốt cuộc đời. Trưởng là Chúa Sơn lâm của hội đồng rừng Gia lai đặt cho tôi năm 1973.
Tôi rời Việt nam năm 1980. Năm 2000 về thăm quê hương. Tôi đã gặp lại các huynh trưởng đạo Gia lai Pleiku trong nhà hàng ở Thanh đa, gồm các Trưởng: Trương văn Thanh, Nguyễn văn Tánh, Tôn thất Hàn, Lê ngọc Bưu, Nguyễn thị Hạnh, Trần quang Chu.
Tôi thuê xe ôm từ Thanh đa thăm nhà Trưởng ở Đồng nai sau 25 năm xa cách. Anh xe ôm chờ chở tôi về và xin ngủ sau vườn nhà. Trưởng nhắc lại HDS phải tần tiện, chiều Trưởng đón xe đò cho tôi về thành phố, biểu anh xe ôm về khỏi chờ tôi. Trưởng đãi một tô bún thiệt ngon do chính cô nấu. Nằm ngủ trưa bên Trưởng, cho xem lại danh sách trại sinh Quãng Tế ngành Thiếu có tên tôi. Biến cố 30 tháng 4 tôi chưa được trao khăn quàng và gỗ. Trưởng nói đi cắm trại với Trưởng để Trửơng trao. Tôi xin cám ơn ưu ái của Trưởng và cho biết tôi đã có huy hiệu rừng ở Úc năm 1997. Chiều Trưởng đưa tôi ra quốc lộ đón xe đò. Không ngờ đó là lần chia tay cuối cùng.
Tôi sẽ về thăm nhưng không còn cơ hội gặp lại Thầy/Trưởng lần nữa. Thầy/Trưởng đã để lại trong tôi những kỷ niệm khó quên. Kính nguyện cầu Thầy/Trưởng yên nghỉ trong cõi vĩnh hằng.
Kính vĩnh biệt Thầy/Trưởng
An Nguyen
Gấu Chăm Gia lai.Kha đoàn Bắc Bình vương, tiền thân kha đoàn Xuyên sơn, đạo Gia lai năm 1968 chụp tại Biệt điện Pleiku. Thầy/Trưởng TÔN THẤT HÀN đứng, khoanh tay. An Nguyen ngồi cầm cờ mũ calô.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)