Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2025

Thu Vàng Montreal

(Hình Ảnh: Tiểu Thu - Mùa Thu Montreal)
 
Tiểu Thu đứng giữa trời Thu
Xôn xao rung động sương mù lá rơi!
Tiểu Thu rực rỡ đất trời
Thu Vàng ngây ngất người ơi ...tuyệt vời

Kim Loan
(Đề Thơ tặng chị Tiểu Thu)


Thơ: Kim Loan
Hình Ảnh: Tiểu Thu

Thu Xưa

 

Thu sang dáng dấp đẹp như mơ
Thu khoác áo vàng đượm nét thơ.
Thu khẻ khe ru...mơ cập bến
Thu phơ phất quạt...mộng liền bờ.
Thu bên ấy đấy còn vương vấn?
Thu chốn nầy đây hết vẩn vơ.
Thu biết duyên xưa là dĩ vãng
Thu ơi! Tình đó mãi tôn thờ...

Duy Anh
09/23/2025

Đi Giữa Vàng Rơi

 

Lá vàng phủ kín đường em đi
Xào xạc bước chân như thầm thì
Gió lùa qua áo lùa qua tóc
Thơ thẩn lòng em ước mộng gì?
Mơ một bàn tay nắm bàn tay
Môi kề môi hương yêu dâng đầy
Và đôi mắt chìm trong ánh mắt
Chưa kịp nhìn nhau đã đắm say
Mơ dáng em hoà quyện dáng anh
Như chim uyên kề nhau trên cành
Thu phong lá đỏ màu tim đỏ
Vạn kỷ trời xanh tình vẫn xanh

Thanh Hà

Tống Biệt Hành( Vi Khuê) - A Farewell Song (Thanh Thanh)

 

Tống Biệt Hành

Ta tưởng Ngươi đi về phương Đông
Ta rót cho Ngươi chén rượu hồng
Rượu sẽ mềm môi Ngươi sẽ khóc
Ta cười, Ngươi có hiểu gì không?

Ta tưởng Ngươi đi về phương Tây
Ta rót cho Ngươi chén rượu đầy
Rượu sẽ làm cay đôi mắt ướt
Ta nhìn, lệ rớt giữa lòng tay...

Ta tưởng Ngươi đi về phương Nam
Ta rót cho Ngươi chén rượu tràn
Rượu sẽ làm hoen thân áo bạc
Ngươi về, khật khưỡng dưới vầng trăng...

Ta tưởng Ngươi đi về phương Bắc
Ta rót cho Ngươi chén rượu ngọc
Rượu sẽ vì ta nói với Ngươi:
Vĩnh biệt. Đừng quay nhìn ngõ trúc.

Ta tiễn Ngươi. Ồ, ta tiễn Ngươi
Rừng phong không gió trời không mây
Hoa đâu, để ngát thơm vườn ngự
Ta tiễn Ngươi mà, ta tiễn Ngươi!...

Vi Khuê
***
Bài Dịch:

A Farewell Song


I understood you were leaving for the East;
I filled for you this glass of rosy yeast.
The wine would soften your lips, you would cry;
And I laughed ─ Did you understand why?

I felt as if you were departing for the West;
I served you with this fermented glassful of quest.
The wine would spice your eyes like balm;
And I watched tears dropping into my palm.

It seemed as if you were setting out for the South;
I entrusted to you this brandy to douse the drouth.
The wine would stain your jacket, smirched;
And, from the party, in the moon you lurched.

You made as if you were going to the North;
I have invested in your glass the pearls henceforth.
The wine would bid you "Adieu!" for my sake;
Do not look back at your small bamboo gate!

I gave you the send-off, oh, the parting time!
No winds in woods and clouds in sky could rhyme.
Flowers, let pervade this royal park sweet scent!
It was, indeed, a farewell ─ my bosom friend!

Translation by Thanh Thanh

Nắng Chiều


Hôm nay là thứ năm, 2/10/2025. Chào thứ năm đầu tháng. Chào tháng 10!

Tháng 10, tháng ‘’chưa cười đã tối’’. Nhưng chưa ….đâu! Phải mươi ngày nữa, mỗi ‘’ngày’’ ngắn đi vài phút, nhất là đến khuya chủ nhật 26/10, khi mất thêm 1H. Lúc đó mới ‘’chiều chưa đi màn đêm rơi xuống’’! Chứ hiện nay, chúng ta vẫn có thể thoải mái, tiếp tục cho nhau những nụ cười tươi, dưới ánh nắng vàng. Vâng, dưới ánh nắng vàng.

Sau mấy ngày đêm gió lạnh, mưa ào, trước khi cửa đóng, then cài, tháng 9 đã chuyển lại tháng 10 những ngày vàng rực nắng. Từ sáng sớm đến chiều hôm, liên tiếp mấy ngày nay.

Thay mặt tháng 10, xin cám ơn tháng 9!

Buổi sáng, mở tung cửa ra. Đã thấy nắng-đông nhảy múa trên cao những hàng cây đối diện. Buổi chiều, khi trở về nhà, nắng-tây vẫn nhuộm vàng sân. Ngày màu vàng đã biến đời ‘’màu hồng’’ (la vie en rose). Không cần phải ‘’ngồi đây tóc ngắn’’, không nhất thiết phải‘’áo nàng vàng’, vẫn có khối người về yêu hoa cúc!

Không biết có phải do ảnh hưởng của ánh sáng (ngày, chiều?) hay hướng rọi (đông, tây) hay do …’’lòng người’’ nhưng tôi thấy màu vàng của nắng sáng tươi hơn nắng chiều (?) .Có lẽ vì thế nên mới ‘’chiều buồn len lén tâm tư’’ ? - Ừ nhỉ, đâu chỉ có nắng đâu. Chợ sớm, chợ chiều : khác nhau cũng ở khoảng ‘’đồ tươi’’ !

Một năm có 4 mùa. Một ngày có 3 buổi. Nhưng chỉ có buổi chiều thu, là được giới nghệ sĩ vinh danh nhiều nhất! Nên, mấy hôm nay chiều thu đầy nắng. Lòng cũng đầy ắp nắng chiều thu.

Nắng sáng, tuy reo vui hơn, tươi rói hơn, sống động hơn. Nhưng chính ‘’nắng chiều’’ mới tác động nhiều đến con người. Chả thế mà tên tuổi nó đã đi vào âm nhạc, nghệ thuật Việt Nam. Như tên một ca khúc. Như tên một cuốn film. Như tên một tập sách. Ca khúc ‘’Nắng Chiều’’ của Lê Trọng Nguyễn đã được đạo diễn Lệ Mộng Hoàng (em nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên-Trăng Mờ Bên Suối) đưa vào cuốn film cùng tên, qua tiếng hát Hùng Cường. Như tên một tác phẩm (bị cấm) của cụ Phan Khôi (ngoài Bắc)

Như nhiều người, tôi rất yêu ca khúc Nắng Chiều. Không chỉ vì đó là một ca khúc hay (nhạc/lời) mà nó còn là một ca khúc xứng đáng để khởi đầu cho dòng nhạc Bolero (đầu thập niên 50s) ở Việt Nam. Do cái trữ tình mà không quá buồn .. ngủ. Nhưng, không hiểu tại sao, sau 75, nó lại ‘’được’’ hát theo điệu ‘’chachacha’’?!

Đồng ý là văn chương, nghệ thuật cần phải có ‘’đổi mới’’, để vừa tránh sự nhàm chán, vừa làm phong phú thêm bộ môn. Như lục bát : từ Nguyễn Du, sang Huy Cận , qua Cung Trầm Tưởng, đến Du Tử Lê vv Đồng ý ‘’bolero/rumba’’ và ‘’chachacha’’ là anh em một nhà. Nhưng ‘’ .. Khi đến cuối thôn chân bước không hồn / Nhớ sao là nhớ, bóng người ngày xưa…’’. Từ ‘’deux- trois-quatre‘’ sang ‘’deux-trois-quatre-et-un’’ là nhịp đã đổi, bước phải nhanh hơn .Nói ‘’chân bước không hồn’’ , ‘’nhớ sao là nhớ’’ mà cứ vui vẻ chacha, hết ‘’lo(^)ng mắc’’, lại đưa tay, thì chơi khó quá, người anh em! Gợi cảm chỗ nào? Thương nhớ chỗ nào?

Nếu những tiếng hát ‘’ám sát âm nhạc’’ là có thật, thì những nhạc điệu ‘’thủ tiêu ca khúc’’ cũng … vậy luôn!

Chả bù với ‘’Chiều Vàng’’ của Nguyễn văn Khánh yêu-ai-yêu-cả-một-đời (Trên đồi xanh chiều đã xuống dần / Mặt trời lấp ló sau đồi chiều vàng/ Riêng mình ta ngồi ngắm quanh trời / lạnh lùng nghe tiếng chim chiều gọi đàn / Buồn xa vắng buồn lòng thầm nhớ tới người Chiều xưa cũng trên đồi cùng ta/ Người đã ước nguyền rằng đời riêng có ta/ Lời đó còn đâu?) ! Đâu ra đó. Buồn ra buồn.Nhớ ra nhớ . Khánh Ly hát ca khúc này rất ‘’tới’’. Nhưng tôi vẫn thích nghe tiếng hát Hà Thanh. Không biết tại sao, những nốt nhạc Hà Nội ấy lại làm tôi liên tưởng đến Huế ? – Vì cái ‘’nỗi buồn xa vắng’’ chăng?

‘’Nắng chiều không thắm không vàng vọt / Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong‘’ (Tống Biệt Hành). Mang nắng trời vào trong mắt người. Trịnh công Sơn có nghĩ đến Thâm Tâm khi viết ‘’Nắng thủy tinh’’? Những ‘’Màu nắng hay là màu mắt em ’’. ‘’Và nắng chưa vào trong mắt em’’ ‘’Chiều đã đi vào vườn mắt em ‘’ vv Và cả Ngô Thụy Miên, khi cho ‘’Giọt nắng đi hoang vào mắt em buồn’’ vv : chỉ là lập lại một ý thơ của Nguyễn tuấn Trình (tên thật của Thâm Tâm).

Trong những ca khúc về ‘’nắng chiều’’, tôi yêu nhất ‘’Dấu tình sầu’’, yêu ngay từ câu mở đầu ‘’chiều còn vương nắng : để gió đi tìm’’, do những nốt nhạc : ‘’đô đô rê mí / đô rê si là’’. Những cung-bậc-ngô-thụy-miên bao giờ cũng đưa người nghe vào ‘’riêng một góc trời’’ của anh : một góc trời âm thanh ngọt lịm!

Nắng chiều (thu) xuất hiện trong nhạc, trong thơ, và , trong văn chương. Nhất là trong các tác phẩm của Nhất Linh. Nếu tôi không còn nhớ gì nhiều về nội dung của ‘’Nắng Thu’’ thì ngược lại, những câu thơ trong ‘’Hai buổi chiều vàng’’ đã làm tôi vẫn nhớ khá rõ cốt truyện. Bởi vì tôi nghĩ, rất có thể, chính những câu thơ, của người bạn thân Khái Hưng, dịch bài Sonnet d'Arvers của Félix Arvers (Tình Tuyệt Vọng), đã là nguồn cảm hứng đế cho văn sĩ viết lên ‘’Hai buổi chiều vàng’’. Một chiều vàng của riêng Triết, một chiều vàng của riêng Thoa. Của một Triết yêu thầm kín Thoa, cô bạn láng giềng từ tấm bé. Của một Thoa chỉ xem Triết như một người anh.Nên đã kết duyên cùng Lộc ! ‘’Hỡi ơi người đó, ta đây. Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân ! Dẫu ta đi trọn đường trần. Chuyện riêng dễ dám một lần hé môi ! ‘’. Cốt truyện không ‘’mới’’, câu văn giản dị. Nhưng, mấy chục năm rồi, cậu thiếu niên ngày xưa vẫn còn nhớ. Nhớ. Nhờ mấy câu thơ. Như chính dịch giả là người trong cuộc.Tình đơn phương, theo tôi, bao giờ cũng đẹp và buồn. Như những con đường một chiều. Mà người chạy xe sau không bao giờ bắt kịp người ngồi xe trước ! Dù đường không kẹt xe, cũng không đèn xanh, đỏ !

Hôm trước, đi trong nắng chiều, tôi chợt bâng khuâng khi nhớ lại hai … câu ‘’Thu là chiều của năm. Chiều là thu của ngày’’ .Mỗi một chiều đi. Mỗi độ thu về. Là tóc thêm nhiều sợi bạc. Là đường đời lại thu ngắn thêm. Như tháng 9 vừa qua, giới điện ảnh mất đi hai ngôi sao vĩ đại (tôi dùng đúng nghĩa) mà tôi hằng yêu mến : Robert Redford và Claudia Cardinale. Robert mất hôm 19/9, 4 ngày sau 23/9, là Claudia Cardinale. Robert ra đi ở tuổi 89. Claudia : 87. ‘’Ra đi’’ ở tuổi này, ta gọi là hưởng thọ. ‘’Thọ’’ hay không, với tôi, không có gì quan trọng. Là người thì phải ‘’đi’’. Tôi là người. Vậy tôi (sẽ) phải ‘’đi’’. Cái đáng nói là hay tin tôi ‘’đi’’, bao nhiêu người ‘’buồn’’, bao nhiêu người thở phào nhẹ nhõm. ‘’Đi’’, như cha con Kim Nhật Thành, nước mắt cá sấu đổ dài dài, ngập cả Bình Nhưỡng. Là đi phức cho rồi ! ‘’Đi’’, như những người ‘’thà làm quỷ nước Nam’’. Thì ngàn năm ‘’lưu danh’’ ! Robert Redford và Claudia Cardinale là trường hợp thứ hai.

Claudia Cardinale (Pháp gốc Ý) thì tôi đã ‘’biết’’ từ lúc nhỏ, thập niên 60s, trong những cuốn phim xem với gia đình. Lớn lên tí, gã thiếu niên đang bể tiếng, nhổ giò ‘’bây giờ biết … suy tư’’ trước các ‘’vòng số’’(!.Của Ursula Andress, Rachel Welch, Brigitte Bardot, Claudia Cardinale vv Robert Redford thì khác. Tôi chỉ ‘’biết’’ anh khi sang đây. Đó là lúc tôi biết ngoài … Alain Delon, còn có Robert Redford, nhìn từ xa thôi (Robert De..loin), là đã thấy ‘’beau’’ rồi! Đã thế lại còn mắt xanh, tóc vàng, nụ cười duyên dáng và ‘’đóng’’ phim nào cũng xuất sắc thu hút người xem, vai chánh hay vai phụ!

Khác với nhiều ‘’đồng nghiệp’’, cái đáng ‘’yêu’’ nhất của hai minh tinh gạo cội này là tư cách và thái độ sống của họ!
Claudia Cardinale mất ngày 23 thì hôm sau, 24, là nhạc sĩ Nguyễn Vũ (tên thật Nguyễn tuấn Khanh), ở tuổi 80!

Hè này, không biết tại sao, tôi cứ nghe trong đầu những lời hát của ‘’Một Loài Chim Biển’’. Kể chuyện em nghe / anh em nói rằng … Cứ ngỡ tác giả là người lính hải quân Anh Thy. Hóa ra, đó là sáng tác đầu tay của anh Nguyễn Vũ.

Nhạc anh Nguyễn Vũ mà tôi biết, có …3 bài. Đầu tiên là ‘’Bài Thánh Ca Buồn’’ (Thái Châu hát /1972), ‘’Bài cuối cho người tình’’ ( Elvis Phương hát ) , ‘’Huyền thoại một chiều mưa’’ (Hoàng Oanh hát). Chỉ khi anh mất, tôi mới biết ‘’Một loài chim biển’’ là của anh ! Nhầm lẫn không chỉ ở đó. Mà còn là ‘’Những mùa xuân chinh chiến’’ (mà tôi cứ nghĩ là của anh Trần thiện Thanh) rồi ‘’Sao rơi trên biển’’ (lại nghĩ là của Anh Thy) vv Không biết anh Nguyễn Vũ có phải gốc hải quân không nhưng, hôm nay, đọc danh sách các sáng tác của anh, mới thấy là anh viết khá nhiều về ‘’biển cả’’, hơn cả Anh Thy !

Anh Nguyễn Vũ, em rất xấu hổ! Ở trên cao, xin anh nhận, qua nén tâm hương, lời xin lỗi của em!
……………………………….


Nắng chiều thu! Những người ra đi. Và những buổi chiều thu!

’Chiều thu nắng đọng hàng mi biếc’’ là chiều thu của người ‘’đến thăm em’’ Đinh Hùng. Chiều thu của tôi bây giờ, là buổi chiều của một người đang chạy (/đi) bộ trong nắng ấm . Nhưng trong lòng là mơ hồ sương khói vây quanh! Khi nghĩ về cuộc đời. Về cuộc người ! Sao mà nhanh thế ?! Như câu nói trước khi chết của thủy thủ Holman (Steve McQueen) trong ‘’Pháo thuyền trên sông Dương Tử’’’ (La Canonnière du Yang-Tsé) : ‘’Tôi (mới) ở nhà đây mà. Chuyện gì đã xảy ra. Chuyện quái quỷ gì đã xảy ra ? (J'étais à la maison. Qu'est-ce qui s'est passé. Que diable s'est-il passé ?).

‘’Mới hôm qua, tôi (còn) 20 tuổi’’ (hier encore j'avais 20 ans / Charles Aznavour). Mà bây giờ, đã bước vào … thu?! Sao mà nhanh thế nhỉ ? Mới xuân xanh đó, đã sang thu vàng ! Mới rực bình minh đó. Nay đã sắp hoàng hôn ! Như một bài thơ ngắn của cụ Phan Khôi.

Cụ Tú Phan Khôi, nhà báo nổi tiếng, một cây ‘’logique’’, thời tiền chiến, cột trụ chính trong vụ án đình đám ‘’Nhân Văn Giai Phẩm’’ cuối thập niên 50s. Những ngày cuối đời, ‘’nằm trong căn gác đìu hiu’’, ngán ngẫm nỗi ‘’tự do’’mà viết bài thơ ‘’Nắng Chiều’’ (cũng là tên một tác phẩm cụ đưa cho ‘’Hội Nhà Văn’’ kiểm duyệt nhưng bị Đảng ‘’dũa’’ tơi bời, cấm phát hành!)

Nắng chiều

Nắng chiều đẹp có đẹp
Tiếc tài gần chạng vạng
Mặc dù gần chạng vạng,
Nắng được thì cứ nắng
Phan Khôi ( 1956 )

Tôi không mảy may tài cán chi hết nên ‘’nắng-chiều-tôi’’ không có gì để nói. Tuy không sợ ‘’chạng vạng’’ như cụ Phan nhưng cũng muốn ‘’nắng được thì cứ nắng’’ lắm.

Có điều không biết là :

Lên có nổi không ?!!!

BP
2/10/2025

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2025

Lá Thu Đầu Mùa Montreal


Lá Thu đầu tiên của mùa,  tại NhàThờ St Pascal (Côte des Neiges)


Nhiếp Ảnh Gia: Vũ Ngọc Hiến

Khuê Oán - Cao Biền 閨怨 高駢

  


Cao Biền 高駢 (821-887) tự Thiên Lý 千里, tướng đời Hậu Đường, cháu của Nam Bình đô vương Cao Sùng Văn (tướng cầm quân dưới triều vua Đường Hiến Tông Lý Thuần).

Đầu đời vua Ý Tông, Cao Biền trấn giữ biên cương chống sự xâm lược của giặc Thổ Phồn 吐蕃. Năm Cảm Thông thứ 7 (866), Cao Biền trấn giữ An Nam, làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ. Năm Càn Phù thứ 2 (875) đời Hy Tông, chuyển sang trấn giữ Tây Xuyên.

Nguyên tác          Dịch âm

閨怨                     Khuê Oán


人世悲歡不可知 Nhân thế bi hoan bất khả tri,
夫君初破黑山歸 Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy.
如今又獻征南策 Như kim hữu hiến chinh nam sách,

早晚催縫帶號衣 Tảo vãn thôi phùng đới hiệu y.

Chú giải

Hắc sơn: Tức giặc Hoàng Cân cuối thời Đông Hán, do Trương Ngưu Giác cầm đầu, quân sĩ có hàng trăm vạn.

Dịch nghĩa

Người đời vui buồn khó mà biết được!
Chồng dẹp xong giặc ở Núi Đen mới trở về.
Hôm nay lại vừa trình lên kế sách bình định phương nam,
Tối ngày cứ thúc giục mau may xong áo trận.

Dịch thơ

Nỗi Oán Khuê Phòng

Trần thế buồn vui đoán được gì
Chàng vừa phá giặc Hắc Sơn về
Hôm nay lại hiến bình Nam kế
Áo trận giục em may lẹ đi!

Lời bàn 

Cao Biền thay lời vợ oán trách chồng lúc nào cũng để hết tâm trí vào việc đánh giặc và bỏ bê vợ hiền. Câu kết rất khéo, ngụ ý rằng: “(Cả năm vắng nhà), vừa phá xong giặc Hắc Sơn về; chàng (không màng giao hoan với em), chỉ giục em may gấp áo trận để (ngày mai đi) bình định phương Nam!”.

Bài thơ này độc đáo ở điểm: một võ tướng lừng danh tả nỗi lòng của vợ oán mình đã bỏ bê nàng.
Bài thơ còn tiềm ẩn một nỗi ân hận (như một bài thú tội ngoại tình) của một võ tướng với vợ hiền: “Chỉ có mình em chịu cành phòng không gối chiếc; ta, với quyền bính trong tay, vẫn có gái đẹp để vui vầy ngay tại chiến trường”.

Con Cò
***
 Khuê Oán, Cao Biền.

Phỏng the than vãn.
Trần thế vui buồn thật khó hay,
Núi Đen chàng dẹp mới về đây.
Bình Nam chiến lược nay dâng kế,
Áo trận đêm ngày giục giã may.

Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Jun. 14/2025.
***
Than Oán Khuê Phòng - Cao Biền

Thế sự vui buồn khó biết thay
Hắc Sơn chàng dẹp mới quay về
Nam chinh nay lại dâng mưu kế
Áo trận đêm ngày vội vã may.

Kim Oanh
***
Góp Ý Cho Bài Khuê Oán Của Cao Biền.

Theo Thi Viện, tiểu sử của Cao Biền quá sơ sài. Sau đây là tiểu sử chi tiết hơn một chút: Cao Biền, tự Thiên Lý, người U Châu, sinh năm 821, chết năm 887, được 66 tuổi. Biền là con nhà tướng, giỏi văn chương, nhưng cũng làm tướng giống như ông, cha (Hữu Thần Sách Đô Ngu Hầu của Thần Sách Quân).

Vì có công dẹp Đảng Hạng, được làm Thứ Sử Tần Châu.
Năm 863, làm An Nam Đô Hộ Kinh Lược Chiêu Thảo Sứ.

Năm 865, vì có hiềm khích với Lý Duy Chu, bị xàm tấu, suýt bị tội. Nhưng vì đánh được Nam Chiếu, giết Đoàn Tù Thiên và Chu Đạo Cơ nên không mất chức.
Năm 866, Đường Ý Tông đổi An Nam Đô Hộ Phủ thành Tĩnh Hải Quân, cử Biền làm Tiết Độ Sứ.
Năm 868, về Trường An, làm Hữu Kim Ngô Đại Tướng Quân, rồi Kiểm Hiệu Công Bộ Thượng Thư, Vận Châu Thứ Sử, Thiên Bình Tiết Độ Sứ.

Năm 874, bị sai đi đánh Tây Xuyên.
Năm 875, làm Tây Xuyên Tiết Độ Sứ.
Năm 876, đánh và dẹp yên nước Đại Lễ
Năm 878, làm Kinh Nam Tiết Độ Sứ, rồi làm Tiết Độ Sứ Trấn Hải và Hoài Nam.

Trong thời gian này, Cao Biền có góp sức đánh Hoàng Sào, nhưng không thành công, được cử làm Diêm Thiết Chuyển Vận Sứ, coi về muối và sắt.

Vì có hiềm khích với Đường Hy Tông, Cao Biền cáo bệnh, không chịu đánh Hoàng Sào.
Năm 882, được phong làm Thị Trung, nhưng mất chức Diêm Thiết Chuyển Vận Sứ.

Trong nhiều năm, Cao Biền chỉ lo tranh chấp quyền lực với Lã Dụng Chi, Tất Sư Đạc, Tần Ngạn, đánh nhau lung tung. Đến năm 887, Tần Ngạn sai người tới giết Cao Biền và toàn gia.

Nhìn tiểu sử Cao Biền, mình mới hiểu là Cao lo chiến trận, công danh, không còn thì giờ cho vợ nên trong lòng có chút hối hận, mà làm bài Khuê Oán, thay vợ tỏ nỗi lòng của nàng.

Cao Biền là người có rất nhiều huyền thoại ở Việt Nam, như chôn đậu thành binh sĩ, cưỡi diều đi coi địa lý, trấn yểm hay phá các long mạch của mình..

Năm 866, Biền làm Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ, trực tiếp cai trị Việt Nam.
Lý Nguyên Hy đã đắp La Thành, nhưng nhỏ và không kiên cố. Cao Biền đắp Đại La Thành năm 866, rất rộng lớn, phong Long Đỗ làm thành hoàng.
Năm 1010, Lý Thái Tổ rời đô về đây, vì thấy rồng bay lên nên đổi tên là Thăng Long, vẫn giữ Long Đỗ làm thành hoàng, phong Cao Biền làm Cao Vương.

Trong đền Bạch Mã ở Hà Nội, bên cạnh tượng Long Đỗ, có tượng một người cưỡi ngựa trắng, người ta cho đó là Cao Biền.

Bài thơ ngắn, dễ hiểu, không có chữ khó. Hắc Sơn, ÔC theo Thi Viện, nói rằng chỉ giặc khăn vàng, cuối đời Hán. BS không biết nên phải chấp nhận, nhưng có 2 Hắc Sơn, một ở Tân Cương, phía Tây Bắc của Tầu, là nơi đánh nhau với Hung Nô, mà Trần Đào nhắc đến trong bài Lũng Tây Hành kỳ 4.

Hắc Sơn chỉ khăn vàng chắc ở Trực Lệ (Sơn Đông?). Người lập ra giặc khăn vàng là Trương Giác, không phải Trương Ngưu Giác như Thi Viện và ÔC. Ngưu Giác chỉ là một đầu mục của Trương Giác.

Đây là bài dịch của BS :

Khuê Oán Của Cao Biền.

Nhân thế vui buồn khó biết thay,
Hắc Sơn dẹp giặc mới về đây,
Hôm nay dâng kế bình nam nữa,
Áo trận tối ngày thúc dục may.

Bát Sách.
(Ngày 15/06/2025)
***

Nguyên tác: Phiên âm:

閨怨-高駢 Khuê Oán - Cao Biền

人世悲歡不可知 Nhân thế bi hoan bất khả tri
夫君初破黑山歸 Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy
如今又獻征南策 Như kim hữu hiến chinh nam sách
早晚催縫帶號衣 Tảo vãn thôi phùng đới hiệu y

Vạn Thủ Đường Nhân Tuyệt Cú - Tống - Hồng Mại 萬首唐人絕句 -宋-洪邁
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全 唐詩-清-聖祖玄燁

Ghi chú:

Cao Biền: danh tướng nhà Đường, có thời làm đô hộ An Nam. Xem thêm Cao Biền – Wikipedia tiếng Việt

Khuê oán: than vãn của người phụ nữ sống cô đơn, lo lắng, bực bội...
Nhân thế: thế giới loài người, cuộc sống
Bi hoan: vui buồn, đề cập đến tất cả các loại cảm xúc của con người
Hắc Sơn: địa danh, nay là ở Cẩm Châu 錦州, Liêu Ninh. Đây là vùng nông dân nổi dậy chống nhà Hán năm 184 do Trương Ngưu Giốc 張牛角 thống lãnh, còn được gọi là loạn Hoàng Cân 黃巾之亂 hay giặc Khăn Vàng.
Chinh Nam: chiến tranh chinh phục miền nam Trung Hoa, có thể liên quan đến trấn an và cai trị An Nam
Tảo vãn: sáng tối, sớm muộn
Hiệu y: áo quần của binh sĩ, một bộ đồng phục được đánh số

Dịch nghĩa:

Khuê Oán Oán Hận Phòng The

Nhân thế bi hoan bất khả tri
Thật khó hiểu được niềm vui và nỗi buồn của con người!
Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy
Chồng tôi mới trở về nhà sau khi dẹp xong giặc ở Hắc Sơn.
Như kim hữu hiến chinh nam sách
Hôm nay lại vừa trình lên kế sách chinh phục miền Nam,
Tảo vãn thôi phùng đới hiệu y
Tối ngày cứ kêu gọi mọi người mau may quần áo trận.

Bình luận:

Ai cũng biết Cao Biền là một danh tướng nhà Đường, từng dẹp Bắc đánh Nam. Nội dung bài thơ hơi gượng ép vì mâu thuẫn với cuộc sống của người làm thơ. Bài thơ này chủ yếu miêu tả nỗi vui buồn và khao khát trong lòng của người phụ nữ có chồng là chiến binh xa nhà. Nàng khao khát và mong đợi chồng về, nhưng bất lực không đoán trước được thời cuộc, niềm vui và nỗi buồn của thế gian. Nhưng chính người chồng là nguyên nhân của chia ly vì muốn lập công danh. Mới về nhà lại chuẩn bị ra đi theo ý trong câu 3 và 4.

Dịch thơ:

Oán Hận Phòng The

Thể thất ngôn:

Cuộc sống vui buồn khó biết thay,
Giặc yên chàng mới về nhà đây.
Hôm nay Nam tiến chàng dâng kế,
Áo trận sớm chiều thúc giục may.

Thể song thất lục bát:

Ai đoán được vui buồn thế cuộc,
Giặc mới yên chàng được về nhà.
Hôm nay kế hoạch lại ra,
Miền Nam xâm lược dân ta khổ dài.

Sorrow of a Woman by Gāo Pián
The sorrows and joys of people are unpredictable.
My husband has just returned home from conquering a peasants’ uprising at Black Mountain.
Now he is offering a plan to conquer the south lands,
Day and night, he urges the completion his battle garments.

Phí Minh Tâm
***
Góp ý của Lộc Bắc:

Từ khi đến với Đường thi và nhờ có Internet tôi mới biết thêm nhiều điều về Cao Biền. ngoài việc là một danh tướng có thời cai trị nước ta, ông còn là một nhà thơ khá tiếng tăm. Lúc nhỏ tôi thường nghe bà nội và mẹ tôi kể tài phù thủy của ông và những điều ông làm khi cai trị nước ta. Chuyện kể từ lâu nay không còn nhớ rõ, nhưng nội dung thì tương tự như những trích đoạn từ Internet như sau:

Truyền thuyết Cao Biền với Thần Long Đỗ. Xưa Cao Biền Nhà Đường, làm An Nam đô hộ phủ, khi xây thành Đại La, một hôm đi ra chơi cửa Đông, thấy mây năm sắc từ đất đùn lên, ánh sang chói mắt, có bậc dị nhân cưỡi con rồng đỏ, tay cầm kim - giảm, lượn lờ theo mây, hồi lâu chẳng lặn. Biền kinh sợ định yểm. Đêm đến Biền nằm mơ thấy một vị thần tướng cưỡi ngựa trắng, từ trên trời tới thẳng Cao Biền mà nói rằng:" Ta là thần Long Đỗ ở đây đã lâu, nghe tin ông xây thành Đại La, nên đến gặp nhau cớ sao phải yểm". Biền kinh sợ giật mình tỉnh giấc than rằng:" Ta chẳng thể chinh phục được người phương xa sao! Cớ sao mà đến nỗi có yêu quái như vậy!". Bèn làm bùa bằng đồng để yểm. Đêm đó mưa to sấm chớp đùng đùng. Hôm sau ra xem thì thấy bùa đồng đều bị nát thành tro bụi. Biền càng thấy làm lạ, bèn dựng miếu ở cửa Đông để thờ và sắc phong cho Ngài làm Linh Lang Bạch Mã Tôn Thần."

Thần Long Đỗ đền thờ Bạch Mã Hanoi

Truyền thuyết núi Cánh Diều" (Ninh Bình) kể khi sang Giao Châu, thấy long mạch nước Nam rất vượng, muốn phá đi, Cao Biền thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy xem địa thế, rồi lập đàn cúng tế lừa thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, sau đó đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Một lần cưỡi diều giấy bay đến Hoa Lư thì bị một đạo sĩ cùng dân chúng dùng tên bắn. Cao Biền trọng thương, diều gãy cánh rơi xuống một hòn núi, từ đó núi mang tên Cánh Diều.

Cột đá chùa Dạm, theo truyền thuyết là của Cao Biền.

Thành ngữ "Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non" thực ra "thoát thai" từ truyền thuyết cùng tên kể chuyện Cao Biền có phép thuật "tản đậu thành binh". Biền gieo đậu vào đất, ủ kín một thời gian, đọc thần chú rồi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một tên lính. Để yểm bùa và triệt hạ long mạch, Biền thường nuôi 100 âm binh. Một lần ông ta ở trọ nhà một bà hàng nước, nhờ bà mỗi ngày thắp một nén hương. 100 ngày thắp 100 nén hương sẽ gọi dậy 100 âm binh. Biết được tà ý, bà lão thắp cả 100 nén hương trong một ngày. Thành ra Biền có đủ 100 âm binh nhưng do "dậy non" nên chẳng làm được trò trống gì...

Lại có "Truyền thuyết mả Cao Biền" kể sau khi trấn yểm Đại La không thành, Biền sợ linh khí nước Nam mà đi mãi về phương Nam, đến tận Phú Yên. Đến một làng nhỏ ven biển thấy có long mạch, Biền bèn sinh sống tại đây rồi giúp dân nhiều việc, xem đất dựng nhà, để mồ mả…Khi chết, Biền được dân làng chôn cất tử tế. Ngày nay, ở huyện Tuy An còn dấu tích mả Cao Biền nằm trên một ngọn đồi. Hình ảnh ấy được sinh động hóa trong câu ca dao:

Nhìn ra thấy mả Cao Biền
Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên, Chóp Chài

Thần tích làng Phương Nhị kể nhiều về công lao của Cao Biền và nhắc chuyện ông được nhân dân tôn kính gọi là Cao Vương-tên gọi này trùng với câu “thành của Cao Vương” trong Chiếu Dời Đô của của vua Lý Thái Tổ: “Sự tích ngài chép ở trong quốc sử, ngài lưu trấn ở Châu Giao ta 7 năm; dảm (giảm) sưu thuế, bớt tạp dịch, yêu dân như con, cho nên người trong nước điều (đều) kính trọng, mà tôn người là Cao Vương, cũng ví như ông Sĩ Vương về đời Đông Hán, sang làm quan thú Châu Giao ta thuở xưa. Mà dân điều (đều) tôn ngài là Vương. Sau ngài lại đổi về trấn đất Thiên Bình. Ngài có người cháu là ông Cao Tầm, từng theo ngài có công giẹp (dẹp) giặc. Ngài dưng (dâng) sớ về tâu vua, để lấy ông Cao Tầm thay ngài 10 năm”. Thần tích này kể tiếp: “Sau này, nước Nam ta, tưởng nhớ công đức ngài, có tới 3,4 chăm (trăm) xã lập đền thờ ngài; ở hạt tỉnh Bắc Ninh có hơn chăm (trăm) xã thờ ngài, cờ (cầu) đảo việc gì điều (đều) linh nghiệm cả. Chải (Trải) các chiều (triều) vua điều (đều) có sắc phong tặng là Thượng đẳng phúc thần”.

Theo thần phả làng Vạn Bảo (nay là phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, Hà Nội), Cao Biền có một người vợ tên là Lã Thị Nga (còn gọi là Ả Lã, Ả Lã Thị Nương, Lã Đê nương), theo ông sang Việt Nam. Bà không ở cùng Cao Biền trong thành Đại La mà ở làng Vạn Bảo dệt lụa và truyền dạy nghề dệt lụa cho dân ở đây, trở thành bà tổ nghề dệt lụa Hà Đông. Cao Biền về Bắc, bà vẫn ở lại Hà Đông. Sau nghe tin Cao Biền mất ở Trung Quốc, bà gieo mình xuống sông tự vẫn. Bà Ả Nương sinh ngày 10/8 Âm lịch, mất ngày 25 tháng Chạp. Sau khi bà mất, được thờ làm Thành hoàng làng tại Đền thờ làng Vạn Phúc.
(Trích từ Internet)

Phỏng dịch bài Khuê Oán của Cao Biền.

Oán Phòng Khuê

Trần thế vui buồn khó biết thay
Hắc sơn phá trận mới về đây
Hôm nay hiến kế bình nam chiến
Áo trận tối ngày giục giã may!

Lộc Bắc
Jui25

Tạp Ghi và Phiếm Luận: Chữ Thu


Một năm có bốn mùa : Xuân Hạ Thu Đông; THU là mùa thứ ba trong năm. Theo "Chữ Nho... Dễ Học" thì THU 秋 thuộc dạng chữ Hội Ý sau Tượng Hình, có diễn tiến chữ viết như sau:

Chữ Hòa                           Chữ Hỏa                                 Chữ Thu

Ta thấy:
- Bộ HÒA 禾 là Cây lúa, phần chữ Tượng hình có một bông lúa chín gục đầu về bên trái.
- Bộ HỎA 火 là Lửa, phần Tượng hình là hình tượng của một đống lửa cháy lên ba ngọn.
- Chữ THU 秋 là Mùa Thu, đươc ghép bởi chữ HÒA là Cây Lúa và chữ Hỏa là Lửa, với Hội ý là: Cây lúa đã chín đỏ rực như lửa khắp đồng ruộng. Mùa lúa chín tức là mùa thu hoạch và cũng là mùa THU trong năm, được gọi là THU THÂU 秋收 là "Thâu hoạch vào mùa Thu".
Chữ THU 秌 còn có một hình thức đặc biệt nữa là bộ HỎA 火 có thể đặt trước bộ HÒA 禾 để chỉ sự đỏ rực, vàng hực của cây lúa trong mùa Thu và đồng thời cũng là mùa của "Lá vàng trước gió sẻ đưa vèo !" như cụ Nguyễn Khuyến đã tả trong bài THU ĐIẾU 秋釣 là "Câu cá trong mùa Thu".

Kể về bốn phương Đông Nam Tây Bắc, thì mùa Thu là hướng Tây, còn kể về Âm dương Ngũ hành thì Tây phương Canh Tân thuộc Kim, nên gió mùa thu là Kim Phong 金風, là "Gió Vàng" hiu hắt, se sắt lạnh lùng, như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã mở đầu Cung Oán Ngâm Khúc bằng hai câu :

Trải vách quế GIÓ VÀNG hiu hắt,
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng!

Gió mùa thu là Gió Vàng, là gió của hướng Tây, nên trong ca dao dân gian vùng Nam bộ sông nước cũng có câu:

Anh về để áo lại đây,
Để khuya em đắp GIÓ TÂY lạnh lùng.
..........
Có lạnh lùng lấy mùng mà đắp,
Trả áo anh về đi học kẻo trưa!

Trong văn học cổ thì mùa thu được nhắc nhở bài bản tượng hình tiêu biểu với một chiếc lá Ngô đồng qua hai câu:

Ngô đồng nhất diệp lạc, 梧桐一葉落,
Thiên hạ cộng tri thu ! 天下共知秋!
Có nghĩa:
Ngô đồng một chiếc lá rơi,
Khắp cùng thiên hạ biết trời vào thu!

Còn trong văn thơ thời Tiền Chiến thì thi sĩ Nguyễn Bính đã cảm nhận mùa thu bằng hai chiếc lá Bàng, mà ngày xưa thầy giáo lớp Sơ cấp Tiểu học đã bắt học thuộc lòng như sau:

Thu đi, trên những cành Bàng,
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi.
Hôm qua đã rụng một rồi,
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn.
Hôm nay, bởi thấy tôi buồn,
Lìa cành theo gió, lá luồn qua song.
Hai tay ôm lá vào lòng,
Than ôi! chiếc lá cuối cùng là đây!
Quạnh hiu như tấm thân này,
Âm thầm sống với những ngày gió mưa...
Mùa thu năm Bính Tý (1937)

Riêng thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu thì cảm nhận mùa thu qua tất cả các mặt đặc trưng như THU PHONG (Gió thu), THU SƯƠNG (Sương thu), THU NGUYỆT (Trăng thu), THU DIỆP (Lá thu), THU GIANG (Sông thu)... trong bài "Cảm Thu, Tiễn Thu" qua các câu mở đầu của bài thơ như sau...

Từ vào thu đến nay:
Gió thu hiu hắt, (Thu Phong 秋風)
Sương thu lạnh, (Thu Sương 秋霜)
Trăng thu bạch, (Thu Nguyệt 秋月)
Khói thu xây thành. (Thu Yên 秋煙)
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh, (Thu Diệp 秋葉)
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly....(Thu Giang 秋江)

Còn trong Truyện Kiều thì cụ Nguyễn Du chỉ chấm phá những nét đặc trưng tiêu biểu của mùa thu mà thôi, như:

Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng!

hoặc như :
... Nàng thì dặm khách xa xăm,
Bạc phao cầu giá đen gầm ngàn mây.
Vi lô san sát hơi may,
Một trời Thu để riêng ai một người!

Mùa thu là mùa của thi nhân, mùa của những thi sĩ với tâm hồn lãng mạn, với tình cảm thiết tha sướt mướt, với những khối tình sầu của những người yêu tưởng nhớ đến nhau; Ta hãy nghe Huyền Kiêu diễn tả thật nên thơ với các câu :

Thu vàng có chàng tới hỏi:
- Em thơ, chị đẹp em đâu?
- Chị tôi khăn trắng ngang đầu
Đi hát tình sầu trong núi!

Còn "Giọt Lệ Thu" của nữ sĩ Tương Phố thì buồn thương ướt át với...

Sầu thu nặng lệ thu đầy,
Vi lô san sát hơi may lạnh lùng.
Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Ai đem Thu cảnh bạn cùng THU TÂM.


THU TÂM 秋心 là Tâm tình, tâm sự trong mùa thu heo may hiu hắt khi lòng đang nặng trĩu sầu tư... và đây cũng là một cách chơi chữ của nữ sĩ Tương Phố tài hoa : Lấy chữ TÂM 心 đặt dưới chữ THU 秋 ta sẽ có chữ SẦU 愁 theo phép Hội Ý; Tâm tình trong mùa thu thì thường là những mối tình sầu. 

Chẳng những trong thi ca mà cả trong âm nhạc nữa, mời bấm vào link dưới đây để nghe bản nhạc "THU SẦU" của cố nhạc sĩ tài hoa Lam Phương:
https://www.youtube.com/watch?app=desktop&v=juid_P1PSIA

Ngoài nghĩa chỉ mùa Thu ra, THU còn có nghĩa là Một Năm, vì mỗi năm chỉ có một mùa Thu thôi; nên TAM THU 三秋 ngoài nghĩa là 3 tháng của mùa thu ra, còn có nghĩa là ba năm nữa; Như trong bài Thái Cát, chương Vương Phong trong Kinh Thi 《詩经·王風·采葛:

彼采葛兮, Bỉ thái cát hề,
一日不見, Nhất nhật bất kiến,
如三月兮! Như tam nguyệt hề!

彼采蕭兮, Bỉ thái tiêu hề,
一日不見, Nhất nhật bất kiến,
如三秋兮! Như tam thu hề!

彼采艾兮, Bỉ thái ngải hề,
一日不見, Nhất nhật bất kiến,
如三歲兮! Như tam tuế hề!

Có nghĩa :
Người kia đi hái bố đay,
Vắng nhau dù chỉ một ngày mà thôi.
Tưa như ba tháng đà trôi!

Người kia đi hái cỏ tiêu,
Không gặp từ sáng đến chiều mà thôi.
Tưởng như ba thu qua rồi!

Người kia hái ngải nơi đâu,
Một ngày không gặp nghe sầu không thôi.
Đằng đẵng như ba năm trời!

Từ bài Kinh Thi trên đã hình thành một thành ngữ "Nhất Nhật Tam Thu 一日三秋" Có nghĩa : Một ngày dài tựa ba mùa thu (ba năm). Trong Truyện Kiều, tả lúc Kim Trọng tưởng nhớ Thúy Kiều cụ Nguyễn Du đã viết:

Sầu đong càng khắc càng đầy,
BA THU dọn lại MỘT NGÀY dài ghê!

Trong ca dao dân gian Nam bộ cũng có câu:

Xin đừng rẻ Bắc chia Nam.
Nhất nhật bất kiến như Tam Thu hề.
Huống Tam Thu bất kiến hề,
Người Nam kẻ Bắc nhớ về một phương!

TAM THU 三秋 là ba năm, nên THIÊN THU 千秋 là Ngàn năm, chỉ thời gian rất dài rất lâu, là mãi mãi về sau... như trong vế thơ mà nhà văn Khái Hưng trong Tự Lực văn Đoàn đã thoát dịch bài thơ của kịch tác gia người Pháp Félix Arvers (1806 - 1850) trong truyện ngắn "Tình Tuyệt Vọng" của Ông là :

Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành THIÊN THU.
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay !...

THIÊN THU là Ngàn năm, thường dùng để chỉ thời gian vô tận của mãi mãi về sau mà không bao giờ với tới được... nên cũng dùng để tiễn đưa, điếu tang để tỏ lòng tiếc thương với người qúa cố; Ta hay nghe câu THIÊN THU VĨNH BIỆT 千秋永別, nói Nôm na là NGÀN THU VĨNH BIỆT hay VĨNH BIỆT NGÀN THU là sẽ mãi mãi không bao giờ còn gặp lại nhau được nữa !

THIÊN THU là mãi mãi rồi, là cái móc thời gian ngàn năm mà con người không sao vươn tới được, nhưng dã tâm trong lòng con người lại rất lớn, nhất là những người đang có quyền lực trong tay, như trong truyện võ hiệp "Tiếu Ngạo Giang Hồ" của nhà văn Kim Dung, Nhậm Ngã Hành sau khi về nắm lại chức giáo chủ của Nhật Nguyệt Thần Giáo đã cho giáo chúng tung hô mình với câu "Văn thành võ đức, THIÊN THU VẠN TẢI, nhất thống giang hồ 文成武德,千秋萬載,一統江湖". Ý chỉ mới là giáo chủ của một bang giáo mà thôi, chả trách các hoàng đế ngày xưa đều muốn mọi người phải tung hô "VẠN TUẾ 萬歲". Ngàn tuổi còn không đạt được huống hồ muôn tuổi ! Thường thì từ "THIÊN THU" chỉ để ca ngợi công đức của các bậc thần thánh mà thôi, như những miếu thờ Quan Công của người Hoa ở khắp nơi trên thế giới, ta thường thấy có đôi câu đối sau đây :

千秋義勇無雙士, THIÊN THU nghĩa dũng vô song sĩ,
萬古精忠第一人. Vạn cổ tinh trung đệ nhất nhân.
Có nghĩa :
- Từ ngàn xưa đến nay, không có được người thứ hai trung nghĩa và dũng cảm như thế.
- Tính từ muôn đời trước, đây là người số một hết dạ trung thành với chúa mà thôi.

NGÀN THU nghĩa dũng không hai tướng,
Vạn cổ tinh trung chỉ một người !

Vì THU 秋 chỉ thời gian gần cuối năm, nên THU NƯƠNG 秋娘 là từ dùng để chỉ những phụ nữ đứng tuổi mà nhan sắc còn mặn gợi cảm, ta có thành ngữ "Bán Lão Thu Nương 半老秋娘" dùng để tán thưởng các bà các cô tuy già mà còn đẹp. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ những cô kỹ nữ, ca kỹ tài hoa ở đời Đường. Thường thì các cô nàng đã rất đẹp rồi lại trang điểm và làm dáng ra vẻ sầu thương ủy mị, lạnh lùng như nước mùa thu se sắt nhưng dễ đánh động lòng người, nên các cô thường được gọi là các "THU NƯƠNG 秋娘", là các "Nàng Thu" đẹp não nùng làm say mê các vương tôn công tử thích ăn chơi lúc bấy giờ. Nổi tiếng nhất có Đỗ Thu Nương 杜秋娘, Tạ Thu Nương 謝秋娘 (Xem lại bài NƯƠNG là NÀNG)... Trong bài thơ trường thiên "TÌ BÀ HÀNH" của Bạch Cư Dị, khi nàng ca kỹ đàn Tì Bà nổi tiếng năm xưa ở đất Tràng An kể lại thời vàng son của mình lúc còn trẻ đã nói :

曲罷曾教善才服, Khúc bãi tằng giao thiện tài phục,
妝成每被秋娘妒。 Trang thành mỗi bị THU NƯƠNG đố.
Có nghĩa :
- Đàn xong một khúc, thường được các người giỏi về đàn khâm phục,
- Mỗi lần trang điểm xong, thường bị các THU NƯƠNG đố kỵ, ganh tị.

Tì bà thán phục thiện tài,
Mỗi lần trang điểm ganh hoài THU NƯƠNG!

Nên...
THU NƯƠNG 秋娘 còn là các cô nàng xinh đẹp như mùa Thu; THU BA 秋波, THU THỦY 秋水 là ánh mắt trong và đẹp như nước mùa thu gợn sóng của các giai nhân; THU NHAN 秋颜, THU DUNG 秋容 là Dung nhan đẹp mà buồn như mùa Thu, như nàng cung phi của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã tự hào :

... Nhuỵ hoa chưa mỉm miệng cười,
Gấm nàng Ban đã nhạt mùi THU DUNG.
Áng đào kiểm đâm bông não chúng,
Khoé THU BA dợn sóng khuynh thành...

THU đi với XUÂN, cho ta từ XUÂN THU 春秋, cũng là từ dùng để chỉ một khoảng thời gian dài, như : Đã trải qua biết mấy độ XUÂN THU rồi !... Có nghĩa là : Đã trải qua một thời gian với rất nhiều năm tháng qua đi rồi. Ta lại có thành ngữ "XUÂN KHỨ THU LAI 春去秋来" là : Xuân đi Thu đến, chỉ thời gian tuần tự qua đi một cách âm thầm lặng lẽ. Thành ngữ nầy lại làm cho ta nhớ đến một vế thơ trong bài "Mai Rụng" của J. Leiba (Lê Văn Bái), một thi sĩ thời Tiền Chiến :

Xuân tàn, hạ cỗi, cảnh Thu sầu,
Mờ mịt hơi đông ám ngọn lau.
Xuân tới cành đào hoa lại nở,
Mong chàng mỏi mắt, thấy chàng đâu?

Ngoài ra...
XUÂN THU 春秋 còn là một trong NGŨ KINH 五經 do khổng Tử san định là : Kinh DỊCH 易, Kinh THI 詩, Kinh THƯ 書, Kinh LỄ NHẠC 禮樂, Kinh XUÂN THU 春秋. KINH XUÂN THU được xem như là quyển biên niên sử đầu tiên của lịch sử Trung Hoa. Thời Kỳ Xuân Thu 春秋時期 vào khoảng (770-476/403 Trước Công Nguyên)là thời kỳ đầu của Đông Chu (Châu). Khổng Tử đã căn cứ vào Lỗ sử, từ Lỗ Ẩn Công nguyên niên (722 TCN) cho đến Lỗ Ai Công năm thứ 14 (481 TCN) qua 12 đời vua Lỗ để san định Kinh Xuân Thu. Lúc bấy giờ Thiên tử nhà Chu đã bắt đầu suy yếu, không còn hiệu lệnh được Chư hầu. Các châu huyện lớn và các thị tộc lớn đều đứng lên tuyên bố tự trị như một nước Chư hầu, tất cả có trên 140 nước chư hầu lớn nhỏ cùng tranh bá đồ vương. Các Chư hầu lớn mạnh dần lên rồi xưng hùng xưng bá, hình thành Xuân Thu Ngũ Bá 春秋五霸 là Tề Hoàn Công, Tống Tương Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công và Sở Trang Vương kế tiếp nhau mà Xưng Bá Thiên Hạ. Suốt khoảng 242 năm của thời kỳ Xuân Thu có 36 vua Chư hầu bị sát hại, 52 nước Chư hầu nhỏ bị diệt vong, với hơn 480 trận chiến lớn nhỏ và trên 450 lần hiệp minh cùng triều kiến Thiên tử nhà Chu. Sau Thời kỳ XUÂN THU là Thời kỳ CHIẾN QUỐC 戰國時期 khoảng(475—221 TCN)Gọp chung hai thời kỳ nầy lại gọi là Thời kỳ XUÂN THU CHIẾN QUỐC 春秋戰國時期 khoảng trên 500 năm Trước Công Nguyên. "Xuân Thu Ngũ Bá 春秋五霸" cũng là tiền đề gợi ý cho nhà văn Kim Dung viết nên truyện võ hiệp nổi tiếng "Võ Lâm Ngũ Bá 武林五霸" sau nầy.

XUÂN THU CHIẾN QUỐC

Khi san định KINH XUÂN THU, Khổng Tử đã dùng bút pháp thật nghiêm cẩn, khen chê đúng mực thẳng thắn, không vị nể, nên lại hình thành thành ngữ "XUÂN THU BÚT PHÁP 春秋筆法"; dùng rộng ra còn có nghĩa là chỉ cách viết phê phán việc gì đó một cách bộc trực, thẳng thắn không thiên vị. Trong văn học cổ, ta còn thường gặp các thành ngữ "Xuân... Thu..." như sau :

- XUÂN LAN THU CÚC 春蘭秋菊: là Hoa lan của mùa xuân và hoa cúc của mùa thu. Có xuất xứ từ bài Lễ Hồn trong Cửu Ca của Khuất Nguyên thời Chiến Quốc 戰國·屈原《九歌·禮魂》. vốn chỉ mỗi mùa hoa đều có một loại hoa đặc trưng riêng của mùa đó, và với hàm ý là : Hoa lan thì đẹp trong mùa xuân và hoa cúc thì đẹp trong mùa thu. Mỗi mùa mỗi hoa đều có vẻ đẹp độc đáo riêng của mùa hoa đó, mà không thể so sánh là "Mèo nào hơn mỉu nào" được ! Như cụ Nguyễn Du đã cho chàng Kim Trọng đánh giá một cách "Nịnh đầm" hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân là :

Bóng hồng nhác thấy nẽo xa,
XUÂN LAN THU CÚC mặn mà cả hai!

... Chỉ mới "nhác thấy nẽo xa..." thôi, mà đã biết là "XUÂN LAN THU CÚC mặn mà cả hai" rồi ! Thiệt là "Xạo hết chỗ nói". Nhưng... biết "Xạo" với phái đẹp, thì cũng "Dễ thương" thôi!


- XUÂN HOA THU NGUYỆT 春花秋月 : là Hoa của mùa xuân và trăng của mùa thu. Hai cái đẹp tiêu biểu nhất của hai mùa, nên cũng dùng để ám chỉ đó là cái thời gian vàng son, tươi đẹp, vui vẻ, hạnh phúc nhất của con người. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ bài từ "Ngu Mỹ Nhân 虞美人" của Nam Đường Lý Hậu Chúa Lý Dục 李煜. Về mặt chính trị Lý Dục là một hôn quân không biết chăm lo cho việc triều chính, để đến đổi phải mất nước; nhưng về mặt văn học, thì ông lại là một văn học gia, một thi nhân và được xưng tụng là "Hoàng đế của Từ Đàn", nhất là khi ông bị giam lỏng như một tù nhân của nhà Tống, thì lời từ của ông càng thắm thía da diết buồn thương hơn của một đế vương vong quốc, như bài từ "Ngu Mỹ Nhân 虞美人" nổi tiếng sau đây:

春花秋月何時了? XUÂN HOA THU NGUYỆT hà thời liễu ?
往事知多少! Vãng sự tri đa thiểu !
小樓昨夜又東風, Tiểu lâu tạc dạ hựu đông phong,
故國不堪回首月明中。 Cố quốc bất kham hồi thủ nguyệt minh trung.
雕欄玉砌應猶在, Điêu lan ngọc thế ưng do tại,
只是朱顏改。 Chỉ thị chu nhan cải.
问君能有幾多愁? Vấn quân năng hữu kỷ đa sầu ?
恰似一江春水向東流! Kháp tự nhất giang xuân thuỷ hướng đông lưu !

Có nghĩa :
- Cảnh đẹp như hoa xuân trăng thu bao giờ mới hết đây ?
- Chuyện (tốt đẹp) cũ ôi biết là bao nhiêu !
- Đêm qua trên lầu nhỏ nầy lại hây hẩy gió xuân (gió hướng đông),
- Nhớ về cố quốc mà chẳng dám quay đầu (vì thẹn) với ánh trăng trong.
- Cung son điện ngọc chắc hãy vẫn còn đó...
- Chỉ là dung nhan tươi trẻ đã đổi thay...
- Dám hỏi người còn có được bao nhiêu là nỗi sầu (vong quốc đây)?
- Tất cả cũng giống như là một dòng nước xuân chảy miết và mất hút về hướng đông mà thôi ! (Không bao giờ còn tìm thấy lại được nữa !).

Lục bát:

XUÂN HOA THU NGUYỆT mãi còn,
Bấy nhiêu chuyện cũ mõi mòn lòng ta.
Gió xuân lầu nhỏ đêm qua,
Thẹn cùng cố quốc trăng xa quay đầu.
Cung son điện ngọc còn đâu ?
Tuổi xanh má thắm dãi dầu sương pha.
Hỏi người sầu muộn kỷ đa ?
Tựa như dòng nước la đà về đông !...

Lời từ bày tỏ nỗi lòng ưu tư sầu muộn, nuối tiếc cho những ngày tháng tươi đẹp như "Xuân Hoa Thu Nguyệt" đã đi qua và sẽ mãi mãi không bao giờ còn tìm lại được nữa, mặc dù cung son điện ngọc ngày xưa vẫn còn đó. Chính lòng hối hận tiếc muối và đau buồn nầy của Lý Hậu Chúa đã khiến cho Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa ban thuốc độc cho ông chết đi để chừa hậu hoạn. Bấm vào link dưới đây để nghe ca sĩ Đặng Lệ Quân, danh ca Đài Loan, hát bài "Kỷ Đa Sầu 幾多愁?" phổ nhạc bài từ trên:
 

Mùa THU là mùa của Thi nhân, của trời xanh mây trắng, của gió mát trăng thanh, của lá vàng bay trước gió... Ta hãy nghe cụ Tam Nguyên Yên Đổ vịnh trời thu như sau :

Trời THU xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu...
... và...
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

Kịp đến bài THU ĐIẾU là "Mùa Thu Câu Cá" thì toàn cảnh mùa thu hiện ra một cách sống động, nhưng nhẹ nhàng với cái heo may hiu hắt lạnh lẽo của trời thu vắng lặng qua các vần "trong veo, tẻo teo, đưa vèo, vắng teo..." một cách tài tình và tuyệt vời :

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Đến thời kỳ THƠ MỚI của các thi nhân Tiền Chiến thì không ai là không biết đến bài thơ "Tiếng Thu" của thi sĩ Lưu Trọng Lư khi nhắc đến mùa thu:

Em không nghe mùa thu...
Dưới trăng mờ thổn thức?

Em không nghe rạo rực...
Hình ảnh kẻ chinh phu,
Trong lòng người cô phụ?

Em không nghe rừng thu...
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác...
Đạp trên lá vàng khô?...

Chỉ vỏn vẹn có 9 câu thơ mà tạo nên tên tuổi của Lưu Trọng Lư một cách bất hủ với hình ảnh của "Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô !..." và đó cũng là hình ảnh của Lưu Trọng Lư đã để lại một cách đậm nét trên thi đàn THƠ MỚI lúc bấy giờ và mãi mãi về sau nữa !...

Cũng như chỉ có hai câu văn trong bài ĐẰNG VƯƠNG CÁC TỰ 滕王閣序 ở đời Đường khi tả cảnh Mùa Thu trên sông nước, cũng đã làm nên tên tuổi bất hủ của người đứng đầu Sơ Đường Tứ Kiệt 初唐四傑 Vương Bột 王勃 là :

落霞與孤騖齊飛, Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
秋水共長天一色。 THU THỦY cộng trường thiên nhất sắc !
Có nghĩa :
Ráng chiều cò trắng cùng bay,
Long lanh THU THỦY nước mây một màu !

Hình ảnh một cánh cò đơn lẻ bay trên sông nước mênh mông trong ánh nắng chiều tà đã gợi nên một ý thơ lai láng, cũng như một cánh hạc trắng bay vút lên không và in hình trên khoảng trời thu xanh lơ bát ngát cũng đưa hồn thơ của thi sĩ lên tận chốn mây xanh. Mời đọc bài THU TỪ 秋詞 của "Chàng Lưu" Lưu Vũ Tích sau đây :

自古逢秋悲寂寥, Tự cổ phùng thu bi tịch liêu,
我言秋日勝春朝。 Ngã ngôn thu nhật thắng xuân triêu.
晴空一鶴排雲上, Tình không nhất hạc bài vân thượng,
便引詩情到碧霄。 Tiện dẫn thi tình đáo bích tiêu !

Có nghĩa:

Ngàn xưa THU đến gợi buồn tanh,
Ta bảo THU hơn xuân thắm xanh.
Cánh hạc vút trời mây bát ngát...
Hồn thơ cũng vút tận mây xanh!

Năm Đại Lịch thứ 2 đời Đường Đại Tông ở xứ Quì Châu, lúc đó Thi Thánh Đỗ Phủ đã 56 tuổi đang mang bệnh phổi lại thân ở nơi tha hương đất khách. Cảm vì thân phận nổi trôi, công danh sự nghiệp trắc trở, tuổi già lại sồng sộc đến nơi, nên trong ngày mùng 9 tháng 9 tiết Trùng cửu đăng cao, một mình lên trên thành Bạch Đế ở Quì Châu, nhìn cảnh thu hiu hắt tiêu điều, núi sông lạnh lùng hùng vĩ, cuồn cuộn nước sông trong cảnh lá đổ muôn chiều, trăm ngàn cảm xúc dâng trào nên ông viết nên bài thơ "Đăng Cao" với cảnh thu bất hủ qua bốn câu thực và luận như sau đây :

... 無邊落木蕭蕭下, Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ,
不盡長江滾滾來。 Bất tận trường giang cổn cổn lai.
萬里悲秋常作客, Vạn lý bi thu thường tác khách,
百年多病獨登台。 Bách niên đa bệnh độc đăng đài...

Có nghĩa :

... Lá vàng lìa cội vàng rơi rụng,
Nước cuộn sông dài cuộn chảy tuôn.
Muôn dặm sầu thu thân đất khách,
Trăm năm thân thế bệnh còn vương...

Thật não lòng thay cho "Vạn lý bi thu thường tác khách"(Muôn dặm sầu thu thân đất khách)! Nhìn nước sông cuồn cuộn chảy trong cảnh lá đổ rạt rào, nỗi sầu thu trên đất khách càng thấm thía hơn khi có làn gió thu hắt hiu lạnh lùng thổi đến với đàn nhạn bay về nam in bóng trên nền trời xanh thẳm, như bài "Thu Phong Dẫn 秋風引" của Lưu Vũ Tích:

何處秋風至? Hà xứ thu phong chí?
蕭蕭送雁群。 Tiêu tiêu tống nhạn quần.
朝來入庭樹, Triêu lai nhập đình thọ,
孤客最先聞。 Cô khách tối tiên văn.

Có nghĩa:

Gió thu từ đâu thổi đến?
Hắt hiu đưa tiễn nhạn bầy,
Sáng nay luồn vào cây lá,
Lữ khách hay trước hơn ai!

Lục bát:

Từ đâu thổi đến gió thu ?
Hắt hiu đưa nhạn mịt mù bay cao.
Sáng nay cây lá lao xao,
Cô đơn lòng khách nao nao trước người!

Cảnh lạnh lùng hiu hắt heo may của mùa thu càng gợi sầu gợi cảm hơn với cảnh trí tiêu điều của hoa lá cỏ cây, của con đường mòn qua chiếc cầu nho nhỏ dưới ánh nắng chiều thu nhàn nhạt càng làm cho người khách tha phương ở tận chân trời cảm thấy đứt ruột hơn bao giờ hết qua bài từ "Thu Tứ 秋思" của Mã Trí Viễn đời Nguyên:

枯藤老樹昏鴉, Khô đằng, lão thụ, hôn nha,
小橋流水人家, Tiểu kiều, lưu thủy, nhân gia,
古道西風瘦馬。 Cổ đạo, Tây phong, xấu mã.
夕陽西下, Tịch dương tây hạ,
斷腸人在天涯 ! Đoạn trường nhân tại thiên nha !

Có nghĩa:

Mây khô, cây già, quạ ám,
Cầu nhỏ, nước chảy, nhà ai,
Đường xưa, gió tây, ngựa ốm,
Nắng chiều dần tắt,
Bên trời đứt ruột ai hay!


Trong cảnh... Mấy cọng mây khô quấn quanh một thân cây già trụi lá, có con qụa lạnh như đang ngủ gật đậu trên cành khô; Bên chiếc cầu nho nhỏ có dòng nước chảy qua là mấy nóc nhà ai trên con đường mòn xưa cũ; Gió tây hiu hắt lạnh lùng khiến cho con ngựa ốm hí vang... Nắng chiều dần tắt, một người lữ khách tha hương đang buồn muốn đứt ruột bên góc trời xa thẳm !
Ba câu đầu là 9 cái Danh từ cùng họp lại để tạo nên một cảnh mùa thu thê lương lạnh lùng hiu hắt se sắt trong gió Tây lạnh ngắt như đồng; Rồi mới hạ 2 câu sau : Trong cảnh nắng chiều dần tắt, có một người đang sầu thương đứt ruột bên trời !

Đọc bài từ trên, làm cho ta lại nhớ đến một bài đoản văn "CẢM THU" của nhà văn nhà thơ Đinh Hùng hồi thời Tiền Chiến trong phong trào Thơ Mới. Văn mà là thơ, vì ý thơ tràn ngập và bàng bạc trong từng câu văn gợi cảm; mời đọc các trích đoạn sau đây:

"Thu năm nay, tôi lại đi trên con đường vắng này nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ... Những cây liễu xanh đứng buồn như những nàng Cung nữ thời xưa, và thấp thoáng trong vườn nhà ai, hoa phù dung buổi sáng nở trắng như một tâm hồn con trẻ ?... Nắng ở đây vẫn là nắng ngày xưa và tâm hồn tôi vẫn là tâm hồn tôi năm trước... Tôi vẫn ngờ như không sự đổi thay, vì lại thấy mình đi trên con đường vắng này, thu năm nay, giữa lúc cây vàng đang rơi lá. Đường này hiu hắt, tôi đem lòng về để gặp mùa thu thương nhớ cũ..."

Xin được kết thúc bài viết bằng lời trong nhạc phẩm "Nhìn Những Mùa Thu Đi" của Trịnh Công Sơn...

Nhìn những mùa thu đi...
em nghe sầu lên trong nắng...
và lá rụng ngoài song...
nghe tên mình vào quên lãng...
nghe tháng ngày chết trong thu vàng...

Mời bấm vào link dưới đây để nghe nhạc :


杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

Thứ Năm, 2 tháng 10, 2025

Thuyền Trôi

 
Sóng gợn gợn vỗ bờ
Bềnh bồng con thuyền nhỏ
Lá vàng run theo gió
Mùa thu vẫn còn đó

Ven bờ liễu ru hờ
Mặt nước thuyền nhấp nhô
Người lái đò cô độc
Vài chiếc lá vàng khô

Mưa thu từng hạt nhỏ
Chỉ ẩm như sương mù
Đọng lại bên bờ mi
Ai sầu chi?


Thơ & Ảnh: Sao Khuê
(Canada26 Oct 2025)

Cáo Phó Từ Gia Đình Bác Sĩ Đinh Đại Kha

CÁO PHÓ

(1931 - 2025)

Nghi thức thăm viếng và nghi lễ an táng chỉ dành riêng cho gia đình Bác sĩ Kha. Xin quí vị niệm tình thông cảm. Chân thành cảm ơn.

Gia đình chúng tôi vô cùng đau đớn, báo tin cùng quí vị thân bằng quyến thuộc, bạn hữu xa gần để kính tường: Chồng, Cha, Ông chúng tôi là Bác sĩ gia đình hồi hưu: 

ĐINH ĐẠI KHA 

Sinh ngày 22 tháng 11 năm 1931
Đã từ trần ngày 15 tháng 9 năm 2025, 
Hưởng thọ 93 tuổi.

Bà quả phụ Đinh Đại Kha, nhũ danh Dương Thị Tuyết Nương; 
Trưởng nữ: Đinh Đại Tuyết Minh; 
Trưởng nam: Michael Đinh Đại Quang và vợ Lindsay Foley-Đinh; 
Trưởng tôn: Nathan Quang Vinh Foley-Đinh; 
Thứ tôn: Mikayla Bảo Châu Foley-Đinh.

Gió tháng Mười Một



Gío tháng mười một đưa anh về đây,
Lá rụng cuối mùa dáng Thu hao gầy,
Anh như vầng trăng tinh mơ sáng sớm,
Ánh trăng xanh vừa hiện giữa đường mây..

Mùa Đông chưa đến, mùa Thu chưa qua,
Vầng trăng xanh kia chưa là trăng gìa,
Anh theo cơn gío cuối tháng Mười Một,
Thổi vào đời em ở lưng chừng mùa.

Cuối tháng Mười Một mùa lễ Tạ Ơn,
Hoa Hồng vẫn nở trong vườn Thu thơm,
Có những buổi chiều cơn mưa rất nhẹ,
Không ướt áo anh không ướt áo em.

Gió tháng Mười Một cho mình gần nhau,
Gần nhau lần này không hẹn lần sau,
Quấn quýt bước chân hai người qua phố,
Gió tháng Mười Một không lạnh em đâu.

Em nhặt chiếc lá vàng khô trên đường,
Tặng anh kỷ niệm chiếc lá cuối cùng,
Em cám ơn anh một lần hội ngộ,
Chiếc lá héo như cuộc đời vô thường.

Vì em biết nay mai anh lại xa,
Gío tháng Mười Một sẽ tiễn anh đi,
Anh vẫn như vầng trăng vào sáng sớm,
Nhưng ánh trăng xanh chìm trong mây mờ.

Mới vừa gặp nhau ngày vui qua nhanh,
Anh đi rồi, em vẫn cám ơn anh,
Mưa rất nhẹ nhưng làm em ướt áo,
Gío tháng Mười Một lạnh đến cuối năm.

Nguyễn Thị Thanh Dương
 

Nguyễn Thượng Vũ Báo Tin Bác Sĩ Đinh Đại Kha Qua Đời


Tôi rất đau thương báo cho các anh chị một tin rất buồn là Bác Sĩ Đinh Đại Kha, một đàn anh của tôi vừa qua đời, hưởng thọ 93 tuổi. ,

Bác Sĩ Đinh Đại Kha được các đồng nghiệp, các bạn hữu, các đàn em, các bệnh nhân của anh trong ngót 70 năm qua yêu mến và kính trọng vô cùng.
Anh Bác Sĩ Kha vào Trường Thuốc tại Hanoi cùng năm với các anh Hoàng Cơ Lân, Nguyễn Thế Minh, Phạm Văn Biểu, Trịnh Cao Hải, Bạch Đình Minh và anh BS Từ Uyên.

Các người này cũng qua đời nhiều năm nay, ngoại trừ hai anh Hoàng Cơ Lân và Từ Uyên.
Có lẽ anh Kha cũng có thể học cùng với anh Bác Sĩ Nguyễn Thế Huy hay là sau anh Huy một lớp.

Tôi ngưỡng mộ anh Bác Sĩ Kha từ lâu vì anh bao giờ cũng tính tình hôn nhiên, vui vẻ, tử tế với tất cả mọi người.

Anh Kha là người biết nhiều, hiểu nhiều và là tác giả nhiều tài liệu Y Khoa vô cùng giá trị, viết với 1 cách hành văn giản dị cho các người không phải bác sĩ cũng hiểu được.
Anh Bác Sĩ Kha dời khỏi quân đội, giải ngũ cũng sớm trong thập niên 60. Anh lên Dalat mua lại phòng mạch và bệnh viện của 1 bác sĩ người Pháp lớn tuổi , muốn về hưu bên Pháp với gia đình.
Anh Bác Sĩ Kha xuất ngoại sang Pháp để tu nghiệp và cũng làm việc bên Pháp một thời gian, rồi chuyển sang Canada, mở phòng mạch tại Tỉnh Vancouver, một tỉnh đẹp nhất, khí hậu tốt nhất của Canada.

Tôi thật tình không phải là bạn thân của anh Bác Sĩ Đinh Đại Kha, vì anh trên lớp, trên tuổi và sống xa cách nhau, chỉ liên lạc bằng thư từ với nhau mà thôi,
Nhưng tôi rất thân với anh Bác Sĩ Hoàng Cầm và chi GS Nha Khoa Đinh Tố Nhàn, em rể và em gái anh Bác Sĩ Kha, mà tôi quý mến vô cùng.

Ít lâu nay không nhân được thư từ gì của anh Kha, nên tôi thắc mắc vô cùng, tính soạn lại điện thoai để kêu anh thăm hỏi.
Không ngờ hôm nay nhận được hung tin từ anh chị Hoàng Cầm & Tố Nhàn.

Anh Bác Sĩ Cầm cho tôi biết là anh Bác Sĩ Kha có dăn cháu Tuyết Minh, con gái cả của anh, báo cho tôi biết tin buốn khi anh ra đi, và cháu Tuyết Minh nhờ anh chị Hoàng Cầm báo cho tôi biết.

Với cái tuổi 94, anh Bác Sĩ Kha đã có một đời sống phong phú, thành đạt, có người vợ - chị Dương Tuyết Nương - hiển thục, một cháu gái và một cháu trai thành công, tôi nghĩ biết bao nhiêu người chỉ ước mong có mội cuộc đời hậu vận tốt đẹp như anh Bác Sĩ Kha.

Cầu mong đấng Tối Cao sẽ đón nhận Bác Sĩ Đinh Đại Kha về yên nghỉ miền Vĩnh Cửu.

Nay Kính

Nguyễn Thượng Vũ