Thứ Bảy, 28 tháng 8, 2021

"Huyền" - Sáng Tác & Hòa Âm: Thanh Trang - Đèo Văn Sách Trình Bày


Sáng Tác & Hòa Âm: Thanh Trang 
Tiếng Hát: Đèo Văn Sách


Có Một Sài Gòn


Có một Sài Gòn trong ánh mắt
Ta nhìn nhau như thể không rời
Có một Sài Gòn trong tay nắm
Những con đường không mỏi nằm yên


Có một Sài Gòn môi rất ngon
Ly chè trưa mưa nắng bất thường
Có một Sài Gòn đêm rất vội
Tiếng rao hàng mang những buồn thương


Có một Sài Gòn rất quê hương
Như trái tim in dấu phố phường
Có một Sài Gòn trong nỗi nhớ
Sài Gòn mưa lá gọi tên đường!


Có một Sài Gòn với nỗi đau
Quằn trên vai những vết thương còn
Có một Sài Gòn trong bão táp
Vẫn một Sài Gòn luôn đứng lên


Có một Sài Gòn những mến yêu
Hàng cây cao giữa phố rực đèn
Có một Sài Gòn đêm không ngủ
Mỗi con đường trăn trở niềm riêng


Có một Sài Gòn em rất ngoan
Mãi bên nhau dù cách muôn vàn
Có một Sài Gòn câu khấn nguyện
Sài Gòn ơi, Sài Gòn bình yên..!


Durham, North Carolina
Người Chợ Vãng


Cánh Chuồn

( Ảnh: NCKhải)

"Ngãi nhơn như thể cánh chuồn
Khi vui nó đậu, khi buồn nó bay"
(Ca dao)

Cánh chuồn mỏng dánh có bền không
Tình nghĩa thế nhân nhẹ như bông
Khuya sớm gió trăng lòng mộng mị
Thì đành buông sổng chẳng trông mong

Lời thơ ong bướm bay lượn lờ
Rải cánh hoa tình lượn lơ thơ
Cười giởn bao chiều tan bụi khói?
Nhân duyên chẳng vướng dứt đường tơ

Tự nhủ giữ lòng không dật dờ
Tim cùng đồng điệu các vần thơ?
Tình đã xa rời đành lỗi nhịp
Bỏ hẹn buông hò sống với mơ?

Nguyễn Cao Khải

Nỗi Nhớ

 

Xướng:

Nỗi Nhớ

Trời sai cơn gió đi tìm
Gặp em gió cũng đứng im lặng chờ
Đợi khi em đến bất ngờ
Thổi bay một chút bụi mờ trần ai.

Thướt tha trong chiếc áo dài
Nửa bay trong nắng, nửa phai bóng chiều
Bỗng đâu nỗi nhớ niềm yêu
Tìm về trong nỗi cô liêu ngượng ngùng.

Trời Cali bỗng trùng phùng
Gió lay động nhẹ một vùng lá rơi
Tơ vương đau thắt tình người
Đâu đây nỗi nhớ bồi hồi âm vang.

Lê Tuấn

“Tháng 9 thu về trên thung lũng hoa vàng San Jose.
***
Các Bài Họa:  

Hoài Mơ

Nhớ em biết hướng nào tìm
Tiết thu, bóng hạ lặng im đợi chờ
Thời gian lướt vội không ngờ
Từng chiều mây nhạt khói mờ ngóng ai.

Em xưa tóc xoả mượt dài
Tà bay tha thướt khiến phai nét chiều
Cho tôi lặn hụp sóng yêu
Hồn say chếch choáng liêu xiêu ngại ngùng.

Mơ em dệt mộng tương phùng
Chén trà đối ẩm bên vùng trăng rơi
Tim này dâng trọn đến người
Hoài thương hoài nhớ từng hồi nhịp vang.

Minh Thuý Thành Nội
Tháng 9/28/2020
***   
Tim Yêu

Gió xôn xao bước kiếm tìm
Tim ai rối nhịp lặng im đợi chờ
Tình len lén đến không ngờ
Hương pha chất ngất phủ mờ bóng ai

Xinh xinh tà áo buông dài
Hồn thêm ngơ ngẩn hồng phai ráng chiều
Dạt dào xao xuyến niềm yêu
Theo em chân bước liêu xiêu ngại ngùng

Hữu duyên thiên lý tương phùng
Lòng như mây tím ửng vùng chiều rơi
Này môi, này mắt, này người
Tim yêu rộn rã từng hồi reo vang

Phương Hoa 
Sep 25th 2020

Bà Mối


Tân đóng cửa phòng, tắt đèn, lên giường nằm, chờ Trâm gọi điện thoại. Đó là cái thú duy nhất của chàng hiện tại.Tân nhủ thầm không biết hôm nay cô nàng định giới thiệu mình cho ai đây.

Tuần trước Trâm hỏi chàng, giọng nghiêm trang:
-Anh sẵn sàng “ lên đường” lại chưa?
- Năm mươi phần trăm
- Nghĩa là sao ?
- Bạn thì được, hôn nhân thì chưa. Có thể còn lâu,có thể không bao giờ,nhưng cũng có thể tự nhiên nó tới. Có điều anh không tìm kiếm hoặc không để ai kia coi đó như một điều kiện tiên quyết để gặp mặt.
-Hơi khó! Đầm được không ?
- Việt Nam thôi. Đầm thì xin khỏi nhờ em.
- Anh “ngon “ lắm ! Em có mấy chị quen, sẽ lần lượt giới thiệu cho anh.
Trâm nói và làm.Trưa hôm sau nàng gọi điện thoại vào sở Tân, cho số điện thoại chị bạn đầu tiên và bảo Tân gọi điện thoại ngay cho Hằng, tên chị bạn.Trâm cho Tân biết sơ về Hằng: Ba mươi sáu tuổi, chưa chồng, kế toán trưởng của một công ty ngoại quốc. Đẹp cả mặt lẫn thân hình, thích thể thao, du lịch. 

Trâm thêm:
-Anh cao thước bảy, Hằng cao một thước sáu mươi lăm. Hai người đi với nhau rất cân.Tân gọi vào sở Hằng thì nàng đang bận một đường dây. Tân để số điện thoại lại.Chừng nửa giờ sau Hằng gọi lại.Giọng Hằng trong trẻo.Tân vào đề ngay bằng một câu khiêm tốn:
-Nghe Trâm nói nhiều về Hằng nên tôi mong được biết Hằng.
-Vâng,có nghe Trâm nói hôm nay anh sẽ gọi.Hằng có nói với Trâm cứ để mọi sự đến tự nhiên.
Mình lớn cả.Hằng năm nay ba mươi sáu tuổi, còn “ free”. Anh?
Hằng có lối nói thẳng, Tân thấy mình cũng phải thật và gọn:
-Tôi, bốn mươi bảy, không biết có quá lớn tuổi đối với Hằng không?
-Tuổi tác không thành vấn đề.
- Gia cảnh: ly dị, hai con.

Giọng Hằng bỗng trở nên sắt lạnh:
-Anh có con, thế nào cũng còn dây dưa với vợ cũ. Tình cảm và đời sống anh sẽ dài dài bị chi phối. Người đến sau sẽ bị thiệt.Hằng muốn có một người bạn trai hoàn toàn “free”. Mong anh Tân hiểu.
-Vâng, tôi hiểu. Tôi tưởng Trâm đã nói gia cảnh tôi cho Hằng biết trước.
-Trâm không nói gì cả. Sorry anh Tân, chúng ta không nên gặp nhau.
-Cám ơn Hằng đã rất thẳng thắn.
Gác máy xuống Tân nghe lòng nhẹ nhõm.Chàng không mảy may cảm thấy tự ái bị tổn thương vì sự từ chối rất trực tiếp của Hằng. Tân thản nhiên tiếp tục công việc cho đến hết giờ.
Tối đến Trâm gọi điện thoại:
-Anh đã gọi cho chị Hằng chưa?
- Rồi,cô ấy từ chối.Sao em không nói trước gia cảnh của anh cho cô ấy hay?
-Thì em muốn để hai người tự tìm hiểu nhau.Anh thấy Hằng nói chuyện ra sao?
-Khá tính toán.
-Nghề của chị mà lại! Anh biết không, chị kể cho em nghe, ngày đầu tiên đến nhận việc, ngồi vào bàn, việc đầu tiên chị làm là mở nội qui ra xem năm nay chị sẽ được nghỉ hè bao nhiêu ngày! Giới thiệu chị cho anh, em nghĩ anh cần một người đàn bà biết tính toán để giữ tiền cho anh.
Anh có biết là anh hay tiêu bậy lắm không?
-Sao em biết anh hay tiêu bậy?
-Cả làng biết chứ riêng gì em! Người thứ hai em tính giới thiệu cho anh nhưng nghĩ lại thấy chắc không được. Chị ấy goá chồng, chồng chết vì một tai nạn xe hơi, một con, rất có tiền.Nếu anh chỉ cần tiền thì em giới thiệu.
-Anh không cần tiền, nhưng tại sao em lại không muốn giới thiệu cô ấy cho anh ?
- Vì em biết anh chỉ thích người vừa đẹp vừa cao, chị ấy vừa thấp vừa ..bình thường.
- Sao em biết anh chỉ thích đàn bà đẹp và cao?
- Cả làng biết chứ riêng gì em!
Tân mắng đùa Trâm:
-Cô này hay nhỉ, cứ võ đoán rồi đổ thừa cho cả làng!
-Nhưng mà có đúng như vậy không?
-Thì đúng.Dù không đúng cũng cho như là đúng để em cố gắng giới thiệu người theo tiêu chuẩn ấy.
Một tuần sau, Trâm gọi vào sở Tân lúc gần trưa;
-Có người đúng tiêu chuẩn để giới thiệu cho anh. Chủ một thẩm mỹ viện, tên Mai, bốn mươi tuổi, ly dị, không con. Số điện thoại đây, anh ghi đi. Gặp xong gọi cho em biết kết quả.Em mong
anh có bạn để đi chơi;anh đừng ở nhà, cô đơn, em không yên tâm.

Nói chuyện với Mai chừng mười lăm phút, Tân thấy có khách vào tiệm liền đứng lên chào từ giã.
Đúng như Trâm tả, Mai cao, đẹp sắc sảo, ăn mặc hợp thời trang. Cái nhìn và nụ cười cỏi mở của Mai trong lúc nói chuyện cho Tân cảm nghĩ nếu chàng mở lời chắc sẽ được đón nhận.
Trâm gọi chàng vào giờ thường lệ.
-Anh đi đâu giờ này mới về, hồi chiều em gọi hai lần không có.
-Anh ngồi ở công viên, hóng gió và suy nghĩ.
-Anh lọt mắt xanh của chị Mai rồi đó. Chị có gọi điện thoại cho em. Phần anh thì sao?
-Chắc không được đâu em.
- Vì sao?
-Mai thật hoàn toàn. Có điều anh thấy Mai hợp với cuộc sống ở bên ngoài hơn là ở trong nhà.Mai làm anh nghĩ đến bà vợ đã chia tay. Không nên tìm một hình dáng mới giống hình bóng cũ, dù là một hình dáng đẹp, phải không em?
- Thôi mình đổi đề tài. Đọc cho em nghe một bài thơ của anh.
Tân đọc cho Trâm nghe bài thơ mới nhất của anh. Nghe xong Trâm bảo Tân đọc lại một lần nữa.
-Em nghĩ thơ nên đọc hơn là ngâm. Anh có biết anh có giọng đọc thơ truyền cảm lắm không?
-Điểm này chắc cả làng đều biết chứ không riêng gì em.
-Không sai!
-Hỏi em câu thơ “ hương mến yêu là lộc của lời thơ “ của ai?
- Hàn Mặc Tử
- Đúng. Ai làm thơ, nói chuyện thơ với em chắc thích lắm. Để anh giới thiệu em với mấy người bạn làm thơ của anh.
-Người thơ không cần phải được giới thiệu, người yêu thơ có bổn phận phải tìm đến với người thơ anh ạ.

Trâm gọi cho Tân một giờ sớm hơn thường lệ.
-Anh thấy chị Nga được không?
- Dưới tiêu chuẩn một chút nhung bù lại cái dáng rất sang.Chỉ tiếc một điều Nga hút thuốc.Em không biết là anh dị ứng với mùi thuốc lá sao?
-Em biết là anh không hút thuốc nhưng không biết anh dị ứng với mùi thuốc lá.
-Điểm này thì hình như cả làng đều biết, trừ em!
Trâm cười.Im lặng rơi giữa hai cái máy điện thoại.Tân lên tiếng trước:
-Anh muốn hỏi em điều này.
-Anh hãy hỏi.
-Dưới cái nhìn của em,mẫu người đàn bà nào thích hợp cho anh ở giai đoạn nầy?
-Chỉ có một mẫu đàn bà thích hợp với anh ở mọi giai đoạn. Anh yêu hai các đẹp cùng một lúc, thể xác lẫn tinh thần. Yêu ngang nhau và cái khó là ở chỗ đó.Anh có thể rung động trước một nụ cười, một ánh mắt nhưng sự rung động đó sẽ mau chóng tan biến nếu nụ cười ấy, ánh mắt ấy không chất chứa một cái gì thắm thiết, nồng nàn bên trong.Cái khó thứ hai, anh có biết anh nhiều thói hư lắm không?Hư mà không muốn bỏ, thế nhưng, nếu ép anh bỏ, cuộc sống anh sẽ mất thăng bằng. Thế cho nên người đàn bà yêu anh và hợp cho anh phải là người đàn bà biết ăn canh
mướp đắng, nghĩa là phải biết tìm thấy vị ngọt trong chất đắng.

Hai giờ sáng, Tân vẫn nằm gác tay lên trán suy nghĩ.Chàng nghĩ về Trâm, về tất cả những gì nàng làm cho Tân trong mấy tuần qua.Những người đàn bà Trâm lần lượt giới thiệu, mỗi người đều có một điểm hoặc Tân không thích nơi họ hoặc họ không thích nơi Tân. Trâm vô tình hay cố ý? Nếu cố ý thì sao? Tân chợt cảm thấy hình như đó cũng là điều chàng mong muốn.Tân tung chăn, bật đèn, gọi điện thoại choTrâm:
-Gọi giờ này biết là phiền em, nhưng không gọi không ngủ được.
Giọng Trâm tỉnh táo:
-Em cũng chưa ngủ, đang đọc sách.Em biết anh cần bạn. Ngày mai em sẽ gọi điện thoại cho chị Nguyệt, hy vọng lần này anh sẽ gặp đươc người như...
Tân không để Trâm dứt câu;
-Thôi em đừng giới thiệu nữa.
-Vì sao ?
-Vì anh không muốn?
Tân không trả lời câu hỏi của Trâm:
-Anh có chuyện này muốn nhờ em, nếu em làm được chắc anh sẽ vui.
-Chuyện gì làm anh vui, em sẽ làm.
-Em giới thiệu cho anh mấy người rồi mà không thành. Sao em không thử...tự giới thiệu đi, biết
đâu nó lại thành .

Trang Châu

Thứ Tư, 25 tháng 8, 2021

Mẹ - Nhạc Và Lời: Trương Minh Cường - Hoà Âm Thanh Lâm

 
Nhạc Và Lời: Trương Minh Cường 
 Hòa Âm Thanh Lâm 
PPS: Phạm Huy Chương - 2010

Thương Mẹ


Thèm ơi giọng nói du dương,
Dịu dàng, êm ái đã vương vào đời;
Thèm nhìn Mẹ đứng, nằm, ngồi
Võng ru con ngủ, bếp nhồi ổ qua
Thèm đi bên áo dài hoa
Tà bay trong gió, theo Cha viếng chùa.

Nay bàn chân Mẹ già nua
Nằm hoài một chỗ, gió lùa lạnh không?
Tập đi nạng, được mấy vòng?
Các em dìu dắt, lưng còng có run?

Chân xưa giỏi lội sình bùn,
Cõng, đeo, mang, xách… mưa phùn chẳng kiêng;
Tay xưa ẵm, quảy, gánh, khiêng…
Con bồng, đầu đội, láng giềng nhìn quen.

Con thơ bế, dắt… chợ len
Chân đi như chạy, con khen Mẹ hoài
Bàn tay liên tục loay hoay
Bàn chân đen đúa, dạn dày bán buôn.

Vì con, Mẹ cực khổ luôn
Bây giờ Mẹ khổ: đứa chuồn, đứa xa
Thương làm sao, tuổi về già
Bán thân bất toại cháo, trà ai dâng?

Chín mươi chưa trọn đường trần
Mẹ mang lắm bệnh cực thân, than trời
Con thương Mẹ lắm! Mẹ ơi!
Tấm lòng hiếu thảo biết lời nào thưa?
 
Các em có hiểu gì chưa?
Vòng sinh, lão, bệnh chẳng chừa một ai!
Nếu không hiếu thảo hôm nay
Một mai em bệnh ai bày HIẾU ra?

Ý Nga
31.3.2018

Mùa Báo Hiếu


 Bài Xướng:

Mùa Báo Hiếu

Đây chốn nhân gian ngập ánh vàng
Khi mùa báo hiếu đã dần sang
Cho hoa nở rộ bao màu sắc
Để bướm tung bay khắp nẻo đàng
Nghĩ đến cố hương sầu chất ngất
Thương về hiền mẫu nhớ mênh mang
Bồi hồi lữ khách dừng chân bước
Lắng tiếng chuông ngân phía đạo tràng

Nguyễn Kinh Bắc
***
Bài Họa:

Mùa Hiếu Hạnh

Bình minh tỏa rạng ánh dương vàng,
Sinh sắc Vu Lan chở nắng sang.
Gio thoảng hiu hiu lùa trước ngõ,
Trăng vàng rời rợi trải bên đàng.
Cha sinh, nghĩa cả, lòng thâm đặng,
Mẹ dưỡng, ân dầy, dạ nặng mang!
Chuông thỉnh lắng niềm ,siêng tụng niệm,
Nâng tay xoay ngón lựa lần tràng.

25-8-2021
Nguyễn Huy Khôi

Vu Lan Nhớ Mẹ


Vu Lan trước con làm thơ*

Nguyện xin Chư Phật Phù hộ Mẹ yêu

Mẹ con nay tuổi đã chiều

Cúi xin Bồ Tát ban điều thọ khang

Ai dè vật đổi sao tan

Năm nay mùa hiếu Mẹ con mất rồi!

Mẹ ơi con đã mồ côi!!

Mất Mẹ con mất cuộc đời mộng xinh,

Mất Mẹ con mất bình minh,

Mất Mẹ con chịu điêu linh dặm trường.

Mất Mẹ con mất tình thương

Bao la như biển đại dương dạt dào

Mẹ ơi chín chữ cù lao *

Con chưa báo đáp phần nào nghĩa sâu

Mẹ ơi giờ Mẹ nơi nao?

Con như giữa cảnh chiêm bao mơ màng

Hôn con Mẹ thốt dịu dàng

Nhìn con âu yếm hai hàng nhẹ rơi...

Ru con Mẹ khẽ ru hời,

À ơi con hỡi con ời con ơi

Lòng con phơi phới vui tươi

Con như có cả khung trời mộng xưa

Một làn gió thoảng nhẹ đưa,

Tỉnh ra như thấy Mẹ vừa bên con

Một mình nơi mộ cỏ non,

Mơ hồ Mẹ vẫn bên con dịu dàng

Nào ngờ sự thật phũ phàng

Bên con chỉ có chiều tàn buông nhanh

Ánh dương khuất lấp qua mành

Màn đêm phủ xuống vây quanh đi mình

Ai gây ra nỗi tử sinh?

Để cho mẫu tử dứt tình từ đây.

Tìm đâu tình mẫu tử này

Chung quanh con chỉ dẫy đầy quạnh hiu

Bóng chiều phủ xuống buồn thiu

Một mình côi cút biết chiều về đâu

Mẹ ôi một cuộc bể dâu

Con không có MẸ nỗi sầu nào hơn…!!

 

Tha Nhân

Camthành (Mùa VU LAN Canh Thìn, tháng 8/2000)

* Công lao nuôi con khó nhọc cûa cha mẹ. Chín chữ: SINH: sinh ra ta; CÚC: công nuôi nấng ta thành người; VŨ: ơn vuốt ve trìu mến; SÚC: công bú mớm; TRƯỞNG: công nuôi lớn; DỤC: công dạy dỗ nên người; CỐ: công chăm nom săn sóc; PHỤC: tùy theo tính nết mà dạy bảo; PHÚC: công giữ gìn bảo bọc ta

CÙ LAO; CÙ: nhọc nhằn; LAO: vất vả.

*Mùa Vu Lan Đinh Sửu, mùng 4 tháng 7 âm lịch nhằm ngày 6/8/1997.

 

Bông Hồng Cài Áo -2015 - Ý: Thích Nhất Hạnh - Nhạc Nguyễn Thanh Cảnh - Ca Sĩ Xuân Phú


Ý: Thích Nhất Hạnh 
 Nhạc Nguyễn Thanh Cảnh 
Ca Sĩ Xuân Phú

Mùa Vu Lan Năm Nay

 

Mùa Vu Lan Mẹ cúi đầu xuống thấp
Bên xác chồng trong nỗi lặng thinh
Mùa Vu Lan Mẹ không còn nước mắt
Khóc cho con trong câm nín tội tình!

Cuối tháng Tám, 2021
Nguyễn Hoài Nam


Nguyện Cầu Cho Quê Mẹ


Ôi có một nổi buồn
Pha lẫn nhiều cảm thương
Khi thấy người đồng hương
Chịu đắng cay đày đọa

Hướng tâm về quê mẹ
Chúng ta hãy cùng nhau
Thành tâm xin cầu nguyện
Dịch bệnh bớt lan truyền

Hỡi những người ngồi cao
Có thấy ngàn nổi đau
Nghe chăng lời ai oán
Tang tóc nhuộm trắng màu

Hãy cứu giúp đồng bào
Bệnh dịch lây rất mau
Triệu người đang chao đảo
Dân nghèo đang lầm than

Người người đang bất an
Nhà nhà buồn thê lương
Tai nghe lắm đoạn trường
Mắt thấy họa quê hương

Ai gây cảnh đoạn trường
Chỉ vì muốn bành trướng
Mộng bá chủ hoàn cầu
Gây lắm cuộc bễ dâu

Cầu khốn khổ qua mau
Đời sống lại muôn màu
Nụ cười ngời hy vọng
Quê hương ơi tôi mong

Trúc Lan KTP 
21/ 08/21

Vu Lan... Bỗng Nhớ

 

Tên hắn là Mai Anh Tuấn. Tôi để ý đến hắn, không phải vì cái tên với cái họ “lạ”, họ Mai. Cũng chẳng phải vì hắn là công tử con nhà giàu. Nghe nói ba hắn đi qua Mỹ từ ngày chạy loạn 30/4, nên cuộc sống mấy mẹ con rất ung dung khá giả. Mới học lớp 6 thôi, mà hắn đi học mặc quần tây áo sơ mi “đóng thùng” chỉnh tề, tay còn đeo chiếc đồng hồ nữa cơ.

Tôi thích đôi mắt hiền của hắn, nhìn chúng tôi chơi đùa, khi bị cả lớp tránh xa, vì cái tội “con nhà giàu”. Giờ ra chơi, thời buổi khó khăn, chúng tôi chỉ được củ khoai lang khoai mì, sang lắm là miếng xôi, cái bánh cam, còn hắn thì gặm bánh mì thịt, nên thường bị đứng bơ vơ ở một góc sân trường. Tôi thích nhìn mái tóc của hắn, màu hạt dẻ, mềm mại, khi hắn hất cái đầu thì làn tóc bồng bềnh, vài cọng xoã trên trán, nhìn cũng…hay hay, và chẳng hiểu sao, tôi rất thích nhìn cánh tay đeo đồng hồ của hắn, khi hắn đưa lên xem giờ, có vẻ rất điệu nghệ, dù hắn chỉ là thằng nhóc tì mười hai tuổi, cũng đã làm cho con nhóc tì là tôi để ý (dù là nhìn lén!). Nhưng với bản tính trẻ con, tôi mê chơi với lũ bạn, không thèm dòm ngó hay bận tâm nhiều đến thằng bạn thuộc “giai cấp” khác. Thậm chí, còn có rất nhiều lần, bực bội chuyện học hành, hoặc cãi lộn với bạn bè, tôi nổi sùng, “giận cá chém thớt”, đi ngang qua chỗ hắn với cái liếc mắt nhọn hơn dao găm.

Gia đình tôi có hai căn nhà, một kế bên Chùa Vĩnh Quang, một gần Nhà Thờ Đức Tin, nên tôi là cư dân của hai xóm này. Thuở bé, hễ mùa Vu Lan là tôi theo mấy đứa trong xóm chạy qua Chùa chầu chực thức ăn nhà Chùa phát thí cho…cô hồn các đảng. Lớn lên, tôi có thói quen dừng lại trước cửa Chùa, ngắm vườn Chùa nhỏ xinh với cây Ngọc Lan toả mùi thơm ngát. Hôm đó, tôi vừa có dịp đi ngang Chùa, thì có bóng người bước ra:
- Chào bạn, nhớ tôi không? Mai Anh Tuấn nè …
Nghe cái tên là tôi nhận ra cả người, và cả một thời “khi xưa ta bé”, nên hơi ngại ngùng:
- Bao nhiêu năm rồi nhỉ? Sau năm học đó, bạn đi đâu?
- Nhà mình dọn qua Xóm Thuốc.
- Vậy sao hôm nay có mặt ở đây, bộ bên Xóm Thuốc không có Chùa sao?
- Có chớ! Nhưng tại hồi còn sống, mẹ của mình hay đi Chùa này…

Đôi mắt hắn, vẫn đượm buồn như năm xưa, giờ còn buồn hơn, khi kể về nỗi đau mất mẹ bất ngờ vì tai nạn, trong khi hắn đang đi chơi ngoài Vũng Tàu nên không kịp nhìn mặt mẹ lúc hấp hối. Cây Ngọc Lan trong vườn Chùa rụng rơi mấy nhánh hoa, đậu trên vai hắn. Trên chiếc áo trắng của hắn còn gắn một bông hồng trắng mà tôi chợt nhìn ra. Cơn gió nhẹ thoáng qua, hắn lại hất mái tóc mềm mại như thuở nào, và tôi cũng kịp nhìn trên tay hắn có đeo chiếc đồng hồ. Mọi thứ thực, hư, hiện tại, quá khứ xuất hiện đan xen nhau, trong vườn Chùa rộn ràng kẻ qua người lại, nồng nàn mùi khói nhang, hoà với tiếng mõ tụng kinh từ chánh điện vang xa, và đôi mắt hắn u hoài, tiếc thương, xa xăm…là hình ảnh tôi mang theo về tận nhà, vào trong giấc ngủ mộng mị.

Và tôi biết, tôi chưa bao giờ ghét hắn. Giờ lại càng thấy gần gũi mến thương hơn, không phải vì hắn còn “hất mái tóc màu nâu bồng bềnh”, hay “tay đeo đồng hồ ấn tượng”, mà vì hắn cũng đang giống như tôi: mồ côi mẹ!

Ngọc Lan

Chỉ vì Ngọc Lan, tôi làm thơ
Nhớ về kỷ niệm của ngày xưa
Tôi và anh, hai người xa lạ
Tình cờ gặp nhau, vãn cảnh chùa

Trời nắng, dưới cây tìm bóng mát
Hoa trắng tinh, đài các, dài thon
Lá xanh mượt mà, làm ngây ngất
Êm ả không gian mùi nồng thơm

Điếu thuốc trên tay, anh mơ màng
Khung trời bé nhỏ thật bình an
Bỏ ngoài kia buồn vui, sương gió
Chẳng vướng bận lòng chuyện trần gian

Đời anh ngược xuôi vì thời cuộc
Đợi chờ ngày sóng nổi ra khơi
Tôi cũng mong một lần biển gọi
Vượt trùng dương tìm bến xa xôi

Mình đi dạo vườn chùa trước sân
Bướm hoa ríu rít cũng bâng khuâng
Vào chánh điện nghe hồn thanh tịnh
Xuống trai phòng nhấp chén trà sen

Bữa cơm chay ngon miệng lạ lùng
Nhang trầm lảng bảng đại hồng chung
Chú tiểu lí lắc mang tay nải
Oản xôi, tiễn khách về, chiều buông

Ngọc Lan rung rinh, chào lưu luyến
Anh hái tặng tôi một nụ tươi
Đêm về giấc ngủ còn xao xuyến
Khói thuốc bay hay cành hoa rơi?

Hôm nay ai nhắc đến chùa xưa
Ôi ngọt ngào cánh gió ngẩn ngơ
Của một lần tao ngộ năm cũ
Tóc rối bồng bềnh …Tôi mộng mơ …


Kim Loan

Thứ Ba, 24 tháng 8, 2021

Thơ Tranh: Hoa Lòng Tưởng Nhớ

  

Thơ & Thơ Tranh: Kim Oanh

Khóc Cha!

  

Ôi thôi Bố mất mất rồi!
Mặt trời rụng xuống đời tôi còn gì!?
Bố ơi sao Bố vội đi!?
Cho lòng con trẻ khúc bi đoạn trường!

Cuộc đời vốn lẽ vô thường
Nhưng lòng con vẫn đau thương ngập tràn!
Cha hiền sớm mất than ôi!
Con đành chịu tiếng mồ côi với đời!

Từ nay thôi mất hết rồi
Bóng cha đâu nữa để tôi cậy nhờ.
Linh hồn cha có hay chăng tá!?
Nỗi niềm con từ ngả chia ly

Đớn đau thay cảnh phân kỳ
Con nào dám nghĩ biệt ly bao giờ!
Lòng con chết điếng lặng lờ
Con đà đánh mất giấc mơ của mình!

Đời con đã mất bình minh
Bồi hồi nghĩ tới tử sinh chẳng ngờ
Con như đang sống trong mơ
Ngậm ngùi nhớ đến ấu thơ từng ngày

Con những muốn mơ thay thực tại
Đời hoa tươi êm ái tuổi thơ!
Xót thay trong lúc đang mơ
Con nào ngờ được có giờ biệt ly!

Tình phụ tử tìm chi thấy nữa
Chỉ vì kia ngọn lửa vô tình
Vô tình đốt cháy thân hình
Vô tình đốt cháy mối tình thiêng liêng!

Cũng chỉ vì ngửa nghiêng Đất Nước
Tình cha con tạm bước rời xa
Ai ngờ trời nổi phong ba
Nên tình phụ tử thật xa cách rồi!

Cha ơi con đôi lời bày tỏ
Nỗi niềm con vò võ từ đây!
Tình cha thật quả cao dày
Công ơn sinh dưỡng con rày khắc sâu.

Chắp tay xin một câu con nguyện
Cầu Tam Bảo thể hiện nơi cha
Nguyện xin Đức PHẬT DI ĐÀ
Từ bi tiếp dẫn Cha về Tây Phương!

Trước di hình thắp hương con lạy
Lạy cha hiền xin hãy xót thương
Lòng con đầy nỗi vấn vương
Những lời cha dạy con thường khắc ghi

Nguyện theo đường hướng cha đi
Không gì lay chuyển không gì phôi pha!!
Tình Non tình Nước tình cha
Tình Non tình Nước tình Nhà Việt Nam…!!

Tha Nhân
Trưởng nam ai khấp!
30/11/2001 nhằm ngày 16/10 Tân Tỵ ngày cha mất

Vu Lan Nhớ Mẹ



Nhớ mẹ lắm, những ngày khốn khổ
Mái tranh nghèo lắm chỗ mưa rơi
Kiếp nghèo buồn lắm ai ơi!
Đói cơm thiếu áo...không người đỡ nâng

Đêm nằm ngắm ánh trăng xuyên cửa
Ngọn đèn dầu, ánh lửa hắt hiu
Nhớ cha buồn biết bao nhiêu
Đời người vất vả trăm điều gian nan

Con khờ dại...trần gian cha đã
Cõi vĩnh hằng vội vã dời chân
Ngày ba tháng bảy mưa giăng
Bỏ lại mình mẹ nặng oằn, đàn con

Vẫn chặt dạ, lòng sơn mẹ giữ
Dạy con khờ vẹn chữ hạnh ngôn
Rồi ngày con đã lớn khôn
Dựng bề gia thất, tông môn rỡ ràng

Đời đã qua trăm ngàn lận đận
Mẹ già nua...vẹn phận làm con
Mẫu từ đã khuất núi non....
Mùa Vu Lan đến lòng con ngậm ngùi...

Cầu cho mẹ an vui tiên cảnh
Cửa phật đài lấp lánh hào quang
Lánh xa trần tục thế gian
Về nơi cực lạc nhẹ nhàng thảnh thơi...!

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Bạc Liêu/16/8/2021
Hồng Vân 

Cha Mẹ Là Tất Cả - Thầy Thanh Vân - Kim Trúc


Sáng Tác: Thầy Thanh Vân
Trình Bày: Kim Trúc


Hiếu Hạnh Mùa - Trải Thơm Mùa

 

Bài Xướng:

Hiếu Hạnh Mùa


Lắng tiếng chuông ngân hiếu hạnh mùa
Quay về nương tựa lánh hơn thua
Lời khuyên trí vững dù giông tới
Ý dạy tâm an mặc gió lùa
Học hỏi trường đời câu ấm lạnh
Nhân tình đón nhận vị cay chua
Thâm ân dưỡng dục luôn ghi khắc
Lắng tiếng chuông ngân hiếu hạnh mùa

Kim Phượng
***
Bài Họa:

Trải Thơm Mùa

Chuông ngân hiếu hạnh trải thơm mùa
Gửi mộng bên đường lánh được thua
Tịnh dạ quay về dù bão tới
An tâm trở lại kệ mưa lùa
Sông đời lặn lội bao cay đắng
Dặm thế trôi lăn lắm chát chua
Nghĩa mẹ ân cha hoài khắc nhớ
Chuông ngân hiếu hạnh trải thơm mùa

Hương Thềm Mây
21.8.2021
***
Cảm Đề

"Một lòng thờ Mẹ,kính Cha,
Cho trọn đạo hiếu mới là đạo con"
(Ca dao)

Vu Lan-Đại Lễ rộ xanh mùa,
Đạo Pháp khôn ngừa sự thắng thua.
Nỗi nhớ Phụ Thân xua gió tạt,
Niềm thương Hiền Mẫu đẩy sương lùa.
Mẹ gồng bão tố dầm cay cực,
Con hưởng trái lành vợi chát chua.
Nghĩa trọng,ân dầy lưu vạn thuở,
Vu Lan-Đại Lễ rộ xanh mùa.


22-8-2021
Nguyễn Huy Khôi

Chan Chứa Tình


(Ảnh: NguyênCaoKhai)

Khi còn bé nhỏ non măng
Mẹ cha bảo bộc móm ăn như hình
Nhìn con trìu mến bao tình
Chút chăm từng miếng thân mình lãng quên

Bước đi chập chững lừng khừng
"Nó đi ... " con té ba mừng mẹ xoa!!!
Rồi bao mấy tháng trôi qua
"Ma" "Pa" "Pa" "Má" cười khà dạy kêu.....

Lần đầu khi đến cỗng trường
Ba chờ con khuất mới bương đường về
Tan giờ má đợi không nề
Ba chờ trước cửa vỗ về hỏi han
"Hôm nay con học chữ gì..."
"a bờ" có được "tờ i" mực lem?

Bao năm bay nhảy ngoài đường
Nhớ lời khuyến dạy tình thương tràn đầy
Bao nhiêu công đức sâu dầy
Con không trả nỗi con đây nhớ hoài!

Con rơi nước mắt thật rồi...
Con xin phũ phục bồi hồi lòng tâm

Nguyễn Cao Khải

Vu Lan Nhớ Mẹ


Xướng:
Vu Lan Nhớ Mẹ

Mùa báo hiếu con không về thăm Mẹ
Thắp nén hương ngôi mộ nhỏ lưng đồi
Quê nghèo ấy nay đã quá xa xôi
Nhớ thương Mẹ tim quặn đau nhỏ lệ

Mẹ đã mất mười năm hơn có lẻ
Sao dường như Mẹ vẫn mãi bên đời
Vẫn vẳng nghe tiếng Mẹ hát ầu ơi
Ru con ngủ những ngày còn thơ dại

Đêm hôm ấy con vẫn còn nhớ mãi
Phút lâm chung Mẹ nắm chặt tay con
Môi thì thào những lời cuối không tròn
"Đừng khóc nữa con ơi đừng khóc nữa"

Mẹ đi rồi con mất nơi nương tựa
Nơi xứ người thân lạc lõng bơ vơ
Thèm làm sao những đêm tối trăng mờ
Gặp lại Mẹ trong giấc mơ êm ái...

PhamPhanLang
***
Họa:
Đêm Vu Lan

Đêm VU LAN con ngồi đây nhớ MẸ
Bỗng hiện ra nơi vắng vẻ bên đồi
Nhói lòng thương MẸ nằm đó đơn côi
Trăng viễn xứ ánh ngời đôi mắt lệ

Trăng quê nhà có soi phần mộ lẻ
Mẫu từ xưa vì con trẻ một đời
Ơn sinh thành dưỡng dục lớn MẸ ơi
Bởi được nuông từng cãi lời, khờ dại

MẸ đi rồi nát tim ân hận mãi
Mỗi độ Xuân về tê tái lòng con
Kiếp tha hương đầy thương nhớ mõi mòn
Đợi ngày về càng héo hon thêm nữa

Tối VU LAN một mình con đứng tựa
Trước hiên nhà nhìn trăng bủa vu vơ
Tiếng chuông ngân nức nở mắt hoen mờ
Thương nhớ lắm, ôi MẸ hiền từ ái

Phương Hoa
Vu Lan 2021

Bông Hồng Cài Áo - Truyện Của Phương Lan


Tác Giả: Lưu Phương Lan
Giọng đọc: Hải Lan, Nguyễn Hữu Nhung

Mẹ Ốm

 

Năm ấy tôi khoảng 9-10 tuổi còn đang học tiểu học.
Buổi chiều tôi chơi nhảy dây với mấy bạn ngoài sân, tôi khoe với con Na con Nụ là hôm nay mẹ tôi sẽ làm ruốc cho tôi ăn, món này tôi thích nên tưởng ai cũng biết. Con Na hỏi:
- Ruốc là cái gì?
Tôi quá quen với món này liền trả lời:
- Ruốc làm bằng thịt heo, mẹ tao luộc thịt, giã thịt và rang với nước mắm cho đến khi thịt bông lên. Ngon lắm.
Con Nụ gật gù:
- Tao biết rồi, thịt chà bông.
Đúng lúc này mẹ đứng ở ngưỡng cửa gọi tôi. Tôi bỏ cuộc chơi chạy về nhà,

Tôi thấy gương mặt mẹ bơ phờ và mùi dầu cù là xông lên là biết mẹ đang ốm rồi. Mỗi lần nhức đầu hay cảm cúm mẹ tôi đều bôi dầu cù là. Mới sáng nay lúc tôi sửa soạn cặp vở đi học mẹ còn vui vẻ nựng nịu tôi:
- Chốc mẹ đi chợ mua thịt heo về làm ruốc cho con ăn, con gái mẹ ngoan và học giỏi nhé.
Trưa tôi đi học về mẹ chưa làm món ruốc, mẹ thấy mệt nên để chiều mới làm vậy mà bây giờ vẫn chưa xong. Mẹ bảo tôi:
- Con giã nốt cho mẹ chỗ thịt heo chốc nữa mẹ sẽ rang ruốc, mẹ nhức đầu quá nằm nghỉ thêm chút nữa.
Mẹ vào giường nằm đắp chăn, thấy mẹ nằm im trong tấm chăn tôi khóc òa sợ mẹ chết, mẹ phải an ủi tôi:
- Mẹ chỉ nằm nghỉ mệt, chết đâu mà con khóc.

Tôi mang cả cối chày lên gần giường mẹ để giã thịt và canh chừng mẹ, cứ làm như tôi ngồi gần sẽ cứu được mẹ thoát khỏi tay tử thần.
Mẹ lại thò đầu ra giọng mệt nhọc bảo tôi:
- Mẹ đang nhức cả đầu mà con giã ngay bên đầu mẹ thế này làm sao mẹ chịu được.
Tôi lủi thủi mang cối chày xuống nhà bếp giã thịt.
Khi tôi giã xong chỗ thịt heo thì mẹ xuống bếp để rang thịt, tôi không biết hỏi mẹ đã đỡ chưa nhưng thấy mẹ đi đứng làm việc là tôi vui và nghĩ là mẹ đã khỏi ốm. Thế là tôi lại chạy ra ngoài sân tìm mấy đứa bạn rủ chơi nhảy dây tiếp trong khi chờ món ruốc của mẹ xong để ăn bữa cơm chiều.

Tôi lại hãnh diện khoe với con Na con Nụ:
- Chốc nữa tao ăn cơm với ruốc, mẹ tao đang làm.
Con Nụ nói:
- Sao chỉ thấy mày khoe một món ruốc? má tao nấu nhiều món ăn ngon lắm, cá kho tiêu, thịt kho hột vịt..
Tôi bênh vực mẹ tôi:
- Mẹ tao cũng biết làm đủ thứ, nhưng món ruốc ngon nhất đời tao.
Chơi nhảy dây được một hồi thì mẹ lại ra ngưỡng cửa gọi tôi về, tôi nói với Na và Nụ trước khi hớn hở chạy bay về nhà mình:
- Tao về ăn cơm với ruốc đây.

Mẹ nắm tay tôi nơi ngưỡng cửa và bảo tôi phải rửa tay chân đi rồi hãy vào ăn cơm. Nãy giờ chơi nhảy dây, hai bàn chân không của tôi tha hồ dính bụi đất. Chẳng những tay chân bẩn mà quần áo tôi cũng chẳng sạch sẽ gì. Tôi chạy vù xuống nhà sau rửa ráy tay chân thật nhanh.

Mâm cơm đã dọn sẵn một tô canh là nước luộc thịt nấu với rau cải xanh, một đĩa đậu hũ chiên và một đĩa ruốc thịt bông lên thơm thơm đậm đà. Tôi biết sáng mai trước khi tôi đi học mẹ sẽ mua ổ bánh mì không nóng giòn và bỏ ruốc vào cho tôi mang đi học. Mẹ biết tôi thích ăn như thế.

Bố đi làm tối mới về, không thấy mẹ đâu tôi mới biết là mẹ lại vào giường nằm vì chưa khỏe. Mặt mẹ vẫn bơ phờ, giọng mẹ yếu hơn thường lệ:
- Con cứ ăn cơm trước đi, mẹ nhức đầu cần nghỉ ngơi ..
Tôi ngạc nhiên:
- Nãy mẹ khỏi rồi mà, mẹ đã dậy làm ruốc nấu cơm….
Mẹ âu yếm mỉm cười:
- Mẹ không dậy làm cơm thì để con và bố nhịn đói à…với lại mẹ biết con đang chờ ăn món ruốc.
Tôi lại buồn:
- Thế là mẹ vẫn ốm, để con lấy lọ dầu cù là cho mẹ bôi nữa nhé.

Trong đầu óc non trẻ thơ ngây tôi cứ nghĩ càng bôi nhiều dầu cù là mẹ càng mau hết ốm đau. Mẹ lắc đầu:
- Mẹ bôi đủ rồi, mẹ nằm nghỉ hay tối nay mẹ ngủ một giấc ngày mai mẹ sẽ khỏi ốm thôi.
Nói xong mẹ kéo tấm chăn lên đắp. Hình ảnh mẹ đắp chăn nằm dài trên giường luôn là hình ảnh chết chóc làm tôi lo sợ và đau buồn. Tôi đã thấy hình ảnh này khi bà ngoại tôi qua đời. Thấy tôi vẫn đứng im tại đầu giường mẹ giục:
- Con ra ăn cơm đi.
Mẹ giục mấy lần tôi mới bước đi mà nước mắt lưng tròng, chỉ sợ khi tôi rời khỏi đây mẹ sẽ chết tôi chẳng kịp nghe mẹ nói năng…
Vừa ăn cơm tôi vừa khóc vì bàn ăn cô độc một mình, vì tôi thương mẹ đang ốm.
Càng nghĩ tôi càng tủi thân thổn thức, nước mắt tôi không biết có rơi trên bát cơm với những sợi ruốc tơi bông thơm thơm mùi nước mắm mẹ làm cho tôi không?

Sau này khi lớn khôn thêm tôi càng hiểu tình mẹ bao la dù chỉ là một hành động nhỏ, ngay cả khi mẹ mệt mỏi ốm đau vẫn gắng gượng dậy làm tròn bổn phận nấu cho chồng con một bữa ăn ngon..

Nguyễn Thị Thanh Dương.
( May 09, 2021)

Thứ Hai, 23 tháng 8, 2021

Tình Mẹ Quẩy Gánh Hàng Rong - Thơ & Nhạc Vũ Lương Đúng - Ca sĩ Tuyết Mai


Còn nhớ như in, hồi đó tôi mới sáu tuổi, nhà ở miền Bắc có ruộng và sân phơi lúa. Sau khi chiến sự xảy ra, bố mẹ tôi bỏ cả gia sản, vội dắt dìu đàn con thơ dại di cư vào miền Nam năm 1954.

Thời gian đầu tay trắng, mẹ tôi phải đành buôn thúng bán bưng, quẩy đôi gánh, một thúng là món tàu hũ (óc đậu tiếng miền Bắc), thúng kia là món tiết canh, đi bán dạo để kiếm ít tiền còm nuôi gia đình. Vì vất vả nắng mưa, mẹ tôi bị bệnh thương hàn rồi mất, trong lúc em gái út (bé thơ) mới có mấy tháng, tôi có sáu tuổi nhỏ, anh chị tôi còn tuổi thiếu nhi. Ba tôi ở vậy chịu cảnh gà trống nuôi con. Tôi nhớ rất rõ, dù bán buôn chẳng được bao nhiêu, nhưng mẹ tôi khi đi bán về, luôn mua hay cho chúng tôi mỗi đứa tiền quà...

Tôi tin rằng, mẹ tôi chết trẻ, nhưng luôn phù hộ cho cha con chúng tôi, ở thời gian đầu khá khó khăn khi mới di cư vào Nam.

Thơ &Nhạc Vũ Lương Đúng 
Ca sĩ Tuyết Mai

Vu Lan Nhớ Mẹ


Nhớ những năm xưa, ngày rằm tháng bảy
Mẹ đưa con đi trẩy hội Vu Lan
Mẹ chỉ cho con đốt những nén nhang
Bảo con quỳ xuống, nghiêm trang nguyện cầu
Lâm râm con trẻ cúi đầu
Nhờ ơn Trời Phật nhiệm mầu xót thương
Bể dâu trong cõi vô thường
Chua cay đừng nếm…đoạn trường đừng mang
Lời xin chẳng thấu thiên đàng
Ðau thương ai hiểu … bẽ bàng ai hay ?
Ðêm nay nơi xứ lạ này
Có hồn thơ nhỏ đong đầy niềm riêng
Ba mốt năm mất mẹ hiền
Bơ vơ giữa chốn đảo điên cuộc đời
Ngoài kia, gió lộng biển khơi
Trong con bão tố ngập trời thương đau!
Hoa trắng hỡi…tại vì đâu ?
Gắn lên ngực áo…để sầu thiên thu…

Lê Tống Mộng Hoa

Hạt Trấu Bụi Đời


Đừng chê hạt trấu bụi đời
Từng khi lên xuống một thời lầm than
Đừng chê hạt trấu võ vàng
Đã từng sàng sẩy đôi hàng ca dao
Đừng chê hạt trấu xạm nâu
Từng khi dùng nhổ tóc sâu mẹ già
Chuối non giờ đã trổ hoa
Trưa hè xào xạc bụi già gió đưa
Tóc sâu con nhổ mấy mùa
Nghe thời tao loạn thổi lùa đôi vai
Vạc bay cánh mỏng đêm dài
Mang con thơ dại đến đời bình yên
Xót xa thương dáng mẹ hiền
Mùi hương chùm kết còn mềm trong tay
Ngậm ngùi hạt trấu gió bay
Tủi thân nghĩ đến những ngày buồn vui
Nghe mẹ kể chuyện xa xôi
Gió nồng phe phẩy tóc lơi sợi gầy.
 

Lê Mỹ Hoàn
(Trong tập thơ Ngày Vội)

Thơ Tranh: Vu Lan Tìm Bóng Mẹ

 

Thơ & Thơ Tranh: Lê Nguyễn Nga


Đóa Hoa Vu Lan


Hoa Vu Lan…chị gởi đến các em
Em sẽ hỏi…Sao không là Sen Trắng?
Chị vẫn biết, các em yêu Mẹ lắm
Thường tự hào…Mẹ thuần khiết như Sen
Tâm Mẹ lành như những cánh Hoa Thiêng
Da Mẹ thơm như mùi hương Sen quý
Mẹ mất lâu rồi, nhưng chị cũng biết
Người như còn hiện hữu giữa chúng ta
Quên được sao…vào những buổi chiều tà
Trong xe lăn, Mẹ ngồi mong mòn mỏi…
Và Mẹ cười, mà mắt như muốn nói
Mỗi đứa con về, thêm một niềm vui…
Thương làm sao, Mẹ của chúng con ơi!
Sen đẫm hương, chúng con đầy nước mắt
(Đâu đợi Vu Lan…chúng con từng khóc…)
. . . . . .
Cùng khóc Mẹ, Mùa Vu Lan Báo Hiếu
Nếu, PHẬT ban cho chúng con điều :…Nếu,
Ước gì ?…- Con chỉ ước một điều thôi…
Con Là Con Của Ba Mẹ Muôn Đời.

Thanh Song Kim Phú

Thương Nhớ Mẹ


Bao nhiêu bài thơ con làm
Chưa bài nào con làm cho mẹ
Hôm nay đọc những bài thơ về mẹ,
của bạn bè, con cảm thấy xót xa
Đúng quá đúng những bài thơ ngợi ca
Nước mắt con tuôn trào
Thấy thổn thức, thấy nhớ thương vật vã!

Hai mươi năm kể từ ngày mẹ mất
Con lạc loài, hụt hẫng lắm mẹ ơi
Không còn mẹ, ai dậy dỗ trên đời
Những lúc khổ chẳng còn ai tâm sự
Ai khuyến khích, ai mừng con khá giả
Ai nghe con chia sẻ chuyện âu sầu..
Khi quấn khăn tang mầu buồn trắng lên đầu,
dẫu vẫn biết.. từ đây mình mất mát
Đâu ngờ rằng mất nhiều quá mẹ ơi!

Không có ai hiểu con bằng mẹ hiểu
Mất mẹ rồi, trống vắng biết bao nhiêu
Thèm mẹ mắng, nghe mẹ cười hớn hở
Mất thật rồi… ai nâng đỡ, thương yêu
Mẹ thương con, tình thương vô điều kiện
Mẹ thương con tình mẹ chẳng bến bờ

Bao nhiêu tuổi vẫn là con của mẹ
Mẹ mất rồi con bé bỏng với ai
Bao nhiêu tuổi vẫn là con gái mẹ
Thèm dụi đầu vào nách mẹ, ôm vai

Hoa hồng trắng con ngậm ngùi cài áo
Cài hàng năm vào ngày lễ Vu Lan
Nhớ mẹ yêu con đã khóc nghẹn ngào
Tháng Bẩy ta mùa Vu Lan báo hiếu
Mẹ còn đâu mà đền trả, mẹ yêu…

Mẹ yêu ơi hôm nay con nhớ quá
Nhớ mẹ hiền, con nhớ quá mẹ ơi?
Ngày hiền mẫu không còn mẹ trên đời
Thương nhớ mẹ, mẹ của con, mẹ hỡi…

Q. Như Nguyệt

Mẹ Cha

(Thương Kính gửi về Mẹ Cha tôi nhân ngày Báo Hiếu)

Mẹ là khuôn đúc ra con
Mỗi lần nhớ Mẹ soi gương thấy liền
Này là đôi mắt mẹ đen
Tính tình bố vần thường khen:
"U nó hiền"
Cơm ngon canh ngọt lại thêm
Sanh cho chín đứa … nuôi nguyên một đàn
Trời thương nuôi dưỡng vuông tròn
Sáu trai ba gái nên Ông Nên Bà
Lại thêm hiếu thuận mẹ cha
Cơm bưng nước rót dạ thưa ngọt ngào
Chưa bao giờ lời gắt mặt cau
Hiếu thuận đến thế …Lẽ nào:
Bố nào không thương
Chỉ Khổ- những lúc tai ương
Những khi chạy giặc đạn bom kinh hoàng
- Khi xưa mẹ phải quảy con
Trong hai cái thúng – Con còn nhớ in

Rồi Năm Tư đã tưởng bình yên
Di cư từ Bắc vào Nam : thanh Bình
Nào ngờ lại chẳngYên Bình
Đàn con lại phải cam đành bỏ Quê
Tám đứa bỏ nước ra đi 
- Mẹ thương mẹ nhớ…
mong con về thấy đâu
Bữa cơm mẹ ngóng rầu rầu
Còn lại có Một - mẹ bắt đầu mẹ đau
- Cuối cùng …
Mẹ mất trước Cha mất sau
Mẹ Cha nay đã về đâu hết rồi
Con nhìn Di ảnh thế thôi
Ngày Rằm Tháng Bẩy: Cúng Cơm Xôi như ở chùa
-Mong Bố Mẹ Về - Xin Phật độ cho
Mẹ trên Cõi Tịnh muôn bề Bình An

Thư Khanh
Rằm Tháng Bảy Xá Tội Vong Nhân

Cô Gái Nhỏ Làng Chài


(Cảm tác từ bài “Làng chài…” trên báo Trẻ)

Tôi là một cô gái nhỏ làng chài,
Từ thuở lọt lòng đã nghe sóng vỗ,
Biển quê tôi hàng phi lao che gió,
Che những cơn bão cát đến bất ngờ.

Biển là trò chơi từ thuở ấu thơ,
Tôi dạn dĩ chạy đùa theo con sóng,
Quà của biển là vỏ sò vỏ ốc,
Rong rêu trôi như thân phận con người.

Những ngày thuyền cha đạp sóng ra khơi,
Căn nhà vắng chông chênh như quán trọ,
Mẹ dậy sớm đi làm thuê phơi cá,
Tôi rong chơi với biển với bạn bè.

Lũ chúng tôi những đứa trẻ nhà quê,
Mặt đen xạm, tóc vàng hoe cháy nắng,
Da chúng tôi đã thấm mùi biển mặn,
Như cá vào bờ ướp muối không ươn.

Có hôm mải chơi đến lúc chiều buông,
Tôi thấy đói vội chạy đi tìm mẹ,
Một mình tôi trên biển chiều vắng vẻ,
Chợt chạnh lòng tôi nhớ mẹ thương cha.

Bóng mẹ chập chờn ở phía trời xa,
Đang sải bước về kẻo trời sắp tối,
Nếu đêm nay có trăng tôi sẽ hỏi,
Trăng có đầy thuyền, cha bớt cô đơn?

Nếu đêm nay gió bỗng thổi mạnh hơn,
Nghe tiếng sóng vọng về trong giấc ngủ,
Tôi sẽ nguyện cầu trời đừng giông tố,
Những người con của biển sẽ trở về.

Rồi ngày mai mẹ ra biển đón cha,
Người đàn ông tóc bồng bềnh nắng gió,
Người đàn ông bờ vai to ngực nở,
Bàn tay chai sần vì kéo lưới, giăng câu.

Yêu biển, yêu cha, tôi ước mai sau,
Sẽ lấy chồng lớn lên từ xóm biển,
Chàng trai ra khơi với nhiều kinh nghiệm,
( Cũng như cha làm ngư phủ ruỗi rong ).

Nhìn màu nước biển lúc đục lúc trong,
Biết loài cá nào theo dòng nước đến,
Nhìn chim biển bay biết mùa gió chướng,
Biết cơn mưa sẽ đến tự hướng nào.

Biển vẫn còn đây với rặng phi lao,
Chứng kiến cảnh dân làng chài lam lũ,
Tôi sẽ làm thuê, đảm đang như mẹ,
Sẽ đón chồng về thuyền đầy ắp cá tươi.

Nguyễn thị Thanh Dương
( June, 2008)

Bóng Mát Cuộc Đời


Năm 1954 theo hiệp định Geneve chia đôi đất nước do Liên Hiệp Quốc và quốc tế công nhận. Ông bà nội, chú Tài, cô Oanh cùng cha mẹ tôi dẫn theo anh chị di cư vào Nam, lúc đó mẹ đang mang thai tôi. Tàu đến vùng Vạn Giã gần Nha Trang, sau di chuyển ra Huế, tôi đã chào đời nơi miền sông Hương núi Ngự vào đầu mùa xuân năm 1955. Nghe mẹ kể lúc di cư vào Nam trên tàu có bé con ai mới một tuổi bị chết, không hiểu sao cha lại dùng khai sinh đó cho tôi kể cả cái tên.

Ông bà nội tôi sống nơi tỉnh Thái Bình, là địa chủ giàu có. Ông bà Ngoại cũng thuộc giới địa chủ, hai ông bạn thân thường gặp nhau chơi cờ,đánh tổ tôm, vì vậy nên muốn gả con cho nhau dù mẹ tôi hơn cha hai tuổi. Rồi thì hai bên giữ lời hứa. Bà nội muốn mẹ tôi về hầu hạ sai vặt sớm hơn nên xin cưới non, chờ lúc cha lớn sẽ cho động phòng.

Lúc đó mẹ tôi chỉ mười ba tuổi và cha thì lên mười một, nghe mẹ kể rước dâu khiêng võng, mẹ mặc váy hồng. Bà nội ở ngôi nhà ngang, thường sai mẹ quạt, hầu nước và những việc vặt, đêm ngủ với bà. Mẹ tôi không hề thấy cha vì ông ở nhà trên, thỉnh thoảng cha chơi banh lọt vô nhà, mẹ lượm đôi trả lại như hai trẻ xa lạ.

Khi cha tôi lên Hà Nội học tiếp, mẹ cũng chẳng hay biết. Đến lúc cha được mười chín tuổi, ông bà nội cho động phòng. Cha chê mẹ xấu không chịu, mấy lần trốn lên Hà Nội sống với bà con nhưng bị lôi về, cuối cùng ông cũng ở với mẹ tôi. Mẹ sinh anh Hải tôi, kế tiếp chị Giang, và mang bụng bầu di cư vào Nam. Nghe hồi đó cả gia đình nhà nội trốn đi đêm lên Hà Nội, tới Hải Phòng, nếu còn kẹt lại miền Bắc sẽ bị đấu tố và chôn sống, may mắn được xuống tàu đến bến bờ tự do.

​Ký ức tôi còn nhớ rõ vào khoảng ba tuổi nhà thuê vùng Cầu Đất, ông Nội nằm đau li bì thời gian rồi mất. Sau đám tang, cô Oanh tôi lấy chồng đi vào Nam, bà nội cũng theo cô, chú Tài thì đi lính.Vài năm tiếp tôi vẫn sống hồn nhiên chẳng biết gì… thấy có người đàn bà khác về sống chung trong nhà, sau mới biết đó là người vợ kế của cha mình.

Cha tôi đi lính ngành hiến binh, làm việc nơi cửa An Hoà, thường ghé quán nước dì Đoan bán, thấy dì đẹp nên mê mẫn. Cha về nói chuyện với mẹ, muốn mẹ đem ít lễ vật như trà rượu bánh trái lên thưa với cha mẹ dì Đoan xin cưới vợ hai cho cha. Mẹ hiền lành ngoan ngoãn làm theo, sau đó rước dì Đoan về ở trong lúc bụng bầu Dì đã lớn. Cha chuyển qua ngành quân cảnh, bị đổi vào Qui Nhơn, lúc đó gia đình tôi đã dời nhà lên thuê gần hồ Tịnh Tâm. Thỉnh thoảng cha về thăm , có hôm cha hỏi mẹ tôi dành dụm được bao nhiêu tiền, đưa cha vào mua nhà trong ấy, dự tính vợ con sẽ vào hết sau. Chờ hoài chẳng thấy cha nhắc lại chuyện nhà cửa, mẹ không biết có thật sự cha mua nhà hay làm ăn bị thua lỗ, nhưng không dám hỏi chỉ biết buồn âm thầm.

Dì Đoan sinh được ba trai kế tiếp tên Hùng, Hồ, Hà. Dòng họ ông nội là “Nguyễn Cao...” mấy đời, khi vào Nam cha đổi tên các con trai “Nguyễn Dương ...” , cha nói “ đâu còn sang trọng chi nữa mà dùng chữ “Cao”. Hằng ngày dì Đoan đi chợ nấu ăn, mẹ tôi chăm sóc giữ các cháu chung. Mỗi chiều hai bà bế hai đứa nhỏ đi dọc bờ hồ Tịnh Tâm dạo mát, tôi và Hùng theo sau.

Bên cạnh nhà có ông Nghè cũng lấy hai chị em ruột, các bà ở chung, thỉnh thoảng xảy ra tiếng to. Ông và vợ chính rất quý mến mẹ, tết nhất mồng một qua chúc đầu năm, ông bà về xong thì bà hai cũng qua thăm vì ưa làm bạn với mẹ tôi. Một hôm mẹ nắm tay tôi bước ngoài đường, gặp bà phán Năm đang đi với bà bạn sang trọng, thấy mẹ tôi dừng lại chào hỏi, bà Phán quay qua nói với bà bạn:
- Cô Hoàng đây là người tui từng kể cho chị nghe đó, cô rất hiền hậu, phúc đức, sống giống như Bụt vậy, bà bạn gật đầu cầm tay mẹ tôi tỏ vẻ thân thiện.

Câu nói của bà Phán quý phái chung xóm theo hoài trong trí nhớ của tôi.

Cuối xóm nhà bà Trợ Đạt có con là anh Giác đang học ngành sư phạm Qui Nhơn, tình cờ gặp cha tôi trong đó, thường lui tới chơi. Một hôm về Huế thăm nhà, anh đến đưa mẹ tôi tấm hình, mọi người xúm lại xem thấy cô thiếu nữ tóc dài ngồi trong ánh trăng, cha tôi đứng ngoài có ghi hai câu thơ của Hàn mặc Tử: “Làm sao giết được người trong mộng. Để trả thù duyên kiếp phũ phàng”, anh Giác kể tình cờ đến chơi thấy nhiều tấm ảnh trên bàn, nên lấy một tấm. Lúc đó mẹ tôi không nói gì, mặt mày có vẻ trầm ngâm, còn dì Đoan sáng hôm sau thức dậy nói giọng đầy bực tức
- Chị ơi ...hồi đêm em ngủ không được, em bực quá trời
Sau vài ngày mẹ tôi lên tiếng
- Thôi vào theo ông mà giữ đi, chứ lương tiền chẳng bao nhiêu, cứ chia năm xẻ bảy kiểu này thì con cái sẽ khổ.

Trong thời gian ngắn dì Đoan và ba đứa em trai khăn gói vào ở với cha, tôi vẫn vô tư chẳng để ý, chẳng hiểu chuyện người lớn, chỉ rất buồn vì không có các em để cùng vui đùa chạy nhảy.

Không biết của cải ngoài Bắc đem theo có nhiều?! mà thời gian ở khu Cầu Đất, mấy bà xóm trên xóm dưới đến chơi mẹ tôi nhiều lần, có cả bà Nghè, bà Tổng nơi ngôi nhà kín cổng cao tường nữa. Các bà hay to nhỏ với mẹ gì không biết, sau này mẹ thường sai tôi lên đòi nợ các bà. Mẹ dặn tôi học thuộc lòng câu “Thưa bà, mẹ con xin bà trả lại số tiền vì nhà con đang cần”. Tôi lẩm bẩm đi bộ lên gặp các bà quan, rất khó vô cổng, rất khó gặp chỉ nghe người nhà nói đi vắng, khi gặp được bà nhìn đứa con nít lạnh nhạt và quay lưng trước khi thốt ra câu cụt lủn:
- Tui chưa có tiền
Vậy là tôi đi tới nhà bà Thông, xổ câu nằm lòng, bà không trả lời mà vui cười vỗ đầu tôi
- Xuân… mi có ưa ăn ổi không, bà cho ra vườn hái đó
Tôi mừng quá ra trèo cây hái một bọc, trở vô bà Thông đã đi đâu. Tôi lủi thủi đi qua nhà bà Đàm. Vừa thấy mặt tôi bà kêu lớn:
- Vô đây con, cho con ra vườn hái Đào nhiều lắm

Tôi mải mê vặt non, vặt già thêm một bịch, hái xong trời trở tối, bước vào nhà định… trả bài thì bà Đàm ngọt ngào
- Về đi con, trời tối quá rồi...
Trên đường về lòng vui khôn tả với hai bịch trái cây khá nặng, bước vô nhà chưa đợi mẹ hỏi đã lo trả lời
- Mấy bà nói chưa có tiền và cho con hái.
Từ đó mỗi lần tôi muốn ăn Đào, Ổi là rủ bạn và hỏi mẹ
- Mẹ ơi có muốn con đi đòi tiền mấy bà không?
Mẹ tôi sáng mắt thúc giục
- Ừ đi đòi cho mẹ với

Tôi và Ngọc (bạn cùng xóm) hí hửng đi, cũng như bao lần vừa thấy mặt tôi là các bà đẩy ra vườn cho hái Khế Ngọt, Ổi, Đào, và tôi cũng quên chuyện đòi nợ.
Sau này anh chị tôi biết được, tôi nghe cằn nhằn với mẹ
- Mẹ bị dụ dỗ lường gạt, chắc họ ngon ngọt đòi trả lời nên mẹ ham
Bị nói nhiều lần mẹ tôi không biết trả lời sao, nói liều
- Người ta ăn thì còn, mình ăn thì hết
Anh tôi bực bội nói lý:
- Giúp người nghèo, cho người ăn xin thì nói câu đó đúng, còn trường hợp ni là mẹ dại.

Tôi chỉ biết nghe vậy thôi chứ chẳng tác động gì đến đầu óc hết, vẫn luôn mơ vườn trái cây của mấy bà ngon ơi là ngon .
Mẹ có rương bằng sắt rất lớn, thỉnh thoảng mở khoá lôi từng tập giấy tờ vàng ố ra nhìn mân mê, tôi hỏi “mấy thứ gì vậy” mẹ nói:
- Giấy tờ nhà cửa ruộng vườn phải cần giữ kỹ, sau này về lấy lại mấy gian nhà ngang và nhà lớn cùng ruộng vườn.
Anh tôi nghe vậy cười lớn
- Giờ này mà còn mơ tưởng chuyện viễn vông vậy mẹ.

Từ ngày dì Đoan vào trong Qui Nhơn, rồi lại theo cha tôi đổi ra Quảng Ngãi, hai năm đầu tới mùa hè nghỉ học, bốn mẹ con đi tàu lửa vào chơi một tháng. Cha vẫn thường gởi tiền cho mẹ. Dì Đoan sinh thêm bốn đứa em nữa gồm ba gái và một trai là Dung, Hào, Hạnh, Ngọc.
Có lẽ vì con đông chật vật nên sau cha không còn gởi tiền nữa, mẹ tôi xoay sở ra các đại lý mua nước mắm , gạo, đường, sữa chứa tại nhà bán lẻ. Trong xóm có số vợ lính người Nam theo chồng ra Huế thuê nhà ở, cuộc sống người Nam thoải mái, đầu lương tiêu rộng rãi, gần cuối tháng hết tiền họ qua mượn, hoặc mua thiếu. Khi có phiếu mua đồ quân tiếp vụ, họ đưa cho mẹ, thay vì trả tiền nợ, mẹ cất công xếp hàng mua về bán lại. Họ rất thân thiết xem như mẹ.

Tuổi thơ tôi luôn theo sát chân mẹ lúc Dì Đoan đã vào với cha tôi, bất cứ đi đâu mẹ cũng dẫn Út theo. Tôi nhớ những buổi tối lên Chùa Tịnh Bình, các bà vỗ đầu tôi nói chuyện
- Con đừng giết các vật nhỏ bé như kiến, ruồi, muỗi nghe, sắp lên tụng kinh ngồi yên chắp tay hí.

Các bà nựng má tôi và lấy trái cây cho. Khi lên chánh điện người lớn chăm vào quyển kinh đọc râm ran, tôi ngồi im bên mẹ cho đến giờ vãn chuông. Mẹ tôi quy y nơi Chùa Diệu Đế nằm trên đường Bạch Đằng từ cửa Đông Ba đi ra, mỗi lễ lớn có chú điệu đạp xe vào đưa phong thơ mời, tôi thấy mẹ gởi lại tịnh tài, chú ghi trong danh sách. Ngày lễ tôi lẽo đẽo sau đuôi, mẹ mang theo thùng nhỏ có quai xách đậy nắp, ghé vào chợ Xép, sà xuống hàng bán cá, mua nhiều loại cá nhỏ, xin nước và bỏ cá vào thùng xách ra Chùa. Mẹ gởi thùng cá sau vườn, đi chào hỏi các bác, rồi phụ vài việc trong bếp. Tôi thì thích nhất mỗi lần ra Chùa được các thầy trẻ, các chú điệu lấy bánh in đủ màu cho một bịch.

Tiếng trống “thùng, thùng, thùng...” thật lớn, rồi tiếng chuông lanh lảnh. Mọi người ngừng việc lên chánh điện hành lễ, đoạn giữa ngưng đọc kinh, mẹ bảo tôi quỳ lên chắp tay, tôi nghe sư ông đọc tên nhiều người, có tên cha, mẹ, dì Đoan và anh em tôi, sau này tôi mới biết là lễ cầu an hoặc đầu năm dâng Sao giải hạn. Làm lễ xong mọi người đi từng đoàn ra bờ sông trước mặt Chùa, mẹ mở thùng nước khấn nhỏ điều gì rồi thả cá xuống, những con cá vẫy mạnh tung tăng bơi nhanh, nhìn chung quanh mọi người cùng thả cá giống mẹ tôi.

Mỗi dịp 26, 27 gần Tết, mẹ chuẩn bị bánh trái và bắt tôi đi theo chuyến xe đò ra chợ Đông Ba, rồi chuyển xe khác lên ngả Nam Giao, xin dừng xuống nửa đường, đi bộ thật xa vào trong khu nghĩa địa hoang vắng. Ông Nội tôi được chôn nơi này, có đám con nít thấy người là chạy đến nhổ cỏ phụ, mẹ bày hương đèn, bông hoa, xôi chè đặt trên mộ cúng sau khi dọn dẹp sạch sẽ. Cúng xong mẹ phát hết thức ăn cho chúng, tôi phụng phịu giận, mẹ cũng không thèm quan tâm, mẹ móc tiền cho mỗi đứa mấy đồng rồi nói:
- Bác ở xa lắm, nhờ các con thỉnh thoảng xem chừng, đừng cho trâu giẫm lên ngôi mộ nhé, thỉnh thoảng bác lên sẽ cho tiền.

Chúng nó vừa được đồ ăn, vừa được tiền thích quá gật đầu lia lịa, còn tôi thì ghét vì chúng nó ăn hết phần bánh trái của tôi. Trên đường về mẹ mới nói:
- Bọn trẻ nghèo khổ tội nghiệp suốt ngày đi chăn trâu, để về mẹ mua bánh khác cho con ăn.
Đó không phải là lần đầu, theo năm tháng lớn dần tôi quá quen tánh mẹ...lúc nhà có cúng giỗ xong, mẹ đặt hai chén chè một dĩa xôi trên khay, bắt tôi bưng đi nhiều lần biếu cả xóm, biếu xong về muốn ăn, mẹ chỉ lên bàn
- Còn phần mỗi đứa một chén
Tôi sưng sỉa mặt mày:
- Ăn một chén thấm tháp chi, tự nhiên đi cho hết...
Mẹ nhìn tôi như muốn chọc tức thêm
- Cúng xong là cốt đi biếu trả lại chứ không phải để con ăn…
Tôi nghẹn lời, hết nói gì...và cũng sực nhớ cách cư xử lâu nay của hàng xóm, nhà ai có giỗ sau đó cũng đi biếu như vậy.

Hồi nhỏ tôi có nhiều tật xấu, chẳng hạn buổi trưa ngủ dậy, gọi bà bán khoai mới luộc vào mua, tôi nhấc củ này lên rồi để xuống, chọn củ kia, nâng củ nọ.. chọn cho được tốt lành, bà bán khoai đi rồi, mẹ nhắc tôi
- Lần sau có mua thì cầm củ khoai nào cũng được, vì các bà đó ít vốn bán rổ khoai chẳng kiếm lời được bao nhiêu… đừng vọc lựa như vậy ...tội họ.
Trước mặt nhà có hai bà giáo Lý và bà phán Lợi, không biết họ có xích mích chuyện gì, họ không hề giao tiếp với nhau. Buổi trưa bà này qua kể to nhỏ chuyện bà kia cho mẹ tôi nghe, buổi chiều bà kia qua nhỏ to liếc về phía nhà nọ, tôi chỉ nghe tiếng mẹ “vâng ...vâng ...vâng” ngoài ra không nói thêm câu nào, hai bà trút được chuyện “ghét nhau” ra về, anh chị tôi chọc mẹ
- Mẹ đứng về phe ai? Sao bên nào cũng cứ nghe “vâng vâng” hoài vậy
Mẹ tôi la:
- Im miệng nhé, chuyện người lớn nghe đâu bỏ đó, đừng để ý tọc mạch đấy. Mẹ không theo ai hết, mấy bà nói, mẹ còn chẳng chú tâm nữa là, nể lòng mẹ “vâng vâng” thôi, nhưng nếu có mở miệng phải nói vào cho họ hoà thuận đừng ghét bỏ nhau nữa.

Có kỷ niệm vui là ba bà bạn trong xóm chơi thân với nhau gồm bà trợ Dung, bà trợ Vỹ và mẹ tôi thỉnh thoảng rủ nhau đi xem phim cine “Hồn Bướm Mơ Tiên”, “Bạch Xà, Hắc Xà” “Hoa Mộc Lan”..v...v..., ba bà có ba đứa con út cùng lứa tuổi nên cho đi kèm, sau giờ xem phim ba chiếc xích lô chở về tiệm mì ông Biên đường Chi Lăng trong cơn mưa tầm tã, vào quán mấy tô cao lầu mì bốc khói nóng hổi… Những phút hạnh phúc nhất của tôi lúc ấy, nghĩ lại tôi thường mỉm cười vì biết ít nhất mẹ vẫn được hưởng chút niềm vui trong cuộc sống.

​Không có dì Đoan ở nhà, nhưng khi lo đám giỗ Ông Nội, mẹ vẫn lên mời ba mẹ dì Đoan xuống. Ông Bà Ngoại là người tu hành, nhà sát ngôi Chùa, chăm coi lo mọi việc Phật sự trong Chùa nên được gọi là ông bà vãi. Tôi cũng gọi Ông Bà Ngoại theo các em luôn. Còn nhớ một lần Bà Ngoại xuống nhà, mẹ tôi bận tay, ngoại đòi phụ sắp xếp các thức ăn lên bàn thờ, nhưng mẹ không cho và rót nước mời ngoại ngồi chơi, chỉ còn tôi đang quanh quẩn gần đó, Ngoại ngồi như suy nghĩ điều gì với vẻ mặt vui tươi, tự nhiên nói với tôi:
- Bà đây hiền quá, con Đoan nhà tui có phước nên gặp được, chứ nếu gặp người khác là mệt rồi

Giai đoạn đó tôi cũng đã mười ba tuổi đầu nhưng thật ngu ngơ chẳng để ý chuyện người lớn, tuy có lần cũng nghe Ngoại kể với mẹ tôi về dì Đoan… Dì yêu người đàn ông đã có gia đình, ngày Dì sinh bé gái bà vợ cả đến đánh ghen. Sau này gặp cha tôi, lại yêu nhầm người có vợ nhưng may mắn gặp mẹ tôi. Dì có nét mặt đẹp và vóc dáng như tiểu thư...đúng là hồng nhan bạc mệnh (con gái riêng của dì ở với ông bà Ngoại).
Một hôm Ông Ngoại (Ba của dì Đoan) đau nặng, mẹ tôi hay tin nói với con cái:
- Để mẹ đi chợ mua thứ gì ngon bổ nấu đem lên Ông Ngoại ăn kẻo sợ không kịp
Rồi mẹ vội đi mua các thứ bổ dưỡng, mua cam lên thăm Ông Ngoại, Bà Ngoại rất thương mến cảm động.

Khi tôi mười lăm tuổi có lẽ vì út gái của mẹ, nên chỉ mình tôi được cha mua vé máy bay liên tiếp ba năm liền vào chơi mùa nghỉ hè. Lúc này cha đã thuyên chuyển về Kon Tum và đổi qua ngành cảnh sát. Có năm vào gặp lúc dì Đoan sinh em gái, cha làm ăn thầu gỗ hương chở trong rừng về, lính thợ nề thợ mộc đến nhà đóng bàn tủ, ghế salông. Cha tưởng tôi giỏi dang, nên nhờ nấu cơm cho hai ông thợ ăn. Dì Đoan nằm sinh, mấy em còn nhỏ, không làm thì ai làm đây. Tôi đi chợ ngày nào cũng chỉ biết mua một con cá hố lép dài, cắt khúc chiên lên, chấm nước mắm, và món canh măng nấu thịt, ngoài ra tôi không biết làm thêm món gì, khoảng ba ngày sau mấy ông thợ sợ quá xin về nhà ăn cơm tối, sáng mai trở lại. Bà hàng xóm tốt bụng nấu thức ăn bới xách cho dì Đoan, cha tôi thỉnh thoảng nhờ lính mua dùm vài món ngoài tiệm ăn đổi món, phần tôi nhất quyết chỉ có hai món đó xem như hãnh diện tài nội trợ giỏi lắm rồi, vì ở với mẹ đâu có đụng vào bếp.

Thành phố Kon Tum thường có những buổi chiều mưa trên đường đất đỏ, đi làm về cha mở nhạc rất lớn, tôi ngồi bất động nghe nhạc, nỗi buồn vu vơ đã bắt đầu len vào tâm hồn, thấm nhạc ngây dại… Từ đó tôi khám phá ra mình ghiền nhạc giống như cha, ông mua rất nhiều dĩa thời đó Khánh Ly, Thanh Thúy, Trúc Mai, Lệ Thanh, Hà Thanh ..v..v..

Năm 1975 đến…. cái ngày đất nước tang thương. Dân chúng chạy tản cư… Quảng Trị chạy vào Huế, Huế chạy vào Đà Nẵng, ai có tiền thuê xe, không tiền đi bộ, đi không biết mệt, sự sợ hãi đã làm dân miền Nam miệt mài bước trên đèo Hải Vân, tay bế tay bồng từng đoàn người lần về Đà Nẵng. Mẹ tôi có người quen rủ hùn hạp với năm gia đình khác thuê xe tải di tản, nhưng hai ngày sau Việt Cộng vào đến thành phố Đà Nẵng. Tôi còn nhớ sáng hôm sau mẹ kéo tôi ra góc sân trước nhà cô họ, móc tiền đưa mặt mày xanh lè:
- Con muốn ăn gì thì ăn, xong đến tiệm thuốc tây mua mấy liều thuốc rầy, đem về đây mẹ con cùng uống, chứ mẹ đã từng sống với cộng sản rồi, sống không nổi với chúng nó đâu.
Tôi chẳng nói gì và cũng không đi mua, nhìn mắt mẹ trũng sâu mất ngủ, mặt hốc hác gầy hóp thật tội nghiệp, nước mắt mẹ chảy ròng ròng vì nghĩ sẽ không còn gặp được anh tôi đang làm việc nơi Bạc Liêu.
Bà nội tôi trước một năm đang sống với cô Oanh, muốn thay đổi không khí về thăm chú Tài nửa năm, sau lên Kon Tum ở với cha tôi.

Trước tình hình lộn xộn đất nước, bà nội đã có những dấu hiệu loạn trí, thường hay nằm mơ la hét “lũ ăn cướp, trả lại cho tao...” Lúc quân Bắc Việt tiến lần vô, dân chúng hoảng loạn, tỉnh này chạy vào tỉnh kia, thành phố nọ di tản qua thành phố khác. Gia đình cha tôi chạy về Phan Rang tạm trú nhà chú Tài. Hai ngày sau thấy cờ đỏ sao vàng dựng lên, bà nội biến sắc mặt bỏ chạy, kêu gào điên cuồng
- Trả lại cho tao, quân ăn cướp… trả lại.. trả lại… cho tao

​Con cháu đi theo giữ lại nhưng hôm sau bà nội trốn mất vào nửa đêm. Cha nằm mơ thấy bà về đứng đầu giường, con cháu tìm ròng rã nhưng vẫn vô âm bặt tín, cả hai gia đình căn cứ vào giấc mơ xem như ngày mất để thờ tự.

Sau 1975, các thứ trong cuộc sống đều xáo trộn, mọi người nếm đói rách vất vưởng qua ngày. Chị tôi hết làm việc ty điền địa trở về Huế. Anh tôi lập gia đình sinh sống nơi Bạc Liêu. Cha tôi đi “tù cải tạo” hơn một năm về, chưa ở được bao ngày bị cưỡng ép cả gia đình đi kinh tế mới.

Mẹ tôi cũng mất nhiều mối bán buôn, khó khăn kiếm sống các nghề loanh quanh. Có hôm mẹ lộ nét mặt buồn rầu:
- Chắc là cha con đói khổ dữ lắm, từ đây mẹ có đồng nào sẽ dồn gởi vào tụi nhỏ, các con lớn rồi tự lo liệu kiếm sống, mẹ không nuôi nữa, tôi nghe vậy cũng chán nản bỏ học nửa chừng.

Năm 1977 mẹ tôi lên thăm cha và dì Đoan, trước đó cả tháng thấy mẹ lăng xăng dồn các thứ như bột ngọt, bột mì, đường, kể cả hai mét vải thô cửa hàng bán mỗi năm được chừng đó, mẹ cũng vơ vét gói vào. Sau chuyến lên thăm về, mẹ buồn hay ứa nước mắt

- Tụi nhỏ tội lắm, cố gắng làm gì kiếm tiền để dành gởi chúng nó đang đói trên kinh tế mới.

Giai đoạn quá thê thảm, chiến dịch đánh tư bản mại sản, tịch thu nhà cửa cấp tá VNCH, mỗi đêm bắt họp tổ, lãnh đạo đưa xuống chỉ thị ép dân lên kinh tế mới, bắt đi lao động Thuỷ Lợi, thanh niên rà mìn...v..v....Mẹ tôi ngày đêm mặt nhợt nhạt thấp thỏm khi thấy các gia đình trong xóm lần lượt có tên bắt buộc đi kinh tế mới. Ông tổ trưởng đến kê khai lý lịch từng nhà, thấy chúng tôi khai cha, ông ngạc nhiên và đùa tự nhiên
- Ủa ba bây còn sống à, rứa mà tao tưởng chết lâu rồi, định tới ..cua ..mẹ bây,
Có lẽ ông thấy mẹ hiền lành tội nghiệp nên những lần danh sách ép đi kinh tế mới vẫn chưa có tên nhà tôi.

Năm 1978 tôi lên thăm Cha hai ngày, gặp lúc ông đang bị bệnh sốt rét. Các em làm lao động trồng khoai sắn, hoặc lên rừng đốn củi nhìn tiêu điều thảm thương. Đêm khó ngủ, Cha nằm rên ư ử… nước mắt tôi cứ lặng lẽ tuôn trào trong bóng tối, tôi nghe tiếng ông gọi:
- Có ai còn thức không, cho xin miếng nước

Chung quanh chỉ có tiếng ngáy đều đều… tôi lồm cồm chui ra khỏi mùng lên tiếng sẽ lấy nước cho cha, ông uống ừng ực rồi nằm xuống rên tiếp vì lạnh, mòn mỏi theo tiếng rên tôi thức gần đến sáng mới chợp mắt. Về Huế tôi bị bệnh ...cứ mỗi chiều lạnh run bần bật, sáng đau đầu, uống thuốc cảm cúm hoài không hết, kéo dài nửa tháng mềm người đi không được, chở qua bệnh viện thử máu mới biết bị sốt rét. Sau khi được khám từ phòng cấp cứu, hai nhân viên khiêng tôi trên băng ca đi ngang các khu điều trị, tôi lờ đờ nghe có tiếng y tá hỏi:
- Con trai hay con gái?
- Con gái ...xoay lơ rồi.

Tiếp tục đi vẫn nghe tiếng hỏi y như vậy, sau tôi mới hiểu họ tưởng tôi chết rồi vì băng ca hướng về khu nhà xác. Phòng tôi nằm kề gần cổng nhà xác, mỗi ngày nhìn qua khung cửa thấy biết bao xác chết khiêng về đây. Trong phòng có mấy người sốt rét được đưa về từ kinh tế mới, khuôn mặt ai cũng vàng xanh ốm yếu nằm liệt giường, có người lên cơn sốt mạnh quá nên không qua khỏi. Tôi càng nghĩ về cha, lo sợ căn bệnh này, đau xót tận cùng. Dân miền Nam bị hành hạ sống chẳng ra sống chết chẳng ra chết, hận thù mà hét không được, la không xong. Mẹ chảy nước mắt dài lo cho cha tôi và gia đình trên kinh tế mới chỉ biết thắp nhang cúng Phật cầu nguyện từng đêm. Mạng tôi còn lớn, mỗi ngày mẹ nấu canh rau dền, xào thịt bò cho tôi có máu trở lại. Nhờ bàn tay chăm sóc của mẹ, tôi từ từ hồi phục.

Gia đình túng nghèo, mẹ không biết làm gì kiếm ra tiền nữa, có người hàng xóm rủ đi buôn quần áo cũ, mẹ ngồi chợ trời phơi nắng suốt ngày, mua món hàng $20, khi bán lại, khách trả $15 đồng, cuối cùng mẹ toàn bán lỗ tiền, không kể cái công nên bỏ cuộc.

​Mỗi ngày buổi trưa mấy mẹ con ăn miếng bột mì hấp, buổi chiều ăn bo bo hầm muối, may sát bờ đường rau lang mọc hoang từng vạt, nên cứ hái luộc ăn.

Tôi nhảy vào hợp tác xã thêu hàng gối và bọc trải giường, vùi đầu chẳng biết thế giới bên ngoài, có lúc thêu suốt đêm không hay, khi nghe tiếng gà gáy và trời rạng lần mới rõ. Lúc đó lương đi dạy $40 đồng bạc bắc mỗi tháng, trong khi thêu bộ hàng được $60 đồng, tôi cố gắng thêu nên được mỗi tháng hai bộ, mỗi bộ được mười ba ký gạo, bột mì và khoai sắn khô lẫn lộn, bộ thứ hai được mua thêm bảy ký. Họ tặng tôi danh hiệu dũng sĩ, kiện tướng (danh từ VC) và mời vào đội kỹ thuật ngồi phòng riêng, mỗi quý ba tháng nhận thưởng $30 vì thêu vượt chỉ tiêu. Cuối tháng giao hàng thay phiên nhau đi theo sửa chút ít, theo sự kiểm hàng của nhân viên phòng thương mại. Kim hút người tôi xanh xao, mắt điều tiết tinh xuất quá nhiều, nhưng tôi phải gắng sức để còn thực hiện hoài bão của mình.Tôi đem về cho mẹ tiền và 20 ký hỗn hợp, gạo lãnh có 1/4 nhưng mẹ ngồi nâng niu đong ngắm, nhiều lúc có mì sợi nét mặt mẹ tươi vui gói kỹ cẩn thận bảo để ngày giỗ đem ra nấu cúng…

Tinh thần đảo lộn, mọi người kiếm sống hộc máu theo đời cơm áo. Tôi quen Hữu cùng hai thân tàn ma dại, Hữu dạy Toán trường trung học Đà Nẵng, đổi về trường Hàm Nghi Huế (ngày xưa gọi là trường Quốc Tử Giám) vừa lúc trường phá ra dùng làm bảo tàng viện trưng bày súng ống của Việt cộng nên Hữu trở thành tên châm biếm “vô lương mất dạy” Gia đình Hữu tìm đường vượt biên và may mắn lọt được một nửa, Hữu gởi thư về có ý muốn tôi đi theo, tôi vào Sài Gòn tìm kiếm các tổ chức. Lúc đó anh tôi sinh sống dưới Bạc Liêu, anh làm cán bộ kỹ thuật (đào tạo trước 1975 do TT NV Thiệu mở chương trình “Người cày có ruộng”), họ lưu dụng, vợ anh bán quán giải khát, có bốn con nên anh chị cần mẹ tôi vào giữ cháu. Thời gian ngắn không về Huế tôi bị công an đến nhà hỏi, sau đó cắt hộ khẩu. Tôi xoay sở nghề thêu áo dài xuất ngoại do bạn giúp đỡ, làm cầm chừng theo dõi tin tức tại Sài Gòn.

Năm 1983, tôi bị tịch thu giấy tờ sau khi ở tù vượt biên ra. Tôi dùng giấy công tác ngành thuế của anh Hải lên thăm cha lần cuối trước khi chuẩn bị đi. Gặp lại cha sau năm năm, lúc này ông đang xây dựng lò nấu gạch, dân trên vùng đó đều làm cho cha. Ngày trước tôi biết cha đã từng lanh lẹ làm ăn, nên không ngạc nhiên thấy ông nghĩ ra cách này trên vùng kinh tế mới , sắm trâu bò vào rừng kéo củi. Các trường học và công ty từ thành phố lên ký hợp đồng mua về xây cất. Có lần thấy em trai đi cùng vài người xuống thành phố nhận gạo từ hợp tác xã chở lên, phân phối cho nhân viên mỗi đầu tháng, tìm hiểu mới biết cha tôi xin tiêu chuẩn nhà nước cấp cho người lao động.

Hằng ngày tôi ra xem tập đúc gạch, thấy nhiều xe từ thành phố lên tấp nập làm giấy tờ ký hợp đồng lớn. Cha tôi tánh hồi nào rất hào hoa rộng rãi, bất kỳ lạ quen ông đều mời ở lại dùng cơm dù thời buổi đói rách tả tơi, nhà nuôi chuồng gà toàn đãi đằng hiếu khách. Công nhân bị bệnh chở vào bệnh viện, cha cho tiền trang trải thuốc men. Tôi ở chơi một tuần, lòng thấy vui theo công việc làm ăn của cha. Bỗng nhiên sau đó có giấy chính quyền địa phương gởi đến nội dung mượn trâu bò và lò gạch của cha tôi. Còn sự uất ức nào với quân cướp bóc trắng trợn, đêm đó tôi mất ngủ tức tối theo nỗi đau của cha, của phe bại trận bị bức hiếp.
Cha tôi buồn rầu nói:
- Chưa thấy chế độ nào như chế độ này, mình nghèo họ đạp cho chết luôn, mình khá họ tới ăn cướp. Suốt ngày cha ngồi trầm ngâm im lặng, không khí gia đình đầy lo âu căng thẳng.

Tôi không thể ở lại thêm. Ngày cuối dự định sẽ về vùng kinh tế mới khác của chú Tài (em cha) thăm hai ngày trước khi về Sài Gòn. Cha muốn gởi gấm ít thứ, cùng chiếc xe đạp nơi nhà chú, đề phòng bị họ cướp thêm vật dụng trong nhà nên đi cùng tôi. Buổi sáng cả nhà dậy thật sớm, con cái ra lò gạch làm việc, chỉ còn Cha loay hoay ràng thùng máy hát bỏ lên yên xe sau một cách nâng niu cẩn thận, cùng thêm ít thứ quý giá cột sau yên xe tôi. Hai cha con đạp xe bảy giờ sáng, miệt mài từ hướng đông vùng kinh tế mới Sông Dầu, xã Hoà Sơn xuôi về hướng tây xã Nhị Hà huyện Ninh Phước, mười hai giờ đến thành phố Phan Rang, cha bảo dùng trưa nơi cửa hàng dịch vụ ăn uống. Hai cha con ngồi nghỉ mệt xong lại tiếp tục đạp xe tiếp. Tôi không hiểu sao lúc đó trời cho sức khỏe tốt như vậy, đạp xe hơn tám tiếng đồng hồ, lúc ngoài đường lộ, khi vào đường làng hai bên cánh đồng bát ngát, lúa xanh rì rào gió thổi… tới nhà chú Tài cũng khoảng gần bốn giờ chiều. Trời hè nóng quá nên tôi vừa thấy con suối trước nhà đã nhảy xuống tắm không nhúng đầu ướt, tối đó bị cảm nặng thành cúm. Cha và chú ngồi uống rượu tâm tình chế độ vô lương, khốn nạn, nhất là chú đang ở thành phố mấy chục năm nay cũng bị ép buộc bán nhà đi đến vùng hẻo lánh xa xôi.

Sáng hôm sau cha tôi để lại các thứ và xe tôi đạp gởi chú, xe cha đạp trở về.Tôi nằm nhừ người cả đêm nhưng cố gắng dậy nhìn theo bùi ngùi “không biết còn có thể gặp cha”...

Tôi tiếp tục săn lùng những chuyến vượt biên, thỉnh thoảng về lại Bạc Liêu thăm mẹ, nghe kể dì Đoan đi Sài Gòn gặp bà con từ ngoài Huế vào, luôn tiện xuống Bạc Liêu thăm mẹ tôi, được mẹ dẫn đi ăn hàng ngoài chợ mấy ngày và sắm vải, sắm quần áo cho. Hàng xóm cũng như những người quen ngoài chợ xôn xao bàn tán như một hiện tượng lạ chưa từng thấy, họ nói mẹ tôi là nhân vật có một không hai, hiền hậu như Phật, gặp lúc tôi về họ kể lại đầy sự ghen tức dùm.

Mẹ ở Bạc Liêu cũng nghe rủ rê chơi hụi. Tình cờ một hôm tôi thấy bà nào lạ đến nhà, mẹ đưa tiền, tôi hỏi
- Tiền gì vậy mẹ?
Mẹ ấp úng
- Góp chơi hụi
Tôi nhìn bà kia rồi quay qua mẹ mặt nghiêm nghị
- Coi chừng bị mất
Bà kia không nói gì cầm tiền đi nhanh, còn mẹ cười bả lả
- Trong xóm giềng làm sao mất được.

Quả sau này, bà chủ hụi trốn trên Sài Gòn. Một tối bà về khuya thăm nhà, bị con hụi phát hiện la ầm ỉ ba làng bảy xóm gọi những người bị mất tiền ra bao vây. Hàng xóm ùa nhau túm bà kéo lên phường ngủ một đêm, sáng phường xử phải đền tiền lại. Từ đó bà không cần trốn đi đâu, không tiền ai dám tới đẻo thịt bà, bà tự nhiên đi ngang nhà, mẹ chào cười như không có chuyện gì. Tôi trố mắt ngạc nhiên nhìn mẹ
- Sao vậy mẹ ...còn cười chào họ nữa à?
- Tội con ơi ...không ai muốn vậy đâu chắc vì hoàn cảnh sao đó.
Tôi nhún vai, lắc đầu hết ý kiến, mẹ dặn đừng nói anh tôi biết, làm tôi nhớ chuyện năm xưa “đi đòi nợ”, cười thầm.

Có lần đi với mẹ lên Hóc Môn dự đám cưới con cô Oanh, cô bé hàng xóm cùng lên Sài Gòn kiếm việc. Ngồi chung chuyến xe, giờ trưa ai cũng xuống ăn uống giải khát, hai mẹ con cũng hà tiện mua ổ mì một đồng ngồi nhai, không thấy em đó ăn gì, mẹ tôi hỏi
- Sao con chẳng xuống ăn, con không thấy đói sao?
Cô bé lắc đầu im lặng, mẹ tôi gặng hỏi nhiều lần em mới nói nhỏ
- Tiền chỉ còn vài đồng để lên đó đi xe về nhà chị

Mẹ nghe vậy móc túi đưa cho em $5 bảo xuống mua đồ ăn, cô bé e ngại không lấy nhưng mẹ thúc giục quá, cô cầm tiền bước xuống xe. Mẹ quay qua tôi nói:

- Con thấy chưa, mình nghèo nhưng còn nhiều người khổ lắm. Bởi vậy mẹ hay tiết kiệm không dám phung phí, để giúp những hoàn cảnh thiếu thốn hơn mình.

Bình thường các chuyến đi vượt biên, kể cả lúc ở tù ra tôi luôn giấu vì sợ mẹ lo, nhưng chuyến sau cùng, tình cờ mẹ nghe cuộc nói chuyện giữa tôi với anh chị, và biết tôi chuẩn bị đi. Mẹ có vẻ tư lự nét mặt, sau đó nhắc tôi ăn chay để nhẹ bớt nghiệp sát sanh thì sự cầu nguyện dễ linh ứng hơn. Lúc đó đầu óc tôi quá căng thẳng, đủ thứ nén trong lòng, tôi đi lo nhiều chuyện chẳng nghe lời mẹ, mà trước đó tôi cũng hư lắm, ngày rằm hay mồng một theo chay được buổi trưa, buổi chiều cũng mua bánh bột lọc mặn. Mẹ lặng lẽ ăn chay khi thấy tôi có vẻ thờ ơ không quan tâm. Tôi phần chạy ngược chạy xuôi, lên Sài Gòn về Bạc Liêu vội vã, nhìn mẹ ngồi nhai cơm với dưa cải kho, tôi không bằng lòng tỏ ý mẹ sẽ mất sức khỏe, nhưng mẹ lờ đi, và nói:
- Mẹ nhất quyết ăn một tháng để nguyện cầu cho con.
Tâm trạng tôi rối bời sợ chủ tàu lường gạt, phần căng thẳng chuyện gặp hải tặc, lại lật đật đi, nên cũng gác qua chuyện mẹ ăn chay.

Đầu năm 1985 tôi đi chuyến cuối, lọt đến đảo Pulau Bidong. Trải qua những giờ phút thập tử nhất sanh, qua đảo tinh thần từ từ ổn định, nhớ chuyện mẹ ăn chay bỗng nước mắt tuôn trào và lòng thấy ray rức khó chịu kinh khủng. Cuối năm 1985 tôi qua Mỹ. Được gia đình chồng lót đường trước, tôi có nơi làm việc, cày tháng ba mươi ngày, mỗi ngày mười hai tiếng. Có về sớm bữa nào là đi shopping mua hàng sale dồn từng bao lớn chờ gởi một lần. Lúc chưa lập gia đình, chị tôi thường nhắc mẹ lo dạy tôi nấu ăn kẻo sau này sẽ bị mẹ chồng mắng. Không ngờ số tôi may mắn gặp bà mẹ chồng hiền như Phật, mẹ chồng giúp đỡ cho tôi đi vượt biên. Sống sáu năm chung với đại gia đình, mẹ chồng chưa biết la ai điều gì, dâu con nói sao cũng cười xoà thoải mái. Cha chồng ăn chay trường, tham gia những hoạt động xã hội, viết văn, đi tu học các Chùa và thích làm việc phước thiện. Dâu con ai cũng thương mẹ chồng, đau ốm là các dâu thi đua nhau nấu món ngon đem đến . Lúc 62 tuổi, mẹ chồng tôi rất yếu, nên anh em hùn tiền thuê người chăm sóc, con cái thường quanh quẩn bên cha mẹ, sống rất đạo đức, luôn biết ơn người.

Phải kể Hữu (ông xã) quá tốt, chưa bao giờ tỏ ý khó chịu hay phàn nàn lời nào khi tôi say sưa gởi quà về VN. Gia đình Hữu hoàn toàn sống tại Mỹ, cha mẹ chồng ở ngôi nhà Từ Đường, thờ cúng từ đời ông bà cố, mỗi cuối tuần mười một người con đều họp mặt thăm cha mẹ, chưa kể dâu, rể, cùng các cháu hơn năm mươi người. Các cháu con chú con bác chơi với nhau, con gái, dâu xúm vô bếp nấu nướng, con trai ngồi nói chuyện chính trị chính em hoặc chơi bài tứ sắc hầu cha mẹ. Cảnh tượng ấm cúng hạnh phúc của đại gia đình như vậy, có lẽ Hữu biết nên thông cảm cho tôi.

Tôi ở xa, tình thương về mẹ cha chỉ biết “cày,” vùi đầu gởi tiền liên tục. Mỗi lần gởi quà, xin về sớm, xong nhiệm vụ, tối về nhà ăn cơm với xì dầu thật ngon miệng. Đêm nằm tưởng tượng khuôn mặt cha mẹ lúc nhận quà, còn niềm vui sướng nào hơn nữa.
Tôi tỏ ý bảo lãnh mẹ qua đây, nhưng Mẹ muốn sống bên VN để trông coi các cháu, tôi cũng biết rõ mẹ thương nhất con trai từ hồi nào đến giờ chỉ muốn gần cháu nội.
Năm 2000, tôi về thăm cha mẹ hai tuần, hàng xóm quở:
- Bao nhiêu Việt kiều về đều thấy thuê xe đi chơi nơi này chỗ nọ, sao chỉ thấy cô ở nhà vậy?
Tôi mỉm cười nói qua chuyện:
- Tôi không thích đi đâu hết, chủ yếu gặp cha mẹ thôi.

Thật sự, nhà ngoài Huế tôi cũng không về, chị tôi phải vào thăm, dầu tôi thương nhớ Huế biết bao nhiêu. Đồng tiền chắt chiu gom góp dồn được, vừa về đến là chia phần cha mẹ nhiều nhất, kế tiếp anh em, cháu chắt, chú cô và biếu ít bạn bè, chỉ để lại vài trăm tiêu pha đến ngày về. Tính tôi ưa lo xa, dự trù số tiền nhiều để cha mẹ sống cho cả năm, muốn thể hiện tình thương thật thực tế mới yên tâm. Tôi đựợc uống nước dừa mỗi ngày do mẹ mua về, mẹ vui mừng kể đủ thứ chuyện và tiêu pha rộng rãi, mỗi tối thường đi với người hóng gió mát bờ sông, đó là thời gian cuối cùng tôi được sống bên mẹ. Lên thăm, cha tôi mái tóc đã bạc phơ. Lò gạch chính quyền mượn khéo cùng mấy con trâu nhưng thật ra ăn cướp, mọi người vẫn làm như cũ nhưng làm dưới sự cai quản của chính quyền. Còn nỗi oán hận tức tối nào bằng, rõ ràng là luật rừng, là phe thắng trận kề dao dí súng bắt ép phe bại trận tuân theo chỉ thị và câm mồm lại, một lũ mặt dày chuyên đi trấn lột, trân tráo không biết ngượng. Tôi quay lưng trở lại Mỹ với bao nỗi chán chường khinh ghét, nhớ những lần vượt biển, bất chấp sự nguy nàn sinh tử, nếu không có cha mẹ chẳng còn gì níu kéo tôi trở về.

Năm 2003 vào đầu mùa xuân (17 tháng 2 ) cha tôi mất sau nửa tháng nằm không biết gì, vì bị áp huyết tăng cao, đứt mạch máu. Gia đình cản không cho tôi về, bảo chỉ gởi tiền anh em bên nhà lo liệu là tốt rồi, thật sự tinh thần tôi cũng suy yếu, tưởng không có sức leo máy bay về nổi. Anh chị tôi vào lo đám nhưng giấu mẹ, sợ người bị tăng xông. Thời gian sau anh mở lời từ từ cho mẹ biết. Tôi nghe chị dâu kể lại mẹ không nói gì nhưng chị thường bắt gặp mẹ ngồi khóc một mình kín đáo.

Đúng một tháng mười ngày sau, mẹ mất (27 tháng 3). Tự dưng mẹ xỉu, đưa vào nhà thương mê man một ngày, chị dâu và các cháu thay phiên nhau túc trực bên giường bệnh theo dõi, hôm sau mẹ mở mắt muốn thay quần áo và nói:
- Ai rồi cũng phải đi...đừng buồn gì hết.
Sau đó mẹ nằm ngủ lại, đến tối thở hắt và ra đi. Chị Giang hay tin ngày trước vào Sài Gòn, ngày sau mua vé về Bạc Liêu, xe thường bị nghẽn ở hai Bắc Cần Thơ và Bắc Mỹ Thuận, nên khi chị về tới đã khuya, bệnh viện đóng cửa đành đứng ngoài cổng. Thêm một lần nữa gia đình nhất định cấm cản không cho tôi về, anh chị tôi nói:
- Cô về thì hòm đã đóng, chỉ dự đám tang, mà đường xá xa xôi nguy hiểm, lỡ cô có chuyện gì tội nghiệp những người còn sống bên đây.

Tôi vỡ lẽ ra, hiểu ý mọi người xem mình như “hũ mắm treo đầu giàn”, đặt tôi ở ngôi vị rất quan trọng, vì chỉ một mình tôi trên đất Mỹ, vẫn chia phần nào gạo cơm đến mọi gia đình, đóng học phí cho các cháu tốt nghiệp đại học thành tài. Tôi chỉ còn hình ảnh cha mẹ trong tâm tưởng. Lễ phát tang cha, cúng thất tuần trên Chùa chưa xong lại tiếp theo tang mẹ tôi. Tội nghiệp Hữu đã ăn chay theo tôi hơn bốn chín ngày cha rồi đến mẹ. Hai di ảnh được gởi trên Chùa sớm hôm nghe thuyết pháp, kinh kệ, hương khói luôn luôn nghi ngút. Đến phiên cha mẹ chồng mất, anh em gia đình chồng ăn chay cúng thất, di ảnh cũng gởi trên Chùa, được thờ nhà Từ Đường nhưng tôi cũng thờ tại nhà Tứ Thân Phụ Mẫu để biết rõ cả hai đã là con mồ côi từ đây...

Dù cách xa nửa vòng trái đất, cha mẹ còn sống tôi vẫn thấy có bóng mát che chở cuộc đời, nhưng khi cha mẹ mất, tôi thấy như đôi chân bước bị hụt hẫng.
Ngày lễ Mẹ, lễ Cha, lễ Vu Lan..trên đường đi làm, radio mở nhạc bản “Lòng Mẹ” của nhạc sĩ Y Vân với giọng hát Khánh Ly...

Một lòng nuôi nấng vỗ về những ngày còn thơ
Một tình thương mến êm như tiếng đàn lời ca
Mẹ hiền sớm tối khuyên nhủ bao lời mặn mà
Khắc ghi bên lòng con trẻ muôn bước đường xa
Dù ai xa vắng trên đường sớm chiều về đâu
Dù khi mưa gió tháng ngày trong đời bể dâu
Dù cho phai nắng nhưng lòng thương chẳng lạt mầu
Vẫn mong quay về vui vầy dưới bóng mẹ yêu....

Mắt mờ dần ... tim nhói buốt, tôi phải tắt radio để giữ bình tĩnh cầm tay lái và cảm thấy thật bơ vơ trong cuộc sống. Có những đêm mất ngủ nằm trăn trở, kỷ niệm ùa về tôi chỉ biết tràn nỗi buồn trên phím gõ khi nghĩ đến cha mẹ:

Cha

Cha đã phong trần với gió mưa
Cha lo lắm việc kể bao vừa
Cha nhường trẻ nhỏ lo cơm sữa
Cha nhịn gia đình đủ cháo dưa
Cha đợi sau cùng dùng thức mứa
Cha ăn phút cuối hưởng đồ thừa
Cha là mái ấm thân con dựa
Cha vẫn đương đầu chịu gió mưa

Mẹ

Mẹ giỏi muôn bề kể xiết đây
Mẹ luôn nhẫn nhục khổ đong đầy
Mẹ lê gót Hạ khô tròng mắt
Mẹ lết chân Đông lạnh vớ giày
Mẹ nguyện con yên lành những phút
Mẹ cầu bố khỏe mạnh từng giây
Mẹ vui Phật Pháp tìm an lạc
Mẹ Bụt từ bi sống đẹp vầy
MTTN

Tôi còn nợ một lời hứa rằng “sẽ xây ngôi nhà để mẹ thờ Phật tụng kinh sống yên tĩnh” . Nơi đây tôi chần chờ vì muốn xây đắp cái gốc tạm vững thì mới lo được cái ngọn, và cũng vì vấn đề tế nhị cần từ từ. Nghe tin mẹ qua đời trong khi tôi chưa thực hiện ước mơ, nói chuyện với người sống thì dễ chứ nói chuyện với người chết rất khó. Tôi thấy ray rức , tinh thần không được an ổn nên vẫn muốn xây nhà cho người anh, tôi nghĩ mẹ sẽ mãn nguyện nơi chín suối vì trong ba người con, mẹ vẫn thương nhất là anh. Tôi bàn với chồng đem giấy tờ nhà equity mượn tiền gởi về, anh tôi mua đất gọi thợ xây khang trang phòng tắm, restroom theo tiêu chuẩn như Mỹ.

Cha mẹ mất tôi tưởng thời gian sẽ làm nguôi ngoai, tôi hiểu hết mọi lý lẽ đạo Phật rằng Sinh, Lão, Bệnh,Tử, rằng luật Sắc Không... tập khoan thai thực hành không sanh, không diệt để chấp nhận mọi thứ là vô thường trong cõi giả tạm này, nhưng tôi không thể chối cãi mình vẫn còn khóc dài dài từ năm này qua năm nọ cho đến bây giờ. Lúc học giáo lý trên Chùa thầy ban thời pháp về đạo làm con, về công ơn sinh thành, không khí im ắng chẳng nghe tiếng động, thầy phải đổi đề tài khi nhìn xuống các đạo hữu nước mắt ràn rụa lặng thinh.

Ngày lễ Vu Lan người ta cài hoa hồng, mình cài hoa trắng, cảm xúc nghèn nghẹn dâng lên, có ai hát bài “Mẹ Tôi”.....

Lòng người mong ước ngày sau
Đàn con xứng thành người dân
Nhưng nay con đã nên người
Thì nay còn đâu bà mẹ hiền xưa
Chiều nay đốt hương tưởng niệm trước mồ
Nhìn khói đau lòng tưởng nhớ năm xưa
Công ơn sinh thành ngày nao đền trả
Mẹ ơi con nguyền nhớ lời mẹ khuyên
Tác giả Nhị Hà

Nước mắt tôi cứ tiếp tục tuôn trào, đầu óc căng lên nhức nhối, tim se sắt lại...Tôi cố gắng đè nén tập trung niệm Phật, cầu nguyện cho vong linh cha mẹ, cửu huyền thất tổ được vãng sanh về cõi tịnh độ. Tôi nhớ mấy câu thơ của Trần Trung Đạo “Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ. Ngậm ngùi con sẽ giấu trong thơ. Đau thương con viết vào trên lá. Hơi ấm con tìm trong giấc mơ”. Đêm khuya, đêm của tĩnh lặng, con lại trải nỗi buồn với niềm ước mơ...

Mùa Cài Hoa Vu Lan
(Tung Hoành Trục Khoán_1 giao cổ đối)

“Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng Mẹ cười”
(Trần Trung Đạo)

Ví thể giờ đây có bóng người
Mà cầu báo hiếu khỏi sầu ngươi
Tôi buồn tiếc phận thay tròn kiếp
Đổi đủ duyên ai khổ xót đời
Thời khắc đêm đen châu chẳng cạn
Gian trần bóng tối lệ nào vơi
Được mơ ngực áo cài hoa đỏ
“Đổi cả thiên thu tiếng Mẹ cười”

Minh Thúy Thành Nội

(Sáng Tác: Nhị HàCa Sĩ: Phạm Đăng HưngThực Hiện: Nguyễn Thế Bình)

Khi cha mẹ mất rồi ký ức luôn quay lại ngày tháng cũ.. các câu khen của hàng xóm, cách cư xử của mẹ với người chung quanh, chiều chồng cưới vợ hầu, thương con chung, hy sinh tình cảm cho người đàn bà khác, nhắc nhở tôi nhiều thứ...Tại sao những điều này ngày xưa tôi không hiểu và không quan tâm tới… Nay tự nhiên nó đến, nó thấm đậm trong sự suy tư, nó làm xoáy buốt lòng dạ, nó hoà nhập trong lối sống của tôi từ khi nào… Con hôm nay thích sống giản dị, không xài sang, không đua đòi. Con thích đi Chùa, thích tiếng trống Bát Nhã, thích tiếng chuông thức tỉnh, thích những thiện hữu trí thức chung quanh để học hỏi đức tính tốt, thích ăn chay, thích nghe pháp, thích làm việc Phật sự, thích chia sẻ ruộng phước dù ít nhiều tuỳ duyên, và nhất là thích giống mẹ sự nhân hậu, luôn từ tâm không biết hận thù, luôn nói lời ái ngữ, luôn giữ khẩu ý được thanh tịnh và tránh nói lời thô ác.

Cha mẹ mất thể xác đã tan rã dưới lòng đất lạnh, nhưng hình ảnh luôn sống bên con hằng ngày. Con cám ơn kiếp này cha mẹ đã giáo dục con, bằng cuộc sống của cha mẹ ăn hiền ở lành, biết sống cho tha nhân hơn chính bản thân mình. Giờ đây ngồi xem những phim miền Bắc chiếu cảnh cây đa, miếu đình đầu làng, lại nhớ hình ảnh hai cha con đạp xe, nhớ những trưa mẹ ngồi lượm thóc hay vá áo, mẹ thường hát các điệu dân ca miền Bắc như Ca Trù, Hát Xẩm, Hát Chèo. Mẹ nhớ quê hương nơi chào đời nhưng quá sợ cộng sản không muốn về dù Nam Bắc được thông thương. Còn con ...một mình nơi xứ người, con đã mồ côi không còn bóng mát che chở, để con nương dựa tinh thần, con vẫn luôn hoang mang quê hương mình ở nơi đâu…

Tôi nghiệm ra sự trả hiếu của mình còn thiếu thốn nhiều lắm, không gần gũi khi cha mẹ đau yếu, không nấu bữa cơm ngon cho cha mẹ ăn. Sự bức rức càng lúc càng tăng lớn trong lòng, nhất là gia đình mỗi người một phương...ông nội chôn nơi Huế, cha chôn ở Phan Rang, mẹ lại chôn xứ Bạc Liêu… tôi nghe nỗi đau nhói âm ỉ mãi hoài...

Quê Hương Là Đâu?

Một ngày chia cách ...Bắc năm tư
Trốn thoát vào Nam chẳng tạ từ
Mẹ giữ bào thai oằn vất vả
Tự do bờ bến cuộc di cư


Trong dòng máu chảy cuộn hoài thôi
Miền Bắc phố phường ám ảnh tôi
Lặn hụp xem tìm qua sách vở
Quê hương tưởng tượng dạ bồi hồi


Chào đời Huế cổ xứ ngàn thơ
Chất chứa niềm yêu nét lặng lờ
Đại Nội ru êm chiều nhạt nắng
Sương mù lót nhẹ bóng Thành mơ


Trời mưa bước vội đành xa Huế
Nếm trải nguy nàn cảnh vượt biên
Đất khách ngày trôi buồn ngớ ngẩn
Cuồng quay bận rộn kiếm cơm tiền




Thây Ông vùi dập đất Thần Kinh
Xứ Cát hồn Cha vắt vẻo mình
Xác Mẹ miền Tây lòng đất lạnh
Nhiều hôm lệ ứa nặng bao tình


Đêm sâu chợt thấy trời Hà Nội
Nhớ Huế nhìn mưa lệ trắng vườn
Ruột thịt xác thân chôn tản mác
Hoài trăn trở kiếm mãi quê hương(MTTN)

Con ngồi viết những dòng chữ này, khi ngoài trời đang lạnh, hồn con cũng hoang lạnh, con vẫn ôm ấp nâng niu hành trang thuở thơ ấu, vẫn tắm gội giữ gìn biển ký ức thời bên mẹ, thời cạnh cha, quá khứ vẫn hiện hiển ..ngôi nhà xưa, con đường cũ, ..con tìm sự ấm áp vô cùng trong tâm tưởng.“Tìm đâu những ngày thơ ấu qua.Tìm đâu những ngày xinh như mộng.Tìm đâu những ngày thơ.Tìm đâu những chiều mơ.Tìm đâu, biết tìm đâu, đâugiờ…” (Hoàng thi Thơ “Những Ngày Thơ Mộng”).

Đêm đen ngoài khung cửa, đêm sâu niềm nhung nhớ, mắt con lại mờ rồi... cha mẹ ơi...

Minh Thuý Thành Nội
2021