Thứ Bảy, 17 tháng 7, 2021

Hai Mươi Năm Tình Cũ - Trần Quảng Nam - Vũ Khanh


Sáng Tác: Trần Quảng Nam
Ca Sĩ: Vũ Khanh
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình

Đêm Trăng Quê Nhà


Đêm buồn lặng ngắm ánh trăng rơi
Ngẫm đoạn đường qua chạnh bước đời
Thoảng chút lòng dâu vương lối cũ
Nao lòng bóng bạn đã xa xôi

Vườn xưa hương bưởi dâng mùi nhớ
Nguyệt rụng bên thềm đỏng đảnh soi
Khắc khoải tình dâu sầu vạn mối
Thương về buổi ấy mảnh tình rơi

Dế cỏ ru đêm buồn lỗi hẹn
Thương về một thuở biếc tình thơ
Nhìn trăng ngõ trúc treo lừng lửng
Dõi mộng phương trời trải bóng mơ

Thổn thức song khuya nhớ mẹ già
Chung trà lặng lẽ một mình ta
Thương lòng nhớ lại bao thu cũ
Bóng mẹ vào ra dưới nguyệt tà 

Hương Thềm Mây
6.7.2021 Tân sửu

Thương Muộn



Có lẽ tôi qua mười tám tuổi
Và non hăm sáu chẳng còn khờ?
Khi từng ưỡn ngực, nhìn mi mắt
Cứ tưởng trăng đầy bóng nước thơ...
Đất dưới chân mình hoa cỏ dại
Tôi đi trên đó để thơm đời
Bên nầy đứng hóng bên kia gió...
Có mặt trời hừng buổi sớm mơi?
Bỏ một con đường, chôn quá khứ!
“Sớm chiều hai buổi Mẹ ngồi trông
Đêm Ba thao thức buồn không nói
Nỗi nhớ, niềm thương chất nặng lòng”
Khi tuổi đời không còn trẻ nữa
Mới nghe từng cung bậc thời gian
Đất, trời là trái tim sinh dưỡng
Mới cảm thương, giờ đã muộn màng!
Nước mắt không làm xanh ngọn cỏ
Có tâm hồn sẽ có quê hương...
Mâm đầy, cô độc khô như sạn!
Tôi mất... hơn trời rớt bụi sương.


Phong Tâm
21.4.2021

Thơ Tranh: Phố Cũ


Thơ: Hàn Thiên Lương
Thơ Tranh: Tố Lang 

Tạ Từ

(Thơ Tranh: Tố Lang)

Tạ Từ

Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ,
Quán thu phong đứng rũ tà huy.
Đâu buồn hỏi hoa nắng vàng đầu sóng,
Vất vưởng trôi rồi tan biến về đâu?

Đời cát bụi như nửa hư nửa thực,
Kiếp lưu vong sao những lắm bể dâu.
Ba chìm bảy nổi, chiếc thân luân lạc,
Ngày nào tóc xanh nay đã bạc đầu.

Đất khách quê người, cuối đời thương khó,
Tuổi già lụm cụm, quên trước quên sau.
Thôi nhỉ đủ chưa buồn vui thế sự,
Mòn mỏi tháng ngày mãi vẫn nhớ nhau!

Phạm Khắc Trí
07/11/2021
Phụ Chú:
Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ
Quán thu phong đứng rũ tà huy
(Trích trong Cung Oán Ngâm Khúc - Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều
***
Ngậm Ngùi

Sông nước xưa về thăm mấy độ
Mái đình làng lấp ló từ xa
Hàng cây hiu hắt dương tà
Con kinh lặng lẽ mấy nhà xưa đâu?

Trong nắng chiều bóng câu hư thực
Chạnh tuổi già ký ức vàng dâu
Lục bình con nước rầu rầu
Ngày đi tóc mượt giờ đây trắng đầu.

Đời lữ thứ cánh âu thương khó
Tuổi già nua nhớ đó quên sau
Thời gian càng lúc càng mau
Hành trang xếp lại nhiệm màu tình thương!

Mailoc
7-12-21
***
Còn Đó Nỗi Buồn

Kìa thế cục như in giấc mộng
Máy huyền vi mở đóng khôn tường (*)
Tranh bá quyền đã lắm tang thương
Và bao kẻ lỡ đường hoạn lộ

Mùi tục lụy lưỡi tê tân khổ (*)
Miếng đỉnh chung đến độ tàn hơi
Mái trường xưa đã thấy xa vời
Nghiệp phấn trắng một thời cảm khái

Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải
Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ (*)
Để giờ đây tóc đã bạc phơ
Ôn chuyện cũ niềm mơ chưa dứt.

Quên Đi

(*) trích Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều
***
Tạ Lòng!

Thơ các bạn, đọc nghe … buồn quá !
Cứ như là ván đã đóng thuyền.
Như thơ xưa, vẳng quốc, quyên …
Âm u lắng đọng, cửu tuyền đón đưa !

Hãy vui lên, xin thưa các bác:
Luật tuần hoàn, tuổi tác là thường.
Mỗi ngày, ta bước khỏi giường,
Nhón chân nhún nhảy, soi gương mỉm cười.

Ta còn đây, mấy người được vậy ?
Giữa cơn dịch, cảm thấy vui vui
Cớ chi, mà cứ ngậm ngùi!
Quẳng lo, ta nếm vị mùi thế gian.

Chuyện "đời loạn", muốn toan, vào cuộc !
Còn không, thì chớ chuốc u sầu.
Tháng ngày, thời khắc vó câu
Hãy vui để hưởng, buồn đau mau già.

Danh Hữu
***
Gởi Gắm Cảm Tình
(Qua thơ "Tạ Lòng" - Danh Hữu )

Thơ gởi gắm cảm tình nhiều quá !
Đọc nghe buồn, sóng đả mạn thuyền (1)
Tình yêu thơ "khóc Đỗ Quyên"...!
Bầu trời bảng lảng huỳnh tuyền đợi đưa...!

Bạn hiền nên vui cơn gió mát
Luật luân hồi, tuổi hạc vô thường
Sớm mai ta dậy xuống giường
Biết mình vẫn sống soi gương tươi cười

Ai ngồi đây, mọi người biết vậy
Dịch đẩy lùi cảm thấy an vui
Kẻ nào lây bệnh bùi ngùi...!
Sá chi đau ốm, nếm mùi thế gian

Đến đây cám cảnh, xem thời cuộc
Bàn dân thiên hạ chuốc bao sầu
Tháng ngày, vó ngựa bóng câu
Cõi trần tận hưởng biết đâu không già...!?

Mai Xuân Thanh
July 13, 2021
(1) sóng vổ mạn thuyền
***
Liên Khúc Sông Xưa


Em Qua Sông Rộng

Em đem chi nắng qua sông
Để cơn mưa rớt giữa dòng trường giang
Tôi bên này lỡ đò ngang
Nhìn mưa thấy nắng của hoàng hôn xưa

Lạnh Mấy Dòng Châu

Thương em xuôi ngược sông dài
Một thân cò giữa thôn đoài thôn đông
Nắng mưa có nhạt má hồng?
Mưa khuya có lạnh mấy dòng châu sa?

Khách Xưa - Bến Cũ

Từ ngưòi bỏ bến sông trăng
Cành khô củi lạc giữa hoang phế đời
Dẫu sông bên lở bên bồi
Bến Châu Giang vẫn đợi người Giang Châu

Trần Bang Thạch
***
Mong Manh

Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng
Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền*
Câu thề sao vội chóng quên
Mong chi hẹn một thì nên đá vàng

Chẳng mấy chốc phai tàn phận liễu
Thủy chung lòng há hiểu thương đời
Sầu đong chất ngất khó vơi
Chỉ thêu nên gấm những lời trăm năm

Người hỡi chốn xa xăm có thấu
Soi gương thời khó giấu dung nhan
Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng
Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa!*

Kim Phượng
* Trích trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều

***
Y Đề

Lời “ Từ Tạ “ của thầy Khắc Trí
Lòng kẻ đây thấy quí thời gian…
Của ngày còn lại sắp tàn
Sống vui sống khỏe không màng lợi danh

Thơ Danh Hữu “Tạ lòng“ chí phải…
“Ta còn đây “ cảm khái niềm vui
Cớ chi mà cứ bùi ngùi
“Hãy vui tận hưởng“ cái mùi thế gian

Đọc”Ngậm ngùi“ thi nhân Mai Lộc
Kỷ niệm xưa, bài học trường đời
Tuổi già cứ để êm trôi
Và vui thanh thản quên thời già nua

Qua“Liên khúc sông xưa“ Bang Thạch
Dẫu đời mình hiu quạnh chiều đông
Tuổi già như thể qua sông
Giữa khi “mưa rớt trên dòng thời gian“

Rồi lại đến “ Mong Manh” Kim Phượng
Thở than tình chẳng vẹn thủy chung
Khóc cho phận liễu vô cùng
“Sầu đong chất ngất” …ngại ngùng dung nhan

Còn ta chỉ thân tàn sót lại
Giữa xứ người đâu ngại với ngần
Trời đà bắt phải phong vân
Thì thôi vui nốt cái phần dành cho

songquang
20210714
***
Thêm Lần Nữa

Nếu được thêm lần nữa
Đừng lần lữa lặng im
Hãy lắng nghe con tim
Thì thầm lời chân thật

Nếu được thêm lần nữa
Hãy chọn lựa hôm nay
Tạo hóa sẳn an bày
Chần chờ chi ngày mai

Nếu được thêm lần nữa
Giữ lấy chớ buông lơi
Đừng tìm kiếm xa vời
Hạnh phúc trong tầm với

Đời đẹp quá đi thôi!

Kim Oanh

Nỗi Nhớ Quê Hương


(Gởi Trảng Bàng, Gò Dầu và Tây Ninh)

Cách đây 7, 8 năm khi viết bài văn “Nỗi Nhớ Quê Hương”, tôi cảm nhận những suy tư, những rung cảm với nỗi buồn quê hương từ tâm thức, vì những vấn nạn hiện nay tại quê nhà từ vấn đề văn hóa, xã hội, y tế lâm vào tình trạng sa sút, tụt hậu, yếu kém xảy ra trên quê hương mà bao xót xa phủ chụp lên đầu người dân vô tội, tôi viết bài này trong bối cảnh quê hương rơi vào hoàn cảnh nghèo khổ. Người dân miền quê nghèo vẫn nghèo sau bao năm người Cộng Sản lãnh đạo xứ sở, dân oan thiệt thòi, tệ nạn xã hội tràn lan, tham nhũng lộng hành, kẻ mạnh bốc lột người dân,… Tôi đọc thơ, thơ của nhà thơ Phạm Hoài Việt trong bài thơ “Vọng Tưởng Quê Hương”, ý tưởng diễn tả nỗi buồn cố hương như những dòng dẫn nhập vào đề của tôi:

Nhìn lại giang san quá tả tơi
Đêm về ngập nỗi nhớ không vơi
Người đi chất ngất mang niềm hận
Kẻ ở âm thầm nén lệ rơi
Thấy xót quê Cha lòng khắc khoải
Trông vời đất Mẹ dạ tơi bời
Trăng khuya chiếc bóng mình cô lẻ
Vọng tưởng cố hương… bỗng nghẹn lời.

Xa quê hương thì ai lại không nhớ, khi quê hương ngụp lặn trong nghèo khó thì lòng ta quặn thắt xót xa. Tôi đọc những bài viết cũ về quê hương, nỗi nhớ quê hương cứ mãi tràn dâng. Dù tình thế chưa thuận tiện cho bao người tại hải ngoại phải từ chối trở về quê hương, không có nghĩa là họ chối từ quê hương, nhưng bởi lẽ họ không chấp nhận nhà cầm quyền độc đoán, bất tài bất xứng hiện nay mà thôi.

Mọi người chúng ta khi sinh ra đời, rồi khi lớn lên chứa chất những hoài niệm về một góc trời quê hương trong trí nhớ nào đó, và quê hương chính là cái nôi sưởi ấm con tim, quê hương ru ta mỗi khi buồn vì lưu vong xa xứ, hay quê hương ru ta về những kỷ niệm xa xưa. Tôi nhìn những đám lục bình trôi trên sông Mississippi ngày nào mà chạnh nhớ về những dòng sông quê nhà như Vàm Cỏ Đông hay Cửu Long giang, nhớ bâng quơ rồi tim tôi bồi hồi xao xuyến. Rồi khi viếng cao nguyên Napa có những con đường rợp bóng mát do những cây sồi (oak) mà tàn cây to chụm vào nhau, đi giữa mùa hè mà không thấy ánh nắng dẫn vào thành phố Oakvillle của miệt Bắc Cali, như dạo nào tôi đi xuyên qua những con đường làng lối trúc ngõ tre ở Trảng Bàng, tôi còn nhớ hai hàng tre dọc hai bên đường che phủ rợp trời, che kín ánh nắng cho bóng mát tuyệt đối để hồn thơ trong tôi dâng trào:

“Tôi đi giữa lòng quê hương
Nắng Cali như bóng mát Trảng Bàng”

 
Cầu Quan Tây Ninh

Đó là quê hương mang theo, như những hành trang theo tôi, có lẽ đến hết cuộc đời này, ôi quê hương nuôi ta từng ngày, ta mơ quê hương như yêu người tình.

“Tây Ninh nắng cháy da ngừơi,
Phố đông thân thiết hỡi ngừơi Tây Ninh?

Trong một bài khác nhớ về Tây Ninh, “Xuôi Sông Vàm Cỏ”, tôi dâng nỗi nhớ nhung, rồi đắm chìm về kỷ niệm lưu luyến về sông nước quê nhà xa xăm:

“Tôi ra đời tại quận Gò Dầu Hạ, nằm trong lãnh thổ Tây Ninh, hướng Tây Bắc của Sài Gòn khoảng 77 cây số. Từ Gò Dầu đi thêm 22 cây số nữa mới tới Tây Ninh. Tây Ninh là quê nội của tôi và Vũng Tàu là quê ngoại tôi. Do đó ba tôi đặt cho anh em tôi luật công bằng là mỗi mùa hè đến, khi bãi trường anh em tôi chia ra làm hai tốp, nếu tốp một về Tây Ninh, thì tốp kia về ra Vũng Tàu. Với ký ức còn sót lại trong tâm trí tôi thì nếu Vũng Tàu cho tôi những kỷ niệm vui đùa với sóng biển tại Bãi Sau (bãi Thùy Vân) hay Bãi Trước (bãi Thùy Dương) thì Tây Ninh cho tôi cái kỷ niệm chạy tung tăng tắm mưa rào ngoài đồng ruộng, và Tây Ninh còn cho tôi những kỷ niệm chèo ghe cũng như tắm sông Vàm Cỏ Đông. Bài viết này sẽ cô đọng nhiều về vùng đất Gò Dầu Hạ và con sông đầy thơ mộng Vàm Cỏ Đông. Về mặt địa lý thì sông Vàm Cỏ Đông chảy từ biên giới Cao Miên tại xã Hòa Hội, Tân Biên rồi qua các địa danh Châu Thành, Bến Cầu, Hòa Thành, Gò Dầu, Trảng Bàng, sông dài hơn 150 km. Tại Tây Ninh, Vàm Cỏ Đông chảy từ phía tây bắc hướng Bến Cầu có cảng Bến Kéo qua Gò Dầu Hạ, rồi xuôi hướng đông nam chảy qua thị trấn Bến Lức của tỉnh Long An. Sông Vàm Cỏ Đông và Sông Vàm Cỏ Tây hợp lưu vào cửa Soài Rạp đổ ra biển. Vì có nhiều nhánh sông nhỏ của Vàm Cỏ Đông nên nó rất thuận tiện cho việc lưu thông bằng đường thủy để vận chuyển hàng hóa từ các nơi về Tây Ninh hay ngược lại từ Tây Ninh đến những nơi khác, điển hình là tại cảng Bến Kéo rất tấp nập. Tôi thích đoạn sông Vàm Cỏ Đông từ hướng Tây Ninh băng ngang từ thị xã Long Thành ra Giang Tân tới Bến Kéo, rồi đến xã Cẩm Giang, xuôi Trà Võ hướng về quận Gò Dầu là khúc sông thật thơ mộng khi ta bồng bềnh trên sóng nước thiên nhiên. Năm 1973 tôi theo ba tôi đi tàu cua hải quân lướt trên sóng nước tình quê; Ôi Vàm Cỏ Đông quá đẹp trong ký ức với những đám lục bình xanh hoa tím trôi lững lờ.”

Tôi xem bài viết của nhà văn đồng hương Nguyễn Bá Hoa viết về Gò Dầu Hạ, nơi tôi đã chào đời:

“Người khách tha hương, thông thả bước trên con đuờng đã hai mươi năm quen biết , nhưng đôi lúc cảm thấy hơi xa lạ nhớ tiếc một cái gì không mất hẳn, nhưng quá xa. “Tôi muốn tìm lại trong giấc mơ những gì tôi đã mất trong những ngày trẻ tuổi ”(Nhạc sĩ Văn Cao). Người lữ khách không nặng lắm về hiện tại nhưng tha thiết với quá khứ hơn, phải chăng đó là một trong những biểu hiện của tuổi “bóng xế nhành dâu” !? Trong đời người, có những kỷ niệm nói lên tình cảm mộc mạc chân thành mà khi nhắc đến như có điệu nhạc êm đềm đã xúc tích một mối hoài cảm mênh mông đủ hiệu lực gọi thức dậy những thớ tim làm rung động tâm hồn chúng ta. 
Thương nhớ quê hương, nhớ Việt Nam, nhớ cánh đồng lúa xanh mơn mởn bên kia bờ sông Vàm Cỏ Đông, nhớ ngôi trường Gò Dầu Hạ với hàng me keo, nhớ con đường về Gia Bình ngang qua Trâm Vàng, con đường vào xóm Rạch Sơn, lên Gò Chùa lễ Phật ở Cao Sơn Tự,… Quê tôi mưa nắng hai mùa, những cơn mưa suốt ngày không dứt, có những cô bé đôi mắt tròn xoe thả chiếc thuyền giấy trên dòng nước mưa chảy ngang sân, đắc ý nhìn theo dòng nước khi thuyền đã đi xa, vẫy tay chào như muốn nói lời tam biệt. Tuổi trẻ vô tư như đàn chim trên cành cây mùa xuân đầy hoa quả, chẳng may gặp thời buổi bành trướng của kẻ mạnh cuồng tính, như chú thợ săn với “lý trưởng bá quyền” dùng cây súng bắn lên đàn chim non, chim lạc đàn. Từ đó, đàn trẻ nhỏ không thể về nơi hiên nhà tuổi thơ, ai đã đem giông tố bao trùm thế hệ ?! 
Còn đâu những đôi mắt ngây thơ nhìn mưa cười khúc khích, những đôi tay khéo léo xếp thuyền giấy, tưởng lớn lên được góp sức xây dựng quê hương. Nào ngờ con thuyền giấy ngày xưa của cô bé nhiều ước mơ đã thành chiếc thuyền sắt phải ra khơi tìm đến bến bờ tự do, dòng nước mưa ngày xưa đã dạy cho tuổi trẻ lớn lên có cuộc sống ý nghĩa “tánh như thủy” linh hoạt, dễ thích ứng, đoàn kết và kiên nhẫn “nuớc chảy đá mòn”. Nhìn dòng sông Saint-Laurent rộng mênh mong chảy ngang qua thành phố Mộng-Thế-An (Montréal) rồi đổ ra vịnh Saint-Laurent (Ðại Tây Dương) mà nhớ đến sông Vàm Cỏ Ðông bé nhỏ, nước xanh biết phát ngưồn từ vùng đồi cao 150m ở Ðông Nam Campuchia, chảy qua Tân Biên, Châu Thành, Hoà Thành, Bến Cầu, ngang qua chợ Gò Dầu Hạ, Trảng Bàng theo hướng tây bắc, đông nam đến ngã ba Bần Quỳ (Long An) hợp với sông Vàm Cỏ Tây chảy vào cửa Soài Rạp rồi đổ ra biển Ðông. Sông Vàm Cỏ Ðông chịu ảnh hưởng triều cường của biển Ðông mà người địa phương gọi là nước ròng (triều kém), nước lớn (triều cường). Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi… Ngược dòng lịch sử, vào giữa thế kỷ XVII, một số đồng bào từ miền Trung đi vào miền Nam lập nghiệp, họ dừng chân ở một vùng đất cao (Gò) có nhiều cây dầu cạnh bờ sông Vàm Cỏ Động. Dầu có nhiều loại: dầu con rái, dầu song nàng, dầu lông,… Nhựa dầu dùng trét ghe xuồng, ngày xưa còn dùng để thắp đèn. Gỗ dầu cứng nhưng không láng, không bóng khi đánh vec-ni.

Đình Thanh Phước tọa lạc trên một gò đất lớn cách chợ Gò Dầu Hạ độ hơn 500 mét, còn nhiều cây dầu có tuổi thọ hàng trăm năm, thân cây có thể cao từ 30 đến 40 mét, đường kính gốc cây gần 2 mét, địa danh Gò Dầu xuất phát từ đó, sở dĩ gọi là Gò Dầu Hạ để phân biệt với một địa danh khác là Gò Dầu Thượng (thuộc xã An Thạnh).” 

Sông Vàm Cỏ Đông, Gò Dầu

Với tôi, Gò Dầu là quê hương nhỏ, Tây Ninh là quê hương lớn, lớn hơn nữa là xứ sở Việt Nam. Quê hương có thể được xem như nơi ta mở mắt chào đời, nơi nuôi ta khôn lớn, quê hương tiềm ẩn trong ký ức, rất khó quên, lòng yêu mến quê hương mà quyển sách xưa của văn hào người Ý, Edmondo de Amicis, tác giả của danh tác “Tâm Hồn Cao Thượng” (Les Grands Coeurs, Cuore [Heart] 1886), kể về lòng yêu nước của cậu bé Thành Padova yêu thương quê hương, một dấu ấn cho nhiều chúng ta của một thuở đã qua. Một chế độ chính trị, một thể chế cầm quyền có thể vi phạm sai lầm bởi yếu tố nhân tai, nhưng quê hương bởi bản sắc không bao giờ sai trái cả. Hãy ca tụng nơi bạn sinh ra, dù quê làng thôn xóm có nghèo khổ, nhưng đó là quê hương bởi định nghĩa, bởi tình yêu cho quê hương, quê hương là nôi sưởi ấm trong góc nhớ trong tâm hồn của mỗi chúng ta.

“Gò Dầu quê tôi ra đời,
Xa quê nhỏ xíu nhưng rồi không quên!”

Tôi đọc “Những Kỷ niệm” của tác giả Nguyễn Bá Hoa trong nỗi cảm thông vì vùng đất chung của chúng tôi, cảm nhận sự xót xa của những người dân quê nghèo như các phụ nữ trẻ bị bán ra xứ người làm con sen ở đợ hay “ô-sin”, một tên gọi theo một loạt phim bộ Oshin của Nhật, sau này xứ Việt lại sinh ra chữ nghĩa ám chỉ “người giúp việc trong gia đình”.

“Trong nhà gì khổ bằng sen
Ô-sin tủi nhục oan khiên quê người”

Đọc tiếp bài của Nguyễn Bá Hoa: “Trường làng tôi không giây phút tôi quên, vui sống bao kỷ niệm ngày xanh.”

Ngày đó, Quốc Lộ 1 (nay là Quốc Lộ 22A) từ Sài Gòn đến quận lỵ Gó Dầu Hạ chia làm 2 ngã (gọi là Ngã Ba): một đi thẳng qua cầu Gò Dầu hướng đến biên giới Việt Nam – Campuchia, còn ngã kia, nay gọi là quốc lộ 22B đi lên hướng Bắc đến Tỉnh lỵ Tây Ninh, trên quốc lộ 22B về hướng Bắc, cách ngã ba chừng một trăm mét bên trái có con đường tráng nhựa chạy thẳng đến cầu tàu sông Vàm Cỏ Đông (ngày trước trên bờ sông có bến tàu để thỉnh thoảng vài chiếc tàu nhỏ của quân đội Pháp và những chiếc chaloupe ghé bến tạm) ngang qua nhà Hội của xã Thanh Phước, và nhà lồng chợ Gò Dầu. Trường Tiều học Gò Dầu Hạ, nằm bên trái con đường nầy, có hàng rào bông bụp lá xanh, có hàng me keo bên hông dãy nhà gạch kiên cố gồm có văn phòng Hiệu trưởng và những phòng học. Cây me keo cao từ 6 đến 10 mét , lá nhỏ và cứng, thân và cành cây đều có gai, hoa me keo màu trắng ngà rất hấp dẫn đối với loài ong mật. Trái me keo chín màu đỏ nhạt, nó nhỏ hơn trái me, trái có nhiều mắt, mỗi mắt là một hột. Cơm trái me keo màu trắng, không có gì hấp dẫn nhưng học sinh vẫn hái chơi. Nhà trường trồng me keo để làm hàng rao vì cây có gai. Đối diện dãy nhà chính nầy là những phòng học mới phát triển cạnh nhà thầy Nhâm, giữa hai dãy phòng học có sân rộng, có cột cờ. Ngoài hành lang dãy nhà mới nầy, nói là mới nhưng không đẹp và kiên cố như dãy nhà cũ, người ta không thể quên cái trống chầu, sơn đỏ treo ở đó, dùng đánh báo giờ, đó là tiếng thời gian đối với tuổi học trò. Nói đến đây, tôi hình dung cảnh thư thả thuở “ăn chưa no, lo chưa tới” còn đi học trường làng

Xuân đi học coi người hớn hở,
Gặp cậu Thu đi ở giữa đàng
Hỏi rằng sao đã vội vàng
Trống chưa nghe đánh đến tràn làm chi.

Ngày đó, còn mười lăm phút trước khi vào giờ học, nhà trường cho đánh một hồi trống và thêm ba dùi, gọi là “trống tựu” để nhắc nhở học sinh phải nhanh đến trương. Nhà tôi ở xã Gia Bình, nhờ có bà con ở Gò Dầu nên đến ở trọ nhà ông Tám Thường, người ta quen gọi là ông “Cả Thường” (người đứng đầu trong xã Thanh Phước). Nhà ở cạnh trường học, chờ nghe ‘trống tựu” mới ôm cặp đến trường cũng còn kịp. Nhưng chỉ được một tháng, sau đó vì số học sinh lớp Đồng Ấu (Cours Enfantin) mới nhập học quá đông, thiếu phòng học nên các lớp Cours Moyen(lớp Nhì) và Cours Supérieur (lớp Nhứt) phải “di tản” đến học tại rạp hát trên quốc lộ 22B , gần nhà ông quận Trần văn Giám. Rạp hát cũ được chỉnh trang lại theo nhu cầu tạm của lớp học, cours Moyen học với thầy Tuấn ở phần trước kia dành cho khán giả, còn cours Supérieur học với thầy Tô Thảo “chiếm” phần trên sân khấu, ngăn cách hai lớp bằng tấm vách bồ bằng tre.

Thời “học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau”, chúng tôi cũng được nghe hát “Nào anh em đàn trẻ nước Nam Việt Nam, Chúng ta mau kết đoàn tiến lên đường sáng… (Bài hát của thiếu sinh – LHP-1942). Ngày tôi từ giả trường Gò Dầu Hạ về trường Trảng Bàng được thầy Hiệu Trưởng (thời đó là: Le Directeur de l’école) Trần Văn Hổ chứng cho Certificat de scolarité… Travail : Très bon. Conduite : Excellente

Đến ngày nay tôi còn cất giữ như một kỷ vật quy báu. Đó là một trong những kỷ niệm thân mến của Gò Dầu Hạ mà tôi cố giữ gìn để nhớ lại “thời đuổi nắng sân trường nay đã mất”. Những vật vô tri, phải chăng mi có một tâm hồn, gắn bó với tâm hồn ta và thêm tình lưu luyến, như Alphonse de Lamartine đã nói: Objets inanimés, avez-vous donc une âme qui s’attache à notre âme et la force d’ aimer (Milly ou la terre natale).

Để kết thúc bài nầy, ngày nay dầu ở cách xa mấy vạn dặm, tôi luôn mong ước được có ngày nhìn quê hương ấm no “Bao giờ cho lúa được mùa luôn, lúa ơi, để cô con gái không buồn vì gió đông”… Mong rằng giai cấp thống trị, người tự xưng là đầy tớ của dân, hay là “dân chi phụ mẫu” chi chi đó phải lắng nghe tiếng nói chơn chất của dân nhứt là dân oan, đừng tham ô cướp ruộng đất của dân để người nông dân có phương tiện xây dựng ấm no cho đời và cho xã hội.

Đọc những tin xuất cảng lao động, người con gái Việt Nam ở khu đèn đỏ Singapore, lòng thấy cảm thương cho số phận… sao ngậm ngùi ! Bao nhiêu năm “giải phóng” một số người phụ nữ phần đông ở thôn quê, ít học, không có việc làm “được xuất cảng” phải chịu kiếp đọa đày trôi nổi lang thang như những bọt bèo nơi xứ ngưỡi, giữa đêm khuya vắng tiếng hát em trong lệ nhòa, cô đơn trong bóng tối trên đất lạ Nam Hàn, Đài Loan, Thái Lan, Mã Lai, Tân Gia Ba…

“Ôi!

Đất nước nghèo không giữ nổi chân em,
Nên xứ người em làm thân gái khách.
Em đứng đó, một mình ôm mặt khóc…
Lòng tôi bổng thương cho số phận,
Những cô gái yêu kiều nét quê hương
Nổi xót xa nào hơn, bán thân xứ người !
Chịu nhiều cay đắng, người con gái Việt Nam!
Tội nghiệp em, thiếu thời hoa niên mơ mộng,
Tuổi xuân tươi chưa đến, thu đã về!
Xót thương thân gái xứ người,
Xác thân vùi dập, cuộc đời đắng cay,
Vận nước đã qua thời chinh chiến,
Tại sao quê mình còn mãi tối đen?!”

Ngày nào còn nghe tiếng kêu than của dân nghèo, dân oan thì giai cấp “dân chi phụ mẫu” (cha mẹ của dân) nên đánh thức luơng tâm trách nhiệm cứu dân, giúp nước, đừng làm kẻ phản bội, bất nhơn, bất nghĩa để đến ngày tàn “thác đà mất kiếp, tiếng còn ô danh”.”
“Tàn cây bóng mát Trảng Bàng
Hàng tre ngõ trúc quê làng sao quên?” 
 
Trảng Bàng bóng mát quê hương

Những hàng tre già của Trảng Bàng đan đầu chụm vào nhau cho người dân địa phương hay những khách lữ thứ cảm nhận cái không gian yên bình rợp bóng mát. Kỷ niệm Tây Ninh mang tôi vào kỷ niệm khi tôi ghé ngang thành phố Oakville rồi sang vùng biển Carmel trên Bắc Cali với Ngọc Linh, người bạn cũ của thuở trung hoc xa xưa vui mừng khi gặp lại nhau. Đứng trên mỏm đá nhô ra biển cả xa xăm, gió biển Monterey mát rượi tâm hồn, tôi ngước lên bầu trời cao có đám hải âu gọi đàn, dưới chân là những con sóng trắng xóa vỗ vào ghềng đá rì rào, khung cảnh biển California mang tôi về ghềng đá Bãi Dâu của Vũng Tàu. Ngày của thuở nhỏ tôi ao ước được xuất dương sang du học ở trời Tây, và ngày nay tôi nhìn về bên kia biển Thái Bình có quê hương tôi, tôi mơ một ngày trở lại quê hương bừng sống trong sinh khí tự do nhân bản, không bị trù dập, không bắt bớ vô lý, khi người dân tôi quá tội nghiệp, còn khao khát quyền làm người. Nhớ về quê hương với những nỗi vui mang theo, cũng như những nỗi buồn của hiện tại của cuộc sống khó khăn. Đời sống bao trùm những vô lý, những mâu thuẩn xã hội tràn lan khắp trên quê hương tôi.

Tôi đọc bài thơ Quê Hương Nỗi Nhớ của thi sĩ Hà Ly Mạc mà chạnh lòng vì nỗi thổn thức nhớ nhung quê hương ngậm ngùi của ông:

“Ðêm qua trong mộng tôi cười,
Sáng nay thức dậy lại ngồi rưng rưng.
Lạ lùng chưa, lệ ứa dòng,
Giọt thương tôi nuốt, giọt hồng tuôn ra.
Ðất người xót nỗi quê cha,
O hay ! Trời cũng nhạt nhòa như tôi.
Lâm râm từng hạt mưa rơi,
Hàng cây đứng lặng trên đồi ngẩn ngơ.
Niềm thương nỗi nhớ đong đưa,
Tình quê hương đó, bao giờ mới nguôi.
Việt Nam ơi ! Núi, sông, trời,
Lũy tre, đồng ruộng, đâu rồi nước non ?
Phải chi thấy lại mảnh vườn,
Dang tay ôm lấy cộì nguồn mà hôn.
Mấy mươi năm, một nỗi buồn, Lê thân viễn xứ, héo mòn ruột gan.
Tình thâm đôi ngả quan san,
Ngoài vời vợi nhớ, trong vàng vọt trông.

Xa núm ruột, quặn thắt lòng,
Mồ cha, mả mẹ, lạc vòng tay ôm.
Trời chiều rủ bóng hoàng hôn,
Quê hương nỗi nhớ, giọt buồn mang mang…”
(Trong tập Quê Hương Nỗi Nhớ 2002)

Quê hương là tiếng nói thương yêu, cho tâm hồn ta gần gũi như những lời tình tự từ da thịt, như hơi thở từ nuối tiếc chia ly. Tôi có người bạn gốc Nha Trang, trên bàn thờ nhà anh có tảng đá mang từ quê nhà sang, anh khắc chữ Việt Nam, anh lý luận rằng niềm tin khi chúng thờ phượng ai là do sự thiêng liêng. Nếu quê hương Việt Nam thiêng liêng thì tại sao chúng ta không tôn thờ. Tương tự khi quốc gia Do Thái được các xứ Tây phương cho thành lập lại tại Trung Đông. Người Do Thái từ khắp nơi lủ lượt đổ về gây dựng lại quê hương mới. Có những người về đến quê hương mà họ đã khóc ròng, có người cúi xuống hôn lên mặt đất như lời chào mừng và tạ ơn quê hương. Trong bài viết “Nước Non Ngàn dặm… trở về ?” của tác giả Thâm Vấn, bà đã viết như sau: “

Với những người xa tổ quốc mà phải đợi tới những lời kêu gọi thống thiết từ đồng bào của mình ở quê nhà mới sực nhớ rằng mình vẫn còn có một quê nhà để trở về, thì quả thật, sự về ấy, chỉ là trở lại. Một cuộc trở về kiểu của ông Hạ Trí Chương bên Tàu, tác giả mấy câu thơ nổi tiếng và đã được nhiều người (Việt) nhắc đến để so sánh sự ra đi và trở về của người Việt tha hương.

Bài thơ tên là Hồi Hương Ngẫu Thứ (Ngẫu Nhiên Khi Về Quê), được Hải Đà dịch như sau:

”Quê nhà xa cách tháng năm, Bạn bè thưa thớt biệt tăm phương trời Mặt hồ gương trước ngõ soi Gió xuân chắc chẳng đổi đời sóng xưa”(Hải Đà)

Núi Bà Đen

Ông Hạ Tri Chương giã từ nhà ra đi tìm công danh sự nghiệp từ khi còn rất trẻ. Sau gần 50 năm trải qua bao thăng trầm trong bước công danh hoạn lộ của mình, ông trở về thăm lại quê xưa, tìm kiếm bạn bè cũ, nhưng chẳng còn mấy người sống sót, duy chỉ có mặt hồ trong như gương trước ngõ vẫn còn nguyên vẹn những dợn sóng ngày xưa. Sự ra đi của ông Hạ Tri Chương là một cuộc ra đi lập thân. 50 năm xa quê của ông là 50 năm ông lao vào cuộc giành giựt những hư ảo đời người. Ông chỉ trở về lại quê hương sau khi đã chán chê mọi thăng trầm cuộc đời vốn nhẹ tênh như lá mùa thu.

Đem sự trở lại của ông Hạ Tri Chương mà so sánh với sự trở về của anh bạn tôi đang đứng giữa đường phố quê hương một ngày cuối năm thì cũng tội nghiệp cho anh quá. Hơn hai mươi năm nay từ ngày anh bỏ tất cả bước chân xuống chiếc thuyền mong manh lênh đênh giữa biển cả ra đi tìm tự do, và trên hết, mang một hoài bão làm chút gì để đổi thay vận mệnh của đất nước, cũng là hơn hai mươi năm anh canh cánh bên lòng những trăn trở cho mảnh đất nghèo quê nhà anh để lại sau lưng. “Không về được, chưa về được, đâu phải chỉ là những khó khăn của đời thường, đâu phải chỉ là những mải mê với cuộc sống dễ chịu xứ người.”

Tôi muốn gửi bài viết này đến những người dân hiền hòa bị bất công xã hội vùi dập chà đạp, những nạn nhân của chế độ vì nhân tai bị kẻ cầm quyền lợi dụng hiếp đáp, bị chế độ bỏ quên vì bất tài, vì tham lam, và tôi gửi lòng nhung nhớ về cho quê hương Việt Nam, nơi đó có dân tộc tôi và ước mong sao quê hương không còn chế độ Cộng Sản hiện diện nữa. Lời kết luận tôi xin mượn bài viết của nhà văn Thấm Vân có thơ của Hạ Tri Chương và lời dịch chuyển ý Việt ngữ thi sĩ Hải Đà Vương Ngọc Long. Vì “Không về được, chưa về được, đâu phải chỉ là những khó khăn của đời thường, đâu phải chỉ là những mải mê với cuộc sống dễ chịu xứ người.”. Quê Hương trong nỗi nhớ chỉ là Nỗi nhớ của quê hương mang theo trong tâm tưởng. Cái trân quý suốt đời: Quê hương trong tâm tưởng và trong lòng tôi.

Quê hương ơi sẽ có một ngày, quê hương tự do, không còn bóng mây độc tài. Quê hương ơi, ta sẽ về hát bài ca ngợi quê hương!…

Việt Hải Los Angeles 
(Mùa Xuân 2015)

Thứ Sáu, 16 tháng 7, 2021

Dù Nắng Hay Mưa - Nguyễn Tuấn - Mạnh Tuấn


Nhạc: Nguyễn Tuấn 
Tiếng Hát: Mạnh Tuấn

Bước Chân Buồn



Bước qua thời áo trắng
Niềm mơ ước bay xa
Đời buồn như chiếc lá
Hồn vương tím cánh hoa

Bước lên thuyền viễn xứ
Bỏ lại kỷ niệm thương
Xuôi dòng đời trôi nổi
Mang theo tình hoài hương

Bước vào bóng hoàng hôn
Thơ thẩn trên lối buồn
Ngược về miền yêu dấu
Tìm lại thoáng dư hương!...

Bước qua thời con gái
Cất lại mộng xuân nguyên
Khép chuyện tình hoa nắng
Vui buồn với phận duyên

Yên Dạ Thảo

Một Ít Hương Nồng Pha Đắng Cay



Một bước em đi lòng vỡ vụn
Nhưng làm sao giữ được hồn nhau
Hồn em là nắng là hoa bướm
Thắm nét hương xuân tỏa ngạt ngào...

Mỗi bước em đi buồn ở lại
Buồn nầy ví chẻ được làm đôi
Nhưng ai chia sẻ mà mong chẻ
Chỉ một mình anh gánh hết thôi...

Em rước nắng về tô má thắm
Má hồng thêm nữa mặn mà duyên
Còn thơ anh ước chan màu nắng
Để sưởi đời ai khỏi muộn phiền...

Trái đất vẫn tròn như vạn thuở
Tình đời vẫn đổi vẫn cuồn quay
Và ta vẫn phải tìm trong nắng
Một ít hương nồng pha đắng cay...

Nhược Thu


Hương Xưa-Bến Chiều - Hương Xưa-Nắng Chiều

Bài Xướng:

Hương Xưa-Bến Chiều

Bỗng dưng đếm bước trong chiều
Vó câu chợt thoáng nghe hiu hắt lòng.
Ngàn mây từ cõi phiêu bồng
Bờ nhân ảnh, có phương hồng cỏ hoa.!
Đường chiều giăng mắt mù sa
Gót phong trần giữa bóng tà huy bay.
Thực-hư một giấc mơ gầy
Nhục-vinh mấy cuộc buông tay kiếp người.
Rồi nước chảy, rồi mây trôi,
Cuộc cờ thế sự buồn vui vẫn là...!
Rồi nắng sớm, rồi chiều sa,
Nghĩ cho thân phận người ta sớm chiều.
Thế mà lòng ước mơ nhiều
Những khi mộng tưởng trăm điều lo toan.
Thế mà những giấc mộng con
Đêm dầy đè nặng lên hồn hoang vu.
Hay đâu trong cõi mịt mù,
Còn lơ mơ cuộc phù du não nùng.
Cánh chim bạt gió muôn trùng,
Ta về gom cả một dòng thời gian.
Bóng lau xa, gió trên ngàn,
Gió phơ phất gió, hoa vàng đong đưa.
Ngược xuôi dù đã bao mùa,
Con thuyền về lại hương xưa bến chiều.

South Dakota tháng 7.2021.
Mặc Phương Tử
***
Bài Họa:

Hương Xưa-Nắng Chiều

Lặng nghe tiếng cuốc gọi chiều
Lòng sầu trăm mối quạnh hiu cõi lòng
Quê người kiếp sống bềnh bồng
Lang thang lưu lạc phai hồng sắc hoa
Trời đông lạnh buốt sương sa
Đêm vương víu bóng trăng tà vụt bay
Giấc mơ hoa mộng hao gầy
Chỉ là tơ tưởng trong tay cùng người
Thời gian nước chảy dòng trôi
Cánh hoa thời loạn nét vui chỉ là…
Nụ cười che dấu lệ sa
Ai hay ai biết tình ta một chiều
Bên người hạnh phúc thật nhiều
Riêng đây phận bạc lắm điều vỡ toan
Cầu mong mộng ước cỏn con
Gió mây tri kỷ tâm hồn vi vu
Quyện nhau khắp nẽo trời mù
Đồng hành dẫu phải phiêu du não nùng
Vượt qua trở ngại trùng trùng
Lướt bao đồi núi chuyển dòng nhân gian
Tình yêu trắc trở dặm ngàn
Cõi riêng hạnh phúc tuổi vàng hương đưa
Muộn màng mấy độ đúng mùa
Sắt son điểm nét xuân xưa nắng chiều 

Kim Oanh
Melbourne 7.2021
***
Bờ Hoang Vu Nhớ

Trời loang nắng lựng lưng chiều
Hoàng hôn thoảng bóng sầu hiu hút lòng
Mây hoài lãng đãng bềnh bồng
Thân hoài lữ khách phai hồng tuổi hoa
Ngày tàn lặng ngắm sương sa
Buồn vui vương ánh dương tà vội bay
Đường mơ khuất bóng trăng gầy
Bờ vai vuột khỏi bàn tay hương người
Ngàn dâu nước chảy huê trôi
Mang theo nỗi nhớ niềm vui ấy là
Đường dài rát bước sầu sa
Nghe đau thân phận riêng ta những chiều
Lời xưa còn vọng mây chiều
Bâng khuâng tưởng mộng muôn điều tân toan
Người về trong giấc mơ con
Hoài âm ỉ suốt giữa hồn hoang vu
Tuổi xanh bụi cuốn xa mù
Muôn cung điệu nhớ viễn du não nường
Xuôi theo hư ảnh ngàn trùng
Đôi chân rã mộng cạn dòng trần gian
Chiều loang khói tỏa dâu ngàn
Bên bờ song vỗ thu vàng quạnh đưa
Buồn ru kỷ niêm hương mùa
Bờ hoang vu nhớ người xưa bến chiều.

Hương Thềm Mây 
19.7.2021
***
Chiều

Lạnh lung cảnh bến thu chiều
Gió heo may nhẹ hắt hiu riêng lòng
Tím mây dàn trải bềnh bồng
Còn em,các bạn mộng hồng tuổi hoa
Non xanh chẳng ngại mưa sa
Sau giờ tan học với tà áo bay
Dọc theo trăm cội me gầy
Guốc khua rộn guốc đều tay cùng người
Như con thuyền nhẹ êm trôi
Không vương sân hận oi vui chi là!
Rồi nay gió lộng mưa sa
Rồi nay bến vắng bỏ ta cuối chiều
Đau,nhưng nỗi nhớ thôi nhiều
Vỡ tan tất cả những điều tính toan…
Vòng tay thu lại cỏn con
Vòng tay khép kín mảnh hồn hoang vu
Sông xưa nước bốc hơi mù
Bèo trôi lờ lững phiêu du não nùng
Tỉ tê nhức tiếng con trùng
Ai ca vọng khúc chôn dòng dối gian
Quay lưng bỏ lại non ngàn
Quay lưng đếm bước lá vàng rơi đưa…
Cuối đông gọi nắng giao mùa
Cho Xuân trở lại Hương Xưa-Bến Chiều

Thái Huy 
20/7/21

Chương Trình Văn Học Nghệ Thuật 25 tháng 7 năm 2021- Paris

Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris

CHƯƠNG TRÌNH VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

Địa chỉ: Association Médecins du VietNam
-Tìm số 20 avenue d'Ivry Paris 13è→Tour Squaw Valley, Hall 8 (ở phía trên Paris Store),
-Trước Hall 8 →Bấm Interphone ">" tìm tên "Ass.Médecins du V.N." rồi bấm Appel ("A") để gọi người ở trong mở cửa
-Lấy "ascenseur" rồi bấm " E1 " (entre-sol 1) (Appt 308)
MC: BS Thẩm Thái Hà
Photo: Trần Đình Quốc
Âm Thanh Lê Minh Triết

Bài tường thuật cho các tạp chí Văn học: Nguồn, Cỏ Thơm và các Diễn Đàn Văn Học.

14h30 Mở đầu: Nghi Lễ Quốc Ca Quốc Kỳ.
Phút Mặc Niệm. ( KS Lê Minh Triết)
*
Lời Ngỏ BTC: TS Nguyễn Thị Phượng Anh. Nhà Thơ Đỗ Bình Chủ Tịch CLBVHVN PARIS.
Thẩm Thái Hà giới Thiệu Tác giả
Nữ nhạc sĩ Cát Tưởng nói về tác Phẩm.
Nhạc sĩ Cát Tưởng trình bày sáng tác mới, ca khúc:
Khói Sương Hạnh Phúc.
(tự đệm guitar).
KS, Nhà văn Lucien Trọng và DS,Nhạc sĩ Đặng Mộng Lan
Sẽ trình bày: Dân Ca Ba Miền
*
Lucien Trọng là tác giả cuốn Enfer Rouge mon Amou, Hồi ký trại Cải-tạo.
Vẽ Bộ Sách Tranh.
Học và chơi đàn tranh…
DS Đặng Mộng Lan, là học trò của cố Nhạc sĩ Xuân Vinh và theo học đàn tranh của GS Nguyễn Thanh Vân.
Độc Tấu một bài Cổ Điển của Francisco Táréga: Đỗ Bình
ĐâyThôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử Nguyễn Đức Tăng trình bày.
Phần Thuyết trình Hội Luận:
BS Nguyễn Tối Thiện trình bày

Đề Tài:

XÂY DỰNG MỘTCĂN BẢN HIỂU BIẾT VÀ SUY LUẬN NHỜ MINH TRIẾT ĐÔNG TÂY

Điều Hợp TS Võ Hùng Anh, BS Nguyễn Bá Linh.

Giải Lao 10 phút
Tiếp tục phần Hội Luận.
18h30 Chấm
*
Đôi Dòng về Nữ Nhạc sĩ Cát Tưởng:

Cát Tưởng khi mới vào tuổi đôi mươi là lúc quê hương chịu một biến cố đau buồn nên đã bị cuốn theo cơn lốc của đất nước. Có lẽ những hình ảnh của quê hương luôn ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn người thiếu nữ tha hương đã tạo sự rung động mãnh liệt. Từ đó trái tim nghệ sĩ của Cát Tưởng đã hòa nhập những vui buồn với tha nhân, với cuộc đời và đất nước để viết lên những vần thơ những ca khúc. Trong nghệ thuật Cát Tưởng đã tìm cho mình một lối để đi mà ca từ giai điệu và những ngôn ngữ thơ đã hòa quyện tạo thành một cõi riêng cõi của Cát Tưởng không trùng vào muôn ngàn lời ca, ý nhạc khác, của thế giới bao la nghệ thuật. Cát Tưởng là người nhạc sĩ khởi đầu viết về nhạc trữ tình trong đó chất chứa khung trời hình ảnh quê hương nên ca từ có chút triết lý nhân sinh. Sau nhiều năm sáng tác tâm hồn nhạc sĩ như những trái chín chứa nhiều vị ngọt hướng về Thiền và cách sống Thiền. Nhưng theo tôn giáo tu là giải thoát, lánh đời, mà tư tưởng Thiền có tính cách phá chấp, rất tự do thiên về cái đẹp của nghệ thuật. Người có tư tưởng thiền rất tự do phóng khoáng đi gần với cái Chân Thiện Mỹ. Cát Tưởng có tư tưởng và cách sống có màu sắc thiền.

Qua bao nhiêu mùa trôi đi, sự biến đổi của thiên nhiên, cuộc đời, tình nhân thế, thế mà dòng nhạc của Cát Tưởng hôm nay giai điệu vẫn mượt mà, Cát Tưởng vẫn đam mê, mơ mộng nên chất thơ nhạc vẫn bồng bềnh còn lãng mạn truyền cảm. Những ca khúc : Khép Cơn Mê Địa Đàng, Tim Nuông Nụ Hồng và Người Ơi Tình Ơi....

Nhạc sĩ Cát Tưởng tự hòa âm& phối khí, một ngành rất khó của âm nhạc. Tác giả chơi đàn và trình bày. Tiếng hát đượm chất buồn xa vắng hòa trong nhạc cảnh đã giúp cho giai điệu nhạc phẩm thêm chất thơ.

Đỗ Bình
 

Những Mẫu Chuyện Khó Tin Nhưng Có Thật: Trái Chanh Chín

 

(Ảnh: Kim Phượng)
Lời Giới Thiệu

    Lời đầu tiên là tôi xin chân thành cám ơn anh Nguyễn Đức Hạnh đã cho tôi xem hơn 35 câu chuyện của đời anh. Đây là những cảm nghiệm riêng tư mà anh đã giữ kỹ trong lòng suốt cả một đời! Tôi còn hân hạnh và vui hơn khi anh cho tôi được viết những cảm nhận của mình vào đây sau khi đã thưởng thức chúng qua lời văn nhẹ nhàng, hóm hỉnh của anh.

          Văn anh viết thật nhẹ nhàng, hóm hỉnh
          Chuyện anh ghi quá hoàn chỉnh đi thôi!
          Ngẫm càng hay, khi đã đọc qua rồi
          Vừa thấy thích,vừa bồi hồi, cảm kích!...

    Điều tôi muốn nói đầu tiên là khả năng ứng phó "tài tình", và lời văn khá hóm hỉnh của anh thể hiện trong lần đề nghị đột xuất anh lên góp vui của học sinh nhân dịp xuân về.
Trong lúc khẩn cấp ấy, anh"phịa" ngay một câu chuyện như sau: " Em đi về đâu mà nhọ nồi in trên khoé mắt? Em đi về đâu mà cơm nguội còn dính bên môi?...Tôi viết tên em vào nồi để nhớ em hoài!..." ( Trích trong Câu Chuyện Tình Phịa.)
Những câu chuyện của anh thật đa dạng, nhưng tôi chỉ xin sơ lược nhấn mạnh ở các điểm trọng yếu sau đây:

CHÍ - Từ ngày còn khá trẻ, anh đã tỏ ra một người có nhiều ý chí, không ngại gì lên đường xa Cha Mẹ để cầu học, cầu tu, mong tạo cho mình trở thành con người tốt, có khả năng,có phẩm hạnh sau này. Vốn là một người miền quê lên tỉnh, anh đã phải trải qua nhiều vất vả, hãy nghe anh kể: "Sáng nào tôi cũng dậy sớm để tới nhà thầy học thêm, rồi đi thẳng đến trường…”
Những môn học còn yếu anh đã mua sách rồi tự học lấy! (Trích trong câu chuyện Lấy Lại Căn Bản.)

TÌNH - Quan niệm về "duyên vợ chồng" của anh khá trong sáng, anh rất chú trọng về mặt tâm linh. Trong câu chuyện "Mừng Kim Hôn" anh viết:"Tôi vào nhà nguyện của chủng viện… Cầu nguyện xong, tôi thấy mình tự tin và bình thản…Chính nhờ những ngày tĩnh tâm này, mà trong suốt 50 năm, trải qua biết bao gian nan, thử thách…”
Niềm tin ấy đã góp phần làm nên sự hạnh phúc của anh bên vợ hiền, con ngoan trong suốt cuộc đời.

          " Niềm tin" kia như nắng trời êm ả
          Ấm tình anh ròng rã mấy mươi năm!

ĐẠO - Anh có cái " tâm đạo" của mình ngay từ còn rất bé. Điều này thể hiện qua nhiều câu chuyện của anh.Tôi chỉ nêu ra mấy dòng này:
" Mắt ngài rớm lệ !Tôi quá xúc động, nước mắt trào ra, chỉ nói được mấy lời:vâng, con xin làm theo ý Cha !" (Trích trong Tình Dưỡng Phụ )
Anh may mắn ngay từ nhỏ được ươm mầm trong một môi trường tu đầy nghiêm ngặt, đạo lý.

HẠNH - Sự đàng hoàng, đức hạnh thể hiện trong nhiều câu chuyện, từ việc đối xử với các Cha, cách quan hệ đứng đắn với học trò. Đặc biệt là trước sự cám dỗ của người “chị” lớn hơn 20 tuổi mà anh không hề gục ngã(nhận thấy từ các câu chuyện; Tình dưỡng phụ, Trường hợp khó xử, Cạm bẫy, Tất cả vì học sinh thân yêu)
Để kết thúc cảm nhận của mình, tôi xin được ghi:

          Ít dòng cảm nhận chỉ đơn sơ!
          Kỷ niệm bao năm, giữ đến giờ
          Chuyện của đời anh, đa dạng quá!
          CHÍ,TÌNH, ĐẠO, HẠNH đẹp như mơ!...

Nguyễn Thanh Tâm
***

Trái Chanh Chín

    Tôi sinh ra tại Ngọc Cục, một làng nhỏ cách xa thị xã Bắc ninh khoảng bốn mươi cây số. Vì nhà nghèo, mãi đến bảy tuổi tôi mới được đi học.
Hai tuần trước khi đến lớp, mẹ tôi ra chợ mua vải, rồi dẫn tôi đến nhà cậu tôi, làm thợ may, nhờ đo, và cắt cho tôi một quần đùi, một áo cộc mới để đi học; bà đem về nhà khâu tay lấy, không dám nhờ cậu tôi máy, ví sợ tốn tiền. Tôi đã có sẵn áo dài và quần dài, nhưng tôi chỉ mặc khi đi nhà thờ hay vào những ngày lễ, tết, còn ngày thường tôi mặc áo cộc, quần đùi cho gọn.

    Hồi đó, ở làng, chú Điểm (cha mẹ tôi thường gọi là chú giáo), mở lớp dạy học tại nhà, từ vỡ lòng tới lớp ba. Tôi còn nhớ, vào một buổi sáng thứ Hai, giữa tháng Chín, mẹ tôi dẫn tôi đến nhà chú giáo; sau khi nói truyện riêng với chú,về tiền học thì phải, mẹ tôi trao tôi cho chú rồi ra về.
    Đây là lần đầu tiên tôi tới nhà chú giáo; nhìn thoáng qua, tôi thấy nhà chú không khác nhà cha mẹ tôi lắm: cũng nhà tranh vách đất, ba gian hai chái; nhưng cách trang hoàng, bày biện thì đẹp hơn nhiều! Ở gian giữa, sát vách, có một tủ kính, trong để bộ đồ trà, và ít bát đĩa cổ; kế đến là một sập gỗ mun nhỏ, rồi một chiếc bàn dài, hai bên là hai trường kỷ, dành riêng cho mấy trò lớp ba ngồi học. Phía trong của mỗi gian bên, kê một giường vuông lớn, rồi đến một phản gỗ, giành riêng cho các trò lớp một và hai. Khi học hay trả bài, thì chúng ngồi xếp bằng, nhưng khi viết thì phải nằm bò xuống phản, hai mông ở vị trí sẵn sàng lãnh đòn, vì tội nói chuyện hay làm ồn!

    Chỉ bài cho các lớp xong, chú giáo thường về ngồi tại sập giữa, coi chừng các lớp; bên cạnh chú, luôn luôn có mấy roi tre, đủ dài để có thể quất tới mông bất cứ trò nào phạm lỗi! Trên các phản hai bên, không còn chỗ, nên tôi phải ngồi học ngoài hè, trên nền nhà bằng đất nện, mịn láng như xi măng.
    Tuần lễ đầu, tôi chỉ tập đọc và nhận mặt mấy chữ cái, khi sang đến phần đánh vần, chú giáo bảo tôi về nói với mẹ mua giấy, bút và mực để tập viết. Mẹ tôi đã cố gắng kiếm cho tôi một bình mực có ngấn ở cổ, lấy sợi dây đay buộc vào cổ lọ, thắt nút hai đầu dây lại, làm thành một vòng tròn nhỏ, để khi đi học tôi có thể xỏ vòng dây vào một ngón tay, khỏi sợ rớt bình mực; có lần, tay mang nhiều thứ quá, đeo bình mực vào ngón tay thấy vướng, tôi đành phải buộc luôn bình mực vào dải rút quần!

    Bắt đầu tập viết, chú giáo viết mấy hàng chữ “A” hoa bằng mực đỏ, để tôi tô lên bằng mực tím, cho quen tay; sau đó, chú chỉ viết một chữ ở đầu hàng, bắt tôi phải theo mà viết cho hết hàng. Ngay bây giờ tôi vẫn không biết tại sao hồi đó không có viết chì để tập viết cho dễ, mà phải dùng ngay viết mực, điều này rất khó khăn đối với một đứa trẻ mới tập viết như tôi.
    Tôi học được khoảng một tháng thì Cầm đến; sau này, Tý, bạn thân với Trong, em gái tôi, là em họ của Cầm, cho biềt: cha mẹ Cầm buôn bán ở thị trấn Đáp Cầu, vì bận công việc gì đó nên gửi Cầm xuống ở tạm nhà gia đình Tý một thời gian. Cầm cũng mới học vỡ lòng, vì thế chú giáo để ngồi dưới đất chung với tôi; Cầm là học trò nữ độc nhất của chú giáo; vì hồi đó, gái làng hầu hết là mù chữ; chỉ có gái tỉnh, con nhà giầu, mới được cắp sách đến trường; thường cũng chỉ được học hết tiểu học, ít có đứa nào học tới trung học. Thoạt đầu chúng tôi thấy ngại ngùng: ngồi cách nhau cả thước, không đứa nào dám nói với nhau một tiếng!

    Khi tập viết xong một hàng, chúng tôi phải thấm cho khô mực, nếu không, lỡ đụng tay vào, chữ bị nhòe, chú giáo sẽ lấy thước khẻ vào tay. Vì Cầm hay quên mang giấy thấm, nên tôi thường cho mượn, có lần tôi thấm luôn cho Cầm nữa. Viết xong độ một trang, tôi thấy mỏi rời tay; ngồi bóp tay hay xòe ra, áp lòng bàn tay xuống đất cho mát và đỡ mỏi; thấy vậy, Cầm cũng làm theo; lúc đó tôi mới thấy được cả bàn tay của Cầm: ngón tay dài thon, nước da trắng ngần. Dần dà chúng tôi trở nên quen thân, và vào các giờ chơi giữa buổi, chúng tôi bắt đầu trò truyện với nhau tự nhiên hơn.
    Một hôm tôi thấy Cầm không mang bình mực, chân đầy vết mực; hỏi ra mới biết Cầm đã đánh rớt bình mực, vỡ tan tành, mực văng tung tóe ngay trước cổng nhà chú giáo; thấy Cầm có vẻ lo lắng và buồn, tôi liền yên ủi và nói,” Không sao, từ nay Cầm dùng chung mực với Thạch cũng được; bình mực của Thạch lúc nào cũng đầy, không sợ thiếu.” Từ đó chúng tôi dùng chung mực với nhau cho tới hết năm học.

    Bên phải sân nhà chú giáo là một ao thả cá lớn, sát mặt nước có một chiếc cầu gỗ, dài khoảng ba thước, dùng cho người nhà tắm, rửa, giặt giũ; vào những ngày mưa, đường xá sình lầy, các học trò lớn phải ra cầu ao rửa chân, rồi đi theo hàng gạch đỏ, lót từ đầu cầu ao tới hè nhà, để vào lớp; còn những đứa nhỏ như tôi và Cầm thì không được bước xuống cầu ao, sợ té; hai chúng tôi phải tới một lu nước kê sát hàng gạch, để rửa chân; trên miệng lu đặt sẵn một cái gáo làm bằng sọ dừa, có cán dài khoảng hai gang người lớn; khi rửa chân, một tay nắm chặt miệng lu, tay kia múc nước, vừa kỳ hai chân lên nhau vừa đổ nước cho tới khi sạch thì thôi. Có lần tôi thấy Cầm lóng ngóng, không biết làm thế nào rửa được chân, tôi liền bảo Cầm, hai tay nắm chặt miệng lu, hai chân kỳ lên nhau, để tôi đổ nước cho; Cầm mỉm cười gật đầu và nói nhỏ,"Cám ơn Thạch nhiều." ( Hồi đó dân quê thường đi đất, tối trước khi đi ngủ, ra ao rửa chân, vào nhà, chùi chân vào miếng vải rách, hay chổi rơm cho khô rồi lên giường; có lúc làm biếng, ngồi trên giường, xoa hai lòng bàn chân vào nhau cho hết bụi cát, sau đó lăn ra ngủ.)

    Ở góc sân nhà cha mẹ tôi có một cây chanh lớn; khi xanh trái nó rất chua, nhưng lúc chín, ăn cũng giôn giốt, khá ngon; thấy chị và em gái tôi thích ăn chanh, khế, tầm giuộc, me, tôi nghĩ Cầm cũng thích những thứ đó, nên một hôm tôi hái một trái thật chín, lén đút túi đem đến cho Cầm. Tôi vừa đưa trái chanh ra chưa kịp có cử chỉ gì, Cầm đã chộp lấy và nói, “Thạch cho Cầm hả! Cám ơn Thạch! Cầm thích ăn chanh chín lắm!” Nói xong Cầm vội vã giấu trái chanh vào túi áo, sợ chú giáo trông thấy; tôi rất ngỡ ngàng trước cử chỉ của Cầm, không ngờ Cầm lại thích món quà “cây nhà lá vườn” của tôi dến thế! Biết vậy, mỗi khi có chanh chín tôi lại hái cho Cầm, và lần nào Cầm cũng tỏ vẻ thích thú như vậy.
    Mùa đông tới, ngồi dưới đất cảm thấy lạnh, tôi về nhà nói với mẹ, lấy chiếc chiếu cũ, cắt cho tôi một miếng, dài cỡ hai thước, rộng khoảng ba gang người lớn. Khi đi học, tôi cuốn tròn lại, kẹp vào nách, đem tới lớp, trải ra ngồi cho ấm. Vì chiếu còn rộng, tôi bảo Cầm ngồi vào chiếu cho đỡ lạnh. Thoạt đầu Cầm tỏ vẻ ngại ngùng, không dám; nhưng thấy tôi nói nhiều lần, nhất là phải với tay ra, chấm chung một bình mực, rất bất tiện, nên Cầm đành phải ngồi chung chiếu với tôi.

Thấm thoát đã hết năm học! Các trò lớn xin phép chú giáo tổ chức tiệc trà tại lớp; ăn uống xong, thầy trò chia tay ra về; hẹn gặp lại vào năm học tới.
    Trên đường về nhà, tôi và Cầm vưa đi vừa nói chuyện. Khi gần tới cổng nhà Tý, Cầm lén nắm lấy tay tôi và nói, “Hôm qua mẹ Cầm xuống đây thăm dì Bỉnh (mẹ của Tý), nhân tiện đến đón Cầm về Đáp Cầu luôn, sang năm chắc Cầm không còn được đi học chung với Thạch nữa đâu!” Nghe Cầm nói, tôi run lên vì quá xúc động, hai tay tôi vội nắm chặt lấy tay Cầm, ấp úng nói,”Thạch rất mong, năm học mới, Cầm lại về đây, cùng nhau đi học cho vui.”.“Trưa nay,” Cầm nói tiếp,”cơm nước xong, Cầm phải theo mẹ sang Nê để thăm người bà con, ngủ lại đêm ở đó, sáng mai đi bộ về Đáp Cầu sớm. Cầm nhớ Thạch lắm! Tạm biệt Thạch nhé!” Nói xong Cầm vội rút tay khỏi tay tôi, cúi mặt, chạy thẳng vào nhà, như muốn che giấu cảm xúc của mình. Tôi đứng ngẩn người ra, nhìn theo Cầm, mãi mới nói được, “Thạch cũng rất nhớ Cầm!”

    Đêm đó tôi trằn trọc mãi không ngủ được, luôn nghĩ đến Cầm, không ngờ tình cảm của tôi với Cầm lại sâu đậm đến thế! Trước đây lúc nào tôi cũng quý mến, săn sóc và coi Cầm như Trong, em gái của tôi. Lúc này Cầm ra đi không hẹn ngày trở lại, tôi mới thấy mình trống vắng! Mới nhận ra rằng tình cảm của tôi đối với Cầm tha thiết hơn đối với bất cứ ai tôi đã quen biết! Tôi tự trách mình , trong thời gian qua, đã không dám nói một lời nào, hay làm một cử chỉ gì để bộc lộ lòng quý mến đặc biệt của tôi với Cầm. Đêm nay, hình ảnh Cầm lại hiện ra trong tâm trí tôi: gương mặt xinh xắn, nước da trắng hồng mà tôi từng lén nhìn khi ngồi sát bên nhau trên một manh chiếu; đôi chân trắng nõn, tôi được trông thấy, những lúc giội nước cho Cầm rửa chân… Các hình ảnh đó cứ lởn vởn mãi trong đầu óc, cho tới lúc tôi thiếp ngủ đi.

    Rồi niên học mới mở ra, tôi lủi thủi tới lớp, một mình đi trên con đường đất! Mỗi bụi tre, mỗi khóm cỏ, mọc hai bên đường,chiếc cổng tre của nhà Tý, lu nước bên bờ ao, nền nhà chú giáo, tất cả đều làm tôi nhớ tới Cầm. Lần nào gặp Tý tôi cúng hỏi thăm Cầm; nhưng Tý cũng chẳng biết gì về Cầm hơn tôi! Năm nay tôi được lên lớp một; học trò lớp ba, phần đông bỏ học, ở nhà làm ruộng phụ cha mẹ, một vài trò con nhà khá giả, được chuyển sang trường Nhà xứ, tiếp tục học để thi Bằng Sơ Học Yếu Lược (Bằng Tiểu Học). Các lớp khác vắng hẳn đi; tôi được ngồi một mình một phản, rộng mênh mông; chẳng bù cho năm trước, phải ngồi đất! Tôi nghĩ thầm,”Chớ gì được ngồi chung một phản với Cầm thì vui biết mấy!”

Thạch Trong


Thứ Năm, 15 tháng 7, 2021

Mưa Rừng Tân Cổ Giao Duyên - Huỳnh Anh - Viễn Châu - Kim Trúc


Sáng Tác: 
Tân Nhạc: Huỳnh Anh
Cổ Nhạc: Viễn Châu
Tiếng Hát: Kim Trúc

Là Ai?


Tay gầy gõ nhảm trên bàn phím
Trí miên man vẽ những chân trời
Này núi cao, rừng xanh, biển cả
Nọ trăng hiền, mây gió chơi vơi

Quê hương xứ Hoa Đào một thuở
Gót chân son thoăn thoắt leo đồi
Mái trường xưa bạn bè xóm học
Mối tình đầu yêu dấu người ơi!

Sớm mai bừng mắt nhìn thời khắc
Điện thoại reo nhắc nhở liên hồi
Thức dậy chưa hay anh còn ngủ?
Và tim chàng nhẩy nhót tươi vui

Rồi thoắt biến mịt mờ nhân ảnh
Để ai ngồi ủ rũ một mình
Tự nhủ thầm như người xưa đó
Là bướm hay là gã Trang Sinh?

Locphuc

Chờ Kẻ Phụ Tình


Sáng hôm nay trời mưa
Tôi vẫn giữ lời hứa
bên góc phố đứng chờ
Gặp người yêu tôi nhớ.

Người yêu tôi đã đến
Nhưng trong chiếc xe hoa
Nàng nhìn tôi xa lạ
Hai mắt tôi nhạt nhòa.

Quay gót về cô đơn
Lòng trĩu nặng nỗi hờn
Trách con người tráo trở
Nếu không duyên không nợ
Sao hẹn biển, thề non ?
Rồi xuống đò sang ngang
Để lòng tôi héo mòn.

Từ ngày bị phản bội
Tôi chán ngán tình yêu
Kỳ vọng thì rất nhiều
Nào được bao nhiêu đâu.
Tôi làm bạn với rượu
Rượu giúp tôi tiêu sầu.
Trăm năm trong cõi người ta
Rượu là tri kỷ, Tình là dây oan.


Lão Mã Sơn


Tiếng Việt Ta... Hay Thật...!

 

MŨM MĨM béo, MỦM MỈM cười.
CỦ quả dành để biếu người CŨ xưa.
KIỄNG chân, chậu KIỂNG đu đưa
KẺO hết, KẼO kẹt đêm mưa võng buồn.
HỔ thẹn chưa HỖ trợ lương.
GÃ kia GẢ bán người thương vì tiền
HẢO tâm lo chuyện HÃO huyền.
Đi buôn LỖ vốn, nước màu LỔ loang.
PHỦ phê chừ mới PHŨ phàng
Nửa đường GÃY gánh, GẢY đàn tìm vui.
GÃI đầu tính ngược, tính xuôi.
Còn lưng NỬA vốn NỮA thời tính sao.
GIÃI bày GIẢI nghĩa dễ đâu
Chưa kịp ẩu ĐẢ qua cầu ĐÃ xong.
Run RẨY phát RẪY dọn nương
GỠ rối điềm GỞ rộng đường nhân sinh.
Chú RỂ bứt RỄ cây quỳnh
Ra sức BỬA củi cho mình BỮA ăn.
BẨM thưa, bụ BẪM con người
Nói năng tao NHÃ, chim kia NHẢ mồi.
MÃ ngoài mồ MẢ xinh tươi
Nhường cơm SẺ áo cho người SẼ vui.
Linh CỮU vĩnh CỬU ai ơi
CỮ kiêng CỬ động bệnh thời sẽ qua.
TẺ nhạt, gạo TẺ của ta
Gần mà giữ KẼ thà ra KẺ thù.
KHẺ mỏ, nói KHẼ như ru
CỖ bàn, CỔ kính công phu phụng thờ.
BỖNG dưng trầm BỔNG bất ngờ
BĨU môi dè BỈU ai chờ đợi ai.
Bắt BẺ, BẼ mặt tía tai
LẺ loi lý LẼ gạt ngoài chẳng nghe.
Ngoài vườn CHỎNG gọng CHÕNG tre.
CẢI thiện, CÃI lại khó mà hoà nhau.
CHĨNH (hũ) tương nghiêng, CHỈNH sửa mau.
CỦNG cố lời nói cho nhau CŨNG đành.
CỞI trói CỠI (cưỡi) ngựa phi nhanh
Xem ai cứng CỎI được dành CÕI tiên.
BẢO ban, BÃO tố khắp miền
HẢNH nắng, HÃNH diện tuỳ duyên tuỳ thời.
Hồ đầy XẢ nước cho vơi
Giữ gìn XÃ tắc kẻo thời suy vong.
Chèo BẺO, bạc BẼO dài dòng
Quê hương rất ĐỖI ĐỔI thay phố phường.
NGHĨ mình ngơi NGHỈ dưỡng thương
TĨNH tâm TỈNH ngộ tìm đường ẩn cư.
TIỂU đội còn bận TIỄU trừ
Ngỡ rằng bảnh TẺN thành dư TẼN tò.
SẢI tay chú SÃI thập thò
Nhân sự thừa THÃI bị toà THẢI ra.
Đứng SỮNG, SỬNG sốt sợ ma
Trẻ thơ nói SÕI nhặt SỎI đá trôi.
TRẢ nợ bằng một TRÃ xôi
NÃY giờ còn đợi hạt thôi NẢY mầm.
Ẩn SĨ, SỈ nhục giận căm
GIẢ dại GIÃ gạo thăng trầm cho qua.
QUẪN trí nghĩ QUẨN sa đà
Chấp nhận xúi QUẨY hơn là QUẪY đuôi.
Đâm THỦNG, THŨNG xuống thấp rồi
Đòn BẨY được dịp lên đồi BẪY chim.
Đội NGŨ giấc NGỦ lim dim
Ân SỦNG ướt SŨNG nằm im chờ thời.
TỦM tỉm, đánh TŨM không lời
VĨ cầm, VĨ tuyến... VỈ ruồi giúp ta.
Rác RƯỞI gấp RƯỠI hôm qua
ĐẨY xe, ĐẪY giấc người ta chối từ.
ĐẢNG phái, ĐÃNG trí ưu tư
DỞ hơi, DỞ thói tật hư DỠ nhà.
LẨN quẩn, LẪN lộn tuổi già
ĐỈNH chung, ĐĨNH đạc cũng là ĐỈNH cao.
ĐỂ dành, hiếu ĐỄ về sau
Cô bé tròn trịa thật là DỄ thương.
DỎNG tai, DÕNG dạc khiêm nhường
RẢNH rỗi san lấp RÃNH mương trước nhà.
Qua NGÕ, NGỎ lời hát ca
QUẢNG cáo - thực tế cách ba QUÃNG đường.
RỦ rê quyến RŨ nhiễu nhương
RỔ sảo, RỖ mặt vấn vương một thời.
CHỬA đẻ, CHỮA bệnh ai ơi
Trường hợp HÃN hữu xin thời bỏ qua.
Phá CŨI làm CỦI bếp nhà
Xén bớt công QUĨ, QUỈ ma chẳng từ
Hạt DẺ, đất DẼ suy tư.
Sàng SẢY ít gạo đến giờ chưa xong
RỬA nhục thối RỮA mặc lòng.
Hen SUYỄN, suy SUYỂN đợi mong bao ngày.
CƯỠNG đoạt chim CƯỞNG trong tay
Xin đừng cà RỠN... RỞN gai ốc rồi.
SỬA chữa, SỮA mẹ em ơi
SẪM màu, SẨM tối xin mời ghé thăm.
MẨU bánh dành biếu MẪU thân
Đắt RẺ, ngã RẼ bao lần em qua.
SỖ sàng, SỔ toẹt chẳng tha
GIẢ thật, GIÃ gạo cho qua tháng ngày.
Gây GỔ, cây GỖ chuyền tay
Cánh HẨU chầu HẪU ngồi chờ đổi ngôi.
Mưa rỉ RẢ mệt RÃ người
RÃO gân cốt, RẢO bước thời đi nhanh.
Cây SẢ, suồng SÃ là anh
TẢ thực, TÃ lót để dành trẻ con.
Chàng HẢNG ai mở HÃNG buôn
KỶ luật KỸ xảo mình luôn ghi lòng.
HỦ tục, HŨ gạo ngày đông
Hỏi NGÃ khó, chớ NGÃ lòng NGẢ nghiêng...!
 
(Đinh Trực sưu tầm)
Sương Lam chuyển

Lụy


Bài Xướng:

Lụy


Vầng thơ sâu lắng lụy thêm dài
Lòng chợt bồi hồi tưởng bóng ai
Mái tóc xanh xưa màu dĩ vãng
Tình yêu muôn thuở gió ban mai
Song thưa khép kín thân cô lữ
Xứ lạ mỏi mòn sắc nhạt phai
Nhắc nhớ mà chi sầu chất ngất
Hoa trôi bèo dạt tấm hình hài


Kim Phượng
***
Các Bài Họa:

Phiền


Thơ thẩn mưa xuân thở vắn dài
Chạnh buồn nhớ đến ảnh hình ai
Ra vào trông ngóng hoài chiều tối
Quanh quẩn đợi mong mãi sáng mai
Chiếc bóng tha phương đời héo úa
Đơn thân viễn xứ kiếp tàn phai
Trăng tròn lại khuyết ai phiêu bạt
Bèo dạt hoa trôi nhẹ gót hài... (!)


Mai Xuân Thanh

***
 Oan Trái

Kiếp sống bao lâu,chẳng được dài
Vui thì mấy dạo, lắm bi ai
Sớm ra rực rỡ tia vàng lộ
Chiều lại âm thầm nắng úa phai

Mơ ước ban đầu suôi mộng đẹp
Cầu xin đến chót thuận duyên hài
Chẳng ngờ bão táp gieo oan trái
Tình thắm muôn vàn cũng một mai.


Thanh Hòa
***
  Lệ Ướt Dấu Hài

Ngó bóng trăng thâu thăm thẳm dài
Ngồi bên song cửa, nhớ nhung ai
Em ơi, vẫn cứ chờ khuya sớm
Người hỡi, xin đừng hẹn mốt mai
Lỡ luỵ tình rồi, đành luyến tiếc
Sầu thương hoa nở, sợ phôi phai
Tháng năm nghe gió hờn, mưa tủi
Lệ cũng rơi mau ướt dấu hài ...


Cao Mỵ Nhân
***
Thu Nhớ

Rả rich mưa thu sợi ngắn dài
Quê nhà vạn dặm dạ bi ai
Vườn xưa ngõ xóm nồng hương bưởi
Lối cũ đường làng thắm nắng mai
Lặng lẽ thương về tình mãi thắm
Âm thầm nhớ đến nghĩa nào phai
Trăng khuya một mảnh treo đầu núi
Lệ ứa sương đêm lạnh dấu hài.

Hương Thềm Mây 
***
Bèo Dạt Hoa Trôi

Mặt ngọc buồn xo, tóc rối dài
Gương sầu thấm lệ bởi vì ai
Nỗi thương chất ngất làn sương sớm
Niềm nhớ vương đầy ánh nắng mai
Duyên nợ chưa thành, đành lỡ dở
Tình nghĩa chẳng nên, mãi mờ phai
Lẽ đời tan họp do con tạo
Bèo dạt hoa trôi, nhẹ gót hài.

Thanh Trương

Sinh Thái Học Dưới Góc Nhìn Của Tam Giáo (Nho, Phật, Lão)

  
Abstracts

Vietnamese in their majority practice a syncretism of 3 religions, namely confucianism, buddhism, taoism and where ecology is omnipresent. Following general introduction about ecology in section 1, section 2 discusses about the ecological crisis of the world today, as it gets hotter, stormier, crowded and less biodiverse. Section 3 addresses ecology from three perspectives in the nature conservation:

-In Confucianism, we refer to the interrelation of Heaven, Earth, and Humans which are the basis of all creatures: Heaven gives them birth, earth nourishes them and humans complete them with rites and music .

-In Buddhism, spirituality is based upon an ecology of mind and body as well as environment. Compassion implies that all life forms are mutually interdependent, thus we should not destroy the fauna and indirectly the vegetation cover which constitutes their natural habitat. Insatiable human desire will lead to the overexploitation of natural resources. The threefold path, namely morality, mindful awareness, wisdom as well as living with no greed plays a central role in preserving biodiversity and sustainability of resources. By the causal principle of interdependence, all individual entities are relational and interconnected thus living in harmony with nature is helping our Mother Earth from destruction.
-In Taoism, everything is composed of two opposite forces known as Yin and Yang; the world is governed by the 5 following elements ( Water, Metal, Wood, Soil, Fire) which interact and balance together under the Dao supreme principle which is the natural course of everything. Overexploitation of one of these elements is destroying the nature equilibrium, thus we should cultivate the way of no-action and let nature be itself.
Section 4 discusses how to be in harmony with nature, and discusses the concepts of ecological footprint and entropy.

Finally, in the concluding remarks in Section 5, the author mentions that these 3 religious perspectives can make important contribution to environmental ethics, helping people care more about our common Earth which supports us.

1.Nhập Đề

Sinh thái học dịch từ danh từ ecology. Chữ ecology, có gốc từ hai chữ Hy Lạp: oikos (nơi ở) và logos (môn học). Cái nơi ở của con người có đất mẹ, núi mẹ, sông mẹ, biển mẹ nhưng càng ngày nơi ở của nhân loại đang đứng trước sự mất thăng bằng giữa tài nguyên thiên nhiên với con người, gây ra phá rừng, ô nhiễm môi trường sống, gây nên sự thay đổi khí hậu, tạo tiền đề cho các bất ổn của thế giới ngày nay.

Thế nhưng, hàng ngàn năm trước, triết học Đông Phương với 3 tôn giáo chính là Nho giáo, Phật giáo, Lăo giáo đã suy ngẫm sâu xa về các vấn đề này.Trong một thế giới càng ngày càng toàn cầu hoá, một thế giới phẳng, đang phải đối đầu với sự biến đổi khí hậu, với ô nhiễm môi trường như hiện nay thì các tư tưởng trong Tam giáo đáng cho ta suy nghĩ và từ đó tìm lại được những chân lý bị bỏ rơi trong quên lãng .

Bài tham luận này nêu lên các vấn nạn môi trường do sự biến đổi khí hậu trên toàn cầu, sau đó tìm hiểu tư tưởng Tam giáo trong vấn đề môi trường.

2. Các biến đổi khí hậu do sự mất thăng bằng các yếu tố sinh thái.

Với cuộc cách mạng kỹ nghệ, loài người đã thụ hưởng được nhiều tiện nghi vật chất như xe hơi, máy bay, vật liệu tiêu dùng. Nhưng huy chương có hai mặt vì đằng sau các tiện nghi ấy thì khí hậu cũng thay đổi do những khí độc như Co2 từ xe cộ, từ các nhà máy phun khói và thải các khí độc trên bầu trời làm trái đất nóng lên. Các khí độc đó thường được gọi là khí nhà kiếng là vì khi các bức xạ mặt trời phản chiếu từ mặt đất lên sẽ bị các khí độc này ngăn chận lại làm trái đất càng ngày càng nóng tương tự như trong một nhà kiếng trong đó người ta trồng rau, trồng hoa ở các xứ lạnh vào mùa đông .

Xưa kia, trên trái đất này dân cư không đông như ngày nay . Với tiện nghi y tế cao nên tỷ lệ trẻ em chết lúc sơ sinh giảm đi rõ rệt nên ngày nay dân số tăng nhanh :

Phố phường chật hẹp người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non (Tú Xương).

Dân số đông đòi hỏi năng lượng để nấu ăn, để đun nước, để tắm giặt. Dân số đông đòi hỏi có nguyên liệu để làm nhà cửa, làm bàn ghế. Dân số đông đòi hỏi nhiều nhà máy để sản xuất ra điện, ra vật liệu tiêu dùng. Dân số đông đòi hỏi xe cộ di chuyển đi làm. Dân số đông đòi hỏi lương thực mà muốn có lương thực trên đất càng ngày càng ít dần thì phải dùng phân bón và muốn có phân bón lại phải có năng lượng và nguyên liệu từ sản phẩm dầu hoả và hơi đốt.

Và năng lượng để sản xuất ra các tiện nghi là từ dầu hoả và hơi đốt, phát thải các khí nhà kiếng làm khí hậu trái đất nóng dần gây ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt loài người mà sau đây là những hậu quả:

- Dâng cao mực nước biển khiến cho những vùng thấp duyên hải sẽ bị ngập và dân cư sẽ mất chỗ ở. Riêng ở Việt Nam, các vùng thấp ven biển nhất là miền châu thổ sông Hồng và châu thổ Cửu Long sẽ bị ngập, đe dọa đến an ninh lương thực vì lụt lội làm đê biển không chịu được khi nước biển dâng;

- Nước đại dương ấm lên cũng tạo nên nhiều cơn bão mạnh với sức tàn phá khủng khiếp như ở Miến Điện tháng 5 vừa qua (2008), gây ra nạn lủ lụt, kéo theo hàng chục ngàn người chết, phá hoại cả một vùng châu thổ trồng lúa lâu nay . Dĩ nhiên mọi cái đều tương quan vì lủ lụt sẽ kéo theo nạn nghèo đói vì lương thực sẽ khan hiếm.

Ý thức được việc này, ngay từ năm 1997, nhiều nước đã họp lại ở Kyoto (Nhật Bản) để ký chung một thỏa ước nhằm giảm lượng khí thải CO2 và các khí khác gây hiệu ứng nhà kiếng, sau này được biết là Nghị Định Thư Kyoto. Trong Nghị Định Thư này cũng đòi hỏi các nước bớt sử dụng than đá, khí đốt, xăng dầu chuyển sang năng lượng sạch như mặt trời, gió v.v.

Sau đây, ta sẽ lần lượt phân tích vài ảnh hưởng các bộ môn ấy trên tư tưởng sinh thái để thấy các học thuyết Đông Phương luôn đề cao thiên nhiên :

3. Sinh thái học theo Tam Giáo

31.Sinh thái học trong Nho giáo.

Trong lịch sử Trung Hoa, chúng ta biết rằng sau thời kì Xuân Thu Chiến Quốc (từ năm 770 đến năm 220 trước Công nguyên ) kéo dài mấy trăm năm đầy loạn lạc, tranh chấp thì vào đời nhà Hán muốn tái lập lại kỷ cương, các danh nho đã đề nghị ra ba giềng mối là Tam Cương (Quân, Sư, Phụ ) và năm đức của cá nhân gọi tắt là Ngũ Thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trung, Tín ). Riêng vũ trụ quan thì luôn luôn đề cao sự hài hoà của 3 yếu tố Thiên, Địa và Nhân.

Thiên có nghĩa nôm na là ông Trời .. Khi nói về Trời, ta nghĩ ngay đến bầu trời, mây , các sao ban đêm, gió thổi, tóm lại những thông số về khí hậu, về trái đất : bão, lụt, động đất, núi lửa .Chẳng thế mà người nông dân thường nhìn trời để cầu cho mưa thuận gió hoà Ơn trời mưa nắng phải thì, Nơi thì cày cạn, nơi thì bừa sâu hoặc : Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống ,lấy ruộng tôi cày v.v.

Chữ Trời được nhắc đến mấy chục lần trong các câu Kiều; nó đồng nghĩa với God, với đấng Tối Cao. 'Trời làm chi cực bấy Trời'; nhạc sĩ cũng nói đến Trời: 'lạy Trời mưa tuôn, hạt mộng vươn lên'; 'trời ươm nắng cho mây hồng'..

Địa có nghĩa là đất với sông, suối, hồ, ao, núi, rừng, cây cỏ, cỏ cây, sa mạc, đất liền, biển cả
Và giữa hai cảnh giới Thiên và Địa là Nhân.
Nhân là người, nhưng phải hiểu theo nghĩa rộng là mọi sinh vật trên trái đất.

Vào đời Hán, và đặc biệt dưới triều Hán Võ đế (140-87 trước Công nguyên ), Đổng Trọng Thư nhận rằng con người có địa vị trọng yếu, giúp sức trời đất mà 'hoàn thành vạn vật .Ông viết: 'Trời, đất và người là cái gốc của vạn vật .Trời sinh vạn vật, đất nuôi vạn vật, người làm thành vạn vật'. Quan niệm 'thiên nhân tương quan', 'thiên nhân hợp nhất' là một đặc điểm của triết học Trung Hoa. Có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là trời và người giống nhau còn nghĩa thứ hai là trời và người 'thông' với nhau, nghĩa là quan hệ mật thiết với nhau. Trong nho học, các câu như 'thiên nhân vô nhị' (trời và người là một), 'thiên tắc nhân, nhân tắc thiên' (trới là người, người là trời ), 'vạn vật nhất thể' v.v. đều cho rằng thiên nhiên và con người có liên hệ lẫn nhau cho nên cần giữ sự cân bằng vạn vật, 'đạt đến trung dung hài hoà, trời đất nằm ở đó, vạn vật nhờ đó mà được nuôi dưỡng vậy (chí trung hoà, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên ) . Như vậy, theo Nho học, con người phải hòa mình với vũ trụ, không cưỡng hiếp vũ trụ vì trung hoà là luật điều hoà, luật quân bình của vũ trụ, nó chi phối mọi hoạt động từ trời, đất đến vạn vật và con người. 
Thiên cũng còn có nghĩa những đấng tối cao, vô hình . Quan niệm Thiên Địa Nhân kéo theo các khái niệm như làm việc gì cũng phải Thiên thời, Địa lợi, Nhân hoà . Nếu có tai ương thì có Thiên tai như bão lụt, hạn hán, Địa tai như động đất, đất chuồi, Nhân tai là các tai ương do người tạo ra như phá rừng v.v. Như vậy, về vũ trụ quan, cái tam thức (trinome) như Thiên Địa Nhân có hàm ý rằng nên sống theo 'đạo trời' hay 'thiên đạo' tức phải sống hài hoà với trời và đất . Suy ra thì ngày nay, vì con người đã không tôn trọng bầu trời nên đã xảy ra nhiều biến đổi khí hậu, gây ra tai trời ách nước và cũng vì con người không tôn trọng trái đất nên đã có những hiện tượng như sa mạc hoá, khủng hoảng lương thực.

32. Sinh thái học trong Phật giáo.

Trong Tứ Diệu đế của học thuyết Phật giáo, chữ Khổ là chữ đầu tiên. Ngoài cái khổ theo nghĩa thông thường như đau ốm, bệnh tật, già yếu, có thêm cái khổ khác do biến đổi khí hậu với thiên tai, bảo lụt, hạn hán tóm lại cái khổ do sự suy thoái của môi trường sống như nước biển dâng, thiếu hụt lương thực, ô nhiểm môi trường với những dòng sông đã qua đời, với núi trọc, với mịt mù đồi cát v.v.

Diện tích rừng mỗi ngày mỗi co cụm, với phá rừng bừa bải thì lấy đâu mà hoá giải được khí nhà kiếng, ngăn chận lủ lụt, giảm bớt sức nóng. Ở Việt Nam thì nạn lâm tặc hoành hoành, phá hết rừng già . Đây lại là một chuyện cười ra nước mắt .

Dưới đầu đề 'Rừng Quảng Nam kêu cứu', nhà báo viết : ' Lâm tặc vẫn ngang nhiên dùng xe ô-tô, xe máy, xe bò chở gỗ liên tục giữa ban ngày; lâm tặc kết gỗ thành từng bè, mảng, phao cao-su chờ đêm tối cho xuôi theo dòng sông Bung, sông Vu Gia về tập kết tại huyện Đại Lộc, biến địa phương này thành 'chợ gỗ lậu' lớn nhất của tỉnh : để kéo gổ từ rừng ra đường cho xe tới chở về xuôi, cả hàng ngàn con 'trâu tặc' tham gia. Người ta còn trồng từng ruộng cỏ cho 'trâu tặc' ăn, nhiều người không biết, còn khen vùng này chăn nuôi phát triển mạnh ! (báo Thanh Niên ra ngày 11 tháng 6 năm 2008)

Trong Ngủ giới của nhà Phật thì giới đầu tiên là không sát sanh. Như vậy cũng có nghĩa là không săn bắn hoang thú. Điều này cũng có nghĩa là phải bảo tồn rừng rú vì nếu không có rừng thì loài thú hoang, chim muông sẽ không nơi trú ẩn .Tục ngữ ta cũng có nói đến hai tội lớn trong môi trường : đó là Nhất phá sơn lâm, nhì đâm Hà Bá . Phá sơn lâm thì không còn rừng rú khiến đất đai bị xói mòn, chuồi đất lụt lội. Vô hình chung, đạo Phật qua điều răn trong ngủ giới đã khuyến cáo sự đa dạng sinh học (biodiversity).

Đức Phật trong kinh Pháp Cú cũng khuyên không nên đốn rừng mà phải 'đốn rừng dục vọng' vì chính dục vọng làm môi trường hiện nay bị huỷ hoại:

Đốn rừng 'dục vọng' , chớ đốn cây,
Vì cảnh rừng này gây sợ hãi (Kinh Pháp cú: Phẩm Đạo )

Với rừng rú được bảo tồn, sức khỏe con người được tăng lên vì rừng toả ra oxy qua hiện tượng quang hợp và hút bớt các khí độc do khói nhà máy, khói xe hơi hàng vạn chiếc suốt ngày đêm di chuyển phát ra. Đó là các khí nhà kiếng (greenhouse gas) làm đảo lộn khí hậu trái đất .

Rừng là nguồn gen thực vật. Nhờ quỹ gen đó mà có thể thay đổi hay cải thiện các giống hiện có, bằng cách lai giống, ghép cây, để tạo ra các giống mới thích nghi với môi trường mới, kháng sâu hơn, giúp tăng gia nông phẩm.. Sự đa dạng sinh học là điều kiện cần thiết để có một quỹ gen phong phú. Vì rừng chứa nhiều loại thực vật khác nhau nên đó là một kho gen vĩ đại; muốn tháp gen thì phải có gen nào cần như có cây có gen kháng mặn, kháng bệnh thì đưa gen đó vào loài cây muốn cải thiện. Như vậy rừng là vàng xanh vì rừng chứa một kho gen vĩ đại mà công nghệ sinh học (biotechnology) luôn luôn cần có để nghiên cứu, tìm tòi tạo ra thuốc mới, cây mới, giúp cho nhân loại . Ngày nay, bảo vệ sự đa dạng sinh học là một trong những chủ đề quan trọng trong sự bảo vệ môi trường. Thực vậy, với sự gia tăng dân số, con người đã phá hủy luôn môi trường sống, kéo theo đó là sa mạc hoá, mặn hoá, phá rừng và từ sự huỷ hoại môi trường sống lại ảnh hưởng ngược lại đến đời sống con người với nạn đói kém, nạn lụt lội .

Sức khỏe không chỉ có nghĩa là phải 'vai u thịt chắc' mà sức khỏe tâm linh cũng rất quan trọng. Rừng giúp con người thư giãn, tìm lại sự im lặng, tĩnh mịch:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao.

Thực vậy, vào rừng, thở không khí trong lành, nhìn sao ban đêm, nhìn suối, nghe nước róc rách, bướm lượn nhởn nhơ, chuồn chuồn, nghe côn trùng rỉ rả, mặt trăng lên, sao đêm nở đầy trời, giúp ta tránh được các căng thẳng của cuộc sống máy móc đô thị, giúp ta quên đi những nỗi nhọc nhằn của thể chất và phục hồi lại các giá trị tâm linh . Thực vậy, chúng ta biết rằng bán cầu não bên trái là khu vực lý trí, tư duy của khoa học còn bán cầu não bên phải là mảnh đất của nghệ thuật. Chính nhờ sự phân bố chức năng của hai bán cầu não nên khi làm việc suy tư mệt mỏi thì thư giãn ngỡ lòng mình là rừng, ngỡ hồn mình là mây (thơ Hồ Dzếnh), sẽ giúp cơ thể nhanh chóng phục hồi lại khả năng trí tuệ và sức làm việc .

Ta cũng thấy trước cảnh vật bao la của vũ trụ rằng con người chỉ là một thành phần nhỏ bé và từ đó cảm thấy khiêm tốn hơn . Thiếu đức khiêm tốn thì con người dù rất tiến bộ về vật chất và kỹ thuật đă trở nên con người dã man và tàn ác.Ta đi chùa, đi giáo đường chính ý thức được gia sản thiêng liêng của mình, vì nhận thức rõ giá trị cao quý của con người cũng như biết rõ tính tự cao tự đại cố hữu của con người .Nếu không nhờ vào một quyền lực mạnh mẽ từ bên ngoài, chúng ta có thể ngã trở lại vào cái hố tự cao tự mãn ấy một cách dễ dàng .

Còn nhớ trước đây Thủ tướng Ấn độ Atal Bihari Vajpaqyee trong tháng 8/2001 đă thu băng đọc thơ của mình cho Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ . Trong số các bài thơ viết bằng tiếng Hindi của chính mình, có một bài được nhiều người ưa thích 'Heights'. Bài thơ kết thúc bằng câu : Lạy Chúa, đừng để con trèo quá cao đến nỗi không thể cúi xuống ôm hôn kẻ khác. Đừng đem đến sự cao ngạo cho con'`My Lord, Never let me climb so high that I can't bend down to embrace another human. Deliver me ever from such arrogance.'

Trong cụm từ Từ, Bi, Hỉ, Xả thì chữ Từ đứng đầu tiên. Ai cũng biết là Đạo Phật chủ trương từ bi, lấy Bồ đề tâm, Bồ đề nguyện và Bồ đề hạnh làm chủ yếu . Tâm trong sáng gọi là Tuệ tâm, tâm thanh tịnh thì gọi là Thanh tịnh tâm, tâm rộng lớn thì gọi là Đại tâm, Tâm chân thật thì gọi là Chân tâm, tâm bao dung thì gọi là Từ Bi tâm. Mọi đức tính trên của Tâm đúc kết vào chữ Bồ đề Tâm .

. Khi tâm ta từ bi, thì trời đất cũng từ bi với chúng ta. Trong khi tâm ta không từ bi với cây rừng như đốn rừng bừa bãi, không từ bi với muông thú thì tự nhiên loài người mất nguồn gen qúy giá cần cho sự cải thiện thực vật, mất đi sự đa dạng sinh học (biodiversity), mất nguồn lợi cho du lịch sinh thái.

. Khi tâm ta từ bi thì tự nhiên ta xem môi trường như người bạn, như người thầy, môi trường sẽ để ta yên ổn, không có lụt lội vì rừng cây đã giúp giảm bớt cường độ của nước, không có nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền tóm lại, tìm lại hài hoà với vũ trụ.

Một thế giới dựa vào các giá trị như Từ, Bi, Bác Ái , như vậy thì mọi người , mọi sinh vật sống an lạc. Với thế giới như vậy thì sẽ không còn hận thù, không còn ganh ghét, không còn khổ đau. Thực vậy, chìa khoá của kiếp nhân sinh là cái Tâm : Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.

Tâm có một nội hàm rộng lớn vì bao gồm tâm thức (lĩnh vực nhận thức, có ý thức), tâm cảnh nghĩa là dùng các ý về cảnh để tả tình cảm như trong câu Kiều :

Vi lô san sát hơi may
Một trời thu để riêng ai một người

hoặc:

Bến Tầm dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu,

tâm niệm, tâm tư, tâm tính, tâm sự, tâm pháp (mọi phương pháp tác động lên tâm lý, từ tác động lên ý thức như giáo dục và công tác tư tưởng đến tác động lên vô thức như tâm lý liệu pháp ), tâm cảm, tâm trạng, tâm hồn, tâm linh, tâm xúc, tâm bệnh. Bấy nhiêu đủ thấy tâm phức tạp, mà phức tạp cũng đúng vì tâm do hàng ngàn neuron trên não bộ tác động lên nhau, v.v. và có thể nói tâm chính là nội dung môn học gọi là tâm lý học .

Khi tâm an và biết hướng thiện thì chẳng những mình được hạnh phúc mà còn hoà đồng được với cái tâm đại ngã của vũ trụ. Tâm bao dung rộng lượng của người tù cải tạo, dù 'mười năm mặt sạm soi khe nước, ta hoá thân thành vượn cổ sơ' nhưng vẫn sẵn sàng phá chấp:

Ta về cúi mái đầu sương điểm/Nghe nặng từ tâm lượng đất trời/ Ta về như lá rơi về cội/ Bếp lửa nhân quần ấm tối nay/Chút rượu hồng đây xin rưới xuống/Giải oan cho cuộc biển dâu này (Ta về của Tô Thùy Yên )

Quan niệm Phật giáo với tâm từ bi với mọi sinh vật 'nhất thiết chúng sinh giai cộng thành Phật đạo' là quan niệm viên dung. Chúng sinh đồng một thể, mình và người không khác, lợi người là lợi mình, giết hại kẻ khác là giết mình.

Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: 'Tâm như họa sư năng họa nhất thiết hình tượng' nghĩa là tâm ta như người nghệ sĩ có thể vẽ ra vô vàn cảnh vật, hiện tượng đẹp, xấu khác nhau . Tâm chúng ta có thể tạo ra Thiên đường, có thể xây nên Địa ngục . Tâm thiện thì thiên hạ an vui; tâm sân hận thì chiến tranh.Vì thế sự hiện hữu của tâm thức chính là sự hiện hữu của hai mặt trái ngược nhau trong tâm thức con người, sự thấp kém và sự cao thượng. Nếu tư tưởng của ta vẩn đục, ích kỷ thì đời sống của ta trở nên nhỏ nhen, thấp kém. Nếu tư tưởng của ta rộng lớn, bao dung và hỉ xả thì đời sống của ta sẽ trở nên cao đẹp, thanh thoát .Khi tâm hồn đã thanh thoát trong sáng thì cảnh vật trở nên chan hoà. 'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ' . Vậy chuyển hoá tự tâm là con đường gột sạch tư tưởng thấp kém để mở ra con đường cao thượng .

Tư tưởng Hoa Nghiêm cũng nói là tâm là nguyên nhân mọi vạn pháp. Tâm vọng (còn gọi là vọng niệm) thì mọi vạn pháp thay đổi, mang tính chủ quan, (subjectivity) mang tư duy nhị nguyên đối đãi (dualistic), nghỉa là phân định và tách rời cái A khỏi những cái phi A .Thái độ vọng niệm phân biệt này làm ta có cái thái độ so đo, tính toán, hơn thua .Lúc đó, trạng thái an tịnh của tâm sẽ không còn nửa và tâm lý về cái cá biệt gia tăng, tác động xấu đến phong cách hành xử của con người: phân biệt màu da, tôn giáo, giới tính, tuổi tác, vị trí xã hội. Tâm thanh tịnh thì ta có cái nhìn không phân biệt, theo đó thì ta và các vật khác từ thực vật đến động vật đến dòng sông, giăy núi, mọi cái đều tương giao, tương trợ, tương nhập (interconnected ) với nhau.

Phật giáo dạy rằng không có cái nào đứng riêng rẽ được hết vì mọi việc đều tương quan tương thuộc với nhau và đó là thuyết trùng trùng duyên khởi (principle of Conditioned Arising, ( paticcasamuppada). Vạn vật nương nhau mà sống vì cái này có vì cái kia có. Loài người nhờ cây cỏ mà cây cỏ nhờ đất để cho dưỡng liệu mà muốn các dưỡng liệu hoà tan thì phải có nước v.v.Như vậy bảo vệ môi trường tức là bảo vệ con người .

Các vấn nạn hiện nay trên thế giới chỉ có thể giải quyết bằng cái Tâm .Nhờ bối cảnh yên tỉnh, tâm hồn mới yên tĩnh để suy tư cùng vạn vật . Có suy tư cùng vạn vật mới có thể nhìn vạn vật bằng tâm tưởng:

'Trong niềm im lặng vô ngôn đó, những vang vọng, ý nghĩ, nhựa sống của ngôn từ, của hành động, của ý nghĩa càng tràn bờ để xóa bỏ mọi biên giới mà tắm gội, bao dung lấy hết thảy (Doãn Quốc Sỹ trong Vào Thiền )

Trong đạo Phật, có khái niệm Tam độc: tham, sân, si.

Lòng tham vô đáy khiến ta tiêu thụ nhiều, tổn hại đến môi trường tài nguyên . Trong xã hội Tây phương, nhiều nhà có đến 3 hay 4 xe hơi, chưa kể đến trung bình 3 cái máy truyền hình, thêm vào là các máy DVD, máy điện toán rồi điện thoại di động do đó tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất như sắt, kẽm, thiếc, đồng, chì đều mất dần . Mặc dù có tái chế biến nhưng nghĩa trang xe hơi, nghĩa trang máy computer, lẫn lộn với máy tập thể dục vứt đi đầy rẫy.

Muốn được giải thoát khỏi khổ đau do sự huỷ hoại của môi trường sống, con người cần phải nhận thức là Đất Mẹ, Sông Mẹ, Núi Mẹ, Biển Mẹ có tài nguyên hữu hạn mà sự tham lam con người là vô hạn. Người Phật tử là người sống thiền, sống tri túc chứ không sống chớp giật, tìm một phút huy hoàng rồi sau đó đau khổ triền miên như trong thơ : Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm' . (Xuân Diệu ) .Trái lại, người Phật tử đưa ra một cách sống tỉnh thức, tìm chuyển hoá các khổ đau thành hạnh phúc, chuyển thất vọng thành nghị lực:

Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Thiện căng tức khi ta làm được 3 nghiệp lành như thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp là ta

đã gieo được một thiện căn tốt . Thiện căn chưa phải là Phật tính vì thiện căn có nội, có ngoại, có hữu lậu, -nghĩa là còn vướng phiền não-, có vô lậu, tức hết phiền não, có thường và có vô thường còn Phật tánh thì không có nội, không có ngoại, không hữu lậu, không vô lậu v.v.

Phật giáo dạy Chánh mệnh nghĩa là không ăn trộm, không giết, không ma túy nghiện ngập . Tham thì vô đáy, không giới hạn nên làm tài nguyên cạn dần. Con đường thoát khổ cũng nằm trong nhận thức chân chính, tức chánh kiến . Chánh mệnh và chánh kiến là các chữ trong Bát chánh Đạo.

Theo đức Phật, chỉ có con đường trí huệ tức nhận thức chân chính mới giúp con người giải thoát khỏi bể khổ. Vô minh là nguyên nhân chính gây ra khổ đau . Như vậy, muốn được giải thoát, con người cần phải thoát ra ngoài vòng ái ngã, nguyên nhân chính của khổ đau và như vậy cuộc sống mới an lạc. Cũng như vạn vật, cái ngã chỉ do duyên hợp và sẽ biến hoại . Cuộc đời theo chu kỳ sanh, diệt như một bánh xe luân hồi, từ xưa đến mãi về sau . Nhà nhạc sĩ không nói đến bánh xe, nhưng ví như hòn sỏi đá lăn :

Hòn đá lăn bên đồi/ Hòn đá rớt xuống cành mai/ Rụng cánh hoa mai gầy/ Chim chóc hát tiếng qua đời, đến một ngày nọ, nhìn lại mình, chợt một chiều tóc trắng như vôi, người ta bỗng thấy 'nghe tiền thân về chào tiếng lạ, những mai hồng ngồi nhớ thiên thu '(Cỏ xót xa đưa )

Như vậy, bài toán môi trường phải giải quyết từ mỗi cá nhân, từ mỗi hành động: biết đủ là đủ, không tiêu thụ quá sá vì biết rằng con người hôm nay phải để lại cho con người ngày mai các tài nguyên . Không còn tài nguyên thì nhân loại sẽ khổ đau, loạn lạc, gây thêm nạn di dân môi trường.

3.3. Sinh thái học trong Lão giáo

Gọi là Lão giáo, vì cha đẻ của học thuyết này là Lão Tử. Theo học thuyết này thì cái căn nguyên đầu tiên của vũ trụ chi phối mọi việc trên Trái đất này là một cái gì vô hình, vô sắc không có tên; Lão tử gọi là cái Đạo nên học thuyết này còn gọi là Đạo giáo .Chính cái Đạo này làm cho trái đất có 4 mùa, có ngày, có đêm, biển có thuỷ triều, nước lên nước xuống, tóm lại Đạo là luật tự nhiên của Trời Đất, là nguồn gốc của vũ trụ, có trước vũ trụ. Mà cái đạo, tức cái luật tự nhiên, là không cần tranh mà hay thắng, không cần nói mà hay ứng nghiệm, không cần mời mà các vật vẫn theo về, lờ mờ mà hay mưu tính . (Thiên chi đạo, bất tranh nhi thiện thắng, bất ngôn nhi thiện ứng, bất triệu nhi tự lai, thiện nhiên nhi thiện mưu ).

Theo Lão Tử, trời đất với người là một, đều do đạo sinh ra cả .Trong vũ trụ có bốn cái lớn mà Người là một .Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo thì tự nhiên nhi nhiên .(Vực trung hữu tứ đại, nhi nhân cư kỳ nhất yên . Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên) 

Lão giáo với thuyết âm dương, ngũ hành . Mọi vật đều có hai trạng thái âm dương . Âm dương chỉ là thuộc tính mâu thuẫn nằm trong tất cả mọi sự vật; nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn, chi phối mọi sự biến hoá và phát triển của sự vật .Nói chung, phàm gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, ở ngoài, hướng lên, sáng chói, nóng rực đều thuộc về dương và ngược lại là âm .Trong thiên nhiên, mặt trời, ban ngày, phía trên, phía ngoài là Dương còn mặt trăng, ban đêm, phía dưới, phía trong là âm...Âm dương tuy bao hàm ý nghĩa mâu thuẫn, đối chọi nhưng còn bao hàm cả ý nghĩa nguồn gốc ở nhau mà ra, hỗ trợ, ức chế nhau mà tồn tại . Trong âm có mầm mống của dương và trong dương có mầm mống của âm 

Còn ngủ hành là 5 chất căn bản Kim, Mộc, Thũy, Hoả, Thổ.Các yếu tố này cũng tác động tương quan với nhau, theo cả hai nghĩa tương sinh và tương khắc. Khắc và sinh đều cần thiết cho sự quân bình tạo hoá.

Sau đây là vài ví dụ về sự tương sinh và lực lượng đối trọng của nó:

Thuỷ sinh Mộc: nhờ nước mới có cây mọc nhưng Mộc sinh Thủy: nhờ rừng nuôi dưỡng nguồn nước .
Mộc sinh Hoả:Cây cối làm mồi cho lửa đỏ nhưng Hỏa sinh Mộc: tro tàn giúp cây phát triển .
Hỏa sinh Thổ:Tro tàn tích lại làm ra đất nhưng Thổ sinh Hoả: dưới lòng đất là những núi lửa .
Thổ sinh Kim: Lòng đất tạo nên kim loại nhưng Kim sinh Thổ : các đá phún xuất lâu ngày sẽ tạo nên đất .

Và đây là vài ví dụ về tương khắc và lực lượng đối trọng:

Mộc khắc Thổ: Rễ cây đâm xuyên lớp đất còn Thổ Sinh Mộc: đất nuôi cây.
Thổ khắc Thuỷ: Đất đắp đê cao ngăn nước lũ còn Thủy sinh Thổ : dòng nước chở phù sa bồi lắng.
Thuỷ khắc Hoả: Nước dập được lửa còn Hoả sinh Thủy :kim loại nóng sẽ chảy thành nước .
Hoả khắc Kim: Lửa nung chảy sắt thép còn Kim sinh Hoả: các kim loại trong lòng đất phun ra lửa, tạo nên núi lửa.
Kim khắc Mộc: Thép cứng do chặt cây còn Mộc sinh Kim: cây rừng che chở cho các kim loại dưới đất .

Nếu ứng dụng thuyết ngũ hành vào môi trường học thi:

Phá rừng (Mộc) sẽ ảnh hưởng đến chu kỳ nước (Thuỷ) làm lụt lội nhiều hơn, phá vở sự hài hoà giữa 2 chất này. Trồng rừng sẽ làm lưu lượng nước nhiều hơn
Đào bới cát (Kim) làm thay đổi chế độ thuỷ văn của dòng sông (Thuỷ)
Cháy (Hoả) cũng tác động đến rừng (Mộc) và làm đất khô cằn (Thổ )
Bồi bổ đất bằng phân hoá học (Kim) làm hoa màu thêm tốt tươi (Mộc) .Để đất dốc bị xói mòn (Thổ) sẽ làm mùa màng (Mộc) bị hư hại.

Trong sự biến đổi khí hậu hiện nay, chính vì các nhà máy và xe cộ (Kim) phát thải nhiều khí nhà kiếng trên bầu trời (Hoả) làm nhiệt độ Trái đất tãng nên các tảng băng ở Bắc cực và Nam cực chảy làm mặt nước biển dâng (Thuỷ), làm nhiều vùng đất duyên hải bị ngập (Thổ), không thể trồng hoa màu, lấp cây rừng ngập mặn (Mộc).

Sau đây ta thử phân tích ảnh hưởng của vài yếu tố nói trên:

1.nh hưởng trên Thuỷ

- Trên các dòng hải lưu : Ở điều kiện bình thường, các dòng hải lưu nóng (như Gulf Stream) khi chảy vào vùng ôn đới sẽ giải phóng nhiệt, làm không khí ở vùng này ấm lên .Sau đó các dòng hải lưu lạnh dần và chìm xuống tầng nước thấp hơn (do nước lạnh thường nặng hơn nước nóng ) rồi chảy trở về vùng xích đạo .Nhưng khi nhiệt độ tăng sẽ làm các tảng băng ở hai cực tan nhanh, khiến độ mặn giảm đi và cơ chế trên sẽ bị xáo trộn .. Do nước biển càng ít mặn thì càng nhẹ nên các dòng hải lưu khi đã lạnh đi vẫn không thể chìm xuống. Các dòng hải lưu ngừng chảy. Hàng loạt sinh vật biển tuyệt chủng. Biển mất khả năng hấp thụ các loại khí gây hiệu ứng nhà kiếng. Bắc Âu từ trước đến nay, nhờ dòng hải lưu Gulf Stream nên ấm; nếu vậy thì Bắc Âu không còn nhận được dòng không khí nóng từ xích đạo lên sẽ trở thành lạnh.

- Trên đại dương: Khí hậu thay đổi khiến đại dương ngày càng ấm và lớp không khí trên bề mặt đại dương ngày càng nóng ẩm hơn . Bão lớn vì thế ngày càng xuất hiện nhiều hơn: miền Trung xưa kia vài năm mới có một trận bão; ngày nay chỉ riêng năm 2007 đã có 6 trận bão liên tiếp, kéo theo lụt lội, đường hư, nhà sập.. Nói khác đi, nhiệt độ nước biển càng tăng, bão nhiệt đới càng dữ dội .

2. nh hưởng trên Thổ: 

Từ sự ấm lên của Trái Đất, nước biển dâng cao sẽ làm nhiều vùng thấp ven duyên hải bị ngập nước mặn, làm mất đi diện tích canh tác nông nghiệp .

3. nh hưởng trên Mộc: 

Khí hậu nóng lên cũng gây hạn hán, kéo theo cháy rừng làm mất đi sự đa dạng sinh học. Và khi không còn rừng che phủ thì xảy ra xói mòn đất đai (Thổ), thay đổi chế độ thuỷ văn với lũ quét xuất hiện ngày càng nhiều ở vùng núi, gây lụt miền đồng bằng (Thuỷ), đe dọa đến an ninh lương thực (Mộc)

Như vậy, nếu theo suy nghĩ của Lão giáo, vì con người đã làm trái với thiên nhiên như hàng ngày lấy lên từ lòng đất, từ lòng biển hàng triệu thứ từ hột xoàn, kim cương đến nhôm, sắt, khí đốt làm chế biến rồi lại thải ra hàng triệu tấn chất độc mới lại gây lầm than qua thiên tai, bão lụt, hạn hán . Trái lại nếu ta dùng các nguồn năng lượng thuận theo thiên nhiên như năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng thuỷ triều v.v. thì không có gây hậu quả tai hại vì không làm cho khí Co2 tăng lên.

Đó là những năng lượng xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo được. Trồng rừng cũng giúp giảm được khí Co2 vì rừng giúp hút bớt chất Co2 trong không khí, xuyên qua sự quang hợp, tức sự đồng hoá diệp lục tố .

Theo Lão Tử, làm gì cũng theo luật thiên nhiên vì cái tự nhiên rất huyền diệu . Đó là căn bản của thuyết vô vi vì vô vi không có nghĩa là không làm mà chỉ có nghĩa là không làm gì trái với tự nhiên. Thực vậy, vì chủ trương vô vi mà Lão Tử trọng những đức như khiêm, nhu, đề cao sự tiêu diêu, sự hòa đồng với vũ trụ:

Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa
Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên
Thoát trần một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên trên đời

Lão giáo cũng khuyên ta sống cuộc đời giản dị, đơn sơ nghĩa là bớt tiêu thụ mà bớt tiêu thụ cũng đồng nghĩa với giảm bớt nhu cầu năng lượng. Thực vậy, Lão Tử khuyên là 'Hoạ không gì lớn hơn bằng bất tri túc, lỗi không gì lớn hơn bằng muốn cho được, cho nên đủ mà biết đủ thì thường thấy đủ' (Hoạ mạc đại vu bất tri túc, cửu mạc đại vu dục đắc, cố tri túc chi túc thường túc hĩ.)

4. Tìm sự hài hoà giữa người và môi trường.

Ngày nay khung cảnh thiên nhiên càng ngày càng nhỏ dần với sự phá rừng . Sự suy giảm diện tích rừng do dân số tăng, do di dân tự do bùng phát, đã làm suy giảm tài nguyên rừng, tác động xấu đến đa dạng sinh học gây nên hoang mạc, khiến đất đai bị mất phì nhiêu, lụt lội xảy ra liên tiếp hoặc hạn hán . Và khi không còn thảm thực vật rừng thì khả năng tích nước cũng bị giảm và làm quá trình bốc hơi nước từ mặt đất mạnh mẽ hơn, khiến cây cối không đủ nước để sinh trưởng . Phá hủy thiên nhiên là phá hủy luôn con người vì con người sau những giờ làm việc suốt tuần cũng cần có không khí trong lành, nghe lại tiếng chim muông, tiếng suối reo, mặt trăng lên, nhìn mặt trời lặn, để tìm chất lượng của đời sống để có chỗ giảm bớt căng thẳng vốn là một nhân tố giết người nhiều nhất (stress killer ). Stress có thể làm tăng huyết áp, rối loạn tiêu hoá, làm khả năng chống bệnh giảm đi, cũng như kéo theo một lô bệnh của thời đại: lo âu, buồn rầu vô cớ, rồi từ đó là trầm cảm. Tuy nhiên khí nhà kiếng tăng là do các hoạt động của con người trong thế kỷ 20 này. Thực vậy, với các tiến bộ về y tế, tỷ lệ sinh đẻ cao trong khi tỷ lệ trẻ em chết càng ngày càng giảm, tuổi thọ con người cũng tăng, do đó ngày nay dân số trên thế giới càng ngày càng đông, không phải chỉ chừng 1 tỷ người như vài thế kỷ trước mà nay trên 6 tỷ trong đó có 2 nước Á châu là Ấn Độ và Trung Quốc đã trên 2 tỷ.

Slow is beautiful ..để nhái lại tựa đề một cuốn sách nổi tiếng 'Small is beautiful' ! Con người ở thời đại công nghiệp này có tâm trí luôn luôn bị động như robot suốt ngày, làm việc lắp ráp các bộ phận trong dây chuyền sản xuất từ máy điện toán đến ráp xe hơi, máy bay, mọi công đoạn đều lớp lang, có thời lượng quy định. Con người không ai biết nhau, xong việc là về nhà . Tâm lý bị dồn ép. Sự tiến bộ kỹ thuật từ nhiều thập niên gần đây với sự tăng tốc, cái gì cũng Express, nào là Express Post, Fast food, Café Express..làm phá vỡ cấu trúc các xã hội cổ truyền, lối sống.

Thế giới thay đổi quá nhanh, con người không kịp thích nghi với các chuyển biến của thời đại sinh ra mất thăng bằng về tâm lý .. Do đó, trước đây người ta nói không bệnh tật là sức khỏe. Ngày nay, quan điểm về sức khỏe đã mở rộng hơn vì sức khỏe phải gồm 3 phần: sức khỏe cơ thể: khỏe mạnh; sức khỏe tâm thần: vui đời, lạc quan; sức khỏe xã hội: hòa hợp với xã hội, cộng đồng. Tìm hài hoà và an lạc cho tâm hồn chính là đạt đến sự quân bình sinh thái giữa 3 thành tố trên. Trong Phật học thì hoàn cảnh tự nhiên bên ngoài, xã hội nhân văn là y báo còn thân tâm con người là chánh báo . Chánh báo tương ứng với y báo .Y báo chánh báo không hai không khác.

Cuộc cách mạng kỹ nghệ đã đem đến cho nhân loại xe hơi, nhà máy nhưng ngày nay, thế giới có đến 6 tỷ người, chen chúc trong các đô thị lớn (New york, Tokyo, Paris, Mexico city, Thượng Hải v.v...), với xe cộ ngổn ngang chạy bằng xăng dầu, với nhà máy nhiệt điện chạy bằng than đá, với các khu kỹ nghệ tỏa ra mỗi ngày trên bầu trời hàng triệu tấn khí độc.

Con người đang sống vượt xa ngưỡng cho phép. Trong môi trường học có một khái niệm thường gọi là dấu chân sinh thái (ecological footprint) theo đó thì nhu cầu môi trường của con người ( để ăn, mặc, ở v.v.) là 21.9 ha/người trong khi năng lực sinh thái của Trái Đất (đất đai, nước, rừng v.v.) chỉ có thể cung cấp trung bình 15.7 ha/người.

Với dân số đông dĩ nhiên sẽ kéo theo tiêu thụ về thực phẩm, về năng lượng, về nước, về rừng, về khoáng sản v.v.trong khi đó thì tài nguyên thiên nhiên không những suy thoái về lượng (rừng ít đi, đất đưa vào xây cất, nước ngầm thấp xuống v.v.) mà còn về phẩm (sa mạc hoá, mặn hoá, ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí ) ..) và đến một lúc khi tiêu dùng trong kinh tế vượt quá sức sản xuất của vốn tạo hoá sẽ để lại entropi sinh thái càng ngày càng lớn và trở thành vấn đề toàn cầu. Entropy là một khái niệm nằm trong định luật thứ hai của nhiệt động học theo đó hệ thống nào cũng phải du nhập từ ngoài vào năng lượng và vật chất có chất lượng cao (thức ăn, thức uống, v.v.) nhưng cũng phế thải ra ngoài năng lượng và vật chất có chất lượng thấp thì mới tồn tại được .Cũng phải nói thêm là năng lượng và vật chất bị phế thái này không thể trở lại trạng thái ban đầu. Ví dụ: ta sản xuất ra 100 tấn giấy đòi hỏi điện, cây rừng, chất hoá học và cũng phải xả ra ngoài sông suối, ra ngoài không khí các phế thải và dĩ nhiên các phế thải này không thể còn dùng để làm ra giấy nữa.

Tóm lại, tài nguyên trái đất này là hữu hạn và con người phải thích nghi với môi trường sống càng ngày càng suy thoái . Chợt nhớ vài vần thơ trong bài Biển Cả của Phùng Cung với nhiều câu thơ tuyệt vời :

Hỡi biển cả/ Diện tuy rộng nhưng thiếu những giác quan cần thiết/ Lòng tuy sâu mà chứa đầy mầm xanh mặn chát !./ Ôi, bao im lặng thanh cao/ Đều chìm lắng trong thét gào man rợ ! Vậy dẫu có vô cùng lớn lao gì đó/ Ta chỉ yêu cầu phải hài hoà với vô cùng bé nhỏ mà thôi !

5. Kết luận.

Với các phân tích trên nghĩa là Thiên, Địa, Nhân trong Khổng giáo, Ngũ hành theo Lão giáo, trùng trùng duyên khởi cái này có vì cái kia có trong Phật giáo, ta nhận ra rằng mọi phạm trù khí quyển, thủy quyển, địa quyển, thổ quyển, sinh quyển, mọi cái 'quyển' đó đều liên quan mật thiết với nhau tạo ra hệ sinh thái (ecosystem) theo đó thì Một là tất cả và tất cả là Một (Oneness). Chử Một này vốn đã nằm tiềm tàng trong các thành ngữ như thiên nhân hợp nhất, tâm vật dung hợp, nội ngoại không cách biệt, vạn vật đồng nhất thể . Và chính vì mọi vật trong môi trường đều tương liên, tương thuộc, tương tác nên cần giữ trạng thái cân bằng, hài hoà, nếu không môi trường sẽ mất thăng bằng và cạn kiệt. Đó chính là đạo lý môi trường nằm tiềm tàng trong cả 3 học thuyết/tôn giáo nói trên .

Loài người phải nhận thức rằng hành tinh Trái Đất ta ở đang có xu hướng gặp thảm họa do dân số tăng, do sự kiệt quệ các tài nguyên tự nhiên như đất, nước, dầu mỏ, sự xuống dốc môi trường sống và tình trạng thiếu lương thực.

Con người phải ý thức chúng ta đang sống trên một con thuyền . Thuyền chìm thì nhân loại cũng chìm theo . Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của mọi người và của mỗi người.

Cũng y hệt như tiền trong trương mục ngân hàng, con người của thế hệ hôm nay chỉ có quyền sử dụng phần lời, đừng đụng chạm đến phần vốn, vì vốn (vốn đất, vốn rừng, vốn nước...) phải dành lại cho các thế hệ mai hậu. Trái đất này là của chung, mọi việc đều liên quan đến nhau: khí dioxit cacbon trên khí quyển là một khí không biên giới; bầu không khí O3 (ozone) là không biên cương. Nó không tuân thủ các ranh giới hành chánh của các chính phủ. Môi sinh có thể nhìn dưới dạng vĩ mô hay vi mô. Trên cương vị vĩ mô, đó là trái đất, là một xứ, trên phạm vi vi mô đó là một quả đồi, một thung lũng, một dòng sông, một cái hồ. Giáo dục cho mỗi người về sự cần thiết của niềm đồng cảm giữa người và vũ trụ, tình gắn bó giữa con người với thiên nhiên để con người yêu thêm thiên nhiên, tạo vật sẽ giúp nhân loại tránh được bờ vực thẳm do sự biến đổi khí hậu toàn cầu gây ra mà nhiều nhà khoa học đã tiên đoán và càng ngày càng ứng nghiệm.

Thái Công Tụng

Tài liệu tham khảo sơ lược

Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê . Đại cương triết học Trung Quốc
Grenier L'esprit du Tao. Flammarion 1973
Nguyễn Thanh Liêm. Lão giáo trong Đồng Nai Cửu Long số 7 .Tháng 9, 2007
Nguyễn Thành Long . Ô nhiễm và thanh tịnh môi trường. Pháp Âm số 81 . Tháng 1/2005
Nguyễn Đăng Trúc . An hoà trong Tam giáo trong Việt Nam : Văn hoá và Môi trường . Khai Trí Cali sắp xuất bản
Nguyễn Ước . Đạo học đại cương, Nho học đại cương trong www.talawas.orgTrúc Cư Nguyễn Đương Tịnh . Tư tưởng Á Đông trong Tập san Y sĩ số 163 Montreal tháng 10, 2004