Tiếng Hát:Đỗ Dung
tiêu đề Nhãn
- BIÊN KHẢO
- CÂU ĐỐI
- CỔ THI
- GIA CHÁNH
- GIẢI TRÍ
- HÌNH ẢNH HỘI NGỘ
- HÌNH ẢNH NAY
- HÌNH ẢNH XƯA
- HỘI HỌA
- KHOA HỌC
- LƯU NIỆM
- LỊCH SỬ
- LỜI HAY Ý ĐẸP
- NHẠC
- SƯU TẦM
- SỨC KHOẺ
- THƠ
- THƠ CẢM TÁC
- THƠ DIỄN NGÂM
- THƠ DỊCH
- THƠ NHẠC
- THƠ PHỔ NHẠC
- THƠ SƯU TẦM
- THƠ TRANH
- THƠ TRANH NGHỆ SĨ
- TIN BUỒN
- TIN VUI
- VĂN
- VŨ HỐI THƯ HỌA
- VƯỜN THƠ VIÊN NGOẠI
- XƯỚNG HỌA
- YOUTUBE
Thứ Bảy, 10 tháng 5, 2025
Sắc Thu
Gửi Người
Sao mà biết được vô thường nở hoa!
Chúc người trọn khúc hoan ca
Ta về ẩn trú dưới tòa hoa sen.
Tịnh tu bỏ chữ hờn ghen
Mong đời gom lửa đốt đèn hoa đăng.
Người luôn áo đẹp dưới trăng
Mong đời bỏ hết nhọc nhằn gian nan.
Mong người dạo hết cung đàn
Ta về cố tránh bước đàng vô minh.
Mong người mãi mãi hồng xinh
Ta về sám hối bài kinh soi mình!
Hàn Thiên Lương
Cẩu Kinh Cụt, Vĩnh Long
Mang Theo Kỷ Niệm Vào Đời
Mùa xuân còn đọng trên lời yêu đương
Lối xưa cầu nhỏ con đường
Bước chân người cũ còn vương bụi lòng.
Chuyện Trên Trời Dưới Đất Quà Cho Mẹ
Tháng 5 là tháng mà bài hát “Lòng Mẹ” do nhạc sĩ Y Vân sáng tác được các đài truyền thanh truyền hình Việt Nam ta cho phát đi phát lại nhiều nhất. Lý do dễ hiểu, vì tháng 5 có ngày Lễ Mẹ - “Mother’ Day”. Tôi không biết các đài truyền thanh truyền hình Mỹ có được bài hát “ruột” nào cỡ như bài “Lòng Mẹ” của nhạc sĩ Y Vân hay không để chạy quảng cáo cho ngày Lễ Mẹ, nhưng các nhà kinh doanh, dịch vụ Việt Nam thì khỏi nói, dùng ngay bài tủ “Lòng Mẹ” để đánh động những trái tim tràn ngập yêu thương của những người con lúc nào cũng nghĩ đến Mẹ của mình.
Năm nào cũng vậy, đến ngày “Lễ Mẹ”, cứ theo lời chỉ dẫn hết sức “thiết tha” của các “lương y” thì phải tìm mua cho Mẹ những món quà thể hiện tình thương yêu quý mến của các con. Ngoài việc phải nghe ra rả suốt ngày câu mở đầu “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào…” tiếp theo sau là…hãy mua tặng cho mẹ từ các món từ món rẻ tiền vài ba chục đô cho đến các món có giá vài nghìn đô…Thượng vàng hạ cám gì cũng nên mua tặng cho Mẹ để tỏ lòng thương yêu và hiếu kính với Mẹ. Món rẻ tiền thì mua cho Mẹ vài hũ dược thảo cho Mẹ uống vô để trị bịnh ung thư, viêm gan, thống phong (gout), tiểu đường, lao phổi, loét bao tử, cao máu cao mỡ cao huyết áp, ngứa tay ngứa chân, ăn không ngon ngủ không yên và hàng hàng lớp lớp các thứ bịnh khác, uống vô là khỏi ngay và sống trường thọ. Mẹ có nằm liệt giường 10 năm thì sau khi uống một hũ thì Mẹ cũng ngồi dậy tỉnh queo. Nhưng không biết sau đó Mẹ đi về đâu? Theo như lời rất ngọt của một ông thầy Number Six thì có người Mẹ được bác sĩ tây y cho biết chỉ còn 20 ngày nữa là mẹ đi gặp ông bà, thế mà uống hũ dược thảo do thầy rao bán thì Mẹ bật ngồi dậy và khỏe re như “con bò kéo xe!” Thật là tuyệt diệu! Củ nghệ, củ gừng, củ sâm, củ tỏi, đông trùng hạ thảo, linh chi, nấm đen nấm đỏ…cho đến các loại rong rêu xứ lạ đã làm bá chủ thị trường thuốc men tại Mỹ dành cho người Việt Nam. Cá nhân tôi thì đang chờ tin có vài giải Nobel lọt về tay các bác sĩ đông y Việt Nam đây! Núi Phú Sĩ ở xứ Phù Tang mà người Nhật cứ đến ngày đầu năm là kéo nhau leo lên để ngắm mặt trời mọc để cầu phước nhưng có rất nhiều người chỉ leo đến nửa đường thì bỏ cuộc vì núi toàn là đá và đường lên khó khăn. Trên đỉnh núi thì tuyết phủ quanh năm chẳng có cây cối gì cả. Ấy thế mà các nhà “tưởng tượng học” của Việt Nam ta vẫn có mặt thường xuyên trên đỉnh Phú Sĩ để hái mang về không biết bao nhiêu là kỳ hoa dị thảo cho các thầy “lăm bang” xào nấu thành thuốc trị bá bệnh để cứu nhân độ thế. Các bạn mình cứ chịu khó mở tivi hoặc radio ngồi nghe hoặc xem trong vòng nửa tiếng đồng hồ thì thấy giới “lăm bang” ta chẳng khác nào “trăm hoa đua hái, trăm nhà đua uống” vì khẩu hiệu “phòng bệnh hơn chữa bệnh”.
Xứ Phù Tang là nơi mà các “bác sĩ” bào chế thuốc khám phá ra nhiều loại thần dược. Hết Phú Sĩ đến đảo Okinawa, hồi bé học môn địa lý với tên tiếng Việt là đảo Xung Thằng. Người ta đã thần thánh hóa một loài rong có tên là Fucoidan, uống dược thảo làm bằng Fucoidan “chỉ có ở đảo Okinawa” mới trị hết đủ thứ bệnh. Nhiều xưởng sản xuất thuốc làm bằng Fucoidan thì quảng cáo chỉ có xưởng của họ là thuốc thứ thiệt đã nhận được “huy chương vàng” và được rất nhiều khách hàng chứng nhận là thuốc “tốt”. Tôi chẳng hiểu “huy chương vàng” do cha căng chú kiết nào tặng? Còn khách hàng chứng nhận thì quá dễ hiểu, cứ cho năm bảy người cò mồi gồm vợ con chú bác cô dì dượng chú thím… ở khắp các tiểu bang gọi điện thoại “thâu trước” và quay hình “thâu trước” rồi cứ năm mười phút là cho phát tiếng phát hình trên radio, truyền hình là “ăn tiền”. Người Việt mình, nhất là các vị cao niên dễ tin lắm vì ít nhất cũng mang trong người vài ba thứ bệnh của tuổi già như loại bệnh “ba bốn cao một hai thấp…”. Một số nhà nghiên cứu dược thảo cho biết hầu hết dược thảo được sản xuất tại Tàu cộng do bọn chuyên làm hàng giả, mấy thầy lang nhập vào rồi vô hộp dán nhãn, tung ra thị trường, đánh trống khua chiêng rùm beng chẳng khác nào những “gánh hát Sơn Đông”. Sơn Đông là một tỉnh bên Tàu nổi tiếng có bọn bán thuốc dán ghẻ, cao đơn hoàn tán trị đau bụng kèm theo biểu diễn những màn ảo thuật rẻ tiền, múa võ… để lôi cuốn khách xem đến mua. Ở Việt Nam ta trước đây cũng có, họ đi khắp nơi từ thành thị đến vùng quê. Ở Mỹ, chỉ cần một hai người lên truyền thanh truyền hình để nói giỏi – nói dai – nói dài – nói dóc thì cũng có khối người nghe. Tôi nhớ rất rõ lời quảng cáo của vị thầy Number Six như sau “không uống thuốc cũng chết mà uống thuốc cũng chết cho nên quý vị nên mua thuốc để uống…còn nước còn tát…”. Không có lời quảng cáo nào độc địa hơn là lời quảng cáo nói trên. Còn điều này nữa: có xưởng bào chế thuốc quả quyết là khi họ sản xuất thuốc thì có cơ quan “thực phẩm và y tế của chính phủ Hoa Kỳ kiểm soát “rất chặt chẽ!”. FDA là cơ quan có trách nhiệm trong việc kiểm soát vấn đề sản xuất thực phẩm và thuốc men, bất cứ loại thuốc nào được tung ra bán trên thị trường đều phải được giám sát và khi bán ra thì phải đóng thuế. Vậy mà các loại dược thảo của Việt Nam ta tha hồ bán với mọi giá cả, còn được hô hoán là được miễn thuế và mua một tặng một, mua ba tặng hai, mua năm tặng ba…chưa kể còn biếu xén thêm món này món nọ…cho khách hàng thêm phần khởi như có một món thuốc trị tiểu đường do con gái của một ông có râu đã ngủm cứ ra rả trên nhiều kênh truyền hình. Bà ta nói rằng bà bị bệnh tiểu đường đến giai đoạn phải chích insulin nhưng bà ta không thèm chích, mỗi ngày bà ta xơi vài viên dược thảo thì nay bịnh đã hết tiệt. Đúng là thuốc tiên…
Thỉnh thoảng thấy có một vài nhà nghiên cứu y dược viết bài báo động về sự nguy hại của dược thảo nhưng xem ra như “kèn lá chuối thổi tai trâu” mà thôi. Dược thảo là vấn đề có rất nhiều điều bất cập, có viết hoài cũng không dứt chuyện.
Ngoài ra còn có chuyện này. Tôi từng tò mò theo dõi và thấy có mấy anh (chưa thấy mấy mấy chị) ban đầu chỉ lên đài quảng cáo mấy lọ thuốc cỏ và chỉ chưa đầy một năm thì mấy anh này được phong chức “bác sĩ”. Còn có một anh ghi rõ trên tờ quảng cáo như vầy: “tốt nghiệp cao học đông y đại học Hoa Kỳ”! Tôi hoàn toàn không hiểu cái “thế giới phù phép đông y” ra làm sao cả!
Năm nay tôi nghe thêm một quảng cáo nội dung như sau: “Nhân ngày Mother’ Day hãy mua tặng mẹ một miếng đất trong nghĩa trang X để mai mốt mẹ có chỗ nằm”. Ối trời ơi!
Phong Châu
Mẹ Và Bé Bò
Viết tặng một bà mẹ đồng hương nhân ngày Mother’s Day mấy năm về trước.
Bobbie là một người rất đặc biệt, rất tuyệt vời. Mày đến gặp sẽ biết, không phải ai cô ấy cũng nhận làm tóc cho đâu. Shara nói với Hạnh. Thường thì Hạnh không thích làm tóc ở tiệm Mỹ. Đến tiệm Việt Nam quen có thể tán dóc chuyện trên trời dưới đất với mấy cô thợ cũng là một cách thư giãn sau những ngày làm việc mệt mỏi. Nhưng lần này vì hai đứa có hẹn đi dự tiệc Mothers Day sớm một tuần, tại nhà mẹ Shara trước khi bà du lịch sang Anh, nên con bạn Mỹ làm chung hãng nhất quyết book hẹn với Bobbie và lôi Hạnh đi cho bằng được.
Hạnh miễn cưỡng theo Shara đến tiệm Precision. Các cô thợ Mỹ nhao nhao chào hỏi Shara và mời hai người ngồi rồi gọi với ra sau:
- Bobbie! Khách của chị đã tới.
- Tôi biết rồi, làm ơn nói họ chờ tôi chút xíu! Một giọng Mỹ thanh tao đáp lại từ phía sau.
Hạnh vừa cầm lấy tờ tạp chí định mở ra xem thì nghe tiếng giày lộp cộp trên sàn nhà. Từ xa, một cô bé khoảng bảy, tám tuổi, người tròn trịa mủn mỉm, mặc áo choàng trắng bước ra. Cô bé người Việt mặt mũi xinh xắn, mái tóc đen nhánh xỏa dài ngang lưng, xâu chìa khóa đeo trước ngực đong đưa theo từng bước chân cô vội vã. Cô đi thẳng lại với nụ cười rạng rỡ, và Hạnh giật mình khi đọc thấy bản tên đeo trên ngực cô bé có chữ “Manager”. Nhìn kỹ lại Hạnh thấy Bobbie mang một khuôn mặt già dặn của người lớn. Thật ngạc nhiên, cô gái tí hon này lại là một manager trong cái tiệm tóc Mỹ đồ sộ.
Bobbie chào Shara với vẻ vui mừng. Shara chồm tới ôm lấy Bobbie vỗ vỗ vào lưng như cô giáo đối với đứa học trò nhỏ. Khi Shara đứng lên, Hạnh thấy Bobbie còn thấp hơn thắt lưng cô bạn. Sau giây phút bàng hoàng, Hạnh cũng vội vã đứng lên. Hèn gì trước khi đi Shara nói rồi chị sẽ thấy. Chiều cao của Bobbie giống những người đoạt kỷ lục Guinness lùn nhất thế giới. Không hiểu sao người ta lại chẳng khám phá ra cô ấy và đưa vào danh sách kỷ lục Guinness nhỉ.
Hạnh nhường cho Shara làm tóc trước. Bobbie đưa Shara đến chiếc ghế cuối cùng trong dãy ghế tóc bên phải. Chiếc ghế được thiết kế dành riêng cho Bobbie, chẳng những đã được hạ xuống rất thấp, mà còn có một cái bục cong vòng nguyệt xây bọc xung quanh để cho Bobbie đứng.
Cô thợ tí hon mời Shara ngồi trên ghế, rồi cô bước lên bục. Đôi giày đen gót bằng, cao cỡ một tấc, lộ ra khi Bobbie nhấc chân lên, cho thấy chiều cao thật sự của cô còn thấp hơn nữa. Bằng những động tác nhanh nhẹn và chuyên nghiệp, Bobbie thoăn thoắt dùng lược và kéo trên mái tóc của Shara, trong khi Hạnh đứng tròn mắt nhìn.
Vừa cắt tóc, Bobbie vừa trò chuyện với Hạnh. Hai người dùng tiếng Anh để người bạn Mỹ khỏi có cái cảm giác lạc lõng. Nhưng khi nghe Hạnh nói tên thành phố ngày xưa nàng sống, Bobbie vụt reo lên bằng tiếng Việt:
- Ồ! Vậy sao? Quê em cũng ở gần Nha Trang đấy! Nhà em ở trong một xóm chài gần biển. Ngày xưa mẹ em thường chở cá khô đi Nha Trang bán. Không chừng chị cũng đã từng ăn cá khô nhà em phơi.
Nhận ra đồng hương, hai người mừng quính. Tiếng Việt bắt đầu rôm rả. May mà chiếc ghế ở cuối phòng, nên cũng không phiền ai trong tiệm. Shara cười thông cảm. Tao đã nói rồi mà.
- Em đến Mỹ bằng diện gì? Hạnh hỏi.
- “Ô đi ghe” chị ơi! Ghe của ông Sáu S. ở thôn… Chuyến đi của em khiếp lắm! Em đã bị mọi người chen lấn rớt xuống nước, sém chút nữa thì tiêu rồi. Nếu tối hôm ấy mẹ em không đi theo đưa em lên ghe dợi có lẽ em đã vào bụng cá rồi, đâu còn đứng đây cắt tóc.
Hạnh chợt sững sờ:
- Có phải là chuyến ghe của ông Sáu S. đi tháng Bảy, được tàu buôn vớt gửi vào Hồng Kông không?
- Đúng rồi! Bobbie reo lên. – Làm sao chị biết?
- Gượm đã! Hạnh chận Bobbie lại. – Em nói em đã bị rơi xuống nước và mẹ em đi theo đưa em lên ghe? Có phải em là cô bé… Hạnh chợt ngừng lại.
- Chị đã từng có mặt trên chuyến ghe ấy và biết em? Bobbie cũng kêu lên. – Nếu vậy thì chị cứ nói đại ra em là cô bé đã bị liệt đó! Em là bé Bò trong chuyến đi ấy nè!
- Trời ơi! Bé Bò!
Hạnh kêu lên rồi ngồi im, xúc động đến nghẹn lời.
Cảnh cũ vượt biển đã mấy chục năm bỗng chốc ào ạt hiện về như thác lũ.
***
Tối hôm ấy mọi người từ chỗ núp lội ra chen lấn trèo lên ghe đợi. Ai cũng vội vã tranh nhau lên trước vì nếu bị lộ thì ghe sẽ bỏ chạy. Nhờ biết chút đỉnh TaeKwonDo, Hạnh nhẹ nhàng đu mình lên ghe rất sớm. Nhưng chiếc ba lô nhỏ đựng cơm nếp sấy và mì tôm bẻ nhỏ trên lưng Hạnh bị tuột xuống nước, trôi dập dềnh dưới ánh sáng lờ mờ của mảnh trăng non đầu tháng. Nàng không dám cúi xuống vớt lên. Trong lúc hỗn độn, Hạnh nghe có tiếng vật gì bên cạnh rơi tõm xuống nước và tiếng một người đàn bà thét lên. Trời ơi! Con tôi! Bò ơi Bò. Câm họng lại. Tiếng ai đó quát khẽ. Bộ muốn chết cả lũ hả. Hạnh bám chặt thành ghe quên mất sự hiểm nguy, căng mắt nhìn người đàn bà hụp xuống nước mò mẫm và rồi đẩy lên ghe một đứa bé ướt nhèm nhẹp. Có bàn tay ai chụp lấy đứa trẻ lôi vào. Chị có muốn đi thì lên luôn đi, họ sẽ không biết đâu. Người đó thì thầm. Không được. Tôi phải về để còn lo cho mấy đứa nhỏ. Má về nghe Bò. Tiếng thì thầm lẫn sụt sịt của người đàn bà có lẽ chỉ còn mỗi mình Hạnh nghe thấy.
...
Chắc là phải liệng nó xuống biển thôi. Tiếng người lao xao. Nó sắp chết rồi mà, còn chia nước làm chi nữa. Dù chưa chết cũng làm sao sống nổi trong vài giờ tới.
Tàu bọn họ đi đã hơn mười ngày, chống chọi với nhiều cơn bão, lúc này máy lại hư không hoạt động nên họ đành phải để mặc cho tàu trôi lênh đênh trên biển. Mấy người làm ơn đi. Không thấy con bé rất đáng thương sao. Có tiếng nói mệt nhọc cất lên sau tiếng nôn ọe từ phía cuối tàu. Nó tàn tật, mẹ nó rất nghèo cũng ráng bán vé số để dành tiền cho nó đi mà. Nó đâu có đi lậu. Hạnh dù khát khô cổ họng cũng ráng sức bò đến cạnh con bé đang thoi thóp. Nó chỉ nhỏ như con mèo nằm khoanh. Tóc xác xơ rũ rượi, đôi chân nó teo tóp quắp lại như hai que củi. Hạnh nâng đầu nó lên và đổ vào đôi môi nứt nẻ một chút nước. Nó dần dần hồi tỉnh.
Cuối cùng thì chiếc ghe bị nạn cũng may mắn gặp một tàu buôn cứu, sau hơn mười ba ngày lênh đênh vật vờ trên biển. Con bé Bò khi ấy nằm bất động như đã chết trên tay một thủy thủ khi người này giúp đưa nó lên tàu lớn. Người quen đi với bé Bò khóc lóc. Mẹ bé Bò đã gửi gắm nó cho tôi, nhưng tôi say sóng quá không giúp gì được cho nó.
Không ngờ đứa bé bại liệt đã có một sức sống rất mãnh liệt. Nó đã hồi tỉnh trong phòng cấp cứu của chiếc tàu buôn. Mấy tháng ở trại tỵ nạn Hồng Kông chờ đi định cư, bé Bò di chuyển khắp nơi bằng đôi tay, chống hai tay lên rồi trườn tới bằng đầu gối, kéo theo đôi chân không còn hoạt động. Vậy mà… Đây quả thật là một kỳ tích.
- Chị ngồi lên ghế đi. Hạnh chợt giật mình khi Bobbie lên tiếng. Và Bobbie bắt đầu làm việc, miệng huyên thuyên. Em nhớ ra rồi. Chị Hạnh là người đã cho em uống nước khi ở trên ghe. Khi người ta kêu liệng em xuống biển vì nghĩ em đã chết. Nếu không có chị ngày ấy, em ra sao nhỉ. Boobie bỗng cười khẽ, giọng cười như khàn đục, nghèn nghẹn trong cổ họng. Mẹ em sẽ như thế nào khi biết tin em chết. Mà mẹ em cũng suýt chết đó chị ơi. Mẹ vừa mới bớt bệnh, chứng bệnh thương hàn. Tối hôm ấy mẹ đưa em ra ghe, dù người quen đã nhận lời giúp đỡ, mẹ vẫn không an tâm nên lén đi theo núp trong bụi rậm để bồng em lên ghe. Em lại bị rớt xuống nước làm mẹ phải lặn xuống cứu. Về nhà, mẹ trở bệnh nặng sém chút nữa là đi theo ông bà rồi.
Hạnh nhớ về người quen mà Bobbie nói. Những ai từng ở chung group trong trại tỵ nạn Hồng Kông với Hạnh đều biết chuyện bé Bò đã từng bò đi khắp nơi để làm “chim xanh” đưa thư hò hẹn và làm cầu nối nhắn tin cho một cặp tình nhân trong làng chài. Do đó mà khi có mối vượt biên, họ lén cho mẹ bé Bò biết. Nhưng nhà Bò nghèo quá, cha mất tích khi đi đánh cá ngoài biển khơi, để lại cho bà mẹ một nách bốn đứa con thơ. Bé Bò là con đầu nhưng bị bệnh bại liệt khi còn rất nhỏ. Năm đó bé Bò lên mười. Mẹ Bò vì muốn con thoát khỏi cảnh bệnh tật nên đã bán hết vật dụng trong nhà và vay mượn để có đủ số vàng mà người chủ ghe đã cảm thông lấy chỉ bằng một nửa người khác.
Em thương mẹ vô cùng chị ơi! Bobbie tiếp tục kể. Qua Mỹ em được giúp đỡ chữa cho lành bệnh. Chân em đi đứng bình thường sau nhiều cuộc giải phẫu. Người ta cấp cho em tiền tàn tật. Nhưng mấy trăm bạc thì đủ thiếu gì đâu chị. Làm sao em giúp mẹ thoát cảnh nghèo đói và nuôi các em của em ăn học. Em đi học tiếp và rồi ra trường thì xin đi làm.
Đàng trước tiệm bỗng có việc cần giải quyết. Người ta gọi Bobbie khi cô vừa làm xong tóc cho Hạnh. Cuộc trò chuyện phải tạm ngừng. Bobbie đưa cho Hạnh số điện thoại riêng. Chị em mình sẽ nói chuyện sau chị nhé.
***
Hạnh về nhà rồi bận lu bu nên chưa kịp gọi cho Bobbie. Chiều thứ Bảy tuần sau, một ngày trước ngày Mother's Day, Hạnh đi San Jose mua quà cho mẹ. Dạo qua khu Little Sài Gòn, Hạnh thích thú ngắm những lá phướn có hình Cờ Vàng Quốc Gia mà cộng đồng Việt Nam ở đây đã phải vất vả chiến đấu một thời gian dài mới có được. Khu mua sắm hôm nay thật nhộn nhịp. Quà bánh, nhất là các loại hoa được bày bán khắp nơi. Hạnh vào trong một tiệm tạp hóa chọn cho mẹ chiếc khăn quàng cổ mỏng dành cho mùa hè để bà mang khi ra biển. Vừa ra khỏi tiệm Hạnh gặp một gia đình có rất nhiều con nít.
Người đàn ông ốm mà thật cao, đang đẩy chiếc xe trên có em bé tay ôm bình sữa. Đàng trước xe đẩy là một bé trai khoảng chừng năm tuổi nhảy loi choi với chiếc còi trên miệng thổi “toe toe” inh ỏi như đang dẹp đường. Bên cạnh người cha còn hai đứa nữa, tổng cộng là bốn đứa nhỏ, chiều cao chênh lệch nhau chẳng bao nhiêu, có lẽ chúng được sinh năm một. Hạnh mỉm cười một mình. Cái kiểu xe đẩy “một cha bốn con” như thế này, chắc chắn là gia đình Mễ rồi.
Nhưng không. Hạnh nhìn kỹ lại bọn họ và không cầm được tiếng reo thích thú:
- Trời đất! Là em hả Bò? Hạnh mừng quá nên quên mất cái tên Mỹ của Bò.
“Đứa nhỏ” cao nhất trong bốn đứa nhỏ, đứng chưa tới thắt lưng của người đàn ông, là cô Bobbie manager đã làm cho tóc Hạnh hôm tuần trước.
- Là chị sao! Bobbie chẳng những không phiền mà còn vui mừng chạy lại bên Hạnh. –Giới thiệu với chị, đây là Thành ông xã của em. Còn ba nhóc này, thằng anh và hai bé gái, là con tụi em đó. Bữa trước vì em bận nên không kịp kể hết chuyện cho chị nghe.
Hạnh rảo mắt nhìn ba đứa bé con của Bò. Thú vị thật. Bọn trẻ trông rất bình thường dù có người mẹ khuyết tật.
Thành nghe vợ giới thiệu đồng hương thì gợi ý mọi người ghé vào tiệm café gần đó để trò chuyện. Thì ra Bò đã bảo lãnh mẹ và các anh chị em sang Mỹ định cư, cả nhà đoàn tụ. Mẹ cô Bò hiện ở chung với vợ chồng cô, giúp trông bầy cháu ngoại khi cô đi làm. Hôm nay bọn họ đưa bầy trẻ đi mua quà Mothers Day cho bà ngoại. Hai người có một gia đình và cuộc sống rất hạnh phúc. Bobbie thì đi làm tóc, còn Thành đang làm công việc xây dựng, là tổ trưởng cho một công ty xây dựng của người Việt ở vùng Cali.
Sau này Hạnh mới biết, chuyện Bò kết hôn với Thành cũng là một chuyện tình rất ly kỳ và hi hữu.
Thành sinh ra trong một gia đình Bắc 54 vượt biển sang Mỹ sau năm 75, trước đó anh sống ở tiểu bang lạnh giá Ohio, là một kỹ sư xây dựng. Khi anh thất nghiệp cũng là lúc vợ mang con bỏ đi biền biệt. Anh buồn đời lao vào nhậu nhẹt, hút xách và bị án tù. Mãn hạn tù anh lang thang đây đó, và thường vào thư viện mượn máy vi tính để tìm chỗ dọn đi. Từ mục Kết Bạn Bốn Phương anh gặp Bobbie. Anh không có tiền nên Bobbie phải mua vé máy bay cho anh qua Cali thăm cô bạn nhỏ. Và họ đã yêu nhau, không ngại chuyện “thấp cao”. Nhưng họ bị gia đình Thành phản đối vì sự khiếm khuyết của Bobbie. Cuối cùng anh đã cưỡng lại ý gia đình để chọn Bobbie, và dọn qua Cali vùng nắng ấm.
Hạnh đi San Jose và ghé thăm nhà Bobbie trong một ngày nghỉ lễ. Mẹ cô Bò đã làm thật nhiều thức ăn để đãi Hạnh. Đặc biệt là món bún sứa khô chả cá, đặc sản miền biển của vùng Nha Trang Khánh Hòa.
Trong buổi tiếp đón người đồng hương, mẹ cô Bò mặc chiếc áo đầm hoa mai màu xanh nhạt. Tướng người bà hơi phốp pháp, phúc hậu. Dù trong trang phục “Bà Đầm hái nho”, bà nhìn rất sang trọng. Không ai có thể ngờ được trước đây bà là vợ dân chài, là người đàn bà của biển, từng gánh cá khô đi bán khắp nơi trong tỉnh Khánh Hòa. Nhớ đến cái đêm bà bất kể hiểm nguy, lặn xuống nước để vớt bé Bò đưa lên ghe, Hạnh cảm thấy bà chẳng những có tấm lòng thương con vô bờ bến, mà bà còn rất là anh hùng. Bà đã can đảm rứt ruột để đưa đứa con tàn tật ra khơi dù không biết tương lai sẽ ra sao.
Và nhờ nơi bé Bò đến là nước Mỹ văn minh tử tế, quyết định của bà mẹ đã đổi đời cho cả gia đình bà. Tấm lòng thương con vô bờ bến của bà đã được đền đáp.
Nhân Ngày Mother’s Day năm nay, xin trân trọng ghi lại câu chuyện về tấm lòng một người mẹ Việt nam.
Phương Hoa
Thứ Sáu, 9 tháng 5, 2025
Cát Vàng Nhớ Gót - Nhạc: Hoàng Khai Nhan - Ca Sĩ: Quang Minh
Ca Sĩ: Quang Minh
Ấp Úng

Người ơi, có thấu chăng người!
Đêm qua thao thức khi trời đổ mưa
Bây giờ cứ ngỡ chuyện xưa
Bao nhiêu nhớ, bấy nhiêu sầu
Phải chăng thuở trước duyên đầu riêng ta.
Tiếc thầm người cách biệt xa ,
Nếu không thì chắc tình ta với người!
Như thuyền chung bến êm trôi
Canh tàn dệt mộng hỡi người biết chưa?
Đêm nay tời vẫn đổ mưa!
Giọt sầu ấp úng nên chưa tỏ lời!!!
Nguyễn Thành Tài
(bài họa)
Yêu Thầm

Ai bảo em cứ mãi
Học bài bên song cửa
Để anh phải ngang lối qua nhà
Rồi có những hôm
Trời chợt buồn mưa đổ
Anh nghe lòng trĩu nặng xót xa
Ai bảo em lại đến
Học chung trường với anh
Đường em đi về
Hàng cây rợp bóng lá dương xanh
Để anh mơ ước làm bóng mát
Lặng lẽ yêu thầm
Em có biết không
Ai bảo em cho anh mượn sách
Giấy thơm như mùi hương tóc
Để anh viết lá thư dài
Gửi lại em tỏ tình chân thật
Anh chờ mòn mỏi, đợi trông
Tay võ vàng điếu thuốc
Tương tư thương nhớ em nhiều
Yêu em nên anh lười học
Ngờ đâu hôm nay
Cũng trên đường này
Nhà em rộn rã
Pháo hồng tung bay
Em đi theo chồng
Nên không tựa cửa
Tim anh mất nửa
Nỗi buồn khó phai
Dương Việt-Chỉnh
Gửi Đêm

Em lại ra ngồi ngóng đợi ai
Để se sợi nhớ thắt thêm dài
Để dìu ánh mắt thêm hoang hoải
Để ríu cười buồn thêm mắt ai
Em lại ra ngồi ngóng đợi ai
Để líu ríu đêm tiếng thở dài
Để ngân ngấn lệ đêm trống trải
Để nhói đêm dài một dáng ai!
Hà Nội, 09:30 ngày 19/04/2023
Đặng Xuân Xuyến
Mảnh Vụn Ký Ức

Thời gian đã bào mòn trong kỷ niệm
Ký ức bị bom thủng lỗ thật to
Làm sao cầm được trái tim rướm máu
Giữa ao đời, chèo thuyền vớt âu lo.
Dựa vào em ta tìm nguồn an ủi
Chạm môi tình mùi vị chát hương nho
Say một chút cho đời thêm hưng phấn
Trên đỉnh phù vân, ngôn ngữ vào thơ.
Tế Luân
Bông Hồng Cho Ngoại
(Thành kính tưởng nhớ về Ngoại của con. Th.H)
Có hai người phụ nữ mà tôi tôn thờ yêu thương nhớ nhung nhất, đó là bà ngoại và má của tôi .
Tôn thờ bởi sự hy sinh quên mình, tận tụy vô bờ cho chồng, con, cháu của hai người. Bởi không cần những hoa ngôn mỹ từ sáo rỗng mà chỉ bằng cách đối nhân xử thế, bằng hành động cử chỉ giản đơn thể hiện đức tính hiền lương cao đẹp của ngoại của má đã là cách dạy-làm-người cho chị em tôi từ khi còn nhỏ dại, là tấm gương soi chiếu dẫn dắt chị em tôi trên con đường đời thăng trầm sướng khổ một cách hữu hiệu hơn các bài học luân lý nào.
Yêu thương nhớ nhung, bởi trên cõi tạm nầy chúng tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại hai người nữa. Tôi đã có dịp nói về má hồi năm vừa qua, lần này nhân Mother’s Day tôi thành kính dâng chút hương lòng viết về bà ngoại.
Bà ngoại ra đi đã ba mươi năm.
Ba mươi năm, hơn một phần tư thế kỷ, gần mười một ngàn ngày. Vừa quá dài mà cũng vừa quá ngắn. Quá dài là tính theo thước đo thời gian, nhưng quá ngắn bởi hình ảnh ngoại vẫn còn sống động rõ nét trong tôi mà dòng đời xuôi ngược không thể xóa mờ đi được. Tôi vẫn còn“nghe”văng vẳng bên tai giọng nói nhẹ nhàng của ngoại. Tôi vẫn còn“thấy”từng nếp nhăn trên gương mặt ngoại, mắt mũi miệng thế nào. Thấy dáng lưng còng đi đứng liêu xiêu phải dựa vào cây gậy. Thấy mái tóc lơ thơ bạc trắng được má chải mỗi buổi sáng rồi búi thành búi nho nhỏ gọn gàng (lúc ngoại ngã bịnh không còn tự chăm sóc được nữa).
Quay ngược thời gian trở về thời ông bà cố ngoại, những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Chúng tôi thường nghe ngoại và má nhắc về ông bà cố với bao trìu mến thương yêu mà nhiều năm rồi tôi vẫn còn mường tượng ra được khung cảnh thanh bình của thời xưa y như trong cổ tích .
Má kể rằng thời má còn con nít, xóm chỉ có khoảng hai chục gia đình toàn bà con với nhau rất đoàn kết gắn bó. Gần như tất cả sống về nghề nông, mỗi năm chỉ cần làm một mùa đã đủ gạo ăn cho mùa tới. Thời ấy chưa có nhà máy xay nên phải giã gạo bằng cối. Ban ngày ai đi đâu làm gì thì làm, nhưng tối đến là cả xóm tụ tập lại nhà ông bà cố.
Tôi chắc rằng ông bà cố tôi là những người hiền từ nhân đức, hiếu khách cởi mở đối với họ hàng nên mọi người mới chọn nhà ông bà cố làm nơi hội họp vui chơi. Và trong nhà thì thương con cháu hết mực nên ba, bốn thế hệ gom tụ thành đại gia đình đề huề. Cách sống đó được lưu truyền cho đời con cháu chúng tôi đến tận bây giờ.
Những đêm trăng sáng mọi người bắt ghế hoặc trải chiếu ra ngoài sân người thì uống trà đàm đạo, chơi cờ tướng, kẻ lo giã gạo, trẻ con chơi trốn tìm hay nhảy nhót lò cò. Đêm không trăng thì vào nhà đốt đèn bằng mỡ heo xúm nhau nghe má đọc truyện Hai Bà Trưng Bà Triệu, truyện Kiều , Lục Vân Tiên, Tam Quốc Chí..v..v.. Thời ấy cả xóm số người biết chữ đếm không hết một bàn tay, duy má tôi là con gái cưng độc nhất của ông bà ngoại nên được đến trường. Má tuy là con gái mới suýt soát 9,10 tuổi nhưng rất lanh lợi thông minh. Biết chơi cờ tướng, biết dạy chữ cho các người lớn, là thủ lãnh của bầy con nít trai gái mà theo vai vế phải kêu bằng cậu bằng dì nhưng họ bị má tôi mầy tao mi tớ tuốt luốt. Vì là con nít nên không ai la rầy gì, vài năm sau mới chững chạc gọi theo tôn ti trật tự.
Thời ấy người ta sống bằng tình nghĩa chứ không vì vật chất tiền bạc. Mỗi mùa ruộng hay người nào có lợp nhà, cất nhà thì cả xóm xúm lại tiếp xoay vòng. Đến phiên nhà khác cũng vậy,, chỉ thuê mướn một, hai thợ chính. Chỉ khi nào mọi người cùng gieo, cấy, gặt trùng ngày thì mới phải thuê người Cam Bốt ở xóm trên đến phụ .
Ông bà cố có bốn người con gái, bà ngoại tôi là con thứ nhì .
Nghe người cùng thời với ngoại kể rằng lúc còn xuân xanh, ngoại là cô gái xinh xắn siêng năng khoẻ mạnh nhất nhì trong làng kể cả các làng lân cận. Thật vậy. Khi tôi bắt đầu biết nhận thức, tôi thấy về mức độ tham công tiếc việc thì không ai qua nổi ngoại. Xong mùa ruộng thì ngoại xách cần câu đi câu cá dọc theo sông hay hái rau muống đem xuống chợ bỏ mối kiếm thêm tiền quà cho đám cháu. Nếu không lặn lội bên ngoài thì ngoại cặm cụi trong bếp làm bánh trái cho cả nhà thưởng thức. Nhờ theo phụ ngoại mà sau nầy tôi học được vài món bánh cổ truyền. Nhưng tài gói bánh tét hay kho cá thì đố ai qua hơn ngoại. Viết tới đây mà tôi còn“ngửi” được mùi thơm của nồi cá rô, cá lòng tong kho tiêu với tỏi hành tóp mỡ…. (ừm.. tôi đang nuốt nước miếng nè)
Nhớ có lần vào mùa lúa chín, thời ấy chưa có máy tuốt lúa. Gặt xong phải bó thành từng bó lớn vừa sức người để đập cho từng hạt rơi ra trên tấm ván dầy 1 tấc, dài 1,2m một đầu dựng trên hai thanh gỗ, đầu kia nghiêng xuống đất 45 độ. Ngoại thuê vài thanh niên người Cam Bốt ở xóm So Đũa đến phụ.
Tôi cũng tập tành ra đồng. Công việc của tôi chỉ là giũ rơm để gom những hạt lúa còn sót lại trong bó rơm mà các anh ấy quẳng ra. Thời gian nầy do thời cuộc chị em tôi không được tiếp tục học nữa. Không quen lao động chân tay mà cả ngày cứ đứng lên cúi xuống nhiều lần để nhặt rơm giũ rơm quăng rơm chất thành đống khiến hai cánh tay và lưng tôi mỏi mệt đứ đừ mồ hôi tuôn chảy mặt mũi đỏ au vì nắng táp. Một thanh niên đứng đập lúa bên cạnh có lẽ đã quan sát tôi từ sáng sớm đến gần xế cầm lòng không đậu thốt lên :
—Trời ơi cô ơi, tui thấy cô không làm ruộng được đâu, nên về đi học lại hay kiếm việc văn phòng mà làm đi. Cô làm thua xa bà ngoại của cô rồi, không thể sống bằng nghề nầy vì không ai thuê mướn cô đâu, làm chậm quá chả bù với bà ngoại cô lúc trẻ!!
Rồi anh ấy tiếp tục kể lể là gia đình anh làm công cho gia đình tôi đến phiên anh là ba đời rồi nên anh biết rành lắm. Ông của anh khen bà ngoại tôi là giỏi nhất vùng, có thể vác nổi bao lúa 50 ký nhẹ nhàng không thua gì cánh thanh niên. Vừa giỏi vừa duyên dáng nên trai làng mơ ước mà không ai dám ngỏ lời vì sợ bị từ chối. A, nhờ thế nên ông ngoại tôi là người ở xứ xa mới cưới được bà ngoại tôi đây mà .
Nghe anh nhận xét bằng lời lẽ chất phát như thế khiến tôi vừa hãnh diện và thương ông bà ngoại vô biên. Đồng thời cũng vừa buồn cười lẫn chua xót cho số phận chị em chúng tôi quá. Nói thầm: Anh ơi, giá mà chúng tôi được tiếp tục đến giảng đường nhỉ.Tôi chỉ ra đồng có một buổi mà đã mệt
nhoài trong khi ngoại vất vả lam lũ mà không bao giờ nghe than thở kêu ca. Chả lẽ chị em tôi từ đây về sau phải làm nghề nông hết kiếp, ngay cả muốn tìm chân“ở đợ”chắc cũng không ai thuê mướn vì chậm chạp, dở dang quá như lời anh người Cam Bốt ấy nhận xét .
Càng nghĩ càng thương ngoại. Mỗi mùa lúa tôi tiếp ngoại có một, hai ngày mang cơm trưa cho người đến phụ hoặc giũ rơm thế mà đã bở hơi tai trong khi ông bà ngoại quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời mà chả nghe ngoại than mệt gì.
Vì ai mà ngoại phải làm quần quật nếu không phải vì sáu chị em tôi? Nếu như má không phải là con gái cưng độc nhất của ngoại và vì thương con nên thương yêu cưu mang luôn đàn con của con mình .
Nếu như ba tôi đừng phải là một công chức quá đổi thanh liêm trong sạch thì với vị trí và chức vụ ba đảm nhiệm, đã dư sức bảo bọc cả đại gia đình sống đời dư dả.
Nếu như má tôi là người vợ tham tiền, thích một bước lên xe hai bước kẻ hầu người hạ thì ông bà ngoại cũng thong dong với câu kinh tiếng kệ, nhẩn nha thăm viếng bà con họ hàng chứ đâu đầu tắt mặt tối như vậy.
Nếu lũ con gái chúng tôi đừng nuôi mộng học hành xa nhà tốn kém, chỉ cần có cái bằng tú tài rồi đi làm cô giáo hay tiểu công chức hay “theo chồng về dinh” lúc 17, 18 tuổi thì cuộc sống ngoại đã thảnh thơi an nhàn, sung túc nữa là khác.
Con nhớ ngoại quá ngoại ơi!!
Lúc còn bé những buổi trưa hay tối chúng tôi chơi trốn tìm, thích trốn trong phòng riêng của ngoại nên nhớ rõ chiếc rương bằng da tí hon đựng quần áo mới được đặt trong giường cạnh ngoại. Mặc dù ông bà ngoại chỉ là nông dân nhưng nhờ chịu thương chịu khó tiết kiệm nên nhà ngoại khang trang rộng rãi so với thời ấy khá nhất làng. Chẳng lạ người trong xóm lấy nhà tôi làm tụ điểm vui chơi.
Nhà toàn bằng gỗ tốt dựng sàn nên người ta gọi ông ngoại tôi là Ông Ba Nhà Sàn. Bà ngoại có phòng ngủ riêng thanh lịch, dù bình thường ngoại ăn mặc giản dị, quần áo bà ba đen hoặc trắng đôi khi bạc màu. Trong cái rương nhỏ, ngoại cất giữ vài bộ đồ bằng lãnh Mỹ A láng bóng và hai cái áo dài: một đen một trắng bằng the, cánh tay đăng ten rất đẹp chỉ mặc khi đi xa hay trong dịp đặc biệt. Ngày xưa người phụ nữ miền Nam dù nghèo dù vất vả cỡ nào, nhưng khi lễ hội hay cưới hỏi luôn luôn mặc áo dài. Nhất là những phụ nữ xứ Huế, xứ Quảng…luôn mặc quốc phục trong lúc buôn gánh bán bưng, thật đáng kính nể làm sao .
Người ơi , còn nhớ mãi trưa nào thời nào vàng bướm bên ao
Người ơi , còn nghe mãi tiếng ru êm êm buồn trong ca dao….
…. Thời hoàng kim xa quá chìm trong phôi pha …
( Hương Xưa , Cung Tiến )
Có năm nọ đoàn cải lương Dạ Lý Hương về Kiên Giang trình diễn. Hồi nhỏ, cải lương là loại văn nghệ ưa thích của mọi người già trẻ lớn bé.(Chúng tôi cũng không ngoại lệ, chỉ sau này lớn lên thì chúng tôi mới quay sang thích tân nhạc). Má mua vé cho ngoại dắt mấy chị em đón xe lambretta ra rạp Châu Văn xem. Ngoại mặc áo dài the mỏng hai cánh tay bằng ren thêu, chân mang hài, mấy chị em xúng xính đồ bộ mới tinh. Chúng tôi nao nức vì lần đầu tiên được đi xem nghệ sĩ nổi danh trình diễn, hình như là cô Phượng Liên với ai tôi quên rồi. Cô Phượng Liên mặc áo màu trắng kiểu tiên nữ lưng thắt dải lụa tha thướt, đầu trâm cài lược giắt, đeo đôi hoa tai lấp lánh đung đưa mỗi khi cô cử động múa may nhún người. Dưới ánh đèn sân khấu trông cô đẹp như tiên giáng trần khiến tôi ngơ ngẩn rồi mơ ước sau nầy lớn lên mình cũng thướt tha xinh đẹp như hình ảnh người nghệ sĩ ấy !
Khi đi cũng như khi về, ngoại luôn luôn dang hai cánh tay nhỏ nhắn ôm chị em tôi về phía ngoại như sợ có ai đến bắt cóc đàn cháu vậy .
Lại có lần quận Kiên Thành tổ chức văn nghệ ngoài trời, người khắp tỉnh đến tham dự, ngoại cũng dẫn chị em tôi đi xem. Lúc ấy tôi còn là con nít, nhưng chị hai đã thành thiếu nữ, chị ba chớm trổ mã rồi. Mà nơi chốn đông đúc thì có biết bao“cạm bẫy “của các ông lính, các anh học trò, các thanh niên. Tôi và các em mê mẩn xem ca nhạc hay hài kịch duy bà ngoại thì hầu như không xem chút gì, mà cứ đứng dang hai tay ra ôm các chị em không trọn hết vòng, mặt thì nghiêm nghị ngó chừng chung quanh. Hể có bóng nam nhi nào lảng vảng lại gần là ngoại với con mắt hình viên đạn ngó trừng đến khi họ lỉnh mất mới thôi. Mà ngoại đâu có mạnh mẽ gì cho cam, chỉ cần ai đó xô đẩy nhẹ là đủ ngoại té mất rồi.
Hình ảnh đó khiến tôi liên tưởng đến con gà mái mẹ xù lông xù cánh bảo vệ che chở cho đàn gà con mới nở, thật cảm động làm sao .
Trong mắt của ông bà ba mẹ thì các con dù vóc dáng cao lớn thế nào, dù bao nhiêu tuổi vẫn là trẻ con cần được bảo vệ chăm sóc như hồi thơ dại mà thôi. Ngoại tôi thật sự là hình ảnh của :
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng nước mắt nỉ non (ca dao)
Quê hương là bà mẹ (ngoại) già*
Nghèo, quê, xấu, vụng…vẫn là mẹ (ngoại) ta
Trái tim mẹ (ngoại) vẫn bao la
Đẹp hơn tất cả bài ca trên đời
(Bà Mẹ Quê Hương, thơ Hà Huyền Chi)
*Tôi mạn phép tác giả sửa Mẹ thành Ngoại.
Thuở tôi còn nhỏ có thời gian ba vắng nhà, má thay ba gánh vác việc nuôi con. Một lần theo bạn thử đi buôn chuyến, ngoại thay má chăm sóc chị em tôi. Đêm đêm ngoại kể chuyện cổ tích và hát đồng dao cho chúng tôi nghe. Dù chúng tôi đã thuộc làu những truyện cổ tích, những lời ru …nghe đi nghe lại lần thứ một trăm vẫn thấy thích thú như nghe lần đầu. Truyện Nàng út rẫy dưa, Tấm Cám, Bà Âu Cơ và Ông Lạc Long Quân…, rồi các bài hát:
Dưa hấu là cậu bí ngô
Bí ngô là cô đậu nành
Đậu nành là anh dưa chuột
Dưa chuột cậu ruột dưa gang
Dưa gang họ hàng dưa hấu
Dưa hấu là cậu bí ngô….
Cứ thế xoay vòng hát hết đêm vẫn chưa chấm dứt bài. Hoặc:
Con mèo mà trèo cây cao
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo
Lần nào cũng vậy, tôi chìm vào giấc ngủ theo tiếng hát của ngoại đến khi ngoại đánh thức thì đã là bình minh hôm sau để sửa soạn đến trường.
Rồi khi ba chị em tôi lên Saigon tiếp tục theo đuổi việc học. Thời ấy điện thoại chưa thông dụng, mỗi tuần chúng tôi mỗi viết thư về thăm nhà. Ngược lại chị hai (lúc ấy ra làm công chức cùng với ba) cũng trả lời ngần ấy thư. Thật xúc động biết bao khi một hôm chúng tôi nhận được thư chị hai có kèm theo thư của bà ngoại. Nét chữ cong quẹo từ bàn tay chai sạn chỉ quen với ruộng đồng bếp núc nhưng chứa đựng bao yêu thương trìu mến, dặn dò chị em tôi giữ gìn sức khoẻ và chăm sóc lẫn nhau. Ngoại không viết nhiều, vì ông bà ngoại biết chữ đủ để đọc truyện mà thôi. Chỉ vài dòng ngắn ngủi nhưng thể hiện sự nhớ nhung, tình yêu của ngoại dành cho đàn cháu khiến chị em tôi nghẹn ngào bật khóc muốn chạy ngay về nhà để ôm ngoại, để được nghe tiếng ngoại hát đồng dao ru chị em tôi như thuở bé thơ.
Ngoại tuy thể chất gầy yếu nhưng tinh thần mạnh mẽ, quật cường. Ngoại không nói những lời văn chương hoa mỹ, lý luận cao siêu vì ngoại chỉ là một người nông dân chân chất. Ngoại không cần nghiên cứu triết lý Phật giáo nhưng khi gia đình gặp hồi nguy biến, ngoại vượt lên trên mọi thử thách, đón nhận tai ương với lòng an nhiên bình thản của một người thấu đạt cái nghĩa vô thường.
Ông ngoại bình thường thì cứng rắn mạnh mẽ, là đầu tàu ngăn gió che mưa cho đại gia đình nhưng khi chúng tôi bị đuổi ra khỏi nhà một cách oan ức trở thành kẻ vô gia cư thì tinh thần ông bị lay động nhiều nhất. Từ căn chòi cất tạm bợ, ông hay ngồi cạnh cửa sổ hàng giờ nhìn nhóm người quen lẫn lạ ngang nhiên hợm hĩnh ra vào tự do tung hoành trong ngôi nhà thân yêu xây dựng lên từ những chắt chiu nâng niu nửa đời son trẻ. Rồi hai dòng nước mắt chảy dài trên đôi má nhăn nheo khiến lòng con cháu quặn đau vì cảm được sự u uất, tuyệt vọng, bất lực của ông mà không thể làm gì thay đổi được. Khi ta trẻ thì tương lai còn trước mặt, còn cơ hội tạo dựng lại những gì vuột mất, nhưng khi tuổi đã hoàng hôn thì ý chí cũng bị bào mòn.
Lúc đó bà ngoại với má là người đứng ra an ủi vực ông ngoại dậy, chứng tỏ nghị lực phi thường xứng đáng hậu duệ con cháu hai bà Trưng, bà Triệu . Bà can đảm chấp nhận thảm hoạ, không hề tỏ vẻ tiếc nuối tài sản bị cướp trắng trợn, bà hay nói: Mọi sự trên đời đều không trường tồn, của cải vật chất chỉ là phù du, miễn người còn là phúc đức rồi.
Bà ngoại đã ngộ câu kinh Bát Nhã: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” mà không hề đến chùa nghe Sư thuyết giảng bao giờ .
Rồi đến cái ngày bà ngoại ra đi, bỏ ông ngoại ba má chị em tôi lại trần gian. Lúc chuẩn bị làm lễ di quan, ông ngoại bỗng lảo đảo ngã ra suýt ngất .Dù hiểu thấu đáo đời người gói gọn trong bốn chữ: Thành, Trụ, Hoại, Không (hay Sinh, Trụ, Dị , Diệt) nhưng khi có một người thân yêu lìa xa vĩnh viễn ai lại không u buồn sầu não?
Bà ngoại à, nếu kiếp sau có trở lại thành người, con nguyện cầu cho con được đầu thai vào gia đình y hệt như kiếp nầy. Nghĩa là được làm cháu của đúng ông bà ngoại, làm con của đúng ba má, làm chị em của đúng sáu chị em con đó ngoại ơi.
Thanh Hà
Thứ Năm, 8 tháng 5, 2025
Lễ Phật Đản

Phật Đản muôn nơi lễ tỏ tường
Phật ban ánh sáng chỉ con đường
Phật đem bác ái truyền am hiểu
Phật dạy hiền từ dẫn cảm thương
Phật pháp hành trì luôn tiếp nhận
Phật kinh tụng niệm mãi ghi thường
Phật tâm nguyện ước rèn tu sửa
Phật Đản chào mừng khắp các phương
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 5/ 22/2024
(Rằm Tháng Tư )
Phật Tại Tâm
Nhưng vì trần thế cõi vô thường
Bao nhiêu ảo ảnh làm mê muội
Là bấy bịp lừa tạo nhiễu nhương
Danh vọng, tham sân gieo độc tố
Tiền tài, nhan sắc rắc mù sương
Tham thiền nhập định hồn thanh tịnh
Phật tánh thăng hoa hiện thực trường
Lâm Hoài Vũ
Dec 19 , 2023
Nhớ Ơn Phật Đản Sanh

Nhập thế hoằng dương Đạo rạng ngời
Tham luyến sân si lòng chẳng khởi
Phụng hành tín thọ chí không lơi
Nhân duyên chớ tạo thường yên ổn
Nghiệp quả càng vơi hẳn tuyệt vời
Đức Phật soi đường về Bát Chánh
Luân hồi sáu nẻo khó mà rơi
TâmThanh KimPhú
Trần Gian Là Cõi Tạm

Sao gọi trần gian là cõi tạm
Trần gian nơi rão bước rong chơi
Võng kẹt ù ơ tiếng mẹ ru hời
Nơi tiếng sáo đánh trâu về xóm nhỏ
Nơi tiếng hò cô lái đò bé nhỏ
Lướt mái chèo khoan nhặt nước trong xanh
Nơi ngọn dừa xanh bếp lửa bập bềnh
Làn khói tỏa mái tranh vách lá
Nhớ buỗi trưa hè cắm cua bắt cá
Tuổi thơ ơi nặng trĩu bên lòng
Nhớ làm sao ruộng lúa dòng sông
Hạt lúa bờ ao nuôi ta khôn lớn
Dẫu trần gian có vô vàn hỗn độn
Vẫn là quê hương kỷ niệm êm đềm
Dưới tàu dừa le lói ánh trăng đêm
Thoáng hơi thở mùi hương dạ lý
Ướp cánh hoa tươi vào trang nhật ký
Ôm mộng đời từ đó nở đơm hoa
Quê hương ơi sao thể xóa nhòa...!
Mang ray rức dậm đường cách trở
Cõi trần gian để thương và để nhớ
Hoa thương yêu nở rộ khắp thế gian
Gỡi đến anh đến chị lượng vô vàn
Bằng con tim rộn ràng tình thân ái...!
Ngư Sĩ
Vũ Đức Giang
(Vũ Đức Giang, trích từ Kỷ Yếu Y Khoa Sài Gòn 1967-1974)
Đây là bài viết về chính là về Vũ Đức Giang, một người bạn thân
cùng lớp tại trường Đại Học Y Khoa Sài Gòn và cùng khóa Quân Y Hiện
Dịch 21, khóa Quân Y Hiện Dịch (QYHD) cuối cùng của Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa (QLVNCH). Cũng thêm vào bài là các chi tiết, tạm gọi là bối
cảnh sơ lược, đáng nhắc lại, còn ghi nhận được của từng năm học, liên
quan đến cả học trình Y Khoa bảy năm 1967-1974.
Tôi
thi được vào năm Dự Bị Y Khoa (APM), niên khóa 1967-1968. Lúc đó có
biến cố Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân 1968, ảnh hưởng mạnh đến mọi người và
chúng tôi, tất cả sinh viên, phải học quân sự tức là tham dự chương
trình Quân Sự Học Đường (QSHĐ) để có kiến thức phải dùng khi hữu sự.
Chính quyền VNCH lúc đó chủ trương QSHĐ để hy vọng khi cần đến, sinh
viên dân sự cũng có thể cầm súng chiến đấu như các quân lính chuyên
nghiệp.
(Hình chụp 1968 khi Lớp Dự Bị Y Khoa (APM) tham dự chương trình Quân Sự Học Đường.
Hàng
đứng còn nhận được từ bên trái có Võ Văn Thành, Bùi Trọng Cường, khoảng
giữa có Phan Xuân Tuấn, Dương Thanh Trắc, Nguyễn Kỳ Chân; từ phải có Vũ
Dũng, Nguyễn Văn Quốc, Đỗ Danh Toàn, Phạm Anh Dũng.
Hàng ngồi đeo kính đen là Nguyễn Đăng Cung, khoảng giữa có Nguyễn Hữu Nhiệm, cạnh người áp chót bên phải là Trần Trung Hòa.)
Về học hành chính thức, chúng tôi là sinh viên của trường Đại
Học Khoa Học Sài Gòn và tuy học lớp tại Cơ Thể Học Viện cũ của trường Y
Khoa ở đường Trần Hoàng Quân, nhưng thực tập lại ở Khoa Học Đại Học
Đường Sài Gòn.
Chúng tôi học cả năm như vậy và cuối
năm thi lên vào lớp Y Khoa năm thứ Nhất. Kỳ thi cuối năm của lớp APM
thật khó khăn. Lớp Dự Bị Y Khoa tổng số có khoảng 380 người, mà chỉ có
khoảng 250 người đỗ kỳ thi, được lên lớp. Trong số các bạn thi rớt cuối
năm, có khoảng 50 người được “ở lại lớp” vì chỉ có thi trượt thực tập,
còn số còn lại bị loại hẳn ra khỏi chương trình APM, vì trượt thi viết.
Những bạn không may mắn bị "rớt" lại APM, tôi nhớ có một số rồi cũng tốt
nghiệp được Y Khoa, nhưng trễ lại 1 năm như Nguyễn Như Thành, Lê Thành
Đấu, Trần Hoàng Long, Nguyễn Võ Khanh...
Riêng cá nhân tôi, cả năm chỉ đi học thực tập là những giờ bắt buộc và
chả mấy khi đi học ghi bài. Thường tôi chỉ đợi “cua” (bài học ghi lại)
của ban Đại Diện lớp in, phát ra là đi lãnh về học. Cuối năm cứ thế mà
đi thi và cũng thi đỗ được hết, và được vào năm Y Khoa thứ Nhất. Tôi
phải thú nhận thật may mắn, đậu hạng 9 hay 10 gì đó, và nên còn được học
bổng của Bộ Y Tế khoảng 10 ngàn đồng Việt Nam, tiền lúc đó.
Lên năm thứ 1 Y Khoa, vào chính thức học ở trường Y Khoa, thay
vì Dự Bị Y Khoa APM do các giáo sư trường Đại Học Khoa Học giảng dạy,
cách thi cử đổi khác. Cứ một vài tháng lại có kỳ thi, không Cơ Thể Học,
cũng Sinh Hóa Học, rồi Mô Học... Quen tật xấu, tôi cũng chẳng đến trường
ghi bài. Vì các kỳ thi gần nhau quá, ban Đại Diện lớp đôi khi không đủ
thì giờ in bài kịp cho sinh viên học. Kỳ thi đầu tiên của Cơ Thể Học sắp
đến, chỉ còn có vài ngày, tôi vẫn chưa có một số tài liệu do Bác Sĩ Y
Khoa Trần Anh, Thạc Sĩ Nhân Chủng Học, giáo sư chính phụ trách môn Cơ
Thể Học, giảng dạy. Không đủ bài vở, tôi đến trường hỏi mượn để chép lại
học. Đang vớ vẩn trước cái Đại Giảng Đường to lớn, thì vừa đúng lúc
nghỉ giải lao, sinh viên cùng lớp kéo nhau ra khỏi cửa. Là năm đầu tiên
học ở trường Y Khoa, ít khi đến trường và lớp, tôi cảm thấy lạc lõng,
nhìn ai cũng xa lạ cả. Tần ngần một lúc khá lâu, gặp một sinh viên khác
vừa bước ra sau cùng. Tôi trông anh bạn đeo kính cận thị, có vẻ hiền
lành, thành đánh bạo lại làm quen. Rất niềm nở và thông cảm, người bạn
chưa quen trước và tốt bụng đó cho tôi địa chỉ nhà, hẹn buổi tối lại cho
mượn bài. Đó là lần đầu tiên tôi gặp và quen Vũ Đức Giang.
Nhà của hai đứa cũng gần nhau, đều ở Đa Kao. Tôi ở đường Tự Đức. Nhà
của Giang ở trong một ngõ của đường Phạm Đăng Hưng. Đó là một trong
những nhà nhỏ, ngay dưới chân cầu Sắt, chiếc cầu nằm trên đường Nguyễn
Văn Giai lối qua Gia Định, vẫn được gọi là "cầu Sắt", vì cầu làm bằng
sắt và tôi không biết tên thật của cầu là gì. Đi vào ngõ phía trong sâu
chút nữa là nhà của Lê Huy Hòe, cũng là bạn cùng lớp. Nhà của Giang đơn
sơ, nhưng sạch sẽ. Giang là con trưởng ở với bố mẹ, một em trai và một
em gái. Tôi không nhớ nhiều về bố của Giang vì ông mất sớm, nhưng bà mẹ
thì thật hiền dịu, chiều và thương con, một bà mẹ Việt Nam lý tưởng.
Cậu em trai, kém Giang và tôi chỉ một vài tuổi nhưng rất kính trọng, lễ
phép với anh và bạn của anh. Cô em gái Giang ngọt ngào, giản dị và dễ
mến.
Ngay buổi tối đầu tiên, Giang đã hơi làm lạ khi thấy
tôi rủ đi uống cà phê nghe nhạc và tôi cũng hơi ngạc nhiên khi thấy bạn
nhận lời ngay. Sau đó hai đứa mới khám phá ra là người bạn mới tuy có
nhiều điểm khác mình, nhưng cũng có cùng một sở thích là âm nhạc. Giang
học rất chăm và khá đều, còn tôi, thú thật, hơi... làm biếng, chỉ bắt
đầu học lúc sắp thi. Là cầu thủ bóng tròn loại khá, lúc nào Giang cũng
có mặt trong những lúc tranh giải túc cầu của lớp Y Khoa, trong khi tôi
chỉ biết xem đá bóng và biết cổ vũ, hò hét, hoan hô. Tính của Giang trầm
lặng, ít nói và tôi, ngày đó, sôi nổi hơn. Giang thích và hay ôm đàn
guitar dạo, nhưng cũng như tôi, vì chính yếu chỉ tự học, nên không khá
lắm. Giang đập trống thì khá hơn một chút. Về trình diễn âm nhạc, Giang
đủ sức tham dự những buổi văn nghệ tất niên tài tử trong lớp. Giang rất
thích nghe nhạc, loại nhạc như nhạc Tiền Chiến, Tình Ca Từ Công Phụng,
Ngô Thụy Miên (học cùng thời với Giang, Nguyễn Hữu Thanh, Nguyễn Tiến
Dũng, Võ Tá Hân... ở trường Trung Học Nguyễn Trãi)... Vũ Đức Giang kể
chuyện "hồi APM" lúc học Quân Sự Học Đường, hay đi hát đàn với hai bạn
cùng lớp là Vương Đức Hậu và Nguyễn Minh Huấn. Có khi họ còn "chở ba"
trên xe gắn máy và người nào ngồi giữa thì cầm cái đàn guitar. Nghe kể
như vậy, tôi thấy người bạn mới của mình tính tình thật là "văn nghệ"
rồi! Còn cá nhân tôi, mê đàn hát từ những ngày còn bé. Cả hai đứa vì
không có "điều kiện" nên đều chưa bao giờ được học nhạc chính thức, từ
thầy hay từ trường lớp, càng làm cho hai đứa hiểu nhau, gần nhau, rồi
dần dần thân nhau nhiều.
Giang và tôi từ đó rủ
nhau, ít nhất một tuần một lần, đi quán để uống cà phê, để hút thuốc lá,
nói chuyện và nghe nhạc. Hai quán cà phê chúng tôi thường đến là quán
Hân và Ly Tao. Cả hai quán đều có những nhạc thật hay.
Quán Hân ở đường Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao, trước cửa là hiệu phở Hoàn
Kiếm, ngay gần nhà. Con gái chủ quán, thỉnh thoảng ra quầy thu tiền, là
một cô gái xinh xinh, ngày đó, có một thời gian ngắn cũng đã là "cô em
nhỏ" của Vũ Quốc Phong, một bạn cùng lớp Y Khoa. Đây là nơi chúng tôi
được nghe những băng nhạc hiếm, có Duy Trác đằm thắm ấm áp hát "Thuở Ban
Đầu" (Phạm Đình Chương), Anh Ngọc điêu luyện với "Mắt Biếc" (Cung
Tiến), Mai Hương thiết tha "Giấc Mơ Hồi Hương" (Vũ Thành), Châu Hà hát
"Suối Tóc" (Văn Phụng) êm như mơ...
Quán Ly Tao gần
nhà tù Chí Hoà. Chủ quán, ca sĩ Ngọc Long, là một người cao lớn. Quán
có người hầu bàn cũng là con gái nhỏ nhắn của anh Ngọc Long. Cô bé gọi
chúng tôi là chú xưng cháu, làm không khí ấm cúng và tự nhiên. Ở đây,
Giang thường yêu cầu một băng nhạc rồi thẫn thờ, mê mẩn nghe bài "Chiều
Mơ" của Vũ Đức Sao Biển do Ngọc Long hát:
"Chiều mơ anh sẽ về từ đèo cao hút gió, có hoa xưa chờ người xưa đó.
Chiều mơ anh thấy em buông tóc bên trời, buồn một mình trên tuổi xuân phai.
Chiều mơ anh cầm đàn về bờ xưa suối biếc, hát em nghe ngàn lời thương tiếc...".
Tôi thấy bạn rất có lý, Ngọc Long ít khi hát, có giọng thật
trầm, thật "đầy", và hát bản này quả có một không hai. Vũ Đức Sao Biển
nổi tiếng với bài "Thu Hát Cho Người" do Anh Ngọc hát thật hay, nhưng
theo ý riêng của Giang "Chiều Mơ" tuyệt diệu hơn và lúc đó không được ai
khác ngoài Ngọc Long trình bày, tuy sau này có Mai Hương hát ở Hải
Ngoại.
Đúng như cảm nghĩ ban đầu khi gặp gỡ, Vũ Đức Giang
rất tốt với bạn bè. Bản tính rất hiền, và nhiều khi ngây thơ như một cô
gái nhỏ. Giang hiền lành, hầu như không biết giận ai, thành hay bị tôi
và các bạn thân khác trong cùng lớp Y Khoa như Quách Anh Dương, Nguyễn
Hữu Thanh, Nguyễn Tiến Dũng... "bắt nạt" thường xuyên và Giang thường
chỉ phản ứng bằng một nụ cười nhẹ nhàng. Tính Giang rất nhạy cảm, và
thỉnh thoảng bị tôi trêu, vì Giang có thể dưng dưng "mau nước mắt" khi
có chuyện gì cảm động, ngay cả chỉ lúc nghe những bản nhạc đầy tình cảm
mạnh như "Bà Mẹ Gio Linh" (Phạm Duy) do Thái Thanh hát. Giao thiệp với
Giang khá lâu tôi mới biết thêm về con người của bạn. Tuy hiền lành,
thích chiều bạn, hay nhịn người khác nhưng một khi đã tin vào chuyện gì
thì không có khi nào thay đổi ý kiến, nếu không có những sự kiện vững
chắc chứng minh khác đi.
Năm thứ 1 Y Khoa của chúng tôi
đánh dấu bằng một chuyện đau lòng. Tháng Ba 1969, Giáo Sư Thạc Sĩ Trần
Anh, một bác sĩ rất giỏi, đang đảm nhiệm chức Viện Trưởng Viện Đại Học
Sài Gòn ngoài chức Trưởng Khu Cơ Thể Học Viện của Đại Học Y Khoa, bị ám
sát, bắn chết bằng súng lục, trong khi sau giờ làm việc, ông đi bộ từ
trường Y Khoa về nhà, gần Đại Học Xá Minh Mạng. Vì ông là giáo sư chính
hướng dẫn cho Y Khoa 1, đám tang của thầy, chúng tôi thay nhau "đứng
gác" quan tài. Phải nói, tất cả chúng tôi và nhất là Vũ Đức Giang bị
xuống tinh thần khá lâu, vì cái chết của người thầy đáng kính trọng.
Giang tính tình nhậy cảm buồn đến cả tháng mới nguôi. Mãi sau 1 thời
gian giáo sư Bác Sĩ Thạc Sĩ Nguyễn Hữu từ Pháp về, đứng ra lãnh trách
nhiệm dẫn dắt sinh viên Y Khoa 1 môn Cơ Thể Học.
Sau khi thi đỗ lên năm Y Khoa 2, một buổi tối hơi lành lạnh, khí hậu
hiếm thấy ở Sàigòn, hai đứa khi "ngồi" quán Hân nhìn khói thuốc bay
lững lờ, ngắm từng giọt cà phê phin đen chảy và nghe nhạc, Giang đột
nhiên cho tôi biết quyết định nộp đơn thi vào QY (Quân Y) và rủ tôi cùng
theo. Giang nói cho tôi nghe về ước muốn trở thành y sĩ nhảy dù. Bình
thường, Giang chỉ nhỏ nhẹ, nhưng lúc đó nhìn và nghe Giang, thấy nó thật
cương quyết. Tôi đồng ý ngay, không chần chừ, nhưng theo tôi binh chủng
nào cũng được. Về sau kéo thêm được Vũ Quốc Phong, Nguyễn Minh Huấn,
Đoàn Trung Bửu... cũng thi đỗ và gia nhập Quân Y. Khoảng thời gian đó
vừa sau vụ Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân 1968, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
miền Nam vừa chiến thắng một cách dũng cảm và tinh thần thanh niên đang
được kích thích sôi động.
Cuộc đời Quân Y có những điều thật
bất ngờ. Chúng tôi cứ nghĩ Sĩ Quan Quân Y sẽ gian khổ khi ra trường
lúc chiến đấu, còn lúc là Sinh Viên Quân Y thì chỉ tập tành quân sự chút
ít mỗi mùa Hè, và trong năm thì giờ dành cho việc học. Một buổi trưa
nắng và gió tháng Giêng 1970 sau khi làm thủ tục được phát quần áo, giày
"bốt đờ sô"... tôi và Giang chở nhau vào trường Quân Y ở đường Nguyễn
Tri Phương, Sài Gòn bằng chiếc xe gắn máy "Honda dame" của tôi để tham
dự Tám Tuần Lễ Huấn Nhục. Hai đứa khệ nệ khiêng mỗi đứa một bị to. Ngoài
những đồ đạc nhà binh lỉnh kỉnh như "bi đông", xẻng xúc đất, "gào
mên"... còn nặng đầy sách vở, tưởng sẽ vào đó ngồi học bài ngay! Ba ông
anh huynh trưởng sinh viên quân y do Sinh Viên Quân Y năm thứ 6 Tô Phạm
Liệu chỉ huy đã đợi sẵn ở cổng vào. Không thấy đàn anh nào cười đón
mừng cả! "Ông" nào trông cũng nghiêm và khó quá. Mấy chục tân sinh viên
Quân Y, mới nhập ngũ, là những sinh viên Y Khoa 2 lớp chúng tôi, lớp Y
Khoa 1 như Lê Quang Minh, Phạm Quang Tố, Ngô Hoàng Lâm, Lê Thành
Đấu...), sinh viên Dược như Mai Gia Thược (Thược về sau tự tử trong trại
Cải Tạo), Phạm Đức Thụy... và sinh viên Nha. Vũ Quốc Phong có giọng nói
to, hoạt bát và có dáng điệu chững chạc nhất được cử làm Tân Sinh Viên
Đại Đội Trưởng cho Đại Đội Tân Sinh Viên Quân Y. Ngay sau đó, đám tân
sinh viên Quân Y chúng tôi được lệnh ôm gói hành trang nặng trĩu chạy
chung quanh Vũ Đình Trường của trường Quân Y, theo ba ông đàn anh cho
đến khi gần... xỉu. Thật là bất ngờ!
(Hình chụp tháng Giêng 1970.
SVQY
Tô Phạm Liệu, người mặc quân phục, đứng đối diện các các Tân SVQY đa số
mặc thường phục, đến trình diện nhập ngũ ở Trường Quân Y.
Từ
phải qua trái của hàng đầu tiên, còn nhận ra được là Tân SVQY Châu Văn
Còn, Lê Quang Minh, Ngô Hoàng Lâm, Trần Ngọc Thạch. Sau lưng Châu Văn
Còn là Lê Thành Đấu.
SVQY Ngô Thế Khanh mặc quân phục, đứng ở bìa trái của hình)
Rồi cứ như vậy mỗi ngày, các đàn anh sinh viên quân y như Tô
Phạm Liệu, Phạm Gia Cổn, Phạm Đặng Long Cơ, Nguyễn Ngọc Ấn, Ngô Thế
Khanh... lần lượt thay phiên nhau cho các đàn em mới "nếm mùi" Quân Đội.
Khi còn là sinh viên dân sự, tôi đã từng đi học quân sự ở Quang Trung
hai lần và Thủ Đức một lần nhưng không thấy chỗ nào có thể gian lao như
là tám tuần lễ huấn nhục ở trường Quân Y. Những khóa huấn nhục quân y
trong những năm trước chỉ có 6 tuần và khóa của chúng tôi lại kéo dài
đến 8 tuần. Theo các đàn anh cho biết thì những năm trước cũng có thời
gian huấn nhục nhưng vì "thông cảm" là cùng với quân sự, các đàn em vẫn
phải "học chữ" ở các trường Y Nha Dược. Khóa của tôi thì đặc biệt sao
đó, có nhiều đàn anh Quân Y có lý tưởng mạnh và nhiệt thành do đó muốn
huấn luyện chúng tôi thành những sĩ quan nòng cốt cho ngành Quân Y trong
tương lai. Dù muốn hay không, Trường Quân Y cũng là một trong những
trường Sĩ Quan Hiện Dịch khác của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như trường
Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, trường Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị... Tân Sinh
Viên Quân Y ngoài sự huấn nhục thể xác và tinh thần ở trường Quân Y,
chắc chắn không thể so với trường chuyên nghiệp quân sự Võ Bị Đà Lạt
nhưng chúng tôi còn thêm sự lo lắng như những sinh viên Y Nha Dược ngoài
dân sự là vẫn phải đi học, học bài rất nhiều của các ngành Y Dược Nha.
Và nếu không thi đỗ, thì bị ở lại lớp hay có khi "ra trường sớm" (sortie
latérale) tức là bị loại khỏi trường Y Khoa, nếu thi trượt hai lần.
Nhất là ngày đó chúng tôi Y Khoa Hai có môn Ký Sinh Trùng Học do Giáo Sư
Bác Sĩ Đỗ Thị Nhuận tuy rất tận tâm nhưng cũng nổi tiếng rất nghiêm
khắc, trong việc học hành, thi cử của sinh viên và có lúc thẳng tay
"đánh rớt" những người không đủ điểm.
Trong số các
đàn anh có ba người khó tính nhất cùng ở một toán huynh trưởng huấn
luyện là anh Cảnh, Đức và Ấn (anh Nguyễn Ngọc Ấn khóa 18 Quân Y Hiện
Dịch, sau đi Biệt Động Quân, tác giả bài "7 Ngày Ở Quảng Trị" viết về
chuyện bị bắt làm tù binh ở trận Hạ Lào, khi bị đưa ra Bắc, và mãi sau
mới được hoán chuyển tù binh về lại được miền Nam). Ba ông này huấn nhục
chúng tôi theo đúng nghĩa huấn nhục, ngay từ buổi đầu tiên với các hình
phạt nặng, vì những lý do đôi khi thật là vô lý. Vì không được chuẩn bị
tinh thần nên các đàn em rất ngạc nhiên và có thể nói là bất mãn. Một
buổi chiều, như thường lệ, ba ông đàn anh đem cả Đại Đội Tân Sinh Viên
ra phạt tới tấp vì một cái lỗi rất là nhỏ, tôi không nhớ rõ và hành xác
đàn em khoảng một tiếng đồng hồ dưới trời nắng chang chang. Đoán biết có
sự bất mãn, anh Cảnh trước khi giải tán đại đôi, tuyên bố sẽ tập họp
lại buổi tối và nói rõ ràng nếu có ai không bằng lòng thì lúc đó cho
biết để các đàn anh sẽ cho phép "rời khỏi Quân Đội". Giang, vài bạn nữa
và tôi có họp lại bàn chuyện này. Mấy ông đàn anh thì cũng dự định "dọa
già" các em thôi. Các ông em ngây thơ, tin thật và hẹn nhau nhất định
giữ vững lập trường dù có gì xảy ra. Tối hôm đó, Vũ Đức Giang, Nguyễn
Minh Huấn và Phạm Anh Dũng đã đứng ra khỏi hàng để được "cởi áo nhà
binh", như các anh đã hứa hẹn. Sau đó thì chúng tôi "vỡ mộng"! Những
đàn anh ra lệnh cho Vũ Quốc Phong đứng ra phạt chúng tôi. Phong nhận
thấy sự vô lý, vì các bạn của mình chỉ bày tỏ ý kiến khi được đàn anh
hỏi thôi, nên nhất định không tuân lệnh. Ba ông đàn anh nổi giận phạt
riêng Phong trước hàng quân và rồi phạt cả đại đội chạy vài vòng Vũ Đình
Trường. Riêng ba đứa chúng tôi thì biết thêm hình phạt Dã Chiến là gì,
đêm hôm đó. Các ông anh thay nhau phạt 3 đứa tôi cả đêm dài. Đến sáng
ra, khi hỏi lại chúng tôi vẫn cương quyết giữ ý kiến đòi "rời khỏi Quân
Đội" như đàn anh đã hứa. Riêng Vũ Đức Giang, khi được cho nghỉ vài phút,
đã thu dọn cho đồ nhà binh vào bị và mặc sẵn quần áo dân sự từ lúc nào
rồi. Lúc này các ông đàn anh cũng hơi lúng túng, không biết xử trí ra
sao. Huynh trưởng Tô Phạm Liệu phải đến gọi riêng ba đứa em ra khuyên
bảo. Anh Liệu nói nhiều về tình cảm anh em trong gia đình Quân Y và
giảng cho các đàn em bướng bỉnh hiểu về mục đích chính của thời gian
huấn nhục chỉ làm cho tân sinh viên tập quên đi cá nhân của mình và nghĩ
đến tập thể, tương lai, tổ quốc... Anh nói rất hay, chúng tôi cảm động
nhiều và riêng Giang phải long lanh nước mắt.
Chúng
tôi hiểu, không xin "rời khỏi Quân Đội" nữa và rồi theo thời gian, cũng
quen đi những huấn luyện về thể xác và tinh thần để sửa soạn thành
những Quân Y Sĩ trong tương lai. Thôi thì đủ trò phạt, hít đất, chạy...
Một lần tôi đang ở trong hàng nghe anh Phạm Gia Cổn "thuyết pháp",
không hiểu sao, lỡ dại không nhịn được phải phì cười, và bị anh phạt.
Anh cho là tôi "cười nhỏ quá", nhiều người chưa được nghe và bắt thằng
em đứng giữa hàng quân cười thật to 10 lần để cả Đại Đội được nghe. Tôi
nhớ mãi bị khản giọng, mất tiếng đến cả mấy ngày. Nhưng kể từ ngày đó, 2
anh em chúng tôi lại quen biết thân nhau, thân nhau nhiều, thân nhau
mãi cho đến khi anh qua đời năm 2022. Những tuần lễ huấn nhục của Tân
Sinh Viên cũng qua đi, trở thành những kỷ niệm thú vị không bao giờ
quên. Khi chúng tôi tổ chức Đêm Lễ Gắn Alpha theo sau là buổi văn nghệ
mãn khóa, cả Giang và tôi đều vào ban văn nghệ trình diễn. Tôi còn nhớ
mãi kỷ niệm Nguyễn Minh Huấn hôm đó hát "Nguyệt Cầm" của Cung Tiến-Xuân
Diệu.
Lên năm thứ 3 Y khoa, sinh viên bắt đầu thực tập ở
bệnh viện và cũng bắt đầu được chia đi gác đêm. Tôi và Giang có một kỷ
niệm không bao giờ quên ở nhà thương Hồng Bàng là nơi chuyên trị những
bệnh nhân bị bệnh Lao, nhiều người thật nặng, ngày nào hình như cũng có
người chết. Phòng trực cho sinh viên Y Khoa ở chỗ vắng vẻ, cách xa tòa
nhà chính, nơi bệnh nhân nằm dưỡng bệnh. Ban đêm vắng mà bị gọi khi bệnh
nặng hay khi bệnh chết thì rất ngại, vì phải đi bộ khá xa và "đường xá"
thì tối mù mịt. Các đàn anh Y Khoa thường bảo là chỗ đó có... ma!
Chuyện ma của nhà thương Hồng Bàng cũng đã có nhắc đến trong quyển "Thế
Giới Trường Thuốc" của Đặng Đức tức Bác Sĩ Đặng Đức Nghiêm. Tôi vừa đọc
xong quyển sách vài ngày hôm trước và vẫn còn đang bị ám ảnh. Anh bạn
cùng lớp, tôi không nhớ rõ tên, được chia trực cùng đêm lại bị ốm, nên
tôi "năn nỉ", rủ Giang đi cho đỡ sợ. Đêm khuya hôm đó đang ngủ thì nghe
tiếng động lục cục ở ngoài cửa phòng, Giang giật mình thức giấc và lay
tôi dậy. Tôi thu hết can đảm dậy bật đèn, lên tiếng hỏi nhưng không thấy
ai trả lời. Tiếng động nghe như là chân người mang guốc bước qua lại
trên sàn xi măng tiếp tục khá lâu cũng đến khoảng 5-10 phút. Tiếng động
đó cũng mất đi nhưng cả hai đứa đều sợ xanh mặt, để đèn sáng và không
ngủ được cho đến sáng. May mà đêm đó cũng không bị gọi lên trại bệnh
thành cả hai nằm im lặng trong giường cho đến lúc thấy trời sáng tỏ nghe
thấy tiếng người thì mới mò ra ngoài cửa. Chúng tôi cũng không tìm
được, thật ra là không dám đi tìm lý do của cái tiếng động kỳ quái giữa
đêm khuya vắng. Cũng có thể chỉ là do gió mạnh đập cành cây hay cái gì
vào tường hay cửa sổ chăng?
Cũng nói qua, vào khoảng 1970, sau Chiến Dịch Campuchia của quân lực Hoa
Kỳ và QLVNCH và vì bị "cáp duồn" như các kiều bào Việt khác, các sinh
viên học Y Khoa Campuchia như Nguyễn Mạnh Khang, Hà Phi Phụng, Mai Thế
Vĩnh, Hồ Hoàng Trang, Nguyễn Thanh Phong... phải chạy thoát về Việt Nam
để cuối cùng được nhận vào Y Khoa Sài Gòn, vào lớp Y Khoa Sài Gòn
1967-1974 chúng tôi.
1972, năm của những Mùa Hè Đỏ Lửa,
Đại Lộ Kinh Hoàng, Cổ Thành Quảng Trị (Chiến Dịch Lam Sơn 72)... Đây
cũng là năm của "Tổng Động Viên" khi chúng tôi đang học Y Khoa 4, năm
thứ Tư Y Khoa. Tôi nhớ một số anh em "Dân Y" như Hoàng Lộc (Lộc sau 1975
bị giết chết ở trại Cải Tạo), Nguyễn Mạnh Khang, Lê Minh Đức, Trần
Thiện Tư, Trần Chánh Khương, Lại văn Tiến, Nguyễn Minh Quốc, Đào Văn
Kim, Trần Hoàng Hải, Ngô Đăng Tuấn, Lại Hoàng Ân, Lưu Văn Châu , Trương
Hoàng Nghiệp... quá tuổi, sinh vào 1947 hay trước nữa, bị "đôn quân",
phải nhập ngũ học khóa sĩ quan ở Đồng Đế, "ra" chuẩn úy. Tuy vậy một
thời gian sau, đa số về sau cũng được thầy bác sĩ Trần Lữ Y, lúc đó là
Tổng Trưởng Y Tế chính phủ Nguyễn Cao Kỳ thành có thế lực, can thiệp xin
cho về học lại Y Khoa, nhưng kết quả ra trường trễ hơn các bạn cùng lớp
1 năm.
1972, chiến tranh bùng nổ lớn ở miền Trung.
Dân Quảng Trị chạy giặc vào tạm trú hàng chục ngàn người ở những trại
tị nạn xung quanh Đà Nẵng. Tình trạng y tế của các trại tị nạn rất nghèo
nàn. Không đủ y sĩ để săn sóc dân và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa phải
nhờ đến các sinh viên quân y giúp. Tôi và một số anh em sinh viên khác
của lớp Quân Y Y Khoa 4 như Nguyễn Trọng Nghĩa, Đoàn Trung Bửu, Trương
Ngọc Hiền... Quân Y Y Khọa 5 như Phạm Hiếu Liêm, Bùi Quang Dũng, Bùi Hữu
Phước, Nguyễn Anh Tuấn... Quân Y Y Khoa 3 như Trần Hoàng Long, Trần
Đông Giang, Nguyễn Văn Hãn, Lê Thành Đấu, Nguyễn Võ Khanh... Quân Dược
như Nguyễn Hiền, Mai Gia Thược (Thược sau tự tử trong Trại Cải Tạo) ,
Châu Minh, Nguyễn Văn Trực, Nguyễn Quang Toản... được cử ra miền Trung
để giúp vào việc lo y tế cho đám dân tị nạn vài tháng. Đối với đời sinh
viên Quân Y thì chuyến đi cũng đầy những lo lắng nhưng cũng thật thú vị
và hồi hộp. Tôi chỉ có một chuyện duy nhất lo lắng là chị Nga, bà chị
ruột của tôi, vừa bị nám phổi nhẹ nhưng phải chích thuốc chống Lao
Streptomycin mỗi ngày. Vũ Đức Giang, không phải đi ra miền Trung chuyến
này, biết chuyện và nhận giúp ngay. Trong những ngày tháng tôi lưu lạc ở
Đà Nẵng, Giang đã đến nhà tôi mỗi ngày để chích thuốc cho chị Nga. Mẹ
tôi hiền nhưng bố tôi tính khó, nên ít có bạn thường lại nhà. Giang thì
đặc biệt lại nhà tôi thường xuyên. Bố mẹ tôi rất quý tính nết hiền, tốt
và lễ phép của Giang. Chị Nga tôi thương mến Giang coi như em ruột trong
nhà.
Sau khi đám Sinh Viên Quân Y ở Đà Nẵng được vài tháng,
tại Sàigòn Y Sĩ Đại Tá Nhảy Dù Hoàng Cơ Lân về làm Chỉ Huy Trưởng
Trường Quân Y thay Y Sĩ Đại Tá Hải Quân Phạm Vận. Đại Tá Lân, ngày đó,
là một người đầy nhiệt huyết và thanh liêm có tiếng. Tính tình ông, nóng
nảy, nhưng thẳng thắn và ông rất được kính nể trong ngành Quân Y. Đại
Tá ra lệnh cho tất cả sinh viên đang đi quân sự vụ tại miền Trung về lại
Sài Gòn, để tiếp tục việc chính là học Y Khoa. Theo quan niệm của ông,
vấn đề quan trọng nhất trong việc đào tạo Sĩ Quan Quân Y giỏi là Sĩ Quan
Quân Y phải nghĩ đến chuyện học trước hết. Chuyện chữa bệnh cho dân tị
nạn để cho người khác, chính phủ lúc này đã xoay sở lấy được. Về Sài
Gòn, một số anh em, trong số đó tôi còn nhớ có Vũ Đức Giang, Phạm Anh
Dũng, Lý Văn Quý (Quân Nha)... rủ nhau nộp đơn xin đi học bằng Nhảy Dù,
như các khóa đàn anh trước vẫn được phép, nhưng không được ông Lân chấp
thuận, chắc cũng vì lý do này. Giang bực mình nhiều về chuyện đó, vì vẫn
muốn sẽ gia nhập nhảy dù. Mỗi lần nhìn "đàn anh mũ đỏ" như Tô Phạm
Liệu, Phạm Gia Cổn... lúc đó đã ra những đơn vị chiến đấu nhảy dù thỉnh
thoảng vẫn về thăm trường với binh phục rằn ri, Giang vẫn tấm tắc khen
và... mong ước!
Vì là "gốc" Nhảy Dù nên Đại Tá Hoàng Cơ Lân
hơi có thiên vị cho binh chủng này và tôi nghĩ có lẽ chính ông đã
tuyển lựa nhiều sĩ quan nhảy dù về trường Quân Y, có những Y Sĩ như
Trung Tá Vũ Khắc Niệm, Thiếu Tá như Lê Văn Châu, tác giả quyển "Y Sĩ
Tiền Tuyến" được giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc 1969, Đại Úy như
Hoàng Ngọc Giao, Đường Thiện Đồng.... Còn ngành Dược thì có Đại Úy Trần
Mạnh Anh... và đa số giữ những chức vụ huấn luyện cho đám sinh viên
quân y. Thật sự đây là điều rất tốt, vì những vị này phần lớn đều khá và
xứng đáng được làm gương. Cũng có một số Quân Y Sĩ binh chủng "rằn ri"
khác được "gọi về" phục vụ ở Trường Quân Y như Thiếu Tá Trần Xuân Dũng
từ Thủy Quân Lục Chiến và Đại Úy Ngô Thế Vinh, tác giả quyển "Vòng Đai
Xanh" được giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc 1971, từ Biệt Cách Dù. Đại
Tá Lân để ý đến sinh viên từ những chuyện tầm thường nhất như đi đứng, y
phục, ăn uống... cho đến những chuyện quan trọng thi cử, học hành...
Chính ông thường bất thần xuống khu nội trú xem xét đời sống sinh viên
hầu như mỗi ngày. Nhiều khi tôi có cảm tưởng ông coi các sinh viên quân y
như là những em nhỏ dại dột của chính ông cần được săn sóc cho thành
người tốt.
Đại Tá Hoàng Cơ Lân, lúc đó, có rất nhiều
ý kiến mới lạ, áp dụng vào việc huấn luyện sinh viên. Tất cả sinh viên
quân y phải nội trú trong trường Quân Y để tập quen với đời lính. Tình
cảm giữa các sinh viên quân y đối với nhau trở thành gắn bó hơn. Ông lập
võ trường cho sinh viên tập Nhu Đạo, tôi nhớ có hai Y Sĩ Thiếu Tá Lê
Trọng Tín và Đỗ Danh Thụy hướng dẫn . Ông còn tổ chức những buổi nói
chuyện cho sinh viên mở rộng kiến thức. Nhiều nhân vật nổi tiếng ngoài
dân sự như nhà văn Hoàng Hải Thủy diễn thuyết về "Y Sĩ và Văn Nghệ",
linh mục Thanh Lãng nói chuyện về "Văn hóa dân tộc và vấn đề Hùng
Vương"... là các vấn đề tổng quát, văn học nghệ thuật. Rồi đến Bác Sĩ
Giáo Sư Hoàng Tiến Bảo, Giảng Sư Trần Xuân Ninh, Đinh Hà... nói về
chuyên môn Y Khoa. Còn có các diễn giả là đàn anh Quân Y của chúng tôi
đã ra trường như Đại Tá Văn Văn Của về nói chuyện để truyền kinh nghiệm
đến đàn em. Có một hôm, anh Trần Xuân Dũng, đã từng là Y Sĩ Thiếu Tá
Thủy Quân Lục Chiến, thuyết trình về chuyện gì đó. Tôi ốm không đi được
nhưng Giang đi nghe và khi về kể lại lấy làm thú vị, thích lắm vì anh
Dũng dáng dấp thư sinh, nhưng nói chuyện rất hay và có duyên. Từ ngày đó
thỉnh thoảng Giang cũng nói với tôi là có thể sẽ chọn Thủy Quân Lục
Chiến khi đến lúc ra trường.
Công việc học hành, thi cử ở
trường Y Khoa song song với chuyện quân sự ở Trường Quân Y rồi cũng qua
dần. Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 của Kissinger và Lê Đức Thọ, khi tôi
đang học Y Khoa năm thứ 5, thực tế chỉ là một "tờ giấy lộn" và chả hiểu
tại sao vì "nó" mà 2 người này họ lại được giải Nobel Hòa Bình! Bộ Đội
miền Bắc không tôn trọng những gì đã cam kết, vẫn xâm nhập miền Nam và
Nam Bắc vẫn tiếp tục phân tranh. Phải nói tinh thần và khả năng chiến
đấu của quân đội Việt Nam Cộng hòa bị suy giảm nghiêm trọng, nhất là sau
khi Richard Nixon từ chức vì vụ Watergate vào tháng 8 năm 1974 và viện
trợ quân sự của Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa đã dần bị cắt giảm rất nhiều.
Lúc đó, chúng tôi ít có giờ học ở trường hơn những lớp dưới và
được cử đi thực tập nhiều ở các bệnh viện. Một vài tháng đầu tiên của
năm thứ 5, Giang và tôi đến phiên học ở Bệnh Viện Nhi Đồng nơi có trẻ
con bị bệnh nặng chết nhiều và chúng tôi được gọi ký giấy tử, có khi 5, 6
lần một đêm gác. Tôi nhớ mãi Giang được cử săn sóc một đứa bé trai độ 5
tuổi bị phù thủng rất nặng, khắp cả người sưng vù (edema) vì một bệnh
về thận. Bố mẹ đứa nhỏ đã định sửa soạn ngày tang ma vì tưởng con không
thể qua nổi cơn bệnh. Giang rất tận tâm chịu khó đọc sách, hỏi han
những anh nội trú bệnh viện chữa cho thằng bé bằng kích thích tố tuyến
thượng thận (corticosteroid) và kết quả rất thành công. Giang khá thật,
chỉ một thời gian ngắn thằng bé đã đỡ hẳn. Bác Sĩ Giáo Sư Trịnh Thị
Minh Hà, trưởng khu bệnh là người nổi tiếng giỏi nhưng rất khó tính cũng
phải ngạc nhiên và vui lòng. Tôi nhìn thằng bé con vui đùa, tung tăng
chạy nhảy lúc được xuất viện mà thầm phục thằng bạn của mình lầm lì, ít
nói nhưng có tài. Sinh viên ngoại trú Y Khoa đầu năm thứ 5 mà có thể làm
được chuyện như vậy không phải dễ. Giang rất thích trẻ con, sau kỳ học
đó lại nộp đơn quay lại Nhi Đồng một lần nữa.
Chẳng mấy
chốc đã đến năm thứ 6 là Y Khoa, năm cuối cùng của học trình 7 năm "dài
đăng đẳng". Một số chúng tôi được cử để phụ trách huấn nhục đám đàn em
mới vào và "lịch sử lại tái diễn"! Chúng tôi cũng đến lượt trở thành
những đàn anh hò hét, huấn nhục đàn em. Lúc đó, chính bản thân tôi lại
được cử ra làm sinh viên quân y Đại Đội Trưởng Đại Đội Tân Sinh Viên, y
như là anh Tô Phạm Liệu năm 1970, phụ trách việc huấn luyện này.
Sau khi thi xong kỳ thi Bệnh Lý ở trường Y Khoa, Khóa 21 Sĩ
Quan Quân Y Hiện Dịch QYHD, khóa Sĩ Quan Quân Y Hiện Dịch cuối cùng của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa làm lễ ra trường. Chúng tôi được chính thức
đeo lon Y Nha Dược Sĩ Trung Úy.
Tháng Hai 1975, "cả nước"
rúng động vì tỉnh Phước Long đã mất. Ngày 20 tháng Hai 1975 là ngày chọn
đơn vị. Đa số bạn bè xôn xao, bàn tán về những binh chủng khác nhau.
Tôi vẫn có chủ trương như cũ, đơn vị nào cũng vậy và cuộc đời có lẽ có
sẵn số mệnh cả. Rồi tùy theo theo thứ tự đậu cao chọn trước, đỗ thấp lựa
sau.
Những người đậu cao chọn chỗ ở Tổng Y Viện
Duy Tân có Bạch Thế Thức, Phan Thanh Hải. Về QYV (Quân Y Viện) có Nguyễn
Phan Khuê (Thủ Khoa khóa 21 QYHD) QYV Ban Mê Thuột, Trần Trung Hòa QYV
Quảng Đức, Nguyễn Dương Mỹ QYV Nguyễn Tri Phương, Trần Ngưu Tử và Nguyễn
Chí Vỹ chọn về QYV Pleiku.
Có 2 chỗ Hải Quân cũng dành cho những người xứng đáng học khá giỏi và đậu cao là Nguyễn Văn Công và Nguyễn Văn Chiếu.
Nhảy Dù, binh chủng "rằn ri" mũ đỏ, hết khá sớm vì Châu Hữu Hầu,
Trương Văn Như, Nguyễn Xuân Thiều, Nguyễn Văn Liêm, Trần Duy Thanh,
Nguyễn Văn Thịnh và Nguyễn Văn Thạnh đã lựa chọn ngay.
Về Thủy Quân Lục Chiến, mũ xanh, 9 người, có Vũ Đức Giang, Nguyễn
Tiến Dũng, Bùi Ngọc Sĩ, Nguyễn Bá Linh, Trương Ngọc Hiền, Nguyễn Văn
Châu, Bùi Chí Hùng, Huỳnh Đình Đại, và Hồ Đình Dư.
Chọn đi các Bộ Binh của tất cả 4 vùng quân sự: Vùng I Chiến Thuật có
Chu Kỳ Đức; Nguyễn Đình Ngọc, Nguyễn Đỗ Quan và Hồ Thanh Tùng chọn Sư
Đoàn 1 Bộ Binh; Lê Bình Đẳng và Võ Dũng chọn Sư Đoàn 2 Bộ Binh; Vũ Quốc
Cường và Phạm Anh Dũng chọn Sư Đoàn 3 Bộ Binh. Vùng II Quân Sự có Phan
Ngọc Hà, Lê Vĩnh Thịnh, Thái Văn Châu và Nguyễn Khánh Hỷ về Sư Đoàn 22
Bộ Binh. Vùng III có Lê Huy Hòe chọn Sư Đoàn 5 Bộ Binh; Mai Thanh Hồng
chọn
Sư Đoàn 18 Bộ Binh và Lê Văn Cẩm chọn về Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Vùng IV có
Nguyễn Văn Quốc chọn
Sư Đoàn 7 Bộ Binh, Huỳnh Thắng Toàn và Nguyễn Văn Đơ chọn Sư Đoàn 9 Bộ
Binh, Nguyễn Minh Huấn và Phạm Văn Hạnh cùng về Sư Đoàn 21 Bộ Binh.
Biệt Động Quân, binh chủng "rằn ri" mũ nâu, đang dự định đưa Y
Sĩ xuống cấp tiểu đoàn theo như Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến và do đó
lấy khá nhiều. Đó là Nguyễn Tài Mai (Sinh Viên Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu
Đoàn Sinh Viên Quân Y, "gốc" Thiếu Sinh Quân), rồi đến Nguyễn Quốc Anh,
Ngô Bá Bảo, Đoàn Trung Bửu, Nguyễn Kỳ Chân, Nguyễn Đăng Cung, Nguyễn Hữu
Chí, Nguyễn Văn Đổng, Nguyễn Hữu Khoát, Nguyễn Phong Nghi, Hồ Sĩ Nghĩa,
Nguyễn Văn Tân, Tề Văn Tiếng, Đỗ Danh Toàn, Vũ Ngọc Tuấn và Nguyễn Tấn
Việt.
Một số chọn những đơn vị lẻ tẻ, nhưng đặc biệt
như Huỳnh Minh Châu về Nha Kỹ Thuật Tổng Tham Mưu, Dương Thanh Trắc
chọn Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, Trịnh Ngọc Toản "đi" Tiểu Đoàn 12 Kỵ
Binh Thiết Giáp và Phạm Hồng Hải "về" Liên Đoàn 72.
Sau ngày chọn đơn vị, tôi lại nhà Vũ Đức Giang ngày cuối tiễn Giang ra
trình diện đơn vị. Giang mặc quân phục "rằn ri" mới, đeo lon đỏ, đội mũ
xanh của Thủy Quân Lục Chiến, trông thật lạ mắt. Giang giới thiệu tôi
với hôn thê mới của mình, là một giáo sư trường trung học ở Sài Gòn. Cô
vợ chưa cưới của Giang tên là Mai, trông thật ngoan và hiền dịu. Trước
khi từ giã, Giang đưa tặng tôi cặp lon Trung Úy và bảng tên màu đen dùng
cho những đơn vị tác chiến, dặn dò tôi phải cẩn thận vì chiến cuộc đang
gay go. Nhìn tôi khá lâu vào mắt, hơi khác thường, Giang bắt tay từ
giã. Cả mấy năm trời thân thương với nhau, chúng tôi chưa hề bắt tay
nhau bao giờ. Lần đó là lần đầu tiên và không ngờ, cũng là lần cuối cùng
tay chúng tôi bắt tay. Đó là lần cuối cùng hai đứa gặp nhau. Giang ra
thay một đàn anh ở Tiểu Đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến, tham chiến ngay ở
gần Huế. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vừa ra lệnh rút Sư Đoàn Nhảy Dù về
trấn giữ Sài Gòn và để một số Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến cùng vài Liên
Đoàn Biệt Động Quân thay. Giao chiến khốc liệt đẫm máu xảy ra ở những
vùng quanh Huế, Quảng Trị, Đại Lộc... Nguyễn Tiến Dũng thành Y Sĩ Trưởng
Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến đóng ở tuyến đầu Quảng Trị.
Cuộc đời Y Sĩ Tiền Tuyến chúng tôi thật sự khởi đầu.
Tôi đến Sư Đoàn 3 Bộ Binh gần Đà Nẵng. Vũ Quốc Cường về cùng
đơn vị đã trình diện trước tôi một vài ngày. Ngày Xuân, tháng Ba mà đã
nóng như lửa. 11 giờ trưa trình diện Tiểu Đoàn 3 Quân Y. Dược Sĩ Trung
Úy Lê Văn Khoa rủ ăn trưa với các Y Sĩ Trung Úy của Sư Đoàn 3 như Nguyễn
Hữu Mãn, Đào Tư Huyền, Lê Văn Thu...và chỉ dẫn chút ít về doanh trại.
Vũ Quốc Cường dẫn tôi đi tắm suối xong 2 giờ chiều cùng ngày tôi được
ông Thiếu Tá Y Sĩ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Quân Y gửi đến Trung Đoàn
2 Bộ Binh. Vũ Quốc Cường được giữ lại Sư Đoàn. Trung Đoàn 2 của Sư
Đoàn 3 và Trung Đoàn 1 của Sư Đoàn 1 là hai đơn vị thiện chiến có tiếng
trong các đơn vị Bộ Binh của Vùng I Quân Sự. Trung Đoàn 2 đang đóng và
chiến đấu ở Quế Sơn. Tôi đến thay cho Y Sĩ Trung Úy Bùi Trần Anh ở trung
đoàn này đã được vài năm.
Đến lúc đó tôi mới thấy cái đời
sống thật sự của những Y Sĩ ở mặt trận không còn những lúc văn chương
thơ mộng như mình đã tưởng tượng, như khi đã đọc ở quyển "Y Sĩ Tiền
Tuyến" của Trang Châu. Quyển sách của anh Châu, viết có lẽ chỉ khoảng
5,6 năm trước và thời gian đó đã trở thành phải nói có những chỗ không
còn "hợp thời" nữa. Chiến tranh sau này phũ phàng và tàn bạo hơn nhiều.
Tôi thông cảm và kính phục các vị Quân Y Sĩ đàn anh bao nhiêu năm gian
khổ, nguy hiểm nơi tiền tuyến. Cảm giác lạnh lẽo, cô đơn một mình giữa
đêm khuya ở bệnh xá Trung Đoàn thật khó quên. Những buổi trưa ấn vội nắm
"cơm sấy" vào mồm cho đầy bụng để còn kịp có thì giờ chữa thương bệnh
binh. Tôi đã ớn lạnh nghe quả pháo vút qua đầu và rơi cách chỉ hơn trăm
thước mà vẫn phải dặn dò y tá bình tĩnh. Lúc cảm thấy bất lực nhìn tủ
thuốc trống rỗng với vài viên thuốc chữa cảm cúm vớ vẩn, không còn trụ
sinh trong khi bệnh nhân đợi la liệt với những vết thương không cần phải
đợi lúc thay băng cũng đã ngửi thấy mùi nhiễm trùng. Còn nỗi bàng
hoàng, khi thấy lính phải bỏ tiền túi ra mua đạn. Chuyện khó tin nhưng
có thật! Trận chiến như đã được xếp đặt đến lúc tàn. QLVNCH chưa mỏi
mệt, nhưng đồng minh Hoa Kỳ đã mỏi mệt, muốn "bỏ rơi" miền Nam. Quân
miền Nam không còn đủ súng ống, đạn dược trong khi Bộ đội miền Bắc lại
đầy T54, B41, AK47...vì Nga và Trung Cộng vẫn chưa bỏ cuộc.
Khóa 21 Sĩ Quan Quân Y Hiện Dịch, những ngôi sao sáng, những niềm hy
vọng mới của đất nước, của tổ quốc ra trường đúng những ngày tháng sửa
soạn cho thất trận. Chiến tranh hình như bùng nổ lớn khắp nơi trên khắp
bốn vùng chiến thuật I, II, III và IV. Tháng Ba 1975 các Tân Trung Úy
Quân Y Nha Dược Sĩ chân ướt chân ráo ra chiến trường, tìm đơn vị, là
lúc hầu như cả một đạo quân Việt Nam Cộng Hòa một triệu người đang giao
tranh, tan rã, bắt đầu di tản ngược lại hướng của mình. Bao nhiêu bạn
cùng khóa bị bắt làm tù binh. 8 Quân Y Sĩ mới của Sư Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến ra thay thế đàn anh ở những tiểu đoàn chiến đấu, 5 người bị bắt
khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh bỏ ngỏ Huế. Còn nhiều người vì
hỗn độn chưa kịp tìm thấy đơn vị mới đã chết trận.
Ngày 10 tháng Ba 1975 Ban Mê Thuột bị tấn công.
Chỉ 3 ngày sau Tổng Thống Thiệu đã ra lệnh cho Thiếu Tướng Tư
Lệnh Vùng II Quân Sự Phạm Văn Phú bỏ Cao Nguyên. Đại Tá Biệt Động Quân
Phạm Duy Tất được thăng Chuẩn Tướng chỉ để dẫn quân dân triệt thoái theo
Liên Tỉnh Lộ 7, con đường lâu ngày không dùng trở thành "một con đường
máu", đúng nghĩa chữ "máu". Tại "Con Đường Tử Thần" này, Y Sĩ Trung Úy
Biệt Động Quân Đoàn Trung Bửu, QYHD khóa 21 của chúng tôi, đã chết khi
cố vượt qua một con sông trong chuyến di tản. Cũng trong lúc di tản của
Quân Đoàn II, Y Sĩ Trung Úy Bộ Binh Thái Văn Châu, khóa QYHD 21 của
chúng tôi, bị bắn chết ở biển Quy Nhơn khi cố bơi từ bãi biển ra tàu Hải
Quân.
Những đàn anh Quân Y hy sinh trước kia như
Đỗ Vinh, Trương Bá Hân, Trần Ngọc Minh, Lê Hữu Sanh, Bửu Trí, Đoàn Mạch
Hoạch... đều được vinh danh là anh hùng. Tên của các Quân Y sĩ là tên
những Quân Y Viện trên khắp các vùng chiến thuật. Ai biết đến, ai nhắc
đến Đoàn Trung Bửu, Thái Văn Châu... ? Lúc chôn, nếu có tìm được xác
chắc cũng không được phủ mảnh cờ vàng ba sọc đỏ.
Đoàn Trung Bửu (trích từ Kỷ Yếu Y Khoa Sài Gòn 1967-1974)
Thái Văn Châu (trích từ Kỷ Yếu Y Khoa Sài Gòn 1967-1974)
Ngày 14 tháng Ba 1975, tôi ra đơn vị.
Ngày 19 tháng Ba 1975, Quảng Trị bị tấn công.
Ngày 20 tháng Ba 1975 , Quảng Trị bỏ ngỏ.
Ngày 23 tháng Ba 1975, Tổng Thống Thiệu ra lệnh Trung Tướng Tư
Lệnh Vùng I Chiến Thuật, Ngô Quang Trưởng, bỏ Huế. Tin đồn lúc đó là sẽ
có chia cắt đất nước, nhượng cho miền Bắc từ đèo Hải Vân trở ra.
Một buổi chiều nắng héo hắt, tôi đến một quán bên đường ở Quốc Lộ
1, gần đèo Hải Vân, ngồi uống bia tình cờ nghe ông chủ quán nói chuyện
với vợ là dân và lính chạy từ phía Bắc vượt đèo chạy về hướng Đà Nẵng.
Tôi ra khỏi quán, đứng bên đường lặng nhìn lên đèo Hải Vân, những đoàn
xe nhà binh chở những quân lính trong đó có lính của Sư Đoàn 1 Bộ Binh,
Biệt Động Quân và Thủy Quân Lục Chiến... từ Huế vượt đèo chạy qua. Tôi
nghĩ nhiều đến Nguyễn Tiến Dũng và Vũ Đức Giang, hai bạn thân nhất của
tôi vừa ra trình diện hai Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, và thầm tự hỏi
không biết hai đứa đó có còn sống hay không và đang ở đâu? Chu Kỳ Đức,
Nguyễn Đình Ngọc, Nguyễn Đỗ Quan... ra Sư Đoàn I Bộ Binh không biết đang
làm gì? Còn bao nhiêu bạn cùng khóa khác đang hay vừa đến đơn vị, chả
biết đường lối gì cả, không biết tình trạng ra sao?... Đứng từ chiều đến
lúc xẩm tối, nhìn lên đèo Hải Vân giờ này đã biến thành một chuỗi sáng
trên trời cao vì ánh sáng của những ngọn đèn của đoàn xe nối tiếp nhau
tưởng như không bao giờ hết. Nhìn đoàn xe tôi chỉ mong ước sao cho các
bạn mình Giang, Dũng, Đức, Ngọc, Quan... cũng có ở trên những xe đó.
Những ngày sau đó Đà Nẵng hỗn độn vì những tin đồn. Dân chúng
bắt đầu được di tản bằng máy bay. Những chuyến máy bay ở phi trường làm
náo động những người còn lại. Những chuyện người tranh nhau, giành giật
để có chỗ thoát, người chết khi bám vào bánh xe khi máy bay đang cất
cánh, đều là những chuyện thật.
Ngày 29 tháng Ba 1975, Đà
Nẵng chưa đánh đã di tản! Từ Quế Sơn tôi chạy về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3.
Không thấy bóng một ông Sĩ Quan nào nữa. Chỉ còn vài người lính đang
nhặt nhạnh vài đồ đạc lẩm cẩm. Họ ngạc nhiên khi thấy tôi hãy còn lảng
vảng và ngơ ngác. Gọi Tổng Y Viện Duy Tân có thì biết mọi người đã
di tản từ ngày hôm trước. Tôi cũng không biết làm sao có phương tiện ra
Đà Nẵng, không lẽ lại chạy bộ nữa? Chuyện thì dài dòng, nhưng vắn tắt
tôi may gặp Lê Văn Thu, bác sĩ QYHD 20, ra trường trên tôi một lớp, lái
xe gắn máy Honda chạy ra. Thu chở tôi ngược lại vào trong trại lúc này
đã gần như trống không, lấy cái xe Bridgestone, một xe gắn máy cũ khác
của anh đưa cho tôi chạy. Vào Đà Nẵng, nhớ đến anh ruột của Nguyễn Tiến
Dũng là Nha Sĩ Thiếu Tá Nguyễn Nhật Thăng, tôi ghé phòng mạch Nha Khoa
của anh ở dưới phố để rủ anh chạy ra bến tàu, thì anh Thăng đã đi rồi,
nhưng thật bất ngờ gặp Nguyễn Tiến Dũng, vừa thoát được đến Đà Nẵng cũng
ghé tìm anh ruột. Ôm nhau mừng chảy nước mắt. Hỏi thăm ngay về Vũ Đức
Giang. Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến của Giang đã hoán chuyển chỗ với
tiểu đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến của Tiến Dũng. Nguyễn Tiến Dũng về gần
Huế do đó chạy được đến Đà Nẵng. Giang như vậy đã ở Quảng Trị.
Đúng là số trời đã định, nếu Dũng và Giang không đổi chỗ thì
có
lẽ lúc đó tôi không gặp Dũng. Không Dũng thì Giang. Không Giang thì
Dũng. Cả hai đều là bạn thân thiết của tôi. Vậy thôi!
Tôi và Tiến Dũng may mắn không tưởng tượng, như có phép lạ giúp, thoát
về được đến Cam Ranh. Nước biển Cam Ranh vẫn trong xanh mát rượi, bãi
cát vẫn trắng mịn với những con dã tràng xe cát, nhưng thành phố đã hỗn
loạn. Toàn là người với quân phục và xe nhà binh, lác đác tiếng súng.
Không được thêm tin tức gì của Giang. Những đơn vị quân đội chạy từ
hướng Bắc xuống đang tái phối trí, rồi chỉ để sửa soạn di chuyển sâu
thêm về hướng Nam! Các đoàn quân theo nhau rút lui. Màu đỏ của máu lan
dần trên bản đồ hình chữ S từ Bắc xuống Nam. Các thành phố Cam Ranh, Nha
Trang... rồi cũng tự nhiên bỏ ngỏ để bộ đội miền Bắc dễ dàng vào chiếm
đóng. Triệt thoái và di tản nhanh đến nỗi có khi quân miền Bắc vài ngày
sau mới đến kịp để tiếp thu. Chính họ cũng phải ngạc nhiên! Thật là kỳ
lạ.
1 tháng Tư: mất Nha Trang và Quy Nhơn.
Tôi không hiểu gì cả! Chỉ biết chạy, rồi chạy, xong rồi lại
chạy..., tuy đầu óc thỉnh thoảng lại nghĩ đến Vũ Đức Giang người bạn
thân, hiền lành. Tôi theo Nguyễn Tiến Dũng lên một tàu Hải Quân từ Cam
Ranh di tản về Vũng Tàu. Trên chiếc tàu Hải Quân đó, cả Sư Đoàn Thủy
Quân Lục Chiến, Thiếu Tướng Tư Lệnh Bùi Thế Lân, và quân lính chắc chỉ
còn non một ngàn người. Nguyễn Bá Linh bạn cùng khóa QYHD 21 cũng vừa ra
đơn vị, quần áo nhàu nát cũng ở trên tàu, kể chuyện rằng, trong cuộc
triệt thoái hỗn loạn ở Thuận An, phải bơi ra biển đến tàu để tìm đường
thoát. Tôi cố tìm Vũ Đức Giang mà không thấy. Khi hỏi thăm thêm mọi
người cả người tôi lạnh cứng, khi biết tin Giang bị kẹt và bị bắt ở bãi
biển Thuận An. Nắng vàng trong sáng, biển xanh biếc bỗng nhạt nhòa.
Chúng tôi thoát khỏi Cam Ranh ngày trước thì ngày sau được tin thành phố
di tản:
3 tháng Tư: mất Cam Ranh.
Rồi tàu hải quân cũng đưa chúng
tôi cũng về đến Vũng Tàu bình yên và tôi tìm lại được tàn quân của Sư
Đoàn 3 Bộ Binh đang tái phối trí ở trại Vạn Kiếp được vài ngày. Vào
trình diện Tiểu Đoàn 3 Quân Y, tôi không gặp một sĩ quan nào cả. Ám ảnh
bởi hình ảnh tù tội, chết chóc của bạn bè, đầu óc trống rỗng, mỏi mệt
chán chường và cũng chả biết làm gì ở đó nữa, tôi trở về lại Sài Gòn.
Tôi gặp lại Trương Văn Như với quân phục nhảy dù mới, đang sửa soạn theo
đơn vị ra trận chiến Khánh Dương. Đến lúc này vẫn nhiều người tin tưởng
sẽ có hiệp định chia cắt lãnh thổ từ khoảng giữa miền Trung trở vào thì
sẽ được là vùng tự do, không cộng sản.
Sài Gòn lên cơn
sốt, Sài Gòn hoảng hốt, khi một số dân đã bắt đầu được Mỹ di tản bằng
máy bay sang đảo Guam. Tin đồn sẽ có đảo chánh tạo niềm hy vọng cuối
cùng khi Cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ đang ra thị sát mặt trận và
tuyên bố sẽ ở lại chiến đấu đến cùng.
Ngày 20 tháng Tư
1975, sau chiến thắng oai hùng ở Xuân Lộc, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo và Sư
Đoàn 18 Bộ Binh phải triệt thoái.
Ngày 21 tháng Tư 1975
Tổng Thống Thiệu từ chức và khẳng định với quốc dân và chiến hữu trên
Truyền Hình Việt Nam là sẽ trở lại với Quân Đội để chiến đấu. Ông trao
quyền lại cho Phó Tổng Thống già yếu Trần Văn Hương và đêm 25 tháng Tư,
ông Thiệu đã ở Đài Loan!
Thiếu Tướng Không Quân
Nguyễn Cao Kỳ sau cũng bay mất trên trực thăng cùng Trung Tướng Ngô
Quang Trưởng! Ông Nguyễn Cao Kỳ đã từng nói “Tôi sẽ biến Sài Gòn trở thành một Leningrad thứ hai”.
Leningrad là trận chiến nổi tiếng của Hồng quân Liên Xô trước
quân phát xít Đức, kéo dài gần trên dưới 1000 ngày đêm, bắt đầu
từ tháng Bảy 1941.
Các vị Tướng như Thiếu Tướng
Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai,
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ... không có những lời
tuyên bố lớn lao như vậy đã ở lại tuẫn tiết. Đó là những Tướng anh hùng
liệt quốc, "những Hoàng Diệu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa".
Ngày 28 tháng Tư 1975 Cụ Trần Văn Hương nhượng vị Tổng Thống cho Đại
Tướng Dương Văn Minh, tưởng sẽ làm vừa lòng Bắc Quân, nhưng tình thế đã
tuyệt vọng hoàn toàn.
Ngày 30 tháng Tư 1975, Tân Tổng
Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Từ bến tàu Bạch
Đằng, trong đêm tối, tôi may lên được và theo tàu Hải Quân HQ1, những
phút cuối cùng trước khi tàu rời bến. Như ở một giấc mộng hãi hùng,
trong cơn hỗn loạn, tôi di tản khỏi Sài Gòn, thành phố thân yêu của tuổi
trẻ thế hệ chúng tôi, đang "hấp hối".
Những người
bạn khác cũng may mắn và sau tôi gặp lại được là Nguyễn Tài Mai, Bạch
Thế Thức, Nguyễn Tiến Dũng... Biết bao bạn cùng khóa Quân Y Hiện Dịch 21
chúng tôi không may như vậy phải ở lại cực khổ thể xác và tinh thần
trong các trại cải tạo, đó là số phận của Trần Trung Hòa, Trương Văn
Như, Chu Kỳ Đức, Nguyễn Phan Khuê,Trương Ngọc Hiền, Nguyễn Đăng Cung,
Nguyễn Chí Vỹ, Nguyễn Văn Quốc... Có những người sau đó chết mất xác, ở
biển khơi, khi vượt biên như Nguyễn Trọng Nghĩa, Nguyễn Xuân Thiều...
Qua đến nước Mỹ, khá lâu tôi bặt tin, đến mãi về sau mới " gặp"
lại Vũ Đức Giang qua những chi tiết đọc được trong sách báo và một vài
lần ở trong giấc mơ.
Trong quyển "Những Uất Hận
Trong Trận Chiến Mất Nước 1975" do Phạm Huấn viết, chương 15 là những
trang sách về "Những Y Sĩ Tiền Tuyến". Vào những giờ phút cuối cùng khi
Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến đang triệt thoái một cách tuyệt vọng tại
bãi biển Thuận An:
"... Bác Sĩ Vũ Đức Giang, Y Sĩ
Trưởng Tiểu Đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến dù đã lên chiếc LMC đầu tiên,
sáng ngày 26-3-1975 cùng với các thương binh, nhưng vì danh dự của một
cấp chỉ huy, anh lại trở xuống..."
Cao Xuân
Huy, trong quyển sách lừng danh "Tháng Ba Gãy Súng". Quyển sách của
những khôi hài đen đầy máu, nước mắt, tàn bạo, căm hờn...nói về cuộc
triệt thoái của Thủy Quân Lục Chiến. Đây là đoạn tác giả đã bị bắt làm
tù binh ở bãi biển Thuận An:
"...Ngày 26 tháng 3 là
ngày cả một Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến bị khoảng một đại đội du kích
Việt Cộng bắt sống. Chuyện không bao giờ tin được đã xảy ra...
...Tôi còn gặp lại cả một thằng bạn cũ, cùng học với nhau hết
bậc trung học ở trường Nguyễn Trãi, khi chúng tôi đang bị trói chung
bằng một sợi dây điện dài. Vũ Đức Giang. Tôi ngạc nhiên kêu lên:
- Giang, mày làm gì mà cũng bị bắt ở đây?
- Ơ Huy, cả chục năm mới gặp lại mày.
- Tao hỏi mày làm cái giống gì mà cũng bị bắt ở đây?
- Tao Thủy Quân Lục Chiến.
- Mẹ kiếp, cậu đếch tin, mày cũng dám giết người à. Mà sao ở Thủy Quân Lục Chiến tao không gặp mày.
- Tao mới ra trường về Thủy Quân Lục Chiến khoảng nửa tháng nay.
- Mày bác sĩ hở?
- Ừ, tao về tiểu đoàn 7..."
BS TQLC Phạm Vũ Bằng viết trong bài "Thủy Quân Lục Chiến-Binh Chủng Kiêu Hùng":
"...Theo
các Quân Y tá LĐ 147 cho biết thì Bác Sĩ Vũ Đức Giang và vài quân y tá
TĐ 7 khiêng thương binh lên tàu sau đó anh điểm danh y tá TĐ 7 rồi tất
cả cùng trở xuống để tiếp tục cùng đồng đội chiến đấu.
Khi tôi thay BS Rậu làm Đại Đội Trưởng Quân Y LĐ 147 thì một hôm Hạ Sĩ
Nhất Quân Y Nguyễn Văn Được - người sống sót từ “Pháp Trường Cát Thuận
An”- hỏi tôi:
-Ông thầy có biết BS Vũ Đức Giang TĐ 7 không?
-Biết. Mà có chuyện gì?
-Ổng ngon quá! Ngày 26/3/1975 ổng và mấy đệ tử khiêng
thương binh lên tàu. Xong việc ổng điểm danh từng y tá TĐ 7 một rồi tất
cả xuống tàu lên bờ về lại TĐ. Em giữ ổng lại nói “BS trở lại thì
100/100 là chết” nhưng ổng trừng mắt la em “chú mày đừng xúi bậy, TĐ
đang chiến đấu sẽ có thêm thương bình, anh bỏ đi sao đành” . Xong rồi
ổng xuống tàu đi dưới làn mưa đạn thượng liên của VC, em nhìn mà thấy
ớn. Em nói thiệt tình đó ông thầy.
-Thì tao có nói mày
không thiệt tình hồi nào đâu! Có điều chú mày bậy thật, Bác Sĩ TQLC
không bao giờ đào ngũ trước hàng quân!..."
Và cũng trong "Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975" của Phạm Huấn, về Vũ Đức Giang:
"...Cuối năm 1976, lại một lần nữa, muốn bảo vệ danh dự của
một Quân Y Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, anh đã tự tử chết trong trại
tù ở phi trường Ái Tử, ngoài Đông Hà, Quảng Trị..."
Cuối cùng bài "Khóc Bạn" của bác sĩ quân y Hoàng Thế Định, trên Tập
San Y Sĩ Việt Nam tại Canada số 112, trang 119, viết về giây phút cuối
cùng của Vũ Đức Giang năm 1976 tại trại tù cải tạo Ái Tử:
"...Buổi
cơm chiều, Giang cáo bệnh không ăn. Gần cuối lán, lò mò tối, anh nằm
trùm kín, im lặng...anh nằm trùm chăn im lặng. Anh em vẫn nghĩ là Giang
bệnh, để yên anh ngủ. Khoảng một giờ sau, mọi người nghe Giang vùng mạnh
mấy cái trong chăn rồi "ự, ự" lên mấy tiếng. Dược sĩ Thuận, người vẫn
thường nằm cạnh Giang, vụt đứng dậy, chạy lại giật tung chăn trên người
bạn... Mọi người xúm lại. Toàn thân Giang rung lên, co quắp tay chân rồi
từ từ duỗi ra, bất động...
...Nguyễn
Đình Ái, Y sĩ trung úy trưng tập, cùng đơn vị với tôi. BS Ái giật chiếc
ống nghe trên đầu nằm của Tôn Thất Thắng, Y tá trại 3. Ái vừa nghe tim
vừa tìm mạch ở cườm tay bạn. Không còn nhịp tim mạch...
...Trong khi chờ đợi y tá Tôn Thất Mừng sửa soạn adrénaline,
BS Ái bảo DS Thuận xoa bóp lồng ngực Giang, còn mình thì dùng phương
pháp bouche à bouche, thổi hơi cho bạn. BS Ái chích Adrénaline trực tiếp
vào cơ tim Giang và cùng DS Thuận tiếp tục làm cấp cứu hồi sinh
Dù biết rằng nếu có hiệu quả thì trong vài phút, nhưng Ái
và Thuận vẫn cố cứu bạn suốt nửa giờ. Vô vọng, hai người quỳ gối bên xác
bạn...
...Tôi tin tài của BS Ái, biết
chẳng còn gì cứu vãn được nữa, nhưng vẫn đến ngồi bên Giang, lật chăn để
nhìn bạn lần cuối. Tôi quan sát thấy đồng tử của người bạn xấu số đã
hoàn toàn nở rộng.Thật hết rồi! Tôi ghé sát miệng Giang và ngửi mùi hăng
hắc đặc biệt ở những người tự tử bằng Chloroquine..."
Năm 1976, Y Sĩ Trung Úy Hiện Dịch Thủy Quân Lục Chiến Vũ Đức Giang qua đời, "hưởng dương" 28 tuổi.
Tôi nhớ Vũ Đức Giang. Tôi nghĩ đến hai em của Giang. Tôi nghĩ
đến Mai, người vợ chưa cưới của Giang. Tôi nghĩ nhiều đến mẹ của
Giang...
Tôi nhớ nụ cười hiền hòa của Giang.
Tiếng hát Ngọc Long từ đâu đó vọng về:
"...Chiều mơ anh cầm đàn về Trường Sơn bát ngát, ngắm mây bay miệt mài tiếng hát...".
Vũ Đức Giang đã về với rặng Trường Sơn bát ngát, về với Hoàng Liên Sơn hùng vĩ.
Vũ Đức Giang đã ở lại với sông Hồng cuồn cuộn sóng đỏ và ở mãi với dòng Cửu Long xanh mát, mênh mông...
Phạm Anh Dũng
San Diego, California, USA
(viết xong tháng Ba 2025 để kỷ niệm 50 Năm Quốc Hận, Tháng Tư Đen 1975)
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)








