Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2024

Sàigòn Mưa Nắng - Nhạc & Lời: Khanh Phương (Trần Văn Khang) - Hòa Âm: Quốc Dũng - Ca Sĩ: Hạnh Nguyên & Tuấn Huy


Nhạc & Lời: Khanh Phương (Trần Văn Khang)
Hòa Âm: Quốc Dũng
Ca Sĩ: Hạnh Nguyên & Tuấn Huy

Mỏi Trông

 

Nắng vàng loang loáng trong chiều nhạt
Mái đẩy chèo khua gợn sóng lòng
Biền biệt phương nào quên thệ ước
Tà dương dần khuất mỏi mòn trông


Kim Phượng

Thông Cảm" Cali Nhớ Saigon"



Thân mến tặng bạn thơ Kim Phượng

Saigon mưa thấm mộng mơ
Cali hiu quạnh, bơ vơ phượng buồn
Hạ vàng, sao tím hoàng hôn
Mai sau trở lại hoa còn tím thơ...

Cao Mỵ Nhân


Ca Dao Mới



1/ 

Mỗi tuần có mỗi thứ năm.
Mỗi tháng có mỗi đêm rằm nhớ trăng.
Mỗi tim có mỗi vết hằn.
Người đi có mối tơ chằng. Bỏ quên.

2/

Người đi bỏ mộng lại đây,
Chiêm bao thấy áo, vạt bay hững hờ.
Vói tay, níu áo đề thơ.
Chữ chưa ráo mực... đã khô. Úa vàng.

Cao Vị Khanh

Nhớ Thương

 

Cố hương giờ rất xa xôi
Nhớ ơi là nhớ gửi lời gió bay!
Vui gì đâu, lạc chốn nầy
Đêm chìm cơn mộng, ngày đầy nỗi đau!

Thương ai bên ấy dãi dầu
Cuộc đời đơn lẻ, mái đầu trắng hoa.
Tuy nay lỡ cuộc giang hà
Dù xa xôi mặt vẫn là tri âm!

Đời ta vướng cõi phù trầm
Nay đành lạc bước phong trần viễn phương
Ngậm ngùi nhìn khói pha sương
Nhìn mây tan họp thêm buồn ly tan!

Nước non còn trắng màu tang
Quê hương canh cánh muôn ngàn nỗi đau!
Nhớ thương nay bạc mái đầu
Bao giờ cạn hết nỗi sầu lưu vong!

28-6-2024
Hàn Thiên Lương

Mưa Ngâu



Có lần kể chuyện mưa Ngâu
em ngồi in bóng dấu màu trăm năm
môi xưa nghiêng cánh tay nằm
tóc xưa nghiêng một bờ sông vô thường

Hứa rằng sẽ hứa rằng thương
như cây bông trắng trong vườn nở hoa
qua mùa trái rụng mù xa
để người ở lại mười ba nhánh sầu

Cũng mùa mưa trước mưa mau
nhìn quanh chỉ thấy một màu trắng rơi
ngậm ngùi gọi cố nhân ơi
nụ môi còn giữ mà đời đã chia

Mưa bên này lệ bên kia
mắt bên này đã đèn khuya bên nào
kiếp này thôi mãi tìm nhau
mong rằng mai sẽ kiếp sau gặp người..!

Durham, North Carolina
Nguyễn Vĩnh Long



Dark Girl’s Song (Doris Lessin)- Bài Ca Của Cô Gái Kín Đáo (Hoàng Nguyên Chương & Lộc Bắc)



Dark Girl’s Song


My love who has the tall pale face
Sits talking by the fire at evening
Visits the country of the cold canals
Goes to Where the Northern spires are

I say to him, My love, the summer’s soon
I have a dress, and scarlet shoes for the sea
My love who has the tall pale face
Is clever, and often very kind

 Doris Lessing
***
Dịch Nghĩa:

Bài Hát Của Cô Gái Bóng Tối


Người yêu tôi có khuôn mặt cao nhợt nhạt
Ngồi nói chuyện bên bếp lửa buổi tối
Về thăm xứ sở kênh đào lạnh giá
Đi tới nơi có những ngọn tháp phía Bắc

Tôi nói với anh ấy, tình yêu của anh, mùa hè sắp đến rồi
Tôi có một chiếc váy và đôi giày màu đỏ để đi biển
Người yêu tôi có khuôn mặt cao nhợt nhạt
Thông minh và thường rất tốt bụng

***

Bản dịch:  

Người tôi yêu khuôn mặt gầy nhợt nhạt.
Ngồi chuyện trò bên ánh lửa chiều hôm.
Anh đến thăm vùng kênh đào lạnh giá.
Tháp vươn trời phía bắc đón người thương.

Tôi bảo chàng mùa hè như đến sớm.
Trang phục này dành đi biển dạo chơi.
Người tôi yêu khuôn mặt gầy nhợt nhạt.
Ắt hẳn thông minh, nhã nhặn tuyệt vời.

Hoàng Nguyên Chương

***

Bài Ca Của Cô Gái Kín Đáo

Người tôi yêu, mặt sương da tái
Ngồi chuyện trò bếp cháy chiều hôm
“Viếng thăm xứ sở lạnh căm
Đến nơi phía Bắc tháp chìm giá băng”

Hè đến sớm nhắc chàng câu chuyện
Váy -giầy này bãi biển dạo chơi
Người yêu mặt nhạt của tôi
Thông minh, tốt bụng tuyệt vời kết thân!”

Lộc Bắc
Jun24


Chỉ Hồng

Điển tích “ CHỈ HỒNG “ cũng được sử dụng rất nhiều trong văn học cổ Việt Nam ta, như khi nghe Kim Trọng tỏ tình, Thúy Kiều đã trả lời một cách rất khéo léo và khôn ngoan rằng :

Dù khi lá thắm CHỈ HỒNG,
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.

Chỉ Hồng còn được nói trại đi thành CHỈ THẮM, như trong Tây Sương Ký :

Nhân duyên sao khéo hẹn hò,
Rắp đem CHỈ THẮM xe cho Trịnh Hằng.

Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, Chỉ Hồng không gọi là Chỉ Thắm mà còn được gọi là DÂY THẮM như :

Ý cũng rắp ra ngoài đào chú,
Quyết lộn vòng phu phụ cho cam.
Ai ngờ trời chẳng cho làm
Nở đem DÂY THẮM mà giam bông đào.

Nhưng Dây Thắm, Chỉ Thắm hay Chỉ Hồng gì đều cùng một gốc Hán Việt là XÍCH THẰNG ( là sợi dây màu đỏ ) mà ra cả. Như lời Thúy Kiều đã nói với Kim Trọng trong lần đầu Kim Kiều hội ngộ :

Nàng rằng hồng diệp XÍCH THẰNG,
Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.

Hay như lời Mã Giám Sinh đã thề và hứa với Vương Viên Ngoại khi sắp lên đường ở “Bề ngoài mười dặm trường đình “ là:

Cạn lời khách mới thưa rằng:
Buộc chân thôi cũng XÍCH THẰNG nhiệm trao.
Sau dù sinh sự thế nào,
Kìa gươm nhật nguyệt nọ dao qủy thần!

Hoặc như nàng cung nữ của trong Cung Oán đã than van oán trách :

Ngẫm nhân sự cớ chi ra thế,
Sợi XÍCH THẮNG chi để vướng chân

… và Xích Thằng hay Chỉ Thắm, Chỉ Hồng gì gì … đều do tay NGUYỆT LÃO mà ra cả. Nguyệt Lão đã xe Chỉ Hồng rồi thì … chạy trời không khỏi nắng, đôi lứa tất phải lấy nhau mà thôi, cho dù nàng cung nữ của Ôn Như Hầu có nghi ngờ thì cũng đành cam chịu :

Tay NGUYỆT LÃO chẳng xe thì chớ,
Xe thế nầy có dở dang không ?

Đôi khi Nguyệt Lão còn được gọi là NGUYỆT SỨ, như trong truyện Từ Thức gặp Tiên:

Lọ là NGUYỆT SỨ băng môi,
Phận này duyên ấy ắt thời trong tay.

Nguyệt Lão là từ nói gọn lại của nhóm từ “ NGUYỆT HẠ LÃO NHÂN 月下老人“ là “Ông gìa dưới trăng “, vì chuyên xe tơ cho trai gái lấy nhau, nên còn được gọi là ÔNG TƠ, như khi Kim Trọng đến từ biệt Thúy Kiều để đi Liêu Dương hộ tang chú, thì Thúy Kiều cũng đã oán trách :

ÔNG TƠ ghét bỏ chi nhau,
Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi.

Hay khi bị Hồ Tôn Hiến ép gã cho thổ quan, Thúy Kiều lại một lần nữa lên tiếng oán trách :

ÔNG TƠ sao khéo đa đoan,
Xe tơ sao lại vơ quàng vơ xiên?!

Vậy, Ông Tơ là ai, Nguyệt Lão là ai, chuyện xe tơ là như thế nào mà người thì cam chịu, người thì “đổ thừa “, người thì oán trách … Mời đọc tiếp phần xuất xứ sau đây sẽ rõ.
Điển tích Chỉ Hồng, Chỉ Thắm, Dây Thắm, Xích Thằng, Ông Tơ hay Nguyệt Lão … có xuất xứ như sau:


Nguyệt Lão và Vi Cố

Nguyệt Lão và Vi Cố

Theo Tục U Quái Lục của Lý Phục Ngôn đời Đường 唐朝文学家李复言所著的《续玄怪录 : Vào năm Đường Trinh Quan thứ hai (638), đất Đỗ Lăng có thư sinh Vi Cố韋固, con nhà thế gia vọng tộc. Cha mẹ mất sơm, nên Cố đi du học bốn phương, vừa để học tập cầu tiến vừa để tìm kiếm hôn nhân. Khi đến Tống Thành, có người mai mối cho Vi Cố cưới con gái của quan tiền nhiệm huyện Thanh Hà là Tư Mã Phan làm vợ. Hẹn rằng sáng sớm hôm rằm sẽ gặp người mai mối ở trước cửa chùa Long Hưng Tự ở Nam Điếm để nói chuyện.
Đến hẹn, Vi Cố vì nóng lòng với chuyện hôn nhân nên đêm đó không ngủ được. Trời chưa sáng mà đã lần mò đến trước cửa chùa. Bỗng chàng trông thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, tiên phong đạo cốt ngồi trên bậc tam cấp trước cửa chùa đang giở xem một quyển sách. Hiếu kỳ chàng bèn đi tới ghé mắt nhìn vào, thì ngạc nhiên làm sao, trên sách là loại chữ rất đặc biệt không sao đọc được. Chàng bèn khẩn khoản hỏi thăm ông lão, thì được ông lão cho biết đó không phải là chữ của nhân gian, và bản thân ông cũng không phải là người của nhân gian nữa. Hiếu kỳ và thích thú, Vi Cố hỏi trong sách ghi chép những gì, thì ông lão cho biết đó là sách ghi chép tất cả những cuộc hôn nhân của trai gái trên đời nầy. Đoạn ông lấy ra một cuộn chỉ đỏ và giải thích rằng, khi ông đã buộc chỉ đỏ nầy vào chân của cặp trai gái nào rồi, thì dù cho có quan san cách trở hay thù oán lẫn nhau gì gì đi nữa, thì rốt cuộc cũng sẽ thành vợ thành chồng với nhau mà thôi.
Trong lúc đang tìm kiếm hôn nhân, Vi Cố bèn hỏi ông lão xem có biết mình chừng nào kết hôn và vị hôn thê của mình là ai không ? Ông lão bèn lật sách ra xem rồi nói rằng : Vợ của Vi Cố năm nay mới có ba tuổi và phải mười bốn năm sau thì hai người mới kết hôn được. Đang lúc nóng lòng muốn cưới vợ, nghe ông lão nói thế, Vi Cố nản qúa bèn hỏi tới rằng : “ Vậy chớ bây giờ vợ tôi đang ở đâu ?”. Ông lão đáp là: “ Vợ của cậu đang ở tại đây, ở phía bắc của Nam Điếm nầy, đang do một người đàn bà bán cải trông nom. Cậu đừng nóng ruột, trời sáng thì sẽ gặp mặt thôi !”

Khi trời đã sáng hẵn rồi, mà người mai mối ước hẹn với Vi Cố cũng không thấy tới. Ông lão ngồi dưới trăng cũng cất sách vào bọc. Đoạn đứng dậy bảo Vi Cố đi theo ông ta vào chợ. Khi đến hàng cải, thấy có người đàn bà một mắt tay đang ẵm một đứa bé mũi dãi thò lò, đang mua cải. Ông lão bèn chỉ vào cô bé gái bảo : “Đây là vợ cậu đó !”. Vi Cố nghe xong cả giận nói : “ Nếu lời nói của ông không sai, thì tôi sẽ giết con bé nầy !”. Ông lão cười bảo : “Đây là mạng số đã an bày, e rằng cậu sẽ không giết nổi cô ấy đâu !”. Nói đoạn, ông lão quay lưng bỏ đi mất.
Vi Cố là con nhà thế gia vọng tộc, cho là ông lão cố ý làm nhục mình, nên khi về đến nhà trọ, bèn đưa một con dao nhỏ cho một gia đồng, bảo ra chợ đâm chết con bé gái của người đàn bà một mắt. Trong thời buổi phong kiến, thì việc con nhà quyền thế, cậy quyền cậy thế để giết hại người nghèo cũng là chuyện thường tình, còn các đầy tớ do chủ nuôi thì cứ sai đâu đánh đó, nhắm mắt làm càng. Tuy nhiên, mạng người hệ trọng, giữa chợ giữa búa lại là lúc ban ngày ban mặt mà dám giết người giữa chợ thì cũng không phải là chuyện tầm thường. Nên khi ra đến chợ, tên gia đồng lừa thế đâm đứa bé một nhát rồi bỏ chạy trối chết. Khi về đến nhà trọ Vu Hựu hỏi kết qủa thế nào. Tên gia đồng bảo là vì có người đàn bà che chở, nhưng vẫn đâm trúng một nhát vào đứa bé, còn sống chết ra sao thì chưa biết !
Sau vụ om sòm ngoài chợ, Vu Hựu cũng hối hận cho sự nóng giận bồng bột của mình, nên bỏ đi nơi khác. Những năm sau đó chàng tiếp tục tìm người hôn phối khắp nơi để cầu hôn, nhưng đều thất bại, cộng thêm mấy lần thi rớt, công danh không thành, hôn phối không xong, gia cảnh ngày một khốn khó. Cuối cùng, chàng đành phải dẹp lòng tự ái tự trọng để xin một chức phụ ấm của cha để lại : làm Tham Quân cho xứ Tương Châu. Lúc bấy giờ chàng đã ngoài ba mươi tuổi và vẫn còn độc thân trơ trọi có một mình.
Thứ sử Tương Châu là Vương Thái thấy chàng tướng mạo đoan trang, lại có văn tài, giao cho chàng kiêm nhiệm luôn về tư pháp ty của địa phương, chàng đều hoàn thành thật xuất sắc. Thấy chàng đã ngoài ba mươi mà chưa thành gia lập thất, nên Vương bèn gả con gái út cho chàng làm vợ. Cầu hôn suốt mười mấy năm trời đều thất bại, bỗng dưng được vợ, lại là con gái cưng của thượng cấp, Vi Cố vui mừng quá đổi.

Vi Cố cưới vợ

Đêm động phòng hoa chúc, thấy cô dâu Vương Thị chỉ khoảng mười bảy mười tám tuổi, xinh đẹp vô cùng, lại theo thời trang đính một hoa vàng ở giữa đôi mày trông càng xinh xắn kiểu dáng vô cùng. Vi Cố rất thỏa mãn và hạnh phúc với cô vợ trẻ đẹp này. Nhưng không biết vì sao đóa hoa vàng làm dáng ở giữa mày, cả khi đi ngủ đi tắm nàng cũng không chịu mở ra, khiến Vi Cố vô cùng thắc mắc.
Một hôm, khi vợ chồng đang trò chuyện thân mật với nhau, chàng mới thừa cơ hỏi rõ nguyên do. Nàng bèn cười mà đáp rằng : “Đó chẳng qua là tính thích làm đẹp của phái nữ, muốn giữ cho đẹp mà thôi !” Đoạn kể cho chàng nghe về lai lịch của mình. Thì ra, nàng không phải là con ruột của Vương Thứ Sử, chỉ là cháu gọi bằng chú mà thôi. Lúc nhỏ vì trên đường đi làm quan xa, cha nàng bị bệnh mất sớm, chẳng bao lâu mẹ cũng buồn rầu mà mất theo. Lúc đó nàng chỉ mới ba tuổi, phải sống nương nhờ vào bà vú nuôi, trồng cải ở mảnh đất sau nhà, nên mỗi ngày phải ra chợ bán cải cho bạn hàng. Một hôm không biết vì cớ gì có một kẻ côn đồ cầm dao định đâm nàng chết, may mà bà vú nhanh mắt tránh sang một bên, nên chỉ sướt qua giữa chân mày, vì thế mà nàng phải đính một đóa hoa vàng để che đi cái thẹo còn để lại. Sau đó chú nàng là Vương Thái tìm đến đem nàng về nuôi nấng và nhận làm con nuôi.
Vi Cố nghe xong cả kinh, mồ hôi ra ướt cả mình, hỏi lại rằng : “ Có phải bà vú của nàng là người đàn bà chỉ có một mắt hay không ?” Vương Thị cũng rất ngạc nhiên mà hỏi lại rằng : “ Sao chàng lại biết ?!”. Đến nước nầy, Vi Cố bèn kể lại chuyện Nguyệt Lão là Ông gìa dưới trăng đã định sẵn hôn nhân của hai vợ chồng cho nàng nghe. Vương Thị cũng vô cùng cảm khái cho cuộc hôn nhân tiền định nầy, vì thế mà vợ chồng càng yêu thương khắn khít nhau hơn là những cặp vợ chồng thường khác.
Vi Cố vì hưởng phụ ấm mà được chức quan nhỏ, nhưng nhờ gia đình bên vợ nâng đở, nên đường hoạn lộ cũng hanh thông. Sau nhờ con trai trưởng là Vi Cổn bình loạn có công, được phong làm Thái Thú Nhạn Môn Quan, lại được vua ban hàm Tướng Quân, mẹ là Vương Thị cũng được phong hàm Thái Nguyên Quận Thái Phu Nhân. Vì thế, mà câu chuyện Nguyệt Lão ở Nam Điếm của Tống thành ngày xưa được nhân gian truyền tụng và nhắc nhở. Huyện lệnh Tống Thành bèn đổi Nam Điếm thành Định Hôn Điếm定婚店là nơi Định đoạt Hôn Nhân của người thế gian, đồng thời cũng cho xây miếu để thờ phượng Ông Già Dưới Trăng, gọi là Nguyệt Lão Miếu月老廟.

 
Nguyệt Hạ Lão Nhân Miếu

Ngày nay, khắp nơi đều có miếu thờ Nguyệt Lão, nếu không thì cũng có bàn thờ Nguyệt Lão được thờ chung với các vị thần khác ở tất cả các miếu. Riêng ở Trung Hoa thì miếu thờ Nguyệt Lão có ở khắp nơi trong nước, nhưng nổi tiếng nhất là Nguyệt Lão Miếu ở Hàng Châu, không phải vì nó đẹp và linh thiêng hơn các nơi khác mà vì nó có nét cổ kính và nhất là đôi câu đối bất hủ ở hai bên cổng miếu không biết do danh sĩ nào đã làm ra :

Nguyện thiên hạ hữu tình nhân chung thành liễu quyến thuộc,
願 天 下 有 情 人 终 成 了 眷 屬,
Thị tam sanh chú định sự mạc thác qúa nhân duyên!
是 三 生 註 定 事 莫 錯 過 良 緣。

Có nghĩa:
Mong cho tất cả tình nhân trong thiên hạ, đều được nên gia thất,
Là chuyện tiền định từ ba kiếp trước, đừng để lở mất duyên lành!


Rất bình dân, rất nên thơ mà cũng rất thực tế, rất thiệt tình!

Tượng Nguyệt Lão

Còn một chuyện rất mỉa mai đến buồn cười là: Nguyệt Lão ở Trung Hoa là Ông Gíà Dưới Trăng lẻ loi đơn độc có một mình. Mặc dù chuyên xe tơ kết tóc cho người đời nên duyên chồng vợ với nhau, nhưng sang qua Việt Nam, có thể dân ta thấy tội nghiệp cho ông suốt đời chỉ mai mối cho người khác còn mình thì vẫn lẻ loi, và theo quan niệm của người Việt Nam ta, có “Ông” thì phải có “Bà”, nên mới “cưới” cho ông một “ Bà Nguyệt “ nữa, thành một cặp “Ông Tơ Bà Nguyệt”, và thành ngữ “Ông Tơ Bà Nguyệt” chỉ có trong ngôn ngữ và văn chương Việt Nam ta mà thôi, chớ ở bên Tàu thì “Ông Tơ” là Nguyệt Lão vẫn chỉ trơ trọi có một mình, không biết chuyện trai gái là gì cả, nên mới bị nàng Cung phi của Nguyễn Gia Thiều bỡn cợt :

Tay NGUYỆT LÃO khờ sao có một
Bỗng tơ tình vướng gót cung phi.
Cái đêm hôm ấy đêm gì?
Bóng gương lồng bóng đồ mi trập trùng.

Đỗ Chiêu Đức

Nghệ Thuật Dùng Người


Thử bàn thêm vào mục “Lời Hay Ý Đẹp” của Tiếng Vọng Trẻ, “Dùng người như dùng cây, chớ vì một vài chỗ mục mà bỏ cả cây to (Kinh dịch).” Xử dụng người là chúng ta biết cách phối trí nhân sự trong tổ chức, dùng người nào việc ấy.

Nếu không hiểu nguyên tắc phối trí nhân sự, thì không có người để điều hành lãnh đạo. Nếu không hiểu nguyên tắc dùng người, thì không có người để phân công phân nhiệm.

Nếu không có tổ chức, không có thành viên, không có lãnh đạo thì không có thành công, và tổ chức có đúng thời đại, có sách lược đáp ứng thời đại thì mới thành công. Dù rằng có tài tổ chức, có khả năng lãnh đạo chỉ huy, có điều hành quản trị, có yểm trợ tài chánh mà thiếu khả năng phối trí nhân sự thì cũng thất bại hoàn toàn.

Đề cập tới năng lực phối trí nhân sự hay phát huy nghệ thuật dùng người, chúng ta thường nghe câu ngắn gọn, “Dụng nhân như dụng mộc.” Nhìn lại lịch sử nhân loại, việc dùng người thì mỗi thời đại mỗi khác.

Dùng người còn tùy thuộc vào vai trò, nhiệm vụ, lãnh vực chuyên môn. Thuật dùng người cũng tùy thuộc khả năng nhận thức, thời gian địa điểm, lãnh vực ngành nghề, mà chúng ta linh động hay biến cải sao cho phù hợp nhu cầu thời đại.

Thuật dùng người của Ngô Khởi, một trong hai binh gia thời xưa Tôn Tử và Ngô Tử, lý thuyết dụng binh trong sách Tôn Ngô Binh Pháp. Khởi làm tướng, ăn mặc giống như binh sĩ, ngủ không trải chiếu, đi không dùng xe, tự bọc lương thực và mang theo trên người như lính, đồng cam cộng khổ chiến đấu với ba quân.

Khởi không bắt lính hầu hạ, không kiêu binh hách dịch, không tham quan nhũng nhiễu, không dĩ công vi tư, không ăn cắp tài sản quốc gia. Một hôm có người lính trẻ bị sưng nhọt đau đớn, Tướng Ngô Khởi liền dùng miệng mình hút mủ độc mụn nhọt giúp cho lính chóng khỏi.

Mẹ người lính ấy khi nhận tin bà òa lên khóc lóc thảm thiết. Có người hỏi lại, “Con bà làm lính mà được tướng lãnh hút nhọt cho khỏi, thì đó là điều mừng, cớ sao bà khóc?”

Bà mẹ trả lời, “Không phải tôi thấy con mình được tướng yêu thương, cứu chữa mà tôi khóc. Vì rằng năm xưa Ngô Công cũng hút mủ cho cha nó, rồi sau cha nó đã quyết tâm chiến đấu, bảo vệ lý tưởng Ngô Công, và cha nó đã hy sinh, phơi thân trên chiến trường đất địch.

Và ngày nay tới lượt con của tôi và ông ấy cũng được Ngô Công hút mủ, thì sớm muộn gì con tôi cũng sẽ chết như cha nó. Cho nên vì thế mà tôi khóc thương con tôi.”

Quan sát việc thành công chúng ta không thể dùng thước tấc, sức lực, mức độ hiểu biết của trường ốc mà đo lường những sự vật sự kiện, mà chỉ có thể đánh giá bằng mức độ tư tưởng lớn nhỏ. Tư tưởng nhỏ thành công thấp. Tư tưởng lớn thành công cao.

Có khi nào chúng ta bình tâm suy nghiệm lại đoạn đường đời của mình đi qua, từ cuộc sống bản thân, gia đình xã hội hay nghề nghiệp trong quá khứ tới hiện tại. Lần nào đó chúng ta đánh giá thấp khả năng của người khác, để khiến mình trở thành thân bại danh liệt.

Thực ra cá nhân người kia nếu phân tích ra từng điểm thì chưa chắc chắn đã có nhiều điểm hơn ta.

Trường hợp Tổng Thống Hoa Kỳ Gerald Ford không nhìn thấy tài năng của Đại Tướng Norman Schwarzkopf, con sư tử của chiến tranh Vùng Vịnh Ba Tư. Vị chỉ huy tuyệt vời của chiến dịch Bão Tố Sa Mạc.

Cuộc chiến chứng tỏ có nhiều cái nhất: quân đội kỷ luật nhất, quy mô nhất, vũ khí tối tân nhất, đối thủ hung hăng nhất, khối tôn giáo đông đảo nhất, và kết thúc chiến dịch nhanh nhất. Việc lãnh đạo chỉ huy của đại tướng cũng gặp khó khăn nhất, vì cuộc chiến có sự hiện diện, kiểm tra của hệ thống thông tin liên lạc, báo chí truyền thanh truyền hình Hoa Kỳ và các quốc gia hàng đầu thế giới theo dõi tình hình chiến sự địch bạn từng giây từng phút.

Từ ngàn xưa tới hôm nay nhân loại có lần đầu tiên thưởng lãm hình ảnh và tin tức của màn hình TV với Chiến Tranh Vùng Vịnh.

Câu chuyện xa xưa tưởng chừng như đã đi vào dĩ vãng, nhưng nay lại sống lại bởi vì cách dùng người và hành động đánh giá thấp của Tổng Thống Gerald Ford đã ảnh hưởng tác hại không ít đến sự nghiệp chính trị của ông. Vào thượng tuần tháng giêng năm 1974, lúc quyền lực Hoa Kỳ bị thách thức ở nhiều nơi trên thế giới, Norman Schwarzkopf là một tướng trẻ hăng say nhiệt tình, có đủ năng lực và điều kiện để được đề nghị làm phụ tá quân sự cho tổng thống Hoa Kỳ.

Công việc bổ nhiệm còn đang tiến hành trôi chảy, thì bỗng dưng lại bị tổng thống quyết định bãi bỏ. Rồi phải chờ hơn 15 năm sau, Đại Tướng Norman Schwarzkopf mới có cơ hội giúp ông thi thố tài năng trong chức vụ Tư Lệnh chiến trường Vùng Vịnh Ba Tư.

Như thế cách dùng người của Tổng Thống Gerald Ford với vị tướng trẻ tài ba này, chứng tỏ tổng thống có tầm nhìn hạn hẹp cục bộ, thấp kém và tư tưởng nhỏ. Cung cách đánh giá khả năng thấp ấy đã ảnh hưởng đến cuộc tái tranh cử tổng thống của ông tới mức độ không thành công.

Dùng người thì mỗi thời mỗi khác. Chúng ta nghiệm lại thuật dùng người của Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, lãnh đạo toàn quân toàn dân đánh tan giặc xâm lăng Mông Cổ, một đoàn quân hùng mạnh bá chủ vào bậc nhất thế giới thời bấy giờ. Người tỏ lòng với quân sĩ dưới trướng như sau:

Ta đây đến bữa quên ăn, giữa đêm vỗ gối, nước mắt đầm đìa hai má, lòng đau như cắt, thường căm hờn chẳng được ăn thịt, lột da, nhai gan, uống máu quân thù. Ví dầu một trăm thân ta phải phơi thây nơi đồng cỏ, một ngàn thây ta bọc trong da ngựa cũng không bằng.

Các ngươi theo ta đã lâu ngày, nắm giữ binh quyền, không có áo, ta lấy áo cho mặc, không có ăn ta lấy thức ăn cho ăn, chức quan nhỏ ta cho lên chức, lương ít ta cấp thêm bổng lộc, đi dưới nước ta cho thuyền, đi trên bộ ta cho ngựa, khi gặp việc binh đao cùng nhau sống chết, khi thắng lợi nghỉ ngơi cùng nhau cười nói vui mừng.

I. Dụng Binh

Binh Thư Yếu Lược, ngoài những cách hướng dẫn về thiên văn, địa lý, chọn tướng, đạo làm tướng, và những điều thiết yếu cho việc dụng binh, Đức Hưng Đạo Vương còn dạy cách dùng người. Ngài chia cách dùng người ra làm 3 cấp là dùng quân, dùng tướng, và dùng chủ tướng.

1. Dùng Quân thì phải biết xử dụng những kẻ: mưu trí, dũng cảm, tham lam lẫn những kẻ ngơ ngốc.

- Những kẻ mưu trí thì thích lập công.
- Những kẻ dũng cảm thì thích thực thi chí hướng của họ.
- Những kẻ tham lam thì thích chạy theo lợi lộc.
- Những kẻ ngơ ngốc thì không nhìn thấy cái chết.

Và tùy theo tính tình của từng người mà dùng họ, đó là phép dùng người vi diệu của Tướng dùng Quân.

2. Dùng Tướng thì phải trao quyền cho tướng, tướng nói tướng không thể dùng binh thì chớ dùng, tướng nói tướng có thể dùng binh thì dùng. Tướng nói có thể đuổi đánh quân địch thì phải đuổi đánh, tướng nói không thể đuổi đánh thì chớ đuổi đánh. Như thế quân pháp không rối loạn, quyền hạn không bị cản trở.

Nhưng biết dùng tướng, trước hết phải biết chọn tướng. Muốn biết chọn tướng thì trước hết phải biết xét tướng. Những việc hiểu biết ấy đem lại sức mạnh thần diệu cho chủ tướng, cho nên làm chủ tướng không thể xem thường việc khiển tướng dùng binh.

3. Dùng Chủ Tướng. Có hai loại tướng, dũng tướng và mưu tướng. Dũng tướng dùng để đánh chỗ kiên cố, vây hãm trận địch, gây thanh thế. Còn việc lo liệu, sắp đặt kế sách hay tùy cơ ứng biến đối phó với địch quân, nếu không có tướng mưu trí thì không thành công. Nếu tướng chỉ cậy sức mạnh, gan dạ không thôi thì phải thua tướng mưu trí. Cho nên ngày xưa dựng đàn, cầu đàn, lên đài phải mời tướng mưu trí làm chỗ cậy trông cho dũng tướng, cho ba quân. Người làm chủ tướng không cần phải biết thuật đánh kiếm múa gươm, cưỡi ngựa bắn cung mà phải thông suốt mọi việc xưa nay gọi là trên thông thiên văn dưới làu địa lý.

Vậy phải giao nhiệm vụ chủ tướng cho ai? Chúng ta cần trắc nghiệm, thử thách xem phản ứng của họ để biết tướng tài giỏi, tư tưởng lớn hay tướng u tối tư tưởng lặt vặt trước khi giao quyền chỉ huy.

II. Thuật Xử Dụng Người

Chúng ta có thể rút tỉa kinh nghiệm thuật dùng người chia thành ba cấp kỹ thuật, xảo thuật, và nghệ thuật.

1. Kỹ Thuật Dùng Người là điều động, tổ chức nhân sự vào công tác, mục đích có tính toán lợi ích mà không đặt tình thương đồng bào, cũng như sự an nguy của người hợp tác như trường hợp Tổng Thống Gerald Ford.

2. Xảo Thuật Dùng Người là xử dụng mưu kế, bày tỏ lòng yêu thương với người hợp tác, để họ tuyệt đối trung thành như trường hợp người lính Ngô Khởi. Nhưng sự yêu thương này có khi chỉ là đóng kịch giả dối, mị dân mị cán bộ, dễ xử dụng và thường được nhiều lãnh tụ mang ra áp dụng.

3. Nghệ Thuật Dùng Người là phong thái nghiêm minh, cung cách cư xử chí tình, liêm chính, ngay thẳng với tấm lòng yêu thương chân thật đối với người hợp tác hay thuộc quyền như Đức Hưng Đạo Vương. Nghệ thuật dùng người là dùng cái cao cả nhất, cái nguyên tắc muôn đời muôn thuở của thuật dùng người, thâu phục nhân tâm.

Với ba cách dùng người nói trên thì cách nào cũng giúp chúng ta thành công. Nhưng thành công theo chiều hướng tốt hay xấu, danh thơm để đời, thì chúng ta cẩn thận loại bỏ kỹ thuật hay xảo thuật, mà mang ra áp dụng nghệ thuật dùng người. Nghệ thuật dùng người có khó khăn, có chậm chạp hay kéo dài thời gian mới tiến tới thành công, đó là chánh đạo, là đường của các bậc chánh nhân quân tử, tư tưởng gia, triết gia, chính trị gia chân chính đã chọn và thành công.

Để phát triển khả năng đọc tư tưởng của người, chúng ta có thể luyện tập 3 thói quen dưới đây:

a. Quan Sát – hãy xem xét bất cứ công việc gì, dù nhỏ hay lớn, có hoặc không liên quan đến chúng ta.
b. Phân Tích – chia công việc ra nhiều phần nhỏ, rồi dùng lý luận thuận, nghịch để phân tích sao cho thật rõ ràng.
c. Xét Người – luôn đặt chúng ta vào vai trò, vị trí của người mà muốn phê bình với những câu hỏi: Ta có khả năng giải quyết vấn đề như họ không? Ta có dám đảm nhận vai trò của họ không? Ta có sẵn sàng làm tốt hơn vai trò đó không?

Muốn giúp dân cứu nước, muốn xây dựng phát triển Việt Nam tương lai, chúng ta cần học hỏi, trau dồi, rèn luyện, mở mang tầm nhìn của mình để có thành công lớn. Trên thực tế, đánh giá khả năng không phải là chuyện dễ, nhưng dù sao, muốn chính xác và ít sai biệt, chúng ta tham khảo theo phương pháp sau:

- Lựa chọn ưu điểm – chọn ít nhất 3 khả năng và 3 tính tốt của bản thân mà mình ưa thích nhất. Rồi nhờ vợ/ hoặc chồng, con cháu, thầy cô, bạn bè hay người đã thành công, để nhờ họ nhận xét và góp ý với mình, thì mình sẽ nhận ra mình là ai.

- Lập bảng so sánh – viết ra tên 4 người đã thành công, rồi so sánh khả năng và đức tính của người đó có mà ta cũng có. Chắc chắn chúng ta cũng có được một khả năng hay tính tốt nào đó, khi đem ra đối chiếu với người thành công kia.

Dùng phương pháp đánh giá khả năng trên, chúng ta sẽ nhận ra được tầm kích của mình, lúc đó chúng ta biết khả năng của mình lớn hơn mình đã nghĩ.

Từ bỏ mặc cảm thua sút, yếu kém do đánh giá khả năng thấp, tư tưởng nhỏ, hay tầm nhìn gần. Một lần nữa, chúng ta quay về quá khứ xét lại thần tượng một thời mà làm mình say mê ngưỡng mộ. Ví dụ, chúng ta xem thần tượng của mình như một người xuất chúng, kiến thức uyên bác, nhìn xa trông rộng, mọi thứ đều nhất. Nói chung, chúng ta xem ông như một tự điển lớn.

Rồi chúng ta dùng phương pháp đo lường, đánh giá khả năng và đức tính của ông đối chiếu với mình, xem thần tượng mình có phải là có tư tưởng lớn không, hay chỉ là cuốn tự điển lớn chứa những từ ngữ lớn, chớ không phải tư tưởng lớn. Trên thực tế, nhiều thần tượng đã thích dùng chữ nghĩa với những lời đao to búa lớn, những câu văn khó hiểu, giàu âm thanh phô trương, và mang tính chất trình diễn.
Khi chúng ta hiểu ra được những tính chất phô trương đó, thì không còn gì khiến mình bận tâm. Bởi đó là việc bình thường như bao người có tư tưởng nhỏ trong cộng đồng xã hội.

Trong hội thảo chúng ta đừng chú ý những câu văn bóng bẩy, lời nói chải chuốt mà cần tập trung vào những hình ảnh, tư tưởng của người diễn thuyết. Bởi vì lời nói, câu nói chính là vật liệu xây dựng tư tưởng, tư tưởng nhỏ hay lớn sẽ giúp chúng ta dễ dàng phát giác ra ngay người đó là ai.

Ví dụ khi chúng ta nghe một người nào đó nói: “Trời sắp chuyển mưa. Thôi đi vô nhà đi!” Nghe câu nói đó, chúng ta thấy trong đầu mình hiện ra hình ảnh vài ba người phải vội vã chạy vào nhà, vì trời mây đen vần vũ, sấm chớp kéo đến và sắp mưa to gió lớn.

Khi chúng ta nghe câu nói lịch sử của Triệu Trinh Vương: “Ta muốn cỡi cơn sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông, chớ không khom lưng làm tì thiếp cho người.” Nghe câu nói này, trong đầu óc chúng ta ắt tưởng tượng ra hình ảnh của một vị nữ tướng oai phong lẫm liệt, mắt sáng như sao băng, giọng đanh thép thách thức kẻ thù, mà chính chúng ta cũng cảm thấy giòng máu nóng trong người mình sôi động.

Xét qua hai ví dụ trên, tư tưởng lớn tạo ra tính xác định, bước tiến tới, kích động tinh thần, và mang hình ảnh rõ nét. Người có tư tưởng lớn còn giàu lòng vị tha, không chấp nhất những chuyện nhỏ nhặt, và là người ngay thẳng, nhiệt tình, sống vì tha nhân quên mình và luôn biết nhìn xa trông rộng.

III. Kết Luận

Chúng ta học hỏi và nhận thức về tư tưởng con người, phát huy nghệ thuật dùng người, phối trí nhân sự trong việc điều hành tổ chức và lãnh đạo, nhằm mang lại ơn ích cho chính mình, cho tổ chức Giúp Dân Cứu Nước và cho quê hương Đồng Bào Việt Nam thân yêu trong thế kỷ 21 của Thời Đại Tín Nghiệp sắp tới.

Phạm Văn Bản


Thứ Sáu, 5 tháng 7, 2024

Góc Nhỏ Tâm Đồng!

  
(Ngày Đông - Âu Châu)


Đông xa khơi hồi ức cũ
Đông gần ấp ủ như vừa...
Thánh ca len qua khung cửa
Kinh cầu nhắc nhớ ngày xưa

Hình như người từ muôn thuở
Tâm đồng tìm đến nguồn mơ
Nhật nguyệt bấy mùa trăn trở
Góc chờ hẹn gặp rất thơ!

(Đêm Đông - Melbourne, Úc Châu)

Nhịp tim thôi đừng vụn vỡ
Trăng treo có lỡ vụt tàn
Lắng lòng theo tiếng chuông vang
Đêm đen vơi tan sầu úa...
 
Đông xa thiết tha cầu Chúa
Đông gần chan chứa nguyện Ngài
Trên cao Thánh Giá giăng tay
Bờ vai cả hai phương tựa

Tạ ơn chỗ dựa bình an
Thế gian muôn hình vạn trạng
Thánh Tâm Chúa đỡ nhẹ nhàng
Đời con bước sang ngày mới
 
Amen!

(Đầu Đông - Perth, Úc Châu)

Thơ & Ảnh: Kim Oanh
Mùa Đông 14.6.2024

Sóng Vỗ Cánh Chim

 

Tình thương nỗi nhớ bóng chiều buông
Ai kẻ phương xa lỡ bước đường...
Tóc nhuộm mây trời trôi lãng đãng
Về đâu cánh nhạn giữa muôn phương....?

Chân trời góc biển luyến hoài mong
Ngàn dậm phương xa một cõi lòng
Đâu là cảnh cũ người năm ấy...
Ai người nặng nợ với núi sông..?

Khung trời bàng bạc mỏi cánh chim
Một thoáng hương xưa nặng nỗi niềm
Bể cả bao la ngàn sóng cuộn
Nghe hồn mộng mị ánh trăng đêm

Sóng vỗ gió gào buỗi chia phôi
Ngàn năm mây trắng phủ lưng đồi
Giã biệt khung trời bao kỷ niệm
Ngàn dậm quan san nỗi hận đời.....

Ngư Sĩ
30-6-2024


Hương Đất Mùa Hạ

 

Hơi đất nồng nàn thơm mùi cỏ mọc
Không vết nứt ngọn cỏ vẫn đâm chồi
Con chim sẻ tung tăng đòi nhổ cỏ
Chạm phải nụ cười cô gái đứng nhìn.

Nhìn mây trời tiên đoán xem thời tiết
Sợi nắng mềm xuyên thấu vạt áo bay
Niềm tin trong thơ ngôn từ bất tử
Như cuộc tình kiên nhẫn đợi hương say.

Một nỗi buồn trong giấc mơ thức dậy
Như nụ hoa rực rỡ nở trên cây
Em xòe tay xem lại vùng ký ức
Cuộc tình tái sinh hoa nở trên tay.

Sức nóng mùa hè đỏ hồng trước ngực
Đôi môi hồng thèm khát một nụ hôn
Hãy nhìn mắt nhau thấy màu hạnh phúc
Một thuở yêu nhau thắm thiết trong hồn.

Tế Luân

07-02-24

Nhắn Với Nàng Thơ

 

Đã lâu chẳng đụng tới thơ
Nàng Thơ ắt đã hững hờ, bỏ đi?
Sáng nay, còn đang ngủ khì
Bỗng ai lay dậy: Ngủ chi, trễ rồi!
Ngáp dài, ngồi dậy một thôi,
Ngó quanh, chỉ thấy: Cái tôi một mình.
Ủa mà, sao bỗng thình lình
Mình nghe có tiếng thân tình, gọi ta!
Nghĩ hoài mà chẳng tìm ra …
Ngẫm đi, ngẫm lại, chắc là: Nàng Thơ!
Với nàng, ta đã ơ hờ,
Hôm nay, nàng chắc đã chờ quá lâu?
Nàng ơi, ta cũng điên đầu …
Xa nàng, ta cũng có đâu vui vầy!
Mấy lời tạ lỗi, mong thay:
Thơ ơi, Thơ hãy đến ngay với mình.

​Danh Hữu
​(Paris, sáng ngày 03.07.2024)


Như Huyễn Như Mộng


Phàm những gì có tướng đều hư vọng, như huyễn như mộng, kể cả Phật, giáo pháp, quả vị vô thượng chánh đẳng giác … đều còn nằm trong tướng trạng khi tâm chúng sanh phân biệt, chấp trước vào đó. Nên trong quá trình tri hành câu, “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm,” hành giả không kẹt vào bất cứ đối tượng nào, dầu đó là quả vị giác ngộ tối thượng.

1.1 Giấc Mộng Nam Kha

Chúng ta thử nhìn vào cái lý như huyễn, như mộng của các bậc thánh nhân dưới đây trước khi bước vào thiền môn của bài kệ Lục Như.

· “Cõi Đời Mộng‟ dưới mắt một thi tiên. Nhà thơ Lý Bạch bảo, “Xử thế nhược đại mộng, Hồ lao vi kỳ sinh?” (Chuyện đời như mộng lớn. Việc gì phải nhọc lòng?)

· Cõi Đời Mộng trong tiếng thở dài minh triết của con người tài hoa khoáng đạt nhưng lại nỗi chìm trong hoạn lộ. Nhà thơ Tô Đông Pha bảo, “Nhân tự thu hồng lai hữu tín; Sự như xuân mộng liễu vô ngân” (con người như chim hồng mùa thu bay đến mang theo tin tức; chuyện đời ngắn ngủi như giấc mộng đêm xuân, trôi qua mất mà chẳng để lại dấu vết nào.)

· Cảnh giới cõi mộng trong bài tản văn Chiêm Bao với Sự Thực của nhà thơ Hàn Mặc Tử, người đã sống trọn vẹn trong cõi mộng để đem về cho cõi thực vô vàn châu ngọc của thơ ca. “Như có ma lực vô song xô tôi đến bờ huyền diệu. Đêm nay là một đêm hào hoa nên mùa trăng bát ngát, giờ bốn phương thôi không cầu nguyện nữa mà lòng tôi rực lên cảm hứng... Nhỡn tuyến đưa tới đâu, cũng gặp chói lói, cũng gặp hào quang. Nên trí tôi rất ngợp, miệng lưỡi tôi không phải bối rối nhưng tựa hồ như mới nếm xong khí vị thanh tao của muôn điệu nhạc,…Từ sự thực đi tới bào ảnh, từ bào ảnh đi tới huyền diệu, và từ huyền diệu đi tới chiêm bao. Mông lung đã trùm lên sự vật và cõi thực, bị ánh sáng của chiêm bao vây riết… Tôi cảm thấy sự khoái lạc vô biên cũng như tôi cảm thấy sự sợ hãi vô cùng…Tôi đang đi trên con đường xán lạn tìm lấy Chân lý ngàn năm, mà hào quang của tinh tú, của những ngọc ngà, châu báu, trời tuôn xuống không biết hằng hà sa số nào nữa…”

1.2 Bài Kệ Lục Như

Cơn mộng của Lương Gia và Nho Giáo chỉ là mộng chứ chưa phải là huyễn, hãy lắng nghe và quán bài kệ thâm diệu Lục Như trong Kinh Kim Cang dịch bởi Pháp Sư Cưu Ma La Thập. Phật nói trong kinh Kim Cang rằng:

Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
Như lộ diệc như điện,
Ưng tác như thị quán.

Dịch là

Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng, huyễn, bọt, bóng
Như sương, như điện chớp,
Nên quán tưởng như thế.

Cõi mộng trong bài kệ Lục Như trên là cõi-đời-mộng dưới sự quán chiếu của bậc đại giác, đại tuệ. Các Bồ tát đạt đến cảnh giới đó bằng cách dùng như huyễn tam muội quán chiếu thế gian bằng Diệu Quán Sát Trí, bằng nội lực của thiền quán và còn đạt đến trình độ thâm huyền hơn nữa, vì quán chiếu thế gian như là huyễn mộng, sắc sắc, không không để đạt được trạng thái an lạc tâm linh.

1.3 Quan Công Đốn Ngộ

Trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa có một đoạn Quan Công hiển thánh có thể được xem như là phần minh họa cho cảnh giới được mô tả trong Kinh Lăng Già, theo tinh thần của bài kệ Lục Như.

Sau khi thất thủ Kinh Châu, Quan Vân Trường bị Quân Đông Ngô phục kích, tử trận vi thần. Theo tương truyền thì linh hồn Quan Công, cởi ngựa Xích Thố, tả hữu có Quan Bình và Châu Thương, đêm đêm bay phiêu diêu khắp nơi, kêu gào, “Trả đầu cho ta,” tiếng kêu như sấm rền khiến bá tánh thảy điều kinh hồn động phách. Khi đến núi Ngọc Tuyền nơi Ngài đã có duyên gặp gỡ lúc trước, Sư Phổ Tĩnh nghe và biết (quán và kiến) tiếng kêu trên không, liền bước ra khỏi am, cầm cây phất trần gõ vào cửa chùa mà hỏi “Vân Trường an tại?” Câu hỏi đơn giản đó lại giống tiếng hét của Lâm Tế, cây gậy của Đức Sơn, khiến hồn ngài sực tỉnh, liền hạ mã, xuống ngựa Xích Thố, tới trước am để nghe thuyết pháp và quy y cửa Phật. Câu này thường được dịch là “Vân Trường ở đâu?” mà lẽ ra nên hiểu là “Vân Trường có chăng?” nghĩa là “Vân Trường có thực sự tồn tại chăng?” mới đúng tinh thần của Sư Phổ Tĩnh muốn điểm hóa cho vị danh tướng huyền thoại này.

Thật ra câu chuyện không đơn giản như vậy, sau khi nghe Quan Công từ lưng trời đòi “Trả đầu cho ta.” Thì Sư Phổ Tĩnh gọi, “Vân Trường ngươi ở đâu?” Quan Vân Trường, “Sư phụ ơi, ta đi khắp nơi kiếm cái thủ cấp mình mà không thấy. Xin sư phụ chỉ đường cho.” Sư Phổ Tĩnh , “Lúc trước Tướng Quân chém biết bao nhiêu thủ cấp; có ai đòi lại đâu mà bây giờ lại đi đòi cái thủ cấp của mình?” Vì câu hỏi đó mà Quan Công đã tức khắc Ngộ nhưng chưa Gíác – thành Thần, và sau đó Giác - thành Thánh.

Nhà phê bình Mao Tôn Cương cho rằng chỉ một câu đó của Sư Phổ Tĩnh cũng bao hàm cả diệu nghĩa của cuốn Kinh Kim Cương. Nhận xét đó quả vô cùng sâu sắc. Chính tại sát na thù thắng mà vị danh tướng đó nhận ra diệu nghĩa của chữ Mộng, chữ Không, và tạo được sự chuyển ý trong tâm thức. Lúc đó, ắt hẳn anh hồn Vân Trường hoang mang trước cảnh tượng tất cả đều đột nhiên biến mất, cũng hoang mang trước câu hỏi, “Vân Trường an tại?” Đó là một công án giúp Quan Công hoát nhiên đốn ngộ - “Quan Công anh hồn đốn ngộ.” Chuyện thành bại thị phi đáo cùng cũng chỉ là hư không mộng ảo. Kinh Châu chỉ là mộng. Thục cũng chỉ là mộng. Ngụy hay Ngô cũng chỉ là mộng. Tham vọng tranh bá đồ vương cũng chỉ là mộng. Mà cả đến bản thân của Vân Trường cũng là mộng nốt. Vân Trường an tại? Có nghĩa là “Nhất thiết Ngụy Ngô Thục, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán.” Bởi vậy, sau khi nghe Sư Phổ Tĩnh thuyết pháp, Quan Công mới đại ngộ rồi cúi đầu làm lễ quy y mà đi - “mang nhiên đại ngộ, khể thủ quy y nhi khứ” (Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, hồi 77.)

Ngũ Tổ nói, “Người kiến tánh ngay lời nói phải thấy, nếu như người này dù khi múa đao giữa trận cũng thấy được thấy tánh.” Quan Vân Trường lúc còn là tướng Thục Hán giữa trận múa đao chém tướng, công thành, vạn cốt khô. Vì chưa quy theo Phật Pháp cho nên chưa kiến tánh, cho đến khi chết, hồn phiêu du vô định không biết chỗ nào mà trụ, mà đi. Cho đến khi được Sư Phỗ Tĩnh khai ngộ, thuyết pháp, mới đốn ngộ quy y tam bảo.

Thật ra Quan Công đã có duyên phận với Sư Phỗ Tĩnh từ trước. Quan Công cũng đã sẳn có căn tu từ tiền kiếp, dù trong kiếp này làm tướng, theo phò Lưu Bị, xông pha trận mạc, công thành, chém giết không chùn tay nhưng sau khi hồn lìa khỏi xác và nhất là khi nghe câu: Vân Trường sở ở đâu, trụ ở đâu? Ngài đột nhiên đốn ngộ, mới quán được Vân Trường là không (vô ngã, no-self,) vô sở, vô trụ. Trả đầu cho Ta (self), mà Ta không có (no-self,) thì đầu có không?

Ngược lại, những anh hùng vô danh đã vị quốc vong thân hay những tướng quân, “sinh vi tướng, tử vi thần,‟ Nguyễn Viết Thanh và Nguyễn Khoa Nam của VNCH, lúc các ngài còn cầm quân đánh nhau với VC thì đã trường trai, sùng đạo Phật. Họ vừa công thành, vạn cốt khô, vừa giữa trận tiền múa súng mà vừa kiến tánh.

Đó không phải là chuyện dễ dàng để làm và đạt được.

Cũng như Phật Hoàng Trần Nhân Tông, họ là những thánh nhân, Bồ Tát nguyện đầu thai vào trong những hoàn cảnh thử thách đặc biệt, mà những kẻ phàm phu tục tử như chúng ta không có thể hiểu để mà giải thích các trường hợp hy sinh, tuẫn tiết, của họ được.

Trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, đoạn văn tả lại cảnh trên chỉ ngắn ngủi có vài dòng nhưng đó mới chính là chỗ mà ngọn bút của La Quán Trung đã đạt đến mức “đăng phong tháo cực, lô hỏa thuần thanh,” giúp người đọc liên hệ đến bài kệ Lục Như.

Nhà thơ Tô Đông Pha, khi được một sư trụ trì ở chùa Cát Tường xin đặt tên cho một căn gác, đã làm bài thơ Cát Tường tự tăng cầu các danh như sau:

Quá nhãn vinh khô điện dữ phong
Cửu trường na đắc tự hoa hồng
Thượng nhân yến tọa quán không các
Quán sắc quán không, sắc tức không.

Tạm dịch: 

Chuyện thịnh suy thành bại lướt qua trước mắt nhanh như tia điện chớp hoặc như ngọn gió bay. Sự lâu bền của nó chẳng được như màu hồng của đóa hoa. Bậc thượng nhân ngồi yên lặng trên căn gác quán Không; quán tưởng Sắc, quán tưởng Không rồi ngộ ra rằng Sắc chính là Không.

Kinh Kim Cang dạy chúng ta quán chiếu thế gian bằng tinh thần của bài kệ Lục Như là để “Nhậm vận thịnh suy vô bố úy” như Thiền sư Vạn Hạnh viết, và để đạt đến cảnh giới “vô hữu khủng bố, viển ly điên đảo, mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn” của Trí Tuệ Bát Nhã. Phần này có thể được coi là quan trọng nhất trong kinh. Lục Tổ giảng về pháp Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa (Maha Prajna Paramita), có nghĩa là đại trí huệ đến bờ bên kia. Pháp tu này đạt thẳng mục đích của Thiền là Kiến Tánh Thành Phật. Tất cả chúng sinh, từ người ngu đến kẻ trí đều có Phật Tánh như nhau. Có khác nhau chăng chỉ là kẻ mê, người ngộ. Vì vậy nên LụcTổ chỉ rõ thêm, "Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ Đề; niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật. Niệm trước chấp cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ đề." Thế nào là mê, mê đây là không thấy được tự tánh của mình. "Bản tánh là Phật, lìa tánh chẳng có Phật ... Trí Bát Nhã đều từ bản tánh mà sanh, chẳng phải từ bên ngoài vào, không nên lầm với ý thức." Tất cả muôn pháp đều ở trong tự tánh của con người, hoặc nói cách khác là tự tánh bao hàm muôn pháp.

Lê Huy Trứ


Đạo Thiền Và Tâm Hồn/Meditation And The Soul In Neuroscien An Overview And Ontological View

(Sách của Bác Sĩ. Mai Trung Kiên)

Bác sĩ Mai trung Kiên vừa cho tái bản sách ĐẠO, THIỀN VÀ TÂM HỒN (Bản thể học và Khoa học não bộ) với ít sửa đổi trong cách trình bày và diễn tả tư tưởng để độc giả dễ hiểu vấn đề hơn -theo như trong lời mở đầu của sách.

Bs Kiên đã ưu ái gửi tặng tôi sách. Rất cám ơn Bs Kiên người bạn đồng môn đồng song trong học trình y khoa đại học Saigon thời VNCH.

Bs Kiên tốt nghiệp y khoa bác sĩ tại Saigon năm 1969 và ở trong ngành quân y quân lực VNCH. Sau 1975 Bs Kiên sang Canada và là giáo sư về Pathology tại đại học Ontario, Canada với hơn 150 công trình nghiên cứu và hơn 100 bài viết trình bày ở phạm vi quốc gia và quốc tế.  

Bác sĩ Kiên ngỏ ý muốn tôi có ít ý kiến về sách của anh. Tôi viết ít dòng dưới đây, không chủ đích phê bình cuốn sách vì thực sự không đủ khả năng chuyên môn cho công việc đó, mà chỉ gọi là điểm sách với chút ít ý kiến có thể là chủ quan nhiều hơn. Thực sự chỉ như người đi ngắm cảnh nhìn ngôi nhà là cuốn sách khá đồ sộ của Bs Kiên với gần 500 trang giấy khổ 6x9 để học hỏi suy tư và có ít ý kiến về đạo, đời sống tâm linh, tri thức.

Sách được trình bày ở hai dạng Việt Ngữ và Anh ngữ để cho độc giả thích đọc tiếng nào thì đọc, nhất là độc giả ngoại quốc và giới trẻ không thạo tiếng Việt có thể đọc bản tiếng Anh để dễ nắm bắt vấn đề hơn. 

Sách, ngoài lời mở đầu gồm có 7 chương. Chương 1 nói về Khoa Học trong Đạo Tâm Hồn và Thiền. Chương 2 nói về Sự Chú Tâm. Chương 3 nói về Trí Nhớ. Chương 4 nói về Tri Thức. Chương 5 nói về Thiền Định. Chương 6 nói về Thể Nghiệm trong Thiền Định. Chương 7 nói về Giấc Ngủ và Mộng Mị. Trong mỗi chương tác giả đã trình bày tỷ mỷ mỗi ý đề trong một tổng thể khá rõ ràng. Ngoài ra sách còn có một phụ bản, để diễn nghĩa thêm về những chỗ cần phải được hiểu chính xác hơn.   

Khi vừa đọc qua sách xuất bản lần đầu, tôi choáng váng không hiểu gì cả, vì trí nhớ tôi không được tốt quên mất cách cấu tạo của não bộ con người và những sinh lý của nó, tôi có cảm tưởng tác giả đã dùng duy vật biện chứng để diễn nghĩa những sự kiện tâm-thần-linh, hình như mọi sự xảy ra trong con người và trời đất đều do ở bộ óc mà ra. Óc là toàn thể vũ trụ, là trí khôn, là thần linh, là hiểu biết và điều khiển tất cả mọi sự. Sách nói về ĐẠO, THIỀN và TÂM LINH, nhưng lồng trong khung cảnh của bản thể học và khoa học não bộ là thế đấy. 

Nhưng đọc sách xuất bản lần này, tôi có ý nghĩ khác. Tìm hiểu sâu xa hơn theo luồng tư tưởng và con người của tác  giả, không lẽ Bác sĩ Kiên lại là con người duy vật. Anh là một phật tử thuần thành, có chiều sâu về phật học và thiền và đời sống tâm linh khá đậm đà sâu sắc. Thiền là một cái gì vô hình linh thiêng dùng để diễn tả ý nghĩa của Phât Học, của Phật tính. Tôi hiểu tác giả đã dùng khoa học để diễn nghĩa những điều, những sự kiện tâm linh, thần thánh mà tất cả hoàn toàn chỉ là trừu tượng phải dựa vào niềm tin và cái gì siêu phàm để hiểu, có những chỗ những ý tưởng mà ngôn ngữ không đủ để diễn tả tâm tư mình. Tất cả đều thiếu sót. Đời là bất toàn. Con người là bất toàn. Vậy ai là không bất toàn đây? Tôi đã thắc mắc và tin rằng tác giả cũng đồng ý với tôi để chúng ta cùng đồng hành đi tìm ĐẠO.

Quả thật tác giả đã dùng khoa học qua não bộ và thiền để diễn nghĩa đạo và đi đến kết cùng của vấn đề sau cả hiện tượng big bang. Tôi tìm và hiểu Đạo có chút ít khác với tác giả. Bs Kiên hình như coi Đạo (Phật) và Thiền là một? Đạo Phật biểu hiện qua Thiền và Thiền diễn nghĩa Phật tính. Tôi hiểu đại khái là như vậy không biết có đúng ý tác giả không. Nói chung Đạo là con đường dẫn ta tới Chân Thiện Mỹ, nhưng định nghĩa đạo lại khác nhau tùy theo giáo phái và do đó danh từ đạo đức lại tùy thuộc vào đó. Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Kito giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo, Karl Marx /cộng sản v.v...coi đạo đức phải chăng không hoàn toàn giống nhau. Và ai là người nguyên thủy đã sáng lập ra đạo và để làm gì? Đó là vấn đề mà ít ai đặt ra. Đọc sách của Bs Mai trung Kiên để tìm hiểu để thắc mắc và đi đến điều mình muốn biết, điều mà tác giả muốn trình bày.

Đó là nói về phương diện triết học có tính siêu hình. Bác sĩ Kiên dùng não bộ con người để nói lên những gì mà tôn giáo, triết học, đạo đức học nói đến qua hiện tượng cơ thể học, sinh lý học của não bộ, được biểu hiện qua những trí nhớ, chú tâm, tri thức, thiền định cũng như giấc ngủ và mộng mị. Thật tuyệt vời và siêu việt và là một kỳ quan duy nhất.  

Đầu đề của sách là ĐẠO (PHẬT), THIỀN  và TÂM HỒN và, BẢN THỂ HỌC VÀ KHOA HỌC NÃO BỘ đã nói lên rõ ràng chủ đề của sách và vấn đề tác giả muốn nêu ra. Bác sĩ Kiên đã muốn dùng não bộ để cắt nghĩa/diễn tả đạo và thiền và đời sống tâm linh đạo đức của con người mà những siêu nhân đã nghĩ ra để giúp con người đi theo để thăng hoa siêu thoát. Các siêu nhân lại đã đưa ra những đạo đức khác nhau tùy theo cái đạo của mình. Mà đạo nào cũng tốt cả. Nhưng đạo nào là tốt nhất. Chẳng lẽ đạo nào cũng nhất. Vô lý. Đường đi nào cũng dẫn đến La Mã cả, có điều lâu hay chóng, vất vả hay không mà thôi. Nhưng địa điểm “La Mã’ này là ở đâu và thế nào thì mỗi đạo lại có quan niệm khác và cung cánh để đi tìm nó khác nhau. Có quan niệm La Mã là niết bàn, tiên cảnh, thiên đàng hay tái sinh thành Phật. Vậy thì cơ thể học, sinh lý học của não bộ con người có khác nhau hay thay đổi tùy lúc tùy nơi tùy hoàn cảnh không?   

Khổng Nho nói “con người nhân chi sơ tính bản thiện”.Nghĩ qua thì đúng là vậy, nhưng kinh nghiệm dân gian thường nói ‘bố mẹ sinh con trời sinh tính’  thì không biết cảm nghiệm đó có thật vậy không. Có người nói ý đó có thể đúng có thể sai. Văn hào Pháp Jean Jacques Rousseau nói: “Con người sinh ra bản tính là tốt nhưng xã hội đã làm cho nó xấu – l’homme est né bon et c’est la société qui le déprave”.  Câu này cũng gây tranh cãi khá nhiều cả trong tôn giáo lẫn ngoài đời thường. Không biết bác sĩ Kiên dựa vào khoa học não bộ thì nó thế nào.  

Kito giáo cũng đồng ý “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng vì con người không nghe lời Chúa -Adam và bà Eva là tổ tiên loài người- đã ăn trái Chúa cấm nên cái thiện đó đã mất. Lúc đó Chúa xuất hiện tìm hỏi ông Adam thì không thấy ông mà chỉ nghe tiếng trả lời vọng ra từ trong bụi cây. Chúa liền hỏi:

    -Ngươi ở đâu vậy, tại sao không ra đây?

   -Thưa ngài, tôi phải trốn vào đây vì thân mình trần truồng.

   -Tại sao?

   -Vì tôi ăn trái Chúa đã cấm nên bị trần truồng tự nhiên cảm nhận thấy xấu hổ.

   -Tại sao lại ăn trái cấm? Chúa hỏi.

   -Vì Eva là người Chúa đã ban cho tôi để làm vợ biểu tôi ăn. 

   -Chúa liền hỏi bà Eva, tại sao bà ăn lại còn biểu chồng cùng ăn?

   -Vì con rắn nó quyến rũ tôi- Bà trả lời.

Chúa đã ra lệnh phạt con rắn phải ăn đất mà sống và bị người đàn bà đạp chân lên đầu (Sách Sáng Thế Genesis 10:9-15).      


Chuyện chỉ kể như vậy để cho thấy rằng vì tội lỗi nên con người mất đi cái thiện bẩm sinh của mình. Nhưng nhờ ân sủng cứu chuộc của Chúa mà cái thiện có lại với con người nếu biết ăn năn hối cải làm theo lời Chúa dạy là từ bi hỷ xả bác ái, mến Chúa yêu người, ăn ngay ở lành... Vậy thì lúc đó não bộ có thay đổi về bản thể cấu tạo và sinh lý để cải đổi cái hồn và tâm linh con người không? Sự khác biệt của não bộ giữa con người biết hối cải và không chịu hối cải thế nào? 


Tôi lại nghĩ đến vấn đề Trí Nhớ và Tri thức mà bác sĩ Kiên đã trình bày ở chương 3 và 4. Có  triết gia đã nói: Thông Minh là Nhớ Lại. Người gọi là thông minh là người chỉ nhớ lại những gì mình đã học đã nghe ở quá khứ rồi nói ra mà thôi chứ không phải của riêng mình. Cũng không thể nói là mình sáng chế ra. Chỉ khi nào học và biết tức có tri và tiêu hóa biến thái ra của riêng mình tức đã thức thì gọi là tri thức. Bằng không chỉ là mọt sách, con vẹt. 


Con người không ai có thể sáng tạo, phát minh, làm ra bất cứ cái gì được mà là chỉ tìm ra, khám phá ra được cái đã có sẵn ở trong trời đất. Vấn nại này giống như câu hỏi cái trứng sinh ra con gà hay con gà sinh ra cái trứng. Vấn đề thật khó hiểu theo trí thông minh của con người. Quả thật đây là một vấn nại đi lòng vòng và loanh quanh. Cái có sẵn đó phải chăng là do một vị linh thiêng nào đó tạo ra mà ta gọi là Thiên Chúa hay ông Trời cũng như đã tạo dựng nên vũ trụ và mọi sinh linh, con người, sinh vật và quang cảnh thiên nhiên. Người vô thần cho là vì hiện tượng big bang mà phát sinh ra mọi sự. Bác sĩ Kiên cũng nói đến big bang giúp sinh ra những phản ứng của não bộ, của những hóa chất trong não bộ. Người hữu thần hỏi ngược lại tại sao có hiện trạng big bang và ai là người đã làm ra rồi cho hiện trạng đó bùng phát lên? Bác sĩ Mai trung Kiên đã dùng khoa học não bộ thần kinh để diễn tả những hiện tượng thần linh siêu hình về đạo và sống đạo với kinh phật và thiền mà ngôn ngữ loài người đôi khi không đủ để chuyển đạt tư tưởng duy thần có trong tâm chăng, và cũng nêu hiện tượng big bang để giải nghĩa nhiều hiện tượng hóa học khoa học trong cơ thể con người. 


Tôi vui được giới thiệu tập sách về ĐẠO, THIỀN VÀ TÂM HỒN / BẢN THỂ HỌC VÀ KHOA HỌC NÃO BỘ của Bác sĩ giáo sư Mai trung Kiên cho mọi người để nghiên cứu, học hỏi thêm về đạo / thiền và đời sống tâm linh con người ở mức độ sâu xa hầu bổ túc cho những hiểu biết hiện có của mình mà mọi tủ sách gia đình cần phải có. Nội dung sách súc tích thâm uyên bác học, hình thức trình bày đẹp trang nhã. Đây là kết quả của một công trình nghiên cứu của tác giả qua hơn 2000 tài liệu uy tín tầm cỡ đại học Đông Tây, các ejournals ở các đại học danh tiếng, các tài liệu và sách về Phật học đại thừa và nguyên thủy v.v. Tác giả đã đọc đã nghiên cứu và dùng tri thức đặc biệt của mình viết ra sách và cô đọng trong hơn 500 trang giấy mà nhận xét của người viết chỉ vỏn vẹn có 4 trang thì thật quả là thiếu sót. Mong tác giả và độc giả bổ túc. Đọc sách này là đã rút ngắn được thời gian học hỏi mà tác giả phải bỏ ra một thời gian rất lâu -có thể là hàng năm- mới có. Thật là tiện lợi. Sách có bán trên Amazon tại Mỹ. Giá 25 Mỹ kim.


Fleming Island,  Florida

Ngày 25 tháng 6 năm 2024

Nguyễn Tiến Cảnh                                      


Thứ Năm, 4 tháng 7, 2024

Từ Trên Đỉnh Tháp Washington Monument, DC


(Kỷ niệm Independence Day)

Kiến trúc theo Obelisk huyền bí thời cổ Ai-cập
Như chiếc bút chì...
Như cây cọc Bạch-đằng-giang của Ngô-Quyền, Hưng-Đạo
Đó là Washington Monument, Hoa-kỳ.

Tháp kỷ niệm GEORGE WASHINGTON, vị anh hùng lập quốc
Tổng-thống đầu tiên của Hiệp-Chúng-Quốc Hoa-Kỳ
Tháp cao 555 feet, 4 mặt đá hoa cương, đỉnh nhọn
Đẹp trang trọng và uy nghi.

Nhân dịp lễ Độc-Lập Hoa-Kỳ, July 4.1776
(Tôi đã đi thăm toà tháp này vào năm 96)
Chiếc thang máy đưa lên tầng chót vót trên cao
Từ cửa sổ nhìn ra thấy bàu trời bát ngát bao la
Thủ đô Washington,DC mênh mông bên giòng sông Potomac
Hướng tây, sau mặt nước long lanh hồ nhân tạo hình chữ nhật
Hiện rõ ngôi đền kỷ niệm Abraham Lincoln
Hướng đông: toà nhà Quốc-hội, US Capitol
Phía bắc: White House hay dinh Bạch-ốc
Còn phía nam, có hồ Tidal Basin nho nhỏ
Soi bóng ngôi đền kỷ niệm Thomas Jefferson
Bốn dinh thự, điện đài nguy nga tráng lệ đó
Trắng toát dưới ánh mặt trời
Màu trắng của 50 ngôi sao trên lá cờ Hợp-Chúng-Quốc
Ba màu xanh, trắng, đỏ tung bay phấp phới, rạng ngời.

Tối rời quê hương đi tìm đất hứa
Mới ở Hoa-Kỳ vừa đúng 3 năm
Được thăm tháp Washington dễ dàng không thể tưởng
Nên lòng tôi phấn khởi ước mơ thầm
Sớm muộn gì sẽ trở thành một công dân chính thức
Một quốc gia vĩ đại nhất hoàn cầu
Một nước tự do dân chủ hàng đầu thế giới

Từ đỉnh tháp cao, óc tưởng tượng bay xa về phương bắc
Nhìn thấy Tượng Thần Tự-Do (3 tháng sau tôi sẽ đến thăm)
The Statue Of Liberty, New York với một bó đuốc vàng
Soi sáng rực con đường DÂN-CHỦ, TỰ-DO cho nhân loại.

ChinhNguyên/H.N.T
July.4.2019
----------------
Tài liệu nguồn Internet:

*Independence Day is a federal holiday in the United States commemorating the Declaration of Independence of the United States on July 4, 1776.
*The Washington Monument is an obelisk on the National Mall in Washington, D.C., built to commemorate George Washington, once commander-in-chief of the Continental Army and the first President of the United States.
*The Statue of Liberty Enlightening the World" was a gift of friendship from the people of France to the United States and is recognized as a universal symbol of freedom and democracy. The Statue of Liberty was dedicated on October 28, 1886.