Thứ Bảy, 12 tháng 6, 2021

Love Story – Chuyện Tình (Francis Lai 1970)


Đàn & Hát: Phạm Ngọc Lân

Patience (Rabindranath Tagore) - Kiên Nhẫn (Lộc Bắc)


Patience

If thou speakest not I will fill my heart with thy silence and endure it.
I will keep still and wait like the night with starry vigil
and its head bent low with patience.

The morning will surely come, the darkness will vanish,
and thy voice pour down in golden streams breaking through the sky.

Then thy words will take wing in songs from every one of my birds' nests,
and thy melodies will break forth in flowers in all my forest groves.

Rabindranath Tagore
***
Bài Dịch:

Kiên Nhẫn

Nếu em chẳng hé một lời
Anh đem im lặng lấp nơi tim mình
Tháng năm chịu đựng lặng thinh
Tối khuya sao giữ, đêm trinh cúi đầu

Bình minh rồi sẽ đến mau
Bóng đêm tan biến, em trào suối yêu
Suối vàng lan tỏa những chiều
Bầu trời lấp lánh sao nhiều bao la

Lời em chắp lại bài ca
Bầy chim anh dưỡng cánh đà vút cao
Lời thơ em hát ngọt ngào
Biến thành hoa nở lao xao cây rừng!

Lộc Bắc
Jui21

Ngôn Từ "Hoàng Hoa" Trong Thi Văn Cổ Điển

Hoàng hoa nghĩa là hoa vàng, thường dùng để ám chỉ Hoa Cúc. Tuy nhiên trong thi văn cổ điển của nước Việt, ngôn từ "Hoàng Hoa" còn có 2 nghĩa khác.  

(1)

Trong Chinh Phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn có câu:

 

            Tối khổ thị liên niên tử tác nhân

            Tối khổ thị thiên lý hoàng hoa thú

 

Đoàn Thị Điểm dịch:

 

            Xót người lần lữa ải xa

            Xót người nương chốn hoàng hoa dặm dài

 

Giải thích ngôn từ "Hoàng Hoa":


            Mỗi năm tới tháng 9 (mùa thu) là hoa cúc nở thì lính đi thú và đến tháng 9 năm sau thì trở về.  Vì thế nên gọi lính đi thú ở chốn Hoàng Hoa hay vào thời Hoàng hoa.

 

(2)

Trong Kinh Thi có 5 bài thơ "Hoàng Hoàng Giả Hoa" tả người chinh phu đi khắp nơi để tìm hiểu trong thiên hạ.

 

Hoàng Hoàng Giả Hoa     Những Đóa Hoa Rực Rỡ 
 
Hoàng hoàng giả hoa           Những đóa hoa non tươi rực rỡ
Vu bỉ nguyên thấp                Gò trũng kia đua nở khắp nơi
Tuy tuy chinh phu                Chinh phu rong ruổi bao người
Mỗi hoài mỹ cập.                 Việc lo chẳng kịp lòng thời xốn xang.
 
Ngã mã duy cu                      Kéo xe ta ngựa câu dũng mãnh
Lục bí như nhu                      Sáu dây cương lấp lánh chói lòa
Tải trì tải khu                         Lướt mau chạy gấp ra xa
Chu viên tư tưu.                     Hỏi han rộng rãi để mà hỏi thăm.
 
Ngã mã duy kỳ                      Sắc xanh đen ngựa kỳ vút chạy
Lục bí như ti                          Sáu dây cương mềm mại như tơ
Tải trì tải khu                         Lướt mau chạy gấp xa mờ
Chu viên tư mưu.                   Đến nơi rộng rãi tìm dò hỏi thăm.
 
Ngã mã duy lạc                      Ngựa lạc ta bờm đen mình trắng
Lục bí ốc nhược                     Sáu dây cương bóng láng chói lòa
Tải trì tải khu                          Lướt mau chạy gấp ra xa
Chu viên tư đê.                       Hỏi thăm rộng rãi để mà lo toan.
 
Ngã mã duy nhân                    Ngựa ân ta trắng chen đốm sặm
Lục bí ký quân                        Sáu dây cương thấy nắm điều hòa
Tải trì tải khu                           Lướt mau chạy gấp ra xa
Chu viên tư tuân.                     Đến nơi đi khắp để mà dò thăm.


Từ đó, ngôn từ "Hoàng Hoa" được dùng để công việc của sứ giả.  

Bài thơ của Trùng Quang đế tặng Nguyễn Biểu khi sai ông đi sứ sang gặp Trương Phụ đã dùng ngôn từ nầy với ngụ ý như vậy.

 

Tặng Nguyễn Biểu Đi Sứ (Xướng)


Mấy vần thơ cũ ngợi hoàng hoa

Trịnh trọng rày nhân dắng khúc ca

Chiếu phượng mười hàng tơ cặn kẽ

Vó câu ngàn dặm tuyết xông pha

Tang bồng đã bấm lòng khi trẻ

Khương quế thêm cay tính tuổi già

Việc nước một mai công ngõ vẹn

Gác Lân danh tiếng dọi đâu xa. (*)

(Vua Trùng Quang Đế Trần Quí Khoách)

 

(*) Chú thích: 

            Kỳ Lân Các nơi vua Hán Quang Vũ Đế nhà Đông Hán treo hình của 24 công thần.

 

Từ Tạ Vua Trùng Quang (Họa)


Tiếng ngọc từ vâng trước bệ hoa 
Ngóng tai đồng vọng thuở thi ca 
Đường mây vó ký lần lần trải 
Ải tuyết cờ mao thức thức pha 
Há một cung tên lồng chí trẻ
Bội mười vàng sắt đúc gan già
Hổ mình vả thiếu tài chuyên đối
Dịch lộ ba ngàn dám ngại xa.

(Nguyễn Biểu)

 

Ngô Thì Nhậm cũng dùng ngôn từ "Hoàng Hoa" để tiễn bạn mình làm sứ giả đi sứ sang Trung Quốc. Ông còn nhắc xuất xứ của ngôn từ "Hoàng Hoa" là từ Kinh Thi.

 

Tống Hữu Bác Sứ                                                   


Hoàng hoa thịnh tuyển phú “Chu tuân” (*)          
Nãi quyến tinh thiều thuộc cựu nhân                      
Bạch ngọc kiền tương Bồ Bản bắc (*)                      
Yên ba bão duyệt Động Đình xuân (*)                    
Ứng thù chính diệu kinh quyền chước                    
Tiếp tế chuyên nghi lễ độ tuần                                 
Mí cổ thử hoài lưu giản chú                                    
Quy biền tái bích sủng quang tân
( Ngô Thì Nhậm)             

***                                               

Tiễn Bạn Đi Sứ Phương Bắc   


Hoàng hoa sứ mệnh mới trao tay
Ngó cỗ xe là bạn trước đây
Bồ Bản đắc dâng sân ngọc lụa
Động Đình xuân ngắm cảnh hồ mây
Kinh quyền vận dụng đua tài khéo
Lễ độ điều hòa tỏ chước hay
Cất nhắc hẳn nhờ trên nghĩ ngợi
Xe quay sau đó móc mưa đầy.

(Đào Phương Bình dịch)

 

(*) Chú thích:

            Trong bài Hoàng hoàng giả hoa của Kinh Thi thuộc Phú (theo Chu Hi) có câu "Chu viên tư tuân" (Thăm hỏi khắp nơi).

            Tinh thiều: ám chỉ xe của sứ giả.

            Bồ Bản = kinh đô của vua Thuấn, ngày nay thuộc h. Thủy Tế, Sơn Tây.

            Bắc Bồ Bản: ám chỉ Yên Kinh, kinh đô của nhà Thanh (thời ông Ngô Thì Nhậm).  Ngày nay là Bắc Kinh, Hà Bắc.

            Động Đình hồ ở Hà Nam (Trung Quốc), nơi có nhiều cảnh đẹp thường được sứ giả ngoại quốc đến thăm.

 

Ông Ngô Thì Nhậm còn gom lại tất cả những bài thơ của ông làm trong những lần đi sứ (ở Trung Quốc) vào một tập thơ mang tựa đề là Hoàng Hoa đồ phả.

 

Bs Phan Thượng Hải biên soạn

Giòng Sông Và Chiếc Cầu



(Cảm tác Le Pont Mirabeau/G.Apollinaire)

Nhìn theo giòng nước trôi đi
Lẻ loi tiếc nhớ mối tình đã qua
Ngăn sao ánh mắt lệ nhoà
Dấu xưa kỷ niệm vỡ oà trong tim_

1/
Trao anh một trái tim hồng
Tình anh chảy mất như giòng sông Seine
Cầu Mirabeau vững bền
Mãi là biểu hiện tình em nồng nàn
Cho em một khối tình chân
Tình em trôi giạt dưới cầu biệt tăm
Mirabeau vững ngàn năm
Giòng sông Seine chảy không nằm lặng yên

2/
Hoặc lòng thay trắng đổi đen
Tình yêu như nước sông Seine chảy hoài
Hoặc duyên chẳng hợp lâu dài
Cuộc tình dang dở nhạt phai bẽ bàng
Hoặc do biến cố phũ phàng
Phá tan hạnh phúc uyên ương mặn mà
Thế rồi thời gian phôi pha
Sông Seine vẫn cứ chảy qua dưới cầu
Mirabeau nặng nỗi sầu
Một mình đứng lặng cúi đầu trên sông
Nhìn theo sóng nước xuôi giòng
Trôi đi... đi mãi về vùng hư vô

ChinhNguyên/H.N.T.
 June.7.2021

Tháng Sáu Ở Đây

(Ảnh: Trúc Lan KTP)

Tháng sáu mùa hạ đã về đây
Rực rỡ ngàn hoa xuân ngất ngây
Cỏ cây như cũng reo vui lắm
Lòng người như cũng thắm tươi hơn

Bên hiên gió mát như cợt đùa
Phơn phớt trên da hồng mượt mà
Giọt nắng reo vui len lách ngỏ
Có tiếng đôi chim như tỏ tình

Quanh tôi vạn vật bổng hồi sinh
Nhẹ nhàng thoải mái cả thân mình
Đông tàn trôi hết bao phiền muộn
Sắc màu tô đẹp tựa bình minh

Trúc Lan KTP
 06/21

Một Kỳ Quan Của Thế Giới

(From India - Ảnh Thịnh Nguyễn)

Cùng các anh chị và các bạn,

Tháng 12 vừa qua (2020), Sigma Academy of Photography (SAP) đã phối hợp với viện bảo tàng quốc gia Salar Jung/ bộ văn hóa của chính phủ Ấn Độ (Ministry of Culture, Govt. of India) để tổ chức một cuộc thi nhiếp ảnh quốc tế. Đây là 1 salon có 5 sections với một hội đồng giám khảo uy tín quốc tế gồm 15 người từ USA, Canada, Hong Kong, Cyprus và India. Ngoài ra, các giải Gold, Silver và Bronze medals còn được tiền thưởng (cash prizes).

Trong thể loại Du Lịch (Travel Photography section), tác phẩm mang tựa đề “Machu Picchu” đã đoạt được Gold medal(*).

Machu Picchu ở Peru là một biểu tượng của nền văn minh Inca. Nó còn được gọi là “the lost city of the Incas” và được bình chọn là “one of the seven wonders of the modern world”. Machu Picchu được xây dựng vào thế kỷ thứ 15(năm 1450) để làm thành quách và hoàng cung  cho các vị vua Incas.  Tuy nhiên, 80 năm sau đó nơi đây bị bỏ hoang vì dịch bệnh đậu mùa (theo Wikipedia) và trở nên hoang tàn đổ nát. Mãi đến năm 1911, thế giới mới biết đến nơi này, nhờ sự khám phá của nhà thám hiểm kiêm sử gia người Mỹ tên Hiram Bingham.

UNESCO đã thừa nhận đây là một trong những di sản văn hóa thế giới vào năm 1983.

Năm 2012, chúng tôi có theo một đoàn du lịch người Việt đến đây, do anh Trần Nguyên Thắng của ATNT tour hướng dẫn (**). Tấm hình “Machu Picchu” đã được chụp trong dịp này.

Xin giới thiệu một khoảnh khắc của Machu Picchu đã làm rung động lòng người (lữ khách 😊), và một tấm hình, giữa hàng ngàn tác phẩm dự thi, đã may mắn lọt vào mắt xanh của các ban giám khảo.  

 “Macchu Picchu” cũng đã được một số huy chương và giải thưởng ở những cuộc thi nhiếp ảnh quốc tế khác. Mới nhất là một Gold medal từ Sri Lanka trong cuộc thi nhiếp ảnh quốc tế tại đây vào tháng trước . 

Thân tình,

Thịnh Nguyễn

T.B.

(*)Tiền thưởng tặng cho quĩ từ thiện, tác giả chỉ giữ Gold Medal làm kỷ niệm.      

(**)Tấm hình “Tango Café” cũng đã được chụp trong chuyến đi này. Tour Nam-Mỹ này có khoảng 50 người Việt, mà đa số là các anh chị trong nhóm YKSG (67-74). Tuy không trong nhóm, chúng tôi có đi chung vài tours với các anh chị. Rất vui.

(From Sri Lanka)

Hình kỷ niệm của tác giả tại Machu Picchu năm 2012 (lúc không còn trẻ lắm😊😉😉):


Thịnh Nguyễn

 

Thứ Sáu, 11 tháng 6, 2021

Em Ðến Từ Nghìn Xưa - Trịnh Công Sơn - Tuấn Ngọc


Sáng Tác: Trịnh Công Sơn
Ca Sĩ: Tuấn Ngọc
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình

Tình Xa

 
( Tình Si - Họa Sĩ Mùi Quý Bồng)

Đề Thơ Từ Ảnh: 

Tóc mây huyền vẫn ấp mùi hương
Gởi nhớ nhung xa tận chiến trường
Nhờ nguyệt trải tình yêu thắm thiết
Đến người lính trận tít ngàn phương

Lặng lẽ sầu vây góc giảng đường
Lệ dâng khoé mắt biệt người thương
Bao lời ước hẹn ngày đưa tiễn
Bóng dáng thời gian luống đọan trường!

Kim Oanh
Nhớ Sài Gòn

Ta Còn Gì Với



Ta còn gì với tháng năm
Còn tay đã mỏi còn lòng đã hao
Quanh đây những vẫy tay chào
Đêm nằm nghiêng lại phía nào cũng đau!

Thì thôi mây đã qua cầu
Trôi theo con nước ngả màu trăm năm
Có người ngồi tựa nhánh sông
Chờ mùa trăng cũ một dòng tâm hư

Theo nhau cuối những giã từ
Về đây bóng núi hồ như rất gần
Thấy gì giữa cõi trầm luân
Thấy thương yêu cũng mộ phần biển dâu

Ta còn gì với niềm đau
Còn hương phấn cũ nếp nhàu áo xưa
Còn môi trong những chiều mưa
Về đây hứng giọt sầu lưa thưa ngày

Nhớ người tay chắp bàn tay
Nhốt trong khoảnh khắc gió đầy hôm qua
Dáng ai khuất nẻo quê nhà
Ta còn gì với chiều xa xứ buồn...


Durham, North Carolina
Người Chợ Vãng

Quy Tâm



Bài Xướng:

Quy Tâm


Từng cánh xuân rơi mái thảo đường
Khói chiều buông nhẹ ý hoài phương
Màu mây quan tái cười luân lạc
Tiếng quốc biên thùy giục nhớ thương
Áo trắng mong cài hoa cựu uyển
Trời hoang vẫn lạnh nguyệt sa trường
Mỗi đêm, ôi mỗi đêm tàn mộng
Ai có đau lòng ta cố hương

Bùi Khánh Đản
(Văn - số xuân Đinh Mùi 1967)
***
Bài Họa:

Ly Khúc


Lênh đênh từ độ bước lên đường
Mang nỗi u hoài nơi viễn phương
Ai có ngậm ngùi muôn nẻo nhớ ?
Ta hằng vương vấn một trời thương
Lưu vong đã hẳn sầu ly khách
Chung cuộc còn đây hận chiến trường
Biển vẫn nghìn trùng, con sóng vỗ
Bao giờ trở lại, hỡi quê hương!

Nguyễn Kinh Bắc

9-9-17


Nhà Thơ Phương Du


Nhà thơ Phương Du tên thật là Nguyễn Bá Hậu, sinh năm Giáp Tý, người làng Phương Canh, tỉnh Hà Đông. Tốt nghiệp Y khoa bác sĩ năm 1952, sau đó phục vụ trong QLVNCH, là một trong 10 vị bác sĩ đầu tiên trong ngành Quân y. Sau khi giải ngũ, ông cùng gia đình sang Pháp định cư năm 1971. Nhà thơ Phương Du theo khuynh hướngThơ Mới nhưng có nhiều bài Đường Thi, nhất là Thơ Xướng Họa.

Làm một bài thơ Đường đã khó, làm thơ Đường để họa lại càng khó hơn! Phương Du không những làm nhiều thơ Đường, đôi khi có những bài họa hay hơn bài xướng. Thơ ông gồm nhiều thể loại: thơ bảy chữ, thơ song thất lục bát, thơ lục bát, thơ ngũ ngôn, thơ tứ tuyệt, thơ tự do, ca trù, sẩm huê tình, hát nói. Thơ Phương Du có bài mộc mạc như lời nói chân quê, có bài tinh xảo, rất tỉ mỉ khéo léo như trạm những mảnh ốc xà cừ trong tranh. Nhà thơ dùng những ngôn ngữ chân tình không sáo ngữ hoặc những lời cường điệu, vì "thơ là người", cách biểu lộ của tâm hồn thi nhân mà Phương Du tính lại rất hiền hòa thể hiện qua lối sống giản dị. Chính ngôn ngữ chân phương đó đã minh họa được những bức tranh cảnh nhiều màu sắc của thôn quê, của xã hội của ông. Nhà thơ đã diễn tả tâm trạng của kẻ tha hương luôn vương vấn nỗi buồn viễn xứ.

Nhà thơ xuôi về miền Nam nước Pháp nhìn những dãy núi Pyrénées trùng điệp giữa Pháp và Tây Ban Nha chạnh lòng mơ màng nhớ về những đồi núi của của quê hương:
"Trước làn gió núi mây hồng lướt,
Bên suối thông ngàn suối bạc reo"
(Đèo Ngoạn Mục)

Mang thân phận tha hương, trong lòng của nhà thơ luôn ngậm ngùi nhớ về cố quận :

"Ngày đêm khắc khỏai sầu vong quốc
Sáng tối âm thầm khóc cố hương."
(Hận Ly Hương)

Gót chân người tha hương phiêu bạt trên khắp phố thị phồn hoa dù lộng lẫy, rực rỡ của xứ người nhưng nào có nguôi ngoai được nỗi buồn tha hương!

"Trên đường đời gió bụi,
Ngậm ngùi nhớ cố hương."
(Tàn Thu)

Hình ảnh trong thơ đậm nét quê hương từ lũy tre làng, bờ đê, đồng lúa đến phồn hoa phố chợ. Dù xa quê lúc tuổi nhỏ để lên Hà Nội học nhưng ký ức rtuổi thơ vẫn sống mãi trong tâm hồn ông là lũy tre làng miền quê đất Bắc năm xưa.

"Rạng bàng, cây gạo, cây sung,
Bụi tre khóm trúc, cây tùng, cây giang,
Cây đa cổ thụ đầu làng
Tháp chùa cao vút giữa hàng cau thanh…"
(Nhớ Quê)

Hoặc:

"Hương giang dòng nước lững lờ,
Ngự bình duyên dáng đỉnh mờ hơi sương.
Đẹp thay Vỹ dạ, Thọ xương
Phú văn lâu với phố phường ngày xuân.
Chuông chùa Thiên mụ vang ngân,
Hãy còn văng vẳng như gần đâu đây."
(Xuân Nhớ Huế)

"Xuânvề, lấm tấm mưa rơi,
Thăng long ngày Tết đẹp tươi mơ màng;
Hàng gai, hàng trống, hàng đường,
Quanh Hồ Hoàn kiếm áo hồng thướt tha;
Ngọc sơn chuông mõ vang xa,
Nhịp cầu Thê húc vào ra muôn người.
Trang nghiêm yên lặng ngoài khơi,
Tháp Rùa cổ kính nhìn trời nghinh xuân."
(Xuân Nhớ Thăng Long)

Trong một cuộc Hội Luận đề tài Ý Nghĩa Cuộc Sống Của Loài Người, do Câu Lạc Bộ Văn Hóa Paris tổ chức quy tụ nhiều trí thức văn nghệ sĩ Paris. Hiện diện có GSTS Hàn Lâm Viện Sĩ Lê Mộng Nguyên và Phu nhân Nicole, GSTS Phạm Đình Liên, GSTS âm nhạc Quỳnh Hạnh, Giáo sư Trịnh Khải, GS Minh Cầm, GS Phạm Thị Nhung, Linh mục Nguyễn Văn Hội, Nhà thần học TS Nguyễn Tấn Phước, TS Từ Thu Hương, TS Phan Thị Hải, TS Trần Văn Thu, TS Võ Hùng Anh, Bác sĩ Nguyễn Bá Hậu và Phu nhân Kiều Hạnh, Bác sĩ Phan Khắc Tường, Bác sĩ Nguyễn Bá Linh, Nhà biên khảo Mỹ Phước Nguyễn Thanh, Nhà biên khảo Nguyễn Đức Tăng, Nhà văn Hồ Trường An,Nhà văn Từ Trì, Nhà thơ Đỗ Bình, Nhà thơ Từ Thạch, Nhà giáo Vũ Thúy Hằng, KS Kim Thu, Bà Bạch Sương đại diện tạp chí Nguồn, nhà thơ Nguyễn Mây Thu đại diện tạp chí Cỏ Thơm..v.v... Nhà thơ Đỗ Bình đã đặt một câu hỏi: "Ai sinh ra ta?".
BS Nguyễn Bá Hậu, vị niên trưởng ở tuổi 90 xin phát biểu trước:

"Theo tôi đây là một đề tài rộng lớn. Con người là một thành phần của vũ trụ. Muốn biết ai sinh ra ta thì ta phải biết ai tạo dựng ra vũ trụ hay là vũ trụ được tạo dựng như thế nào?... Và mọi sự xảy ra trong vũ trụ đều là huyền bí... Những người theo Thiên chúa giáo nhờ có Thánh kinh mà biết được nguyên nhân làm ra những điều huyền bí về việc tạo dựng vũ trụ..." (Sách Sáng Thế- Genèse).
(trích bài tường thuật của Nguyễn Mây Thu)

Những buổi hội luận tiếp nối về đề tài ‘Cuộc Sống’ nhà thơ Phương Du minh họa một bài thơ của thi sĩ Nguyễn Khuyến:

" Mái tóc chòm xanh chòm lốm đốm.
Hàm răng chiếc rụng, chiếc lung lay...
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt.
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe"
Nguyễn Khuyến)

Đồng cảm với rhi sĩ Nguyễn Khuyến về tuổi ngià, nhà thơ Phương Du cũng cảm nhận về ‘Niềm Vui Và Nỗi Buồn’ Của Đời Người, ông phát biểu:
"Vui hay buồn đều do sức khỏe chi phối, khoảng thời gian từ tuổi 15 cho đến 70 con người ít đau ốm nên được hưởng nhiều thú vui. Từ 70 tuổi trở đi, sức khỏe suy kém, cơ thể con người không được lành mạnh nên nhiều bệnh tật sẽ xảy ra và đó là nguyên nhân của những nỗi đau buồn."

"Vui thay tứ khoái ở trên đời.
Thiên hạ ai ai cũng hưởng chơi.
Đừng bảo rằng đời là bể khổ,
Trời cho tứ khoái đủ vui rồi."
(Phương Du)

Trong số thơ mang hương vị đời của Phương Du nói đến thời thế, thân phận con người, đời tha hương, sự đau khổ và đức tin…nhiều bài là thơ Tâm linh, thấm nhuần nhiều tư tưởng Phật Giáo, Lão Giáo, Khổng Giáo. Nhưng nhà thơ là một tín đồ Thiên Chúa Giáo rất nhiệt thành nên làm thơ tôn giáo nhằm truyền bá đạo hơn là làm thơ Đạo. Lời Chúa trong kinh Thánh :
‘Sau khi chết những người giàu qua cửa vào nước thiên đàng khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim khâu’

"Chúa phán dạy phải làm việc thiện.
Giúp kẻ nghèo thể hiện tình thương,
Và khuyên nên phải nhớ rằng :
Lắm tiền vào nước thiên đàng khó khăn."
(Chớ Mê Tiền)

"Tình yêu Chúa sáng soi cao cả,
Như Thái dương rọi tỏa bao la.
Ba năm rao giảng gần xa,
Luôn luôn nhắc nhở phải hòa thuận nhau."
(Tình Yêu Thiên Chúa)

Ngoài Thơ, biên khảo, sáng tác nhạc Thánh ca, ca trù, hát nói, nhà thơ Phương Du còn viết bài hát dân ca theo điệu Xẩm huê tình, là những bài hát của những nghệ sĩ mù thường dùng lời ca để tìm kế sinh nhai, Phương Du viết theo thể dân ca nghe buồn man mác mà không bi lụy. "Bài Hát Xẩm" trích trong Thi tập Tình Thương của tác giả:
"Non nước ơi! Kể từ khi ta dấn thân ra đi lưu lạc chốn quê người, sầu chia ly, sao chưa cạn, mà cuộc đời buồn bã cứ qua trôi... Non nước ơi! Dân tình ta trông thật là đói rách, thảm thương: ăn chẳngđủ no, mặc không đủ ấm, đau yếu thời thường chẳng có thuốc thang... Non nước ơi! Luồng gió tự do, mai đây thổi tới, sẽ quét sạch phỉ phường, tha hương ta lại lên đường trở về kiến thiết quê cha...".
(Phương Du)

Một lần sinh hoạt văn hóa khác, ngày đó nhà thơ Phương Du đã vào tuổi 92, thần trí của ông rất minh mẫn, giọng nói vẫn còn khỏe, và phát biểu:
“Văn hóa là một điều bao gồm những thành tựu của các hoạt động thuộc đủ mọi ngành của một dân tộc. Nó luôn luôn biến đổi theo dòng thời gian, mỗi ngày một tiến triển nhanh hay chậm cho hợp với nhu cầu của tình thế. Văn hóa càng phát triển thì mức sống của nhân dân, nhất là dân trí, cũng sẽ được nâng cao. Ý thức được điều này chúng tôi đã lập ra CLBVH Ba Lê từ hơn 20 năm nay để đóng góp một phần nhỏ vào sự vun bồi văn hóa Việt. Mong rằng trong tương lai CLBVH sẽ có nhiều vị vui lòng cộng tác với chúng tôi để cho CLB được mãi mãi trường tồn”.

Tác Phẩm:

Ông là tác giả của 3 tập Thơ: Tha Hương 1, 2, thi tập Tình Thương, tập biên khảo: Hoa Tâm và nhiều bài biên khảo giá trị. Ngoài ra ông còn viết nhạc, thực hiện 3 CD Thánh Ca.

Con Người Thi Sĩ

Nhà thơ Phương Du là một khuôn mặt nổi của cộng đồng người Việt ở Paris, ông được mọi người yêu mến qúy trọng vì có một bản tính đôn hậu, một tấm lòng bao dung, khiêm tốn, ăn nói từ tốn dễ thân thiện.Nhà thơ còn là một trong những cột trụ của Ba Lê Thi Xã và Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam tại Paris, nơi quy tụ những tâm hồn thiết tha với lý tưởng tự do, yêu Chân Thiện Mỹ và luôn hướng về quê hương.
Ngày 27 - 03 - 2010 tại Montrouge, một buổi sinh hoạt do Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris tổ chức. Mở đầu phát biểu của BTC về ý nghiã buổi sinh hoạt, kế đến ông mời vị niên truởng nhà thơ Phuong Du Nguyễn Bá Hậu ngỏ đôi lời về quá trình những sinh hoạt văn hóa Việt Nam của Hội:

"Khởi thủy là Ba Lê Thi Xã, một hội thơ có khuynh huớng Đường Thi do hai cố thi sĩ Hương Bình GS Cao Văn Chiểu và Hàm Thạch GS Nguyễn Xuân Nhẫn sáng lập vào năm 1981... Thời gian sau, Nữ si Minh Châu GS Thái Hạc Oanh cùng với nhà thơ Phương Du là những cột trụ của Ba Lê Thi Xã. Hội quy tụ nhiều trí thức khoa bảng, như giáo su đại học, bác sĩ, luật gia, học giả, dịch giả…vv…nhưng có tâm hồn thơ ; nên có nhiều nguời đã thành danh trong làng thơ truớc 75 và hiện nay. Thời gian trôi đi, nhiều nguời trong nhóm đã khuất như : nhà thơ Đào Trọng Đủ, nhà thơ Hương Bình Cao Văn Chiểu, nhà thơ Hàm Thạch Nguyễn Xuân Nhẫn, nhà thơ Bằng Vân Trần Văn Bảng, nhà thơ Đàn Đức Nhân, nhà thơ Huỳnh Khắc Dụng, nhà thơ Luong Giang Phạm Trọng Nhân, nhà thơ Phuợng Linh Đỗ Quang Trị, nhà thơ Nguyễn Thuờng Xuân, nhà thơ Việt Hoài, nữ sĩ Liên Trang Phạm Thị Ngoạn (Ái nữ cụ Phạm Quỳnh), nữ sĩ Thanh Liên. Những nguời còn sống như: Nhà thơ Song Thái Phạm Công Huyền (ngoài cửu tuần), nữ sĩ Minh Châu Thái Hạc Oanh, nữ sĩ Quỳnh Liên Công Tằng Tôn Nữ Quỳnh Liên, nữ sĩ Phạm Thị Nhung, nhà thơ Vân Uyên Nguyễn Văn Ái, nhà thơ Khuê Trai Vũ Quốc Thúc, nhà thơ Phuong Du Nguyễn Bá Hậu, nhà thơ Huong Giang Thái Văn Kiểm, nhà thơ Hoài Việt Nguyễn Văn Hướng, nhà thơ Hồ Trọng Khôi, nhà thơ Đỗ Bình …vv… Năm 1991 nhà thơ Đỗ Bình gia nhập và là nguời trẻ tuổi nhất đã bỏ ra nhều công sức giúp ích rất đắc lực cho Ba Lê Thi Xã quy tụ những nhà văn nhà thơ hải ngoại. Năm 1998 sau khi GS Trần Văn Bảng qua đời, nhà thơ Đỗ Bình nhận lãnh trách nhiệm điều hành. Các buổi sinh hoạt tổ chức hội họp đuợc nhà thơ Đỗ Bình mở rộng ở nhiều nơi. Mặc dù sức khỏe bị tàn phá do chiến tranh và tù đày nhưng lòng say mê văn nghệ đa thúc đẩy nhà thơ nhiều năm dài dấn thân dẫn dắt con thuyền văn hóa, giúp cho Ba Lê Thi xã vững mạnh, tiến xa và trở thành CLB văn hóa VN Paris tồn tại cho đến hôm nay."

BS Nguyễn Bá Hậu nói tiếp:

"Tháng 12 - 2009 vừa qua, trong sinh hoạt của CLB nhân buổi ra mắt sách « Hoa Đao Năm Ngoái » của Họa sĩ, nhà văn, nhà thơ Nguyễn Hữu Nhật, lúc gần bế mạc, nhà thơ Đỗ Bình đã xin từ chức chủ tịch CLB vì lý do sức khỏe, mọi nguời hiện diện đều thông cảm cho sức khỏe của anh và đa tiến cử Bác sĩ Phan Khắc Tường lên thay điều hành CLB. Nhà thơ Đỗ Bình cũng đa bàn giao CLB cho BS Phan Khắc Tuờng."

Sinh Hoạt Cộng Đồng:

Nhà thơ Phương Du và các thành viên trong CLB Văn Hóa VN Paris đã thường hay tổ chức những sinh hoạt Văn học Nghệ thuật : Hội Luận: "Tư Tưởng Triết Học", "Khoa Học và Tâm Linh"."Những Điều Huyền Bí Về Sự Sáng Tạo Vũ Trụ". " Giới Thiệu Tác Phẩm và Tác giả"… Ông từng làm giám khảo trong cuộc thi Hoa Hậu Áo Dài năm 2000 tổ chức ở Pavillon Baltard một trong những hí viện hàng đầu của Paris.
Tham gia Phong trào giúp người Vượt biển, Người Ti nạn ở Palawan…

Ất Mùi vào ngày 14-03-2015, Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris đã tổ chức họp mặt sinh hoạt tại Montrouge chủ đề Chiều Xuân, với phần diễn thuyết và hội luận về "Những Điều Huyền Bí Về Sự Sáng Tạo Vũ Trụ". Khách mời tham dự là những khuôn mặt quen thuộc trong giới sinh hoạt Văn Hóa ở Paris.
Nhà thơ Phương Du Nguyễn Bá Hậu tường trình sơ lược về sinh hoạt văn hóa của CLB trải qua một khoảng thời gian dài mấy thập niên: "Chúng ta sống ở hải ngoại đã 40 năm. Về vấn đề văn hóa, tôi xin chia làm hai mức: hai mươi năm đầu, Ba Lê Thi Xã (BLTX) gồm những nhà thơ lão thành khoa bảng, những nhà trí thức ở Việt Nam di cư sang Âu Châu, rất nổi tiếng về thơ Đường, nhưng bây giờ tuổi đã quá cao, họ chết gần hết chỉ còn lại một vài người thôi như nhà thơ Vân Uyên Nguyễn Văn Ái, nhà thơ Quỳnh Liên Cao Văn Chiểu, tôi, và Đỗ Bình là người trẻ nhất. Chúng tôi cũng nghĩ xa là BLTX sẽ thiếu hội viên vì họ qua đời cả, sẽ có ít người làm thơ Đường nên chủ trương thành lập CLBVH mà chúng ta được họp mặt sinh hoạt như bây giờ. Hơn hai mươi năm nay rồi, CLBVH mở rộng tầm hoạt động ra đủ thể loại: thơ, thơ tự do, văn, nhạc, hội họa… để các nghệ sĩ khác đều được tham dự. Nếu muốn tìm hiểu về BLTX ở giai đoạn thứ nhất thì tôi biết được nhiều, sẽ cố vấn cho những ai muốn biết, còn về CLBVH ở giai đoạn thứ nhì thì ai cũng biết rồi, nó dễ hơn".

Dù xa quê hương đã lâu nhưng lòng ông vẫn trĩu nặng những thế sự thăng trầm của đất nước. Tình yêu quê hương của ông đã thể hiện trong suốt mấy chục năm cống hiến trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa Việt Nam ở hải ngoại. Qua sự miệt mài và tận tụy đó, nhà thơ Phương Du được đưa vào tập tuyển Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris.

Có thể nói thi sĩ Phương Du là một trong những người bạn thơ tri kỷ của tôi ở Paris. Trước khi gặp nhà thơ, tôi thường gnhe giáo sư Trần Văn Sinh kể chuyện Hà Nội thưở xa xưa, và thời ông du học ở háp về nước năm 1949. Ông nhắc tên một số người bạn của ông trong đó có bác sĩ Nguyễn Bá Hậu, ông rất khen: «Đó là một người hiền hòa đúng như cái tên và có nhân cách từ thuở ông Hậu còn là sinh viên y khoa Hà Nội !».

Trong một sinh hoạt văn hóa do chúng tôi tổ chức tôi hân hạnh được quen biết nhà thơ và trở nên thân thiết cho đến ngày ông ở lìa trần. Trong Ba Lê Thi Xã sau khi nhà thơ Hương Bình Cao Văn Chiểu và nhà thơ Hàm Thạch Nguyễn Xuân Nhẫn qua đời, nữ sĩ Minh Châu Thái hạc Oanh làm hội trưởng, nhà thơ Phương Du Nguyễn Bá Hậu làm phó hội trưởng và nhà thơ Đỗ Bình làm tổng thư ký. Mặc dù là cây cột trụ trong Hội Thơ nhưng những lần hội thảo tranh luận về thơ, nhà thơ Phương Du là người ít ý kiến nhất. Ngược lại trong những cuộc hội thảo tranh luận do câu lạc bộ văn hóa tổ chức ông là người hăng say phát biểu nhất.
Cách nay 30 năm cho dù nhà thơ Phương Du đã ra 3 tác phẩm thơ, nhưng các bạn của ông chỉ xem ông là người thích làm thơ, một nhà tu tại gia. Trong khi đó giáo sư Trần Văn Bảng lại được công chúng gọi là thi sĩ Bằng Vân mặc dù ông là giáo sư, bác sĩ. Do đó nhà thơ Phương Du giảm bớt giờ khám bệnh để dành cho việc nghiên cứu văn chương Việt Nam và Thế giới. Từ đó ông trở thành một nhà thơ nổi tiếng ở Paris, một người dấn nthân cho văn hóa đến khi giã từ cuộc đời.

Một tâm hồn bao dung:

Năm 1995 Câu Lạc Bộ văn Hóa VN Paris tổ chức Buổi sinh hoạt văn học giới thiệu tác phẩm của nhà thơ Phương Du tổ chức tại Hội Trường Quốc Tế Paris. Ngoài số khách mời của câu lạc bộ, còn một số khách đặc biệt là thân hữu, gia đình của nhà thơ Phương Du do chính ông gởi thiệp mời.

Trong lúc nhà thơ Phương Du ký sách tặng, nhà thơ Đào Tiềm là một trong số khách mời đặc biệt của nhà thơ Phương Du. Cụ Đào Tiềm du học ở Pháp từ thập niên 40, trông cụ như một đạo sĩ, tóc búi tó, râu dài bạc trắng, trang phục như thời Việt Nam cổ xưa. Cụ bước lên cầm tập thơ và nói với nhà thơ Phương Du:
"Tôi tưởng anh Hậu làm thơ chơi mà lại ra mắt sách!"
Tôi là người điều khiển chương trình nghe Cụ nói mà giật mình, chưa biết phản ứng thế nào vì đây là khách mời đặc biệt của nhà thơ !
Tôi thấy nhà thơ Phương Du vẫn điềm tĩnh trả lời:
"Thưa Bác, Vì hoàn cảnh đất nước tâm hồn tôi không khỏi ưu tư ! Tôi làm thơ không phải để lành thi sĩ, đó là những trăn trở của đời tha hương, tôi viết ra để nói lên tấm lòng người dân. Bác Đào Tiềm không thấy tựa những cuốn thơ của tôi là Tha Hương và Tình Thương?"

Cụ Đào Tiềm:
"Tôi sẽ đọc, khi nào xong tôi sẽ đến anh đàm đạo thơ".
Hai người cười nói vui vẻ.

Với đức tính khiêm nhường và bao dung của nhà thơ Phương Du làm chúng tôi qúy trọng.
Sự ra đi của nhà thơ Phương Du Nguyễn Bá Hậu là một mất mát vô cùng lớn lao riêng cho CLBVHVN-Paris, và cũng là sự mất mát chung cho những công trình bảo tồn và phát huy văn hóa Việt Nam hải ngoại.

Đỗ Bình
Paris 9.06.2021

Quán Cà Phê Cây Cau


Hôm nay cuối tháng 4 âm lịch
Cũng là ngày thứ Tư trong tuần
Ngày mai tháng 5 muà mưa bụi
Lát phất mưa hoài dạ bâng khuâng.

Ta gặp nhau chưa tròn buổi hẹn
Thật bất ngờ tại quán Cây Cau
Quán yên tỉnh lâu lâu gặp lại
Vẫn như xưa cây cảnh muôn màu.

Ông chủ quán xưa là lính chiến
Đến miền Trung trấn thủ lưu đồn
Tôi quân y , thật ra lính kiển
Xui khiến gặp nhau tại Bồng Sơn.

Tôi khách mới nhưng là người cũ
Bỡi vì là chiến hữu ngày xưa
Nhường quán cho con trai làm chủ
Gặp tôi cậu ấy vẫn cợt đùa.

Tôi, Minh Cưng chụp chung tấm ảnh
Nhìn ảnh mình tôi không nhận ra
Ông nào da nhăn nheo, má hóp
Ôi nào hay mình đã quá già.

Bức ảnh được đăng trên fa bút
Ông chủ Hà Kia ngửi được mùi
Đọc nhìn thấy”chúc mừng chú khỏe”
Cháu mà hay qua uống cùng vui.,,

Thật quý hóa tuổi già sức trẻ
Bỏ bê công việc ở bên mình
Lâu lâu uống cà phê vui vẻ
Để gởi cho nhau một chút tình….


Dương hồng Thủy
Thứ Tư 09/06/2021

Nếu...



NẾU...chữ tín lòng ta vẹn giữ
NHẬN...đừng quên... vạn thứ tùy duyên
ƠN...người nặng mãi triền miên
NHỚ...đừng bội nghĩa lụy phiền cho nhau

TRẢ...cho hết mai sau không bận
ƠN...đã mang gánh nặng thật nhiều
NẾU...lòng toan tính lắm điều
VAY...vay trả trả đốt thiêu tâm hồn

NỢ...ân tình vùi chôn đâu dể
NHỚ...làm người không thể phụ vong
TRẢ...người trả cả tấm lòng
NỢ...trong một kiếp khó mong đáp đền

NẾU...ngày đó đã quên lời hẹn
LÀM...sao đây để thẹn với lòng ?
SAI...rồi đừng nghĩ như không
NHỚ...làm sao để đục trong tỏ tường

SỬA...lòng mình tìm đường ngay thẳng
LỖI...ta gây phải nhận về ta
NẾU... đường lạc lối đã qua
ĐÃ...tìm nẻo phải lòng ta quay về

HỨA...một câu lời thề phải trọn
NHỚ...đừng quên đừng đoạn tâm tình
GIỮ...sao cho vẹn lòng mình
LỜI...nguyền vàng đá sắt đinh chẳng dời...!!!

Hồng Vân
4/5/2019

Thứ Năm, 10 tháng 6, 2021

Có Phải - Thơ: PhamPhanLang - Nhạc: Vĩnh Điện - Ca Sĩ Đông Nguyễn


Thơ: PhamPhanLang 
Nhạc: Vĩnh Điện
Ca Sĩ Đông Nguyễn

Hoa Rơi Quanh Chú Tiểu

(Ảnh: Nguyễn Ngọc Khôi)

Đề Thơ Từ Ảnh:


Chú tiểu mê quả sầu riêng
Ngờ đâu lại khiến mẫu đơn...rụng rời.
Hoa rơi, từng cánh hoa rơi,
Ngồn ngang trăm mối lòng người, thương sao!

Chẩm Tá Nhân
***
Tính Sao

Chú tiểu bụng muốn sầu riêng
Mẫu đơn thầy dạy cánh tiên… rã rời
Niệm kinh từng chữ rụng rơi
Đầu căng, bụng đói hỏi người tính sao?

Lộc Bắc
Jui21

Tập Thiền



Lắng lòng quên tạm phút giây
Vi vu thở nhẹ, tâm này thênh thang
Hít sâu cho bụng nở căng
Thở ra chầm chậm, mênh mang bềnh bồng
Hơi thở này nhẹ như lông,
Đầu vai thư giãn, tay buông, chân bằng
Tâm tịnh không nghĩ lan man
Trong, thanh, trống vắng như làn khói bay
Hồn như thoát khỏi xác này
Lênh đênh quyện với áng mây trên trời
Thời gian dừng lại với tôi
Quên phòng thiền tọa, quên người ngồi bên
Hồn trong trạng thái tĩnh nhiên
Số không tròn trĩnh, tâm thiền trống trơ
Tiếng chuông từ cõi hư vô
Ngân lên nhắc gọi nhập vô thế trần
Vươn vai co giãn toàn thân
Xả thiền thoải mái, nhẹ tênh trong lòng

Thúy M
6/8/21

Tự Tại

 

Thơ&ThơTranh: Nguyễn Thị Thêm

Chỉ Là Một Hơi Thở

Hôm qua nghe thày thuyết giảng kinh,
Chủ đề cuộc sống. Chuyện thường tình.
Đời người chỉ là một hơi thở,
Ranh giới giữa hai bờ tử sinh.

Chào đời cùng tiếng khóc oe oe,
Hơi thở đầu tiên đến với ta,
Bao nhiêu nhịp thở bao khôn lớn,
Theo những cảnh đời ta đã qua.

Đếm sao hết nhịp thở mừng vui,
Hay khi ta tức giận nghẹn lời,
Tim đập nhanh hơi thở dồn dập,
Cảm xúc bất thường áp huyết cao.

Đếm sao hết nhịp thở u buồn,
Tiếng thở dài lạnh cả núi non,
Đời có bền đâu mà hờn tủi,
Mong chờ gì những chuyện sắt son.

Chán đời ta chỉ biết thở than,
Đời không định hướng mây lang thang,
Đời có dài đâu mà ngoảnh mặt,
Hưởng vội Xuân đi kẻo Xuân tàn.

Thở ra rồi hít vào thật sâu,
Mong buồng phổi khoẻ, mong sống lâu,
Sông dài núi rộng hãy chờ nhé,
Ta vẫn muốn đi đến bạc đầu.

Chỉ là một hơi thở mà thôi,
Tham sân si không bao giờ vơi,
Có bắt đầu sẽ có kết thúc,
Có sinh có diệt một kiếp người.

Khi ốm đau hay khi gìa nua,
Nhìn lại quãng đường ta đã qua,
Mới tin trần gian là cõi tạm,
Ta tội nghiệp ta một kẻ khờ..

Hơi thở cuối cùng, thở hắt ra,
Xuôi tay lịm chết trong hôn mê,
Tình yêu, bạc tiền và danh vọng…
Giây phút này thì có nghĩa gì.

Chỉ là một hơi thở. Cuộc đời
Mong manh và như một trò chơi,
Trò chơi vui nhưng đầy khắc nghiệt,
Theo ta đến ngừng thở, tàn hơi.


Nguyễn Thị Thanh Dương


Cát Bụi Mà Thôi



Rồi cũng về cát bụi mà thôi
Ai cũng một lần sống trong đời
Vất vả lo toan thời tuổi trẻ
Một ngày buồn "tóc trắng như vôi"

Cát bụi mà thôi, xin hãy nhớ
Gìn giữ yêu thương ngày hôm nay
Đừng để đến mai này nếu lỡ
Xa rồi, đánh mất tình nồng say

Đời sống mong manh như sợi tơ
Có ai biết đâu những bất ngờ
Mới sáng bình minh đẹp rực rỡ
Bỗng chiều hoàng hôn màu tím mờ

Đời chỉ là giấc mộng qua nhanh
Sao còn đắm chìm trong hờn ganh
Đã biết bao lần vương yếu đuối
Gió cuốn mây trôi một kiếp người

Lữ khách gian trần, đến rồi đi
Nhân thế bao la còn lại gì
Nụ cười, khổ đau hay nước mắt
Khoảnh khắc sum vầy hay biệt ly?

Cát bụi mà thôi, hãy nhớ cho
Vui sống lời Ngài, bớt âu lo
Yêu Chúa yêu người, yêu tất cả
Vì ai cũng sẽ là bụi tro!

Edmonton, Ash Wednesday 2019
Kim Loan
" Ngày Sau Sỏi Đá Cũng Cần Có Nhau..." (TCS)

Tất Cả Đều Hay

 

- Bảo thủ. Cái Tôi là nhất.
- Quan tâm về số lượng hơn chất lượng
- Coi trọng hình thức hơn nội dung.
Có lẽ đây là bản chất của đa số người Á Đông, trong đó có người Việt chúng ta?
Có phải đây là những nỗi ám ảnh cho sự tiến bộ chăng?
Không biết đúng không. Nhưng nhìn vào xã hội hiện tại, ta thấy quá nhiều lạm phát. Gần như tất cả đều lạm phát.

Lạm Phát Học Sinh Giỏi

Nhìn vào thành tích các trường, từ Tiểu Học cho đến Trung Học, muốn tìm học sinh kém thật là khó. Học sinh có giỏi thật chăng. Điều này Trường nào cũng công nhận, nó được thể hiện qua thành tích cuối niên học. Niên học kết thúc hoàn mỹ. Các Thầy Cô đã cố gắng để Ban Giám hiệu không phải thua sút các trường khác. Làm đúng ý các cấp lãnh đạo. Và cũng vui lòng phụ huynh học sinh. Tôi thật sự giựt mình, khi có một phụ huynh tâm sự:
" Cháu nó học dở quá, con của người ta năm nào cũng có giấy khen Học Sinh Giỏi, còn con mình chỉ trung bình với kém. Cháu mới nói với Giáo viên chủ nhiệm, thì được câu đáp: Thế chị muốn cháu có giấy khen Học Sinh Giỏi không?"

Đúng là phụ huynh thì muốn bằng chị bằng em, còn giáo viên có cách biến học sinh kém thành học sinh giỏi!

Lạm Phát Học Vị Học Hàm

Để nhận xét đúng về trình độ dân trí một địa phương, thời đại nào cũng thế, chỉ cần tìm hiểu nơi đây có bao nhiêu giáo sư, tiến sĩ...bộ máy chính quyền có nhiều người có bằng cấp cao hay không? Có bao nhiêu nhà sách, các thể loại sách bán. Có bao nhiêu trường học, sự uy tín, khả năng đóng góp nhân tài cho xã hội...

Có lẽ vì thế, mà ngày nay các trường Đại Học, Cao Đẳng, Học Viện mọc lên khắp nơi, tỉnh nào cũng có. Theo tin báo điện tử Vietnamnet , thống kê của bộ Giáo Dục và Đào Tạo ngày 11/8/2017, số lượng trường Đại Học, Cao Đẳng và Học Viện là 235 trường với 1.767.879 sinh viên. Bộ phận giảng huấn 72.972 người ( trong đó, kể cả những người chưa đủ khả năng và trình độ thực sự) cũng không đủ giảng viên.
Theo vietnamnet.vn ngày 06/3/2014, vào năm 2013, Việt Nam có trên 24.300 Tiến sĩ. Số phục vụ ngành đào tạo Đại học và Cao Đẳng 9.152 người. Số còn lại hơn 15.000 đa số phục vụ trong bộ máy chính quyền.
Đáng mừng hay đáng lo? khi chúng ta được khen là có số lượng Học Vị sau đại học, Học Hàm đứng đầu Đông Nam Á tính trên tỷ lệ dân số.
Thầy đã thế còn Trò? Số sinh viên tốt nghiệp đạt rất cao, không dưới 90%, Vàng thau lẫn lộn. Trong đó, chắc rằng thau sẽ chiếm đa số. Thế rồi mọi đội ngũ Cô Cử, Cậu Cử tạo nên một đoàn quân thất nghiệp, phải đi làm các việc chỉ cần biết chữ; trình độ bậc Cơ Sở hay Trung học.
Như thế, trình độ dân trí nước ta có thật sự cao chăng? Hay chỉ là mèo khen mèo dài đuôi?

Lạm Phát Lời Khen

- Ồ giỏi quá! thêm bước nữa đi con...
Tiếng khen reo mừng của người mẹ, khuyến khích đứa con vừa chập chửng những bước đầu tiên trong đời.
Một tiếng khen mang ý nghĩa tốt đẹp, quý biết dường nào. Lời khen xuất phát từ đáy lòng, mang đến cho người nhận sự khích lệ lớn lao, sẽ làm tăng sự tự tin và cố gắng hơn.

Ngày trước, Nguyễn Vĩnh có bài viết gây xôn xao dư luận: "Gì Cũng Cười", còn chúng ta giờ đây "Gì Cũng Khen". Hay cũng khen, dở cũng khen, chẳng biết gì cũng khen.
Nhìn các diễn đàn trên mạng Internet, có những trang, khen nhau là chính. Tôi viết, anh khen, anh viết, tôi khen. Anh và tôi, chúng ta có xứng đáng được khen chăng?
Chỉ biết rằng lời khen xuất phát từ phép lịch sự, tính cả nể, dễ dãi của người Việt chúng ta.
Trên các trang mạng, chủ yếu chỉ vui đùa giải trí, nên chuyện khen nhau cần gì đúng sai? người ta khen mình thì mình khen lại thôi. Đấy chẳng qua là "Có đi có lại mới toại lòng nhau".
Hay là điều này xuất phát từ bản chất háo danh, nặng về cái tôi. Ở ta, của ta cái gì cũng hay, cái gì cũng đúng, cái gì cũng tốt đẹp hơn của người. Thích được khen và có ác cảm với người chê, dẫn đến việc các Người điều hành Trang Web, cùng các Cộng Tác Viên khen nhau vô tội vạ. Tự hào và hãnh diện, như ngầm bảo với mọi người chúng tôi là những người hay, giỏi?
Có cần thế không?

Không bàn về những lạm phát khác, với những lạm phát trên, chúng ta kết luận thế nào?
- "Ôi xã hội Việt Nam của tôi, một xã hội không có người dở, không có người kém. Tất cả đều giỏi, tất cả đều hay!"

Huỳnh Hữu Đức

Thứ Tư, 9 tháng 6, 2021

Một Cánh Hoa Rơi - Sáng Tác Nhạc Sĩ Nguyễn Đình Toàn - Đệm Đàn: Đinh Sinh Linh


Nhạc Sĩ: Nguyễn Đình Toàn
Đệm Đàn: Đinh Sinh Linh   
Tiếng Hát: Minh Châu 


Con Ve Đa Sầu Đa Cảm



Sáng nay bách bộ trên sân cỏ
Một con Ve nhỏ đáp lên vai
Đôi mắt Ve nhìn tôi buồn tẻ
Cất tiếng than thỏ thẻ bên tai:

"Lão Mã Sơn ơi, tôi buồn quá!
Cuối Hè nầy tôi xin từ giã
Vĩnh biệt ông, tôi trở xuống hang
Thân tôi sẽ trở thành bụi cát
Tôi và ông hết còn gặp lại.
Than thở xong, Ve cất cánh bay.

Thương con vật đa sầu đa cảm
Nhìn theo Ve hai mắt tôi cay
Tôi thầm hẹn sẽ có một ngày
Tôi và Ve sẽ còn tái ngộ
Nơi nào đó, trong cõi hư vô.

Hoa Đô, Hè 2021
Lão Mã Sơn


Bỏ Quên



Quên thuyền, bỏ mái biệt sông
Quên hờn, bỏ giận xuống dòng bến mê
Quên lời khen, bỏ tiếng chê
Quên vùng cát trắng chửa hề bận tâm

Bỏ giây, quên phút lỗi lầm
Bỏ lo, quên nản hết chăm cau mày
Bỏ ưu phiền chẳng chấp ai
Bỏ đôi gánh nặng chừ say giấc nồng

Quên chờ, bỏ đợi nhớ mong
Quên ganh, bỏ hận xoáy vòng nhục vinh
Quên mình chẳng đếm tuổi mình
Hồn như tưới tẩm nụ xinh mượt mà!

Bỏ niềm mơ mộng thiết tha
Bỏ thời quá khứ ngọc ngà thủa xưa
Bỏ làn gió, quên làn mưa
Bỏ đường giong ruổi mới vừa dọc ngang

Quên sầu muộn cõi thế gian
Quên lần toan tính bạc vàng trả vay
Quên tâm mệt mỏi suốt ngày
Quên nguồn vọng tưởng đà day dứt lòng

Bỏ danh lợi nhiễm sắc không
Bỏ cầu thôi mãi chất chồng ước mơ
Trăng tròn, trăng khuyết hững hờ
Gìn thân tứ đại giữa bờ tịch nhiên.


Như Thu
06/07/2021


Mộng Rớt Vai Nằm


Trông người thả nhớ về đâu
Thả bâng khuâng chút nắng hầu gió đưa
Cõi riêng một đoá mong chờ
Góp gom mấy thuở tình cờ dấu hoa

Nghiêng vai thả gánh giang hà
Rượu đời cạn chén nhạt nhoà mây bay
Lên non xuống biển cát đầy
Nắm tay chút phận cùng ngày tháng vui

Nửa hiu hắt nửa ngậm ngùi
Bóng chiều như đã lưng đồi cỏ xanh
Buông tay dứt tuổi xuân tình
Đường về hoa gấm cũng đành bao la

Thương người sợ xác xơ hoa
Gió đưa gió đẩy phong ba bồi hồi
Yêu thơ yêu cả đất trời
Tình còn chi nữa để đời đón đưa

Nhớ người nên hắt hiu thơ
Biết nhau tuổi muộn lòng từ tốn đi
Sáng mưa chiều nắng thôi thì
Chuyện trăm năm biết còn gì trăm năm

Bỗng dưng mộng rớt vai nằm
Hồn thơ còn sắt son thầm thì cho
Bến xưa xưa vẫn vắng đò
Bài thơ vàng đá đôi bờ phấn bay.

Hoa Văn
6/2/2021

Tôi Làm Thơ



Tui từ nhỏ chí lớn
Cắt cổ không ra một câu thơ
Chỉ trừ có một lần
Khi học Đệ Tứ niên
Phải làm một bài lục bát
Nộp cho thầy chấm điểm

Tui còn nhớ bài thơ tả
Đôi giày mỏ vịt moccasin
Mốt thịnh hành thời đó
Ba cho tiền sắm diện Tết

Tui vốn dân làng quê
Chỉ muốn được thư thả
Thơ thẩn gì lại phải theo luật
Bằng bằng trắc trắc bằng bằng trắc

Đang khi thi hứng bay bỗng
Xỏ mủi dắt vô khuôn
Yến sỉ phi lý thuần ắt dong tuốt
Còn thơ thẩn nỗi gì?

Cho nên chẳng chịu làm thơ
Nói vè còn họa may
Khi viết cũng như nói
Chẳng niêm luật buộc ràng

Nào ngờ cũng biết mần thơ
Dzụ nầy là do nhà văn Võ Kỳ Điền
Gởi lại hai bài viết
Kể lể tâm tình nơi xứ Thủ ngày xưa

Nhớ cảnh cũ người xưa
Mới lần tay gõ phím
Từng câu từng câu hiện
Lòng cảm thấy ngậm ngùi

Bình Dương, Bình Dương của ai
Bài thơ trữ tình đầu tiên
Những vần thơ lã lướt
Những vần thơ bằng văn xuôi

Nguyễn Thành Nhơn




Cao Nguyên Phố Núi Cao Phố Núi Mù Sương

Abstracts

 This paper which aims at providing an assessment of the Central Highlands of Viet Nam is structured into 10 sections.

Following the introduction on geographical setting in section 1, section 2 describes the main  ecosystems which are natural units, relatively uniform in terms of geomorphology, climate and soils. Section 3 deals with the climatic conditions of the region.  In section 4, water resources with main river systems are appraised. In section 5, soils resources, with emphasis on soil taxonomy and soil genesis  are discussed. In section 6, ethnic minorities of the Central Highlands are presented. Agricultural systems  with main crops like coffee, tea, mulberry, rubber, pepper are assessed in section 7. Demography trends are presented in section 8. Section 9 provides many development issues such as food security, soil erosion and soil fertility, energy, infrastructure development, education problems of ethnic minorities, biodiversity conservation, reforestation, land tenure, agricultural credit, off-farm income. Finally, the concluding remarks are presented in section 10 .


1. Tổng quan


Ngoài  các đồng bằng và các châu thổ (sông Hồng, sông Cửu Long) không cao hơn mực nước biển bao nhiêu, Việt Nam còn có những cao nguyên nằm phía tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận. Những cao nguyên như vậy, thường được gọi là Cao Nguyên Trung Phần, còn gọi là Tây Nguyên (dưới đây sẽ viết tắt là TN) có rất nhiều đặc trưng nếu so sánh với các đồng bằng miền Trung, về nhiều mặt, từ khí hậu, đất đai, chủng tộc, đến sử dụng đất đai.

 Trước hết, TN gồm các tỉnh sau: Kontum, Giarai (Pleiku), Dak Lak, Dak Nong và Lâm Đồng mà sau đây ta hãy tìm hiểu thêm về diện tích và dân số:


Tỉnh                          Diện tích (km2)                  Dân số (1996)   

Kontum                  11 560                                260 000   

Gia Lai (Pleiku)      16 060                                824 000   

DakLac(BanMeThuot)   13 062                            1 667 000   

Dak Nong                       6 514                                      363 000 

Lâm Đồng (Dalat)        9  953                                722 322   


Tỉnh Daklak sau 1975, gồm cả hai tỉnh Daklak (thị xã Ban Me Thuot) và Quảng Đức (thị xã Gia Nghĩa) họp lại, nhưng năm 2003 lại tách ra làm 2 như trước 1975. Tỉnh Quảng Đức đổi tên là Dak Nong.

Tỉnh Gia Lai sau 1975, gồm cả ba tỉnh Kontum, Pleiku và Phú Bổn (thị xã Hậu Bổn tức Cheo Reo cũ) họp lại . 

Tỉnh Lâm Đồng, sau 1975, gồm hai tỉnh Tuyên Đức (thị xã Dalat) và Lâm Đồng cũ (thị xã Bảo Lộc hoặc Blao). Tuy nhiên, cũng có thể trong tương lai, các tỉnh này lại được phân chia như trước 1975. Bằng chứng là sau 1975, nhiều tỉnh được gọp lại: Bình Trị Thiên, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Bắc Thái nhưng nay trở lại như trước năm 1975: Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên (thay vì Bình Trị Thiên), Quảng Ngãi, Bình Định (thay vì Nghĩa Bình), Phú Yên và Khánh Hoà (thay vì Phú Khánh) v.v...

Diện tích của các tỉnh trên là 57 149 km2, tức 5.714.900 ha. Nhưng nếu kể cả các miền cao của các tỉnh  miền Trung từ Quảng Trị vào đến Bình Thuận thì diện tích Tây Nguyên cao hơn nhiều. Vì TN có cao độ biến thiên từ 400 mét như ở Ban Mê Thuột đến 1500 mét như ở Dalat nên khí hậu cũng có nhiều biến thiên và đất đai cũng vậy. 

TN, ngoài các cao nguyên, còn có những thung lũng rộng hẹp khác nhau. Những thung lũng lớn, bao quanh bởi các rặng núi cao thì phải kể thung lũng Sông Ba ở Cheo Reo (Phú Bổn cũ), thung lũng Lạc Thiện ở Đông Nam thị xã Ban Me Thuot, thung lũng sông Sesan và các phụ lưu của sông này như Dak Poko và Dakbla ở Kontum.


2. Các hệ sinh thái chính


Tây Nguyên bao gồm cả các vùng đất cao tạo ra những cao nguyên/ bình nguyên lẫn vùng đất thấp của những đồng bằng hay thung lũng .

2.1 vùng đất cao.


Trong vùng đất cao, có thể phân biệt những sinh hệ sau:

2.1.1 dãy núi Trường Sơn


 Từ miền núi cao phía bắc Kontum, phía sau đồng bằng Quảng Nam, giải Trường Sơn chạy dài từ Bắc xuống Nam, ngăn cách vùng TN với đồng bằng duyên hải Trung Việt. Giải núi này rất dốc về phía Đông vì gần biển còn phía Tây nó thoai thoải để tạo thành nhiều cao nguyên như cao nguyên Pleiku, cao nguyên Daklak, cao nguyên LangBiang, cao nguyên B'lao-Di Linh.. Có nhiều chỗ giãy núi này đâm ra tận biển, tạo ra những mũi như mũi Varella, mũi Né .

 Giải núi này rất đa dạng về nhiều mặt:

-địa chất, vì có nhiều loại đá rất cổ, trước cả đại địa chất thứ nhất, tạo thành nền đá gốc mà các nhà địa chất học thường gọi là 'khối Kontum'; 

-thảo mộc vì có nhiều loại thực vật cảnh: rừng dày, rừng thưa, thảo nguyên v.v.

.-khí hậu:  giải núi này là bức tường phân biệt khí hậu giữa Đông Trường SơnTây Trường Sơn : phía đông, tại các đồng bằng duyên hải, mùa mưa trễ hơn, từ tháng 10-11 trong khi phía tây, nghĩa là phía cao nguyên, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5. Nói khác đi, bên này là mùa nắng thì bên kia là mùa mưa.

2.1.2 vùng núi Ngọc Lĩnh ở  thượng Kontum.


Giữa bắc Kontum và các đồng bằng Nam-Ngãi, là giãy núi Ngọc Linh, với đỉnh cao nhất 2 598m, cấu tạo bởi đá granite cùng các đá gơnai, đá phiến mica, riolit. Thấp hơn đỉnh Ngọc Linh là các đỉnh khác như Ngọc Pan 2 251m, Ngoc Niay cao 2 259m, nằm giáp ranh hai huyện Dak Gley và Dak To, Ngoc Krinh 2 025m nằm phía TB huyện Kon Plong, tỉnh Kontum; từ đỉnh giải Ngọc Lĩnh, có thể nhìn thấy tứ phía: đồng  bằng Quảng Ngãi-Quảng Nam phía đông, xứ Lào phía tây. Sườn núi dốc và sông suối có thung lũng hẹp, dòng nước chảy mạnh và cũng từ sườn Đông rặng núi này phát xuất nhiều dòng sông chảy xuống các đồng bằng Nam, Ngãi. Rừng núi ở đây có nhiều loại gỗ quý và nhiều thú hiếm.

 

2.1.3 cao nguyên Kon Plong


Cao nguyên này có cao độ 1 100-1 300 mét có bề mặt bị chia cắt mạnh tạo nên những quả đồi, và nằm phía đông Kontum, giữa Kontum với Quảng Ngãi.


2.1.4 cao nguyên Kontum 


(550m) kéo dài từ vùng Tân Cảnh, Diên Bình, Võ Định đến thị xã Kontum. Kontum theo tiếng dân tộc bản địa Ba Na có nghĩa là làng hồ, do xưa kia có rất nhiều hồ nước (kon= làng; tum=hồ, ao) xung quanh .. Có sông Poko giới hạn phía Tây chảy từ thượng lưu quận DakTo chảy xuống. 

Các địa danh như Tân Cảnh, Kontum là nơi xảy ra nhiều trận kịch chiến giữa quân đội Việt Nam Cộng Hoà với quân Bắc Việt vào tết Mậu Thân (1968) và nhất là mùa hè đỏ lửa (1972). Một trong những căn cứ đó có tên đồi Charlie nằm phía Bắc thị xã Kontum đã được bất hủ hoá qua bài hát Người ở lại Charlie:


Anh! Anh! Nhớ anh trời làm cơn bão
Anh! Anh! Tiếc anh chiều rừng thay áo
Trưa Khe Sanh gió mùa, đêm Hạ Lào thức sâu
Anh! Cũng anh vừa ở lại một mình,
vừa ở lại một mình
Charlie, tên vẫn chưa quen người dân thị thành.
(Người ở lại Charlie )

2.1.5 vùng đồi Sa Thầy

Với đất feralit đỏ vàng trên mácma axit (granit, rhyolite) ở phía Tây sông Poko, có nhiều đập thuỷ điện (Sesan, Ya Ly) trên con sông Sesan .Tại đây có khu bảo tồn thiên nhiên Chư Môm Rây là một vùng rừng nguyên sinh giáp biên giới Lào;  ở đây có thể có sự tồn tại của bò xám, một loài động vật hoang dã qúy hiếm có tên trong Sách Đỏ thế giới.

2.1.6 cao nguyên Pleiku.


 Nhắc đến Pleiku, ta liên tưởng đến bài hát quen thuộc trong đó có các câu :

Em Pleiku má đỏ môi hồng

Ở đây buổi chiều quanh năm mù sương...


Cao nguyên Pleiku, với diện tích 4 500 km2, có cao độ trung bình 800 mét, trước kia là một vùng thấp nhưng có dung nham núi lửa phun trào lên và lấp lên khá dày, lâu ngày hóa thành đất đỏ; hiện nay vẫn còn một đỉnh núi lửa đã tắt,  ngọn Chi Hdrung có cao độ 1 025 mét và quanh ngọn núi lửa còn có những hồ miệng núi lửa như hồ Do Nau Eng Prong. 


Dạng vòm cao nguyên Pleiku tạo ra đường chia nước của hai lưu vực: phía Đông là sông Ba chảy xuống Tuy Hoà và phía tây là lưu vực sông Mekong. 

Phía Đông cao nguyên Pleiku là những rặng núi granit và rhyolit kéo dài của thượng Kontum; quốc lộ 19 từ Qui Nhơn lên Pleiku phải xuyên qua đèo Mang Giang (740m).

Phía Tây  cao nguyên Pleiku có cao độ thấp hơn; đặc biệt tại đây có địa danh PleiMe với thung lũng Ia Drang là nơi đã từng xảy ra những trận kịch chiến với quân đội Bắc Việt năm 1966.

 Giữa cao nguyên Pleiku và Daklak, có dãy núi granit Chư Pha (732m), đầu nguồn Ea Heo.


2.1.7 cao nguyên Daklak. 


Cao nguyên này có cao độ trung bình 400-500 mét, và khá bằng phẳng xung quanh thành phố Ban Me Thuot. Phía đông-nam Ban Me Thuot là các dòng sông Krong Anna, Krong Kno và có những cánh đồng phù sa rộng lớn như quanh hồ Lạc Thiện. 

Đây là nơi người dân tộc Rhade sinh sống; tộc người Rhade có trình độ văn hoá khá cao, so với các tộc người khác; họ biết trồng lúa nước. Ban Don phía tây Daklak là một địa danh chuyên nghề săn bắt và thuần dưỡng voi. 


2.1.8 cao nguyên M 'Drak (Khánh Dương).


 Cao nguyên này có cao độ quãng 500 mét, nằm giữa Ban Me Thuot và Ninh Hoà, có dạng lượn sóng nghiêng về phía Tây. Thấp dần về phía đông nam đến hồ Lạc Thiện (Lac), nằm ở một nơi trũng ăn thông với sông Krong Ana, thấp dần về phía Tây xuống thung lũng sông Srepok.


2.1.9 cao nguyên Dak Nong (Gia Nghĩa trước 1975).

 

Cao nguyên Dak Nong, với diện tích  3 800 km2, nằm phía tây cao nguyên Di Linh và phía nam cao nguyên Daklak. Có thị xã chính là Gia Nghĩa, trước 1975, thuộc tỉnh Quảng Đức. Vào thời đại xa xăm của địa chất, cao nguyên Di Linh và Dak Nong là một khối thống nhất nhưng bị các hoạt động đào xẻ bởi sông Da Dung và các phụ lưu nên không còn giữ mặt bằng ban đầu nữa mà chia ra các mảng nhỏ lớn khác nhau.

2.1.10 cao nguyên B'lao-DiLinh.


Cao độ 800m, nhiều đất đỏ trên cao, cùng với các thung lũng rộng, cao nguyên này có địa hình bằng phẳng hơn và kéo dài lên đến Đức Trọng Liên Khàng, có sông Da Dung tức thượng lưu sông Đồng Nai, cũng có hướng nghiêng từ đông sang tây với độ chênh cao chừng 200 mét.  


2.1.11 cao nguyên Dalat

Dalat là do 2 chữ Đà (sông, suối) và Lạt (một tộc người tên Lạt).Với độ cao 1500 mét, bao quanh là những dãy núi xấp xỉ 2 000 mét. Bề mặt cao nguyên bị chia cắt mạnh, tạo ra những dãy đồi dài với sườn khá dốc; đây là một thành phố hoa, rau, quả á nhiệt đới (mận). Phần lớn là đá phiến sét, đá granit  chứ ít có đá bazan. Phía  Bắc và phía Đông có hai ngọn núi là Langbian (2153m) và Biđúp (2286m). Rừng cây gồm nhiều loài thông 2 lá, thông 3 lá. 

Tây Nguyên không phải chỉ gồm các cao nguyên mà thôi mà còn cả các đồng bằng, thung lũng, trũng, bàu .


2.2 vùng đất thấp.

Từ Bắc xuống Nam, ta ghi nhận các thung lũng sau đây:


2.2.1 thung lũng sông Bla ở Kontum.

Sông Bla (Dak Bla) chảy qua phía nam thị xã Kontum có thung lũng với đồng bằng phù sa trồng lúa nước.


2.2.2 thung lũng Cheo Reo-Phú Túc ( Phú Bổn).

Thung lũng này, có cao độ 160m, ở giữa rìa nam cao nguyên Pleiku và kéo dài đến phía gò đồi đồng bằng Tuy Hoà. Trong thung lũng, có hai sông chính là sông Ba và Ea Ayunh chảy qua. Vào thời xưa, cách đây cả ngàn năm, chính qua thung lũng này mà người Chăm đã sử dụng để lên TN; tại Cheo Reo còn có các di tích Chăm. Và cũng chính qua thung lũng Cheo Reo này, năm 1975, khi Pleiku và Darlac thất thủ, quân dân Pleiku đã nhờ đường này mà về được Tuy Hoà vì lúc đó dọc đường 19 từ Pleiku xuống Qui Nhơn đã bị quân Cộng Sản Bắc Việt chiếm. Ngày nay, toàn thung lũng Cheo Reo này thuộc huyện Krong Pa, tỉnh Gia Lai (tức tỉnh Pleiku)


2.2.3 thung lũng An Khê.

Thung lũng này nằm giữa đường Pleiku đi Qui Nhơn; nhiều loại đất xám và có dòng sông Ba chảy qua. Diện tích quãng 600-700km2, cao độ 400-450m. Vì gần Bình Định nên cư dân thung lũng này phần lớn là người miền xuôi từ Bình Định lên khai phá..  


2.2.4 thung lũng Lạc Thiện.

Có nhiều hồ và nhiều đất phù sa úng trũng của hai sông Krong Anna và Krong Kno. Nằm về phía Đông Nam thị xã  Ban Me Thuot, trên đường đi Đức Trọng phía nam Dalat.

Đây là vùng sụt lún, thấp hẳn xuống so với cao nguyên Ban Me Thuot ở phía Bắc và dãy núi Chu Yang Sin (2 405m) ở phía Nam; vì dễ lụt nên muốn tăng sản lượng nông nghiệp cần nghiên cứu thoát nước.


2.2.5 bình nguyên  Ia Sup  (Ea Sup). 

Phía Tây Ban Mê Thuột, nằm giáp với biên giới Campuchia là bình nguyên Ea Sup có cao độ 200-300 mét.  Bình nguyên giới hạn về phía bắc bởi cao nguyên Pleiku. Lượng mưa không lớn, nhưng vì ở đây có nhiều đất xám khó thoát nước nên nhiều vùng bị ngập lụt còn vào mùa khô, các khe suối đều cạn nước. 

Trong các điều kiện ấy, thảm thực vật là rừng dầu thưa, chỉ trừ các vùng ven suối SrePok là có rừng ẩm nhiệt đới. Một địa danh nổi tiếng về nuôi voi, Ban Don, nằm trong sinh hệ nàỵ. Dưới rừng dầu thưa là thảm cỏ  nên trong bình nguyên này, có nhiều loài động vật ăn cỏ .


Trên kia, chúng ta vừa đề cập đến các vùng thiên nhiên hoặc các hệ sinh thái. Có người sẽ hỏi công việc phân loại như vậy có ích lợi gì ? 

Sự phân loại thành các hệ sinh thái như trên giúp ta hiểu thêm các vấn nạn phát triển của từng vùng một vì mỗi hệ sinh thái có những vấn đề riêng rẽ mà hệ sinh thái kia không có. Ví dụ: bài toán phát triển đồng bằng sông Ba, với khí hậu khô khan khác với bài toán phát triển của cao nguyên Kontum. 

Ngay cả đồng bằng với nhau, nhưng đồng bằng Lạc Thiện với đất ẩm, úng thủy cũng khác với đồng bằng sông Bla ở Kontum. 

Thực vậy, tính chất của đồng bằng phụ thuộc rất nhiều vào bồn lưu vực của dòng sông: một bồn lưu vực có đá granit hay các đá gnai (gneiss) sẽ cho nhiều loại đất có sa cấu thô, còn bồn lưu vực đá bazan sẽ cho đất mịn hơn.


3. Khí hậu.

Mùa mưa TN diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10 với cao điểm là tháng 7. Mùa nắng kéo dài 4 tháng, từ tháng 12 đến tháng 3, với hai tháng khô (1,2). Đó là nói trên tổng quát chứ mỗi vùng thiên nhiên nói trên cũng có những chi tiết khí hậu khác nhau: 

.cao nguyên Ban Mê Thuột có vũ lượng chừng 1 900 mm /năm  và nóng hơn Pleiku vì cao độ thấp hơn. Tháng nóng nhất trên 25 0 (tháng 4: 250 8), tháng lạnh nhất 20 0  .

.cao nguyên Pleiku, lạnh hơn và mưa nhiều hơn vùng Ban Me Thuot (vũ lượng 2 450mm),  nhưng mùa nắng lại gắt hơn  so với Ban Me Thuot. 

.cao nguyên M'Drak (Khánh Dương), giữa Ban Me Thuot và Ninh Hoà, mưa nhiều hơn Ban Me Thuot (2 800mm) nhưng mưa khởi sự trễ hơn Ban Me Thuot.

.cao nguyên Bảo Lộc-Di Linh mưa đến 2 500mm, tập trung 85% lượng mưa vào mùa mưa nên thích hợp với các cây trồng lấy lá như cây trà.

.cao nguyên Dalat, với cao độ trung bình 1 500 mét nên khí hậu mát với nhiệt độ trung bình không dưới 160 C nhưng cũng không vượt quá 200 C. Lượng mưa trung bình 1 500mm. Đặc biệt là về đêm, khi mặt trời vừa ngủ, sương mù dâng lên từ  nhiều thung lũng  dần dà tan loãng trên bầu trời đêm gây ra một ánh trăng huyền ảo, trăng mờ đỉnh núi như bài thơ của Hàn Mặc Tử:


Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ

Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt

Như đón từ xa một ý thơ

Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều

Để nghe dưới nước đáy hồ reo

Để nghe tơ liễu rung trong gió

Và để xem trời giải nghĩa yêu


.Thung lũng Cheo Reo, cao độ 160 mét thì vừa rất nóng và rất khô vì mưa ít hơn so với các  cao nguyên nói trên. Thực vậy, thung lũng này  ở giữa hai dãy núi cùng hướng tây bắc-đông nam, nên bị khuất gió mùa tây nam lẫn gió mùa đông bắc, do đó rất khô khan. Lượng mưa trung bình chỉ 1 300 mm.



Lòng sông Ba mùa nắng

.Tại vùng biên giới Lào-Việt ở bắc Kon Tum là vùng đất 'bên nắng đốt, bên mưa quay' vì trong khi sườn núi phía đông dãy Trường Sơn (phía Việt Nam) có mưa nhiều thì giãy phía Tây Trường Sơn (phía Lào) lại là mùa nắng.

Tóm lại, nhiều vùng TN có mùa nắng quá dài và thung lũng lại quá sâu so với các vùng đất cao nên thiếu nước để trồng trọt là một cưỡng chế cho sự phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, cao nguyên Trung phần có một ưu điểm khác với miền duyên hải Trung Việt là  không có bão lụt, không có gió Lào khô cháy.


4. Sông ngòi. 


Để dễ hiểu, có thể chia hệ thống sông ngòi TN ra làm 2: hệ thống chảy ra Biển Đông và một hệ thống khác chảy về phía sông Mekong:


4.1. hệ thống chảy về Biển Đông. 

-sông Ba. Bắt nguồn từ độ cao 1.549m, trên dãy Ngọc Linh, thuộc tỉnh Kon Tum, sông Ba chảy theo sườn phía Đông của dãy Trường Sơn, qua các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Phú Yên trước khi đổ ra Biển Đông. Có vô vô số huyền thoại trên con sông này, mà đoạn sông Ba chảy qua huyện K’rông Pa của tỉnh Gia Lai còn được người J’rai coi là con sông Thần, có thể rửa sạch muộn phiền, xui xẻo.  Sông Ba có nhiều  nhánh phụ, trong đó phải kể sông Ea Ayun là lớn nhất.


Sau khi tắm xả xui và làm lễ ngoài sông, tiếp tục làm lễ tổ tiên tại nhà

- Sông Hinh từ cao nguyên DakLak chảy vào Sông Ba ở Phú Yên.

- Sông Đồng Nai phát nguyên từ cao nguyên Dalat, chảy xuống Di Linh, qua địa phận cao nguyên Gia Nghĩa rồi mới chảy xuống miền Đông Nam phần, gặp sông La Ngà gần Định Quán và gặp sông Bé gần Tân Uyên sau đó mới họp với sông Saigon ở Nhà Bè để chảy về Cần Giờ ở Biển Đông:

Nhà Bè nước chảy chia hai

Ai về Gia Định Đồng Nai thì về


4.2. hệ thống chảy về sông Mekong.

- Sông Poko, bắt nguồn từ phía tây núi Ngọc Lĩnh, có 3 nhánh sông lớn là: Dak Bla dài 141km, sông Sa Thầy dài 140km, sông Đăk Bơ dài 150km. Phía hạ lưu sông Poko là sông Sesan. Toàn lưu vực sông Sesan có nhiều tiềm năng thủy điện và hiện có nhà máy điện Yali công suất 690 megawatt với diện tích hồ chứa nước là 64.5 km2. Sau Yali, còn dự án xây bốn đập khác trên sông này và tổng số megawatt của bốn đập này sẽ bằng 2.5 lần công suất Yali nhưng có thể với phá rừng làm rẫy của các tộc người thì tuổi thọ các đập này sẽ giảm nhanh vì lòng hồ dễ bị bùn lắng tụ làm giảm thể tích nước.

- Sông Ea H'Leo và hai chi lưu là Ia Drang và Ia Sup ở phía Tây Pleiku, bắt nguồn từ dãy núi Chư Hron, chảy theo hướng Đông Tây rồi đổ về sông Srepok sau đó chảy vào sông Mekong ở Stung Treng (Kampuchia).

- Sông Srepok dài 332 km với hai nhánh sông chính tại Darlac là sông Krong Ana và Krong Kno: 

-Krong Ana chảy ở phía Đông-Nam tỉnh Daklak, theo hướng Đông-Tây và có nhiều phụ lưu như Krong Bông, Krong Buk, Krong Pak.

-Krong Knô (Krong Nô) bắt nguồn từ phía TB cao nguyên Lâm Viên chảy theo hướng ĐN-TB

Hai sông Krong Ana và Krong Knô họp lại thành sông Ea Krông, tạo nên nhiều đất phù sa phía Đ-N Ban Me Thuot.  

Ngoài các sông chính trên, miền cao nguyên còn vô số suối, khe cũng như nhiều hồ, có cái thiên nhiên như hồ Lac ở phía Đông Nam Ban Me Thuot, có cái nhân tạo như hồ Xuân Hương, hồ Than Thở ở Dalat, hồ đập thủy điện Yaly, hồ đập tưới ruộng v.v.


5. Đất đai.

 


 Vì TN có nhiều hệ sinh thái khác nhau về địa mạo, khí hậu, đá mẹ v.v nên cũng có  nhiều loại đất khác nhau. 


Sau đây là những loại đất chính:

5.1 đất đỏ (còn gọi là đất feralit, đất latosol nâu đỏ) thuộc nhóm Ferralsols (phân loại FAO).

 Nhiều cao nguyên có đất đỏ do đá bazan tạo ra; đất đỏ bao trùm một diện tích rộng lớn ở cao nguyên Ban Me Thuot, cao nguyên Pleiku, cao nguyên B'lao-Di Linh-Đức Trọng và cao nguyên Quảng Đức (Gia Nghĩa). 

Về nguồn gốc, đất đỏ do sự phong hoá của đá bazan; dưới tác dụng của vũ lượng lớn và nhiệt độ cao, sự tan rã các đá này rất nhanh chóng; chất SiO2 trong đá bị trôi xuống sâu còn lại chất Fe2O3 và Al2O3  và vì trong đất có sắt (fer) và aluminum (al) nên người ta còn gọi là đất feralit; vì có nhiều oxyd sắt nên  đất có màu đỏ.

Đất đỏ gặp ở  các cao nguyên Pleiku, DakLak, Gia Nghĩa,  Blao-Di Linh với diện tích ước chừng 1,3 triệu ha, nghĩa là 23% tổng số đất của toàn vùng. Nói chung, đất đỏ có độ dày sâu, có khả năng giữ ẩm độ tốt ở tầng sâu và do đó thích hợp với các loại cây kỷ nghệ lâu năm như cà phê, cây ăn trái, cây trà v.v.tuy nhiên vì cao nguyên có mùa nắng kéo dài nên các công trình thủy lợi như giếng nước, các đập, hồ chứa sẽ giúp cho phát triển nông nghiệp.


5.2 đất feralit (podzolic) vàng đỏ .

Ngoài đất đỏ, phải kể đất podzolic vàng đỏ do diệp thạch hay đá hoa cương tạo nên. Nhóm đất này rất nhiều vì có thể gặp trên các địa hình núi cao, địa hình đồi dốc và trên các loại đá khác nhau như đá phún xuất (granit) hoặc các đá biến chất như phiến thạch, sa thạch, tóm lại đây là nhóm đất có nguồn gốc địa chất phức tạp. Có thể gặp các loại đất này ở cao nguyên Lang Biang (Dalat), cao nguyên M'Drak, các vùng phía núi Ngoc Lĩnh ở bắc Kontum. Đất này dễ bị xói mòn và ít phì nhiêu hơn đất đỏ. Sự xuất hiện của đá ong (laterit) ở tầng cạn gây trở ngại cho các loài cây có hệ thống rễ sâu do đó, không thể trồng những loại cây này trên những đất có giải đá ong gần mặt đất. 


5.3 đất sét đen nhiệt đới (Black tropical clays).

 Tại thung lũng Cheo Reo, có những chỗ có đất sét đen nhiệt đới vì vùng này khí hậu rất nóng và khô. Đây là những đất  nằm trên các phù sa cổ sinh gặp ở địa hình bằng phẳng, nhiều sét, úng thủy và có màu đen, khó cày bừa; vào mùa mưa, đất nhão ướt, vào mùa nắng, đất này co rút lại nên đất nhiều khe hở làm sự bốc hơi nước càng dễ dàng, do đó rất khô vào mùa nắng.


5.4 đất đỏ bụi (Earthy Red Latosols).

Quanh thị xã Pleiku là đất đỏ bụi; tuy cũng do đá bazan hủy hoại mà thành, nhưng thời gian tạo thành đất đỏ bụi xưa hơn đất đỏ vùng Darlac; ngoài ra, sự thoát thủy tại vùng Pleiku mạnh hơn, thủy cấp sâu hơn, vì dòng sông Ba và Ea Ayunh chảy qua cao nguyên Pleiku gần biển hơn, nói khác đi các dòng sông này thoát ra biển trên một đoạn tương đối ngắn nên sông ngòi đào xẻ dữ dội hơn khiến sự xói mòn các cảnh quan mạnh hơn, vì vậy độ phì nhiêu thấp hơn.


5.5 đất phù sa. 

Những đất phù sa ôm ấp triền sông dọc theo sông Ba chảy qua thung lũng Cheo Reo, dọc theo sông Krong Anna ở Đông Nam Darlac. Các đất phù sa do nhiều loại đá (bazan, granit, rhyolite) phân hủy rồi được chuyên chở theo các dòng nước và dần dần lắng tụ lại. Ven các dòng sông, đất phù sa thường cao hơn, dễ thoát nước hơn còn phù sa xa sông có nhiều thành phần sét  và ở các cảnh quan trủng nên khó thoát nước. Đất phù sa có mức độ phì nhiêu thay đổi tùy theo diện tích của bồn lưu vực, của loại đá mẹ và tùy theo khí hậu. Ví dụ: phù sa thung lũng Cheo Reo, vì khí hậu khô khan nên pH đất cao hơn (6-6.5) trong khi phù sa các vùng khác như Kontum, Ban MeThuot có pH thấp hơn (5-5.5).

Có thể gặp đất phù sa ở các vùng sau đây tại TN:

.vùng Kontum, ven Dak Bla (Dak: sông).

.vùng Cheo Reo, ven sông Ba và sông Ayun.

.vùng Ban Me Thuot, phía Đông Nam, như tại quanh hồ Lạc Thiện cũng như dọc theo hệ thống các dòng sông Krong Ana, Krong Pach.


5.6 đất xám. 

Nhiều loại: đất xám điển hình (Haplic Acrisols), đất xám trên các vùng đất có mực nước không xa đất mặt, còn gọi là đất xám gley (Gleyic Acrisols), đất xám có sỏi laterit, còn gọi là đất xám kết von (Ferric Acrisols), đất xám feralit (Ferralic Acrisols). Sau đây là vài chi tiết :

Đất xám điển hình hoặc bạc màu (Haplic Acrisols) có thể gặp trên đá  macma axit và đá cát (sandstone), trên phù sa cổ sinh của các dòng sông lớn như sông Ba ở Cheo Reo, Dak Bla ở Kontum. Còn ra, có thể gặp phía tây cao nguyên Ban Me Thuot, ở bình nguyên Ea Sup do đá cát phân hủy.

Trong nhóm đất xám, các tính chất lý hoá học rất biến thiên:

-vùng Ban Don phía tây Ban Me Thuot có nhiều cát thô, nghèo nàn và khô khan. 

-vùng Cheo Reo, đất xám có nơi đất cát thô, có nơi đất có khả năng giữ nước nhiều hơn. pH đất xám ở Cheo Reo cao (6-6.5) vì khí hậu khô khan , các nơi khác thì pH thấp hơn.

-vùng phù sa cổ sinh các dòng sông Krong Kno, Krong Ana ở Darlak có đất xám phì nhiêu hơn vì sa cấu mịn hơn, không nhiều đá và có địa hình lượn sóng có độ dốc nhẹ, trồng lạc, hoa màu phụ ..


5.7 đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá (Leptosols).

Đất này rải rác trên các vùng, đặc trưng ở trên các vùng đá sát mặt đất khó trồng trọt (Lithic Leptosols).


5.8 đất mùn alit núi cao (Alisols).

Loại đất này gặp tại vùng núi cao độ từ 2 000m trở lên như trên các đỉnh núi  Ngọc Lĩnh, Ngọc Ang, Chư Yang Sin. 


5.9 đất nâu thẫm trên bazan (Chromic Luvisols)  gặp tại các địa mạo thung lũng bằng, có tầng mặt giàu mùn.


5.10 đất đá bọt (Andosols) trên đá bọt bazan.

Đây là đất trên miệng núi lửa, gặp ở các đất gần các miệng núi lửa ở Pleiku có màu nâu đen lẫn nhiều cục đá thô.


Nhìn chung về phân phối đất thì :

-các đất đỏ nhiều nhất ở Daklak, Dak Nong, Pleiku và Lâm Đồng.

-các đất podzolic (feralit) vàng đỏ thường gặp ở Kontum và Dalat .

-các đất podzolic xám thường phân bố ở Cheo Reo (Phú Bổn) và Tây Daklak.

-các đất phù sa nhiều ở Đông Nam Daklak.

Riêng các nhóm đất như Andosol, Alisol, Leptosol có rất ít so với các loại đất vừa kể.


6. Các sắc tộc thiểu số.


Tây Nguyên có nhiều đồng bào sắc tộc, mỗi tộc người có ngôn ngữ và tập quán riêng. Nói chung, ở TN, có hai họ ngôn ngữ chính:

Họ Nam Á (Austro-Asiatique) trong đó phải kể những dân tộc theo chế độ phụ hệ như người Ba Na, Sedang, Koho, Hre, Mnong, Stieng, Koho, Mạ , Choro. Ngôn ngữ thuộc hệ gốc Mon-Khmer vì bị ảnh hưởng hai nước Phù Nam và Chân Lạp xưa kia

Họ Nam Đảo (Austronesien hoặc Malayo-Polynesien) có các sắc tộc theo chế độ mẫu hệ như Gia Rai, Rhade, Churu, Roglai, Chăm và bị nhiều ảnh hưởng của Lâm Ấp (Chiêm Thành).

Sau đây là vài chi tiết:


Bahnar. Người Bahnar ở Kontum, Pleiku, Bình Định, dân số trên 100 000 người và địa bàn cư trú nằm ở các huyện Mang Yang và An Khê, một phần lãnh thổ huyện Dak To và Kon Plong. Bahnar là dân tộc nói tiếng MonKhmer có dân số đông nhất.


Sedang. Địa bàn cư trú người Sedang ở Bắc Kontum tận mãi đến bắc Quảng Ngãi và huyện Trà Mi thuộc Quảng Nam và dân số trên 70.000 người.


Hré. Người H'Rê gần 70.000 người sinh sống ở Quảng Ngãi và Bình Định.


Mnong. Người Mnong ở Daklak, tây nam Lâm Đồng và bắc sông Bé; họ sống xen kẻ với vùng cư trú của người Rhade ở Daklak và Mạ ở Lâm Đồng nên văn hoá Mnong chịu ảnh hưởng hai văn hoá trên. Trong làng, có nhiều nhà  dài và trên nền đất (chứ không phải nhà sàn như người Rhade), trong các nhà dài ấy, thường có năm sáu đôi vợ chồng ở đó. Người Mnong có tục cà răng và căng tai để đeo đồ trang sức. Họ hiếu chiến và một thủ lãnh người bộ lạc này đã cầm chân các nhà thám hiểm Pháp rất lâu; mãi khi thủ lãnh này chết đi, người Pháp mới đi thám hiểm lại. 


Nguời Mnong được thế giới bên ngoài biết đến nhiều, nhờ một nhà dân tộc học người Pháp, Condominas, đã từng chung sống tại chỗ với họ nhiều năm và có viết nhiều tác phẩm mô tả cuộc sống liên quan đến họ trong cuốn Nous avons mangé la forêt.


Koho (Cờ Ho). Người K'ho ở Di Linh Lâm Đồng và miền núi Phan Thiết, dân số trên 70 000 người. Dân tộc K'ho sinh sống ở Lâm Đồng, nam Di Linh hoặc trên đường Di Linh đi Phan Thiết, hoặc quanh thị xã Dalat. Họ biết làm ruộng sớm hơn các sắc tộc khác và ở trong nhà sàn dài, có cái dài hàng trăm mét, trong đó có nhiều gia đình nhỏ.


 Mạ. Người Mạ ở nhà sàn, tại vùng lưu vực sông La Ngà, Đồng Nai Thượng, cao nguyên B'lao-Di Linh. Trước kia cũng có tục cà răng căng tai và làm rẫy, săn bắn nhưng những năm gần đây, họ cũng như người Koho đã bắt đầu phát triển nghề làm vườn như trồng cà phê, trà . Sống theo chế độ phụ hệ.


 Gié-Triêng. Sắc tộc này có địa bàn sinh sống khá rộng lớn, từ rìa đông cao nguyên Boloven (Lào) sang Dak Glây (bắc Kontum) đến huyện Phước Sơn tỉnh Quảng Nam-Đà nẵng. Ở Tây Nguyên, người bộ lạc này, ngoài nương rẩy, còn có nghề dệt vải và đãi vàng. 


Rhade. Người Rhade chủ yếu sống ở Daklak dân số trên 140.000 người. Ngoài rẩy, họ còn biết làm ruộng nước tại vùng hồ Lak, ven sông Krong Knô, Krong Anna; người Rhade nuôi trâu bò và voi. Phụ nữ Rhade biết dệt, làm đồ gốm, đàn ông biết rèn và đan lát. Người Rhade có những trường ca (Đăm San, Đăm Di ..) mang tính chất huyền thoại như người Kinh có tích Sơn Tinh Thủy Tinh. Truyện thơ Đăm San kể rằng chàng này là một tù trưởng đẹp trai, đầy khát vọng tự do và các tù trưởng khác muốn chiếm đoạt người vợ đẹp của Đăm San nên gây ra những chiến tranh khốc liệt. Đăm San thắng nhưng vẫn muốn giàu mạnh hơn nữa, chàng kéo quân lên Trời bắt Nữ Thần Mặt Trời làm vợ. Nhưng chàng đã chết vì sự ngông cuồng đó.


Jrai. Người Jrai ở Pleiku, Kontum, miền núi Phú Yên, vùng Cheo Reo, trên 180 000 người. Tộc Jrai có thể chia ra những nhóm căn cứ vào khác biệt giữa cách phát âm:

Ja Rai Chor (còn gọi là Cheo Reo. Cheo Reo là từ phiên âm ghép hai từ Chu và Chreo, tên 2 tù trưởng nổi tiếng của vùng này vào cuối thế kỷ 19)

Ja Rai Hdrung (vùng núi lửa Hàm Rồng) sống quanh thị xã Pleiku, Chư Prông

Đàn ông thường đóng khố, phụ nữ quấn váy. Ngoài làm rẫy còn đan đồ tre, mây và biết vẽ, khắc các hoa văn trên nhiều kiến trúc như nhà mả, cột đâm trâu, ống tên ..; đàn bà biết dệt.


Churu. Người Chu Ru sinh sống tập trung ở thung lũng Dran trên cao nguyên Lang Biang (Dalat). Nằm giữa vùng cư trú của người Cơ Ho ở phía tây và người Raglai phía đông thuộc các huyện Đơn Dương, Đức Trọng, Di Linh thuộc Lâm Đồng và hai huyện Bình Thuận  là An Sơn và Đức Linh. Người Chăm và Chu Ru có chung nguồn gốc nên tín ngưỡng, kỹ thuật canh tác nông nghiệp như người Chăm, nghĩa là định cư và làm ruộng nước.

Trên TN, có hàng chục sắc tộc, nhưng chỉ có vài sắc tộc sau đây là quan trọng: Bahnar và Sedang (ở Kontum, Pleiku ), Djarai (ở Pleiku), Rhade (ở Darlac). Tổ tiên họ là những người Mélanésien và Indonésien lưu lạc đến Đông Dương rồi phải ẩn náu trên cao nguyên trong cuộc chiến giành đất đai với người Chăm và người Việt. Indonésien chỉ là một danh từ nhân học, chỉ chung các tộc thiểu số ở các vùng núi Việt, Miên, Lào, Miến, Phi luật tân. Cũng cần nhớ là trong thời đại băng giá lần cuối trong kỷ địa chất thứ tư này, mực nước biển sụt xuống đến 120 mét nên các xứ Đông Dương và Indonesia, Mã Lai đều còn dính liền với nhau (land bridge), sự qua lại các giống người bản địa tại các vùng này rất dễ dàng..


Các liên lạc Kinh-Thượng.


Theo lịch sử thì năm 1711, có một phái đoàn người Thượng đến từ Nam Bàn và Trà Lai gặp Minh vương Nguyễn Phúc Khoát tại Phú Yên xin thần phục. Lúc đó, lãnh thổ 2 xứ miền Thượng này -Pleiku và Kontum ngày nay- do 2 lãnh chúa Jarai cai trị, Đôn vương (Thủy xá) và Nga Vương (Hoả Xá), hoàn toàn độc lập với Phú Xuân. Lãnh thổ xứ Đàng Trong chỉ là những đồng bằng từ chân dãy Trường Sơn ra biển.

Kontum có những dấu vết định cư của người Việt từ xưa . Thực vậy, dưới trào vua Minh Mạng và Tự Đức, công giáo bị đàn áp nên một số tu sĩ  miền Bình Định chạy lên An Khê, lần mò dọc theo thượng lưu sông Ba đến cao nguyên Kontum truyền đạo. Hội Truyền giáo KonTum được thành lập từ 1851 và từ đó nhiều giáo dân người Kinh từ các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định tiếp tục lên xây dựng họ đạo và mở rộng sang các làng của các sắc tộc Rơ ngao, Sedang.


Các liên lạc Chăm-Thượng.


Người Chăm (Chiêm) có quan hệ mật thiết với người Thượng hơn là với người Việt. Các vua Chiêm Thành khi xây dựng các đền đài ở Trà Kiệu, Mỹ Sơn tại Quảng Nam ngày nay phải huy động một số dân lao động rất lớn nên đã tổ chức các cuộc săn bắt người Thượng ở ven núi Trường Sơn để xây dựng đền đài nhưng dần dà các dân này trốn lên lại các miền núi, hỗn huyết với các nhóm cư dân bản địa (gốc Mélanésien và Indonesien) để trở thành các nhóm Bru, Giẻ- Triêng, Tà Oi sinh sống các vùng núi Bình Trị Thiên.

Người Chăm cung cấp muối gạo còn người Thượng cung cấp các phẩm vật rừng xanh như voi rừng và các loại gỗ quý cho các vua Chiêm. Vào các thế kỷ 4 đến thế kỷ 7, một số người Chăm trốn lên cao nguyên lánh nội chiến, và số người này mang nặng bản sắc hải đảo (malayopolynesien) và trở thành người Jarai, ở các tỉnh phía tây các tỉnh Bình Định, Phú Yên. Sự hỗn huyết với những nhóm có trưóc sinh ra những nhóm như Bahnar và Sedang thuộc ngữ hệ Môn-Khmer và hải đảo .

 Vào cuối thế kỷ 8, người Java từ biển cả, tràn vào duyên hải cướp phá nên một số dân Chăm chạy lên cao nguyên lánh nạn, hỗn huyết với các nhóm có trước và trở thành người Rhade thuộc ngữ hệ hải đảo. 

Sau này vào thế kỷ 16, một số người Chăm tránh cuộc Nam tiến của người Việt, lên cao nguyên Dalat trở thành người Raglai và Churu cũng thuộc ngữ hệ hải đảo.


7. Sử dụng đất đai.


Trước 1945, người Kinh chỉ gặp ở Dalat (phần lớn người miền Bắc từ các làng quanh Hà Nội) và tại thị xã Kontum (phần lớn người miền Bình Định trốn đàn áp Công Giáo từ các trào vua Tự Đức) và Ban Me Thuot là nơi Pháp có nhà tù giam giữ chính trị phạm. 

Sau khi ký hiệp định Geneve 1954, nhiều đồng bào di cư từ miền Bắc (Việt, Thái, Nùng) lên định cư nhiều ở Bảo Lộc (người Việt), Tùng Nghĩa (người Thái), rồi đến phong trào dinh điền định cư dân Nam Ngãi ở Pleiku, Dak Lac để khẩn hoang lập nghiệp. Do đó, dân số TN tăng lên; sau 1975, lại thêm người Kinh cùng người các sắc tộc ở Cao Bằng, Lạng sơn dến. 

Sau dây là các hệ thống nông nghiệp chính:


7.1 du canh.

Phần lớn các bộ lạc Thượng làm nương rẫy du canh; sau khi đốn cây, phát cỏ, họ đốt cỏ để sau đó cuốc đất, tỉa hạt giống; xen canh với lúa thường có khoai lang, bắp, vài loại bí bầu . Tùy theo đất tốt xấu, người ta sử dụng đất trong một chu kỳ dài hoặc ngắn: đất tốt thì có thể sử dụng 10-12 năm, đất xấu chỉ làm 5-6 năm là phải dọn đi chỗ khác. Kỹ thuật canh tác còn thô sơ nên năng suất hoa màu không cao. Làm rẫy du canh thì phải di chuyển làng mạc và hoa màu từ vùng này sang vùng khác; sau chừng 5-10 năm lại phải đốt rừng làm rẫy. Có nhiều điều tổn hại trong hệ thống này:


(a).hư hại tài nguyên rừng; các loại rừng bị đốn phá, nhường chỗ cho hoa màu lương thực.

(b).hư hại tài nguyên đất. Vì không còn tàn cây che chở nên đất đai dễ bị xói mòn, các dưỡng liệu trong đất bị cuốn trôi đi hết, làm đất trơ trọi đá laterit. Đất mất dưỡng liệu, đất nghèo đi, và dân phải di chuyển đi nơi khác.

(c).hư hại tài nguyên nước. Vì có rừng nên hệ thống rễ có thể giữ lại nước trời làm sung mãn thủy cấp; nay mất rừng, mưa không còn gì cản trở, nước chảy thẳng xuống khe suối, làm trôi mòn đất và nước ngầm mất đi.

Vì tài nguyên quanh buôn làng bị suy thoái, nên thiếu lương thực, do đó lại phải đi làm nương rẫy khu rừng khác và chu kỳ lại tiếp diễn: thiếu lương thực-phá rừng-đất nghèo đi- du  canh-thiếu lương thực. Và nghèo cứ đẻ ra nghèo, kéo dài muôn kiếp.


 Trong hệ thống du canh, các cây trồng không đa dạng; thực vậy vào các nương rẫy, ta chỉ gặp vài cây như bắp, lúa rẫy, hoạ hoằn vài cây rau  chứ không thấy các hoa màu khác như các cây họ đậu cũng như các cây ăn trái hoặc các cây công nghiệp dài ngày ( cà phê, trà ). 

Trong hệ thống du canh, không có sử dụng phân hữu cơ và phân hoá học; heo thì thả rong nên không có phân chuồng; trâu bò chỉ chăn thả trong rừng, không có chuồng trại nên không có phân hữu cơ. 

Các hoạt động trước sản xuất như hạt giống tốt,  nông cụ cải tiến, hệ thống nước tưới và sau sản xuất như chế biến, tồn trữ hầu như không có nên sản xuất lương thực thấp. 


7.2 định canh

Hệ thống nông nghiệp có tính cách bền vững hơn với sự định canh. Bền vững vì các cây trồng đa dạng và đa niên ( trà, caphê, dâu tằm, cây ăn trái, tiêu..)  nên bớt xói mòn, bớt hư hại tài nguyên hơn. Những loại cây đa niên thường có rễ sâu và có tàn lá nhiều nên làm giảm tốc độ của nước mưa, làm nước mưa thấm từ từ vào đất, thay vì chảy tràn theo sườn đồi xuống, kéo theo sự mất đi các dưỡng liệu trong đất.

 

Cây ăn trái.

TN có nhiều giống cây nhiệt đới như chuối, bưởi, dứa, sầu riêng nhưng cũng có cây á nhiệt đới như cây bơ, cây hồng, ôn đới như đào, mận Dalat v.v.

Đặc biệt tại TN phải kể một loại cây mới du nhập thời sau 1954 từ Phi Luật Tân, đó là cây bơ (Persea gratissima), còn gọi là cây avoca, trồng nhiều ở Bảo Lộc và Ban Me Thuột. Cũng có cây ma ca (Macadamia) xuất xứ bên Hawai và nay nông dân cũng có trồng ở Cao nguyên.


Cà phê.

TN có nhiều vườn cà phê. Cà phê có hai loại chính là cà phê chè và cà phê vối.


Cà phê chè (Coffea arabica).

Có nguồn gốc ở miền núi  Ethiopia Phi Châu. Đây là loại sản phẩm có giá nhất trên thị trường quốc tế. Cà phê chè thường tự thụ phấn nên có độ thuần giống cao hơn các loại hình cà phê khác. Tỷ lệ caffeine từ 1.3-1.7%. Giống này thường bị bệnh gỉ sắt và sâu đục thân nên chỉ có thể trồng các vùng núi cao mà thôi. Cây cà phê chè  ưa khí hậu mát mẻ và  ánh sáng tán xạ do đó cần trồng cây che bóng vì nếu không có hệ cây che bóng thích hợp  sẽ gây ra hiện tượng cây phân hoá mầm hoa và đậu quả quá sức (overbearing) làm cây chóng bị kiệt sức, khó phục hồi trở lại.


Cà phê vối (Coffea robusta).

Cao nguyên Darlac trồng loại cà phê vối vì loại này hợp với các vùng cao độ thấp, nóng ẩm, mưa nhiều. Cây cà phê vối dễ trồng, không cần đất tốt như cà phê chè, có khả năng kháng sâu bệnh khá. Cà phê vối rất sợ rét và không chịu được các vùng có gió mạnh. Năng suất có tưới nước 3-4 tấn một hecta.

Hiện nay, diện tích cà phê của bốn tỉnh TN là 300 000ha (trên tổng số 350 000ha toàn quốc) trong đó Dak Lac với diện tích 172 000 ha thu được 280 000 tấn. Nhờ năng suất cao thêm vào đó là chế biến, phân loại nên cà phê Daklak cạnh tranh được trên thị trường quốc tế.


Tiêu (Piper nigrum).

Cây tiêu phân bố chủ yếu tại vùng Di Linh, Blao dưới hai dạng: trồng quanh vườn nhà và trồng xen trong vườn cà phê . Phần lớn nông dân trồng tiêu  trên đất nâu và đất đỏ nâu. Trong việc trồng tiêu, vốn đầu tư ban đầu khá lớn; tùy theo khả năng huy động vốn ban đầu mà phương pháp trồng tiêu khác nhau: trồng trên nọc sống, trên nọc chết và trên nọc xây bằng gạch..Trồng tiêu trên quy mô lớn, phải có đất thích hợp và gần nguồn nước. 


Trà.

Trà  trồng nhiều nhất ở Lâm Đồng và Pleiku. Năng suất trà ở Lâm Đồng, nhờ mưa nhiều nên đạt 16-18 tấn/ ha. Ngoài những nhà máy chế biến trà, có một số xưởng chế biến nhỏ thuộc các gia đình có truyền thống làm trà. Muốn phát triển ngành trà, cần các biện pháp: cung ứng phân bón, máy bơm, cho vay vốn, hiện đại hoá qui trình chế biến để nâng cao chất lượng cho xuất cảng, cải thiện đất đai như trồng cây bóng mát cho các đồi trà, giữ ẩm cho đất, đa dạng hoá công nghiệp  chế biến để có sản phẩm đa dạng (trà túi, trà hoà tan, trà đen, trà xanh) có chất lượng cao để cạnh tranh với thị trường thế giới.


Cao su.

Tại TN, cao su được trồng tại 3 tỉnh: Kontum, Pleiku và Daklak. Cao su dễ xuất cảng và cũng là nguyên liệu để sản xuất nhiều loại sản phẩm phục vụ nhu cầu trong nước. Biện pháp phát triển: tăng cường vốn đầu tư trong chế biến, thâm canh, nâng cao chất lượng sản phẩm.


Rau cải.

Dalat vốn là nơi sản xuất rau cải cung cấp rau xanh cho các tỉnh miền Nam : các loại rau cải chính yếu là cải bắp, cà rốt, chou fleur (xúp lơ), artichaut (atisô), xà lách, cải pó xôi, củ dền, củ rađi, ngoài ra còn là nơi sản xuất khoai tây và các loại đậu. Các khó khăn nghề trồng rau cải Dalat là : đất đồi dốc thoải chứ không phải đất phù sa bằng phẳng, nước tưới, phân hữu cơ và vô cơ. 


Hoa.

Hoa ở vùng Dalat rất đa dạng: mimosa, hoa hồng, thược dược, qùi, pensée, hoa violette, cúc, layơn (glaieul), ớctăngxia, mimosa, đỗ quyên, hồng tràm, liễu tràm, nhiều màu sắc chứ không phải là các hoa miền đồng bằng như vạn thọ, mồng gà, cẩm chướng, huệ. 

Rừng Dalat còn nhiều hoa phong lan với vẻ đẹp diễm lệ, sang trọng; phong lan được mệnh danh là nữ chúa các loài hoa. Dọc bờ hồ Dalat, có hoa anh đào .

Những nông dân trồng hoa này thường gốc ở các làng Ngọc Hà, Nhật Tân, Nghi Tàm chính là các làng hoa miền Bắc; ngoài ra, Dalat còn xuất cảng hoa địa lan. Cũng như ngành trồng rau cải, nghề trồng hoa cũng đòi hỏi trình độ cao về sản xuất và thương mại.


8. Dân số. 


 Những thập niên đầu thế kỷ 20, Tây Nguyên rất thưa thớt dân. Chỉ có chừng 300.000 người sống ở Tây Nguyên trước 1945, trong đó người Kinh chỉ chiếm ít hơn 10% dân số. Năm 1956, dân số tăng lên 530 000 người và năm 1976, dân số TN là 1 226 000 người.  Đến 1996, là 3.2 triệu người tức 10 lần nhiều hơn trước tháng 8-1945 và 3 lần nhiều hơn từ 1975 vì người Kinh và một số người miền Thượng du Bắc Việt (Tày, Dao, Mèo ..) lên lập nghiệp. Hiện nay người Việt chiếm trên 50% trong dân số Tây nguyên. Hiện nay, dân số TN tăng đến 7% hàng năm là vì:


Tăng tự nhiên: tỷ lệ sinh đẻ của các dân tộc Tây nguyên rất cao so với toàn quốc vì tỷ lệ chết giảm đi nhiều do đó tỷ lệ tăng tự nhiên cao.


Tăng cơ học: thực vậy, hiện nay nhiều dân tộc thiểu số miền Bắc (Tày, Dao, Nùng..) tràn lên Tây nguyên để tránh đói khổ các nơi nguyên quán. Nhiều tỉnh như Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Cai cũng như các vùng duyên hải miền Bắc Trung phần như Thanh Hoá đều có di dân nhiều tại đây sau 1976. Nếu chia theo tộc người thì người Nùng, người Tày, người Dao, người Hmông (Mèo) đều có mặt. Ngày nay, người  bản địa như các tộc Rhadé, Jarai v.v. chỉ chiếm không tới 50% dân số trên cao nguyên và trở thành thiểu số trên chính quê hương của họ; đó có thể là một ngòi nổ âm ỉ trong tương lai. 


9. Vài vấn đề phát triển. 


9.1 phì nhiêu đất đai.


Sự sói mòn, sự thâm canh đòi hỏi đất đai phải được bảo vệ chống xói mòn và tăng cường độ phì nhiêu đất. Duy trì độ phì  nhiêu là duy trì chất hữu cơ, các lý tính của đất, duy trì các chất dinh dưỡng, tránh xuất hiện các độc tố. Muốn vậy, nhiều biện pháp cần được đặt ra. Trên các đất dốc mạnh hoặc nhiều đá, cần duy trì và tăng cường độ che phủ bằng rừng; trên các đất dốc vừa và nhẹ, nên phát triển vườn đồi và vườn nhà. Các buôn Thượng thường gần khe, suối hay nguồn nước sinh hoạt do đó nên giúp họ phát triển vườn nhà, trồng quanh nhà rau cải, cây ăn trái để giúp cải thiện dinh dưỡng trong bữa ăn. Trồng mỗi nhà vài chục cây cà phê trong vườn vừa  giúp bớt nạn xói mòn, vừa tận dụng tài nguyên. Trong vườn đồi, nông lâm kết hợp có nghĩa là có cây cao, cây thấp, cây tầng dưới để có thể tận dụng được ánh sáng,  có cây rễ sâu, cây rễ cạn để tận dụng sự phân phối các dưỡng liệu có trong các tầng đất khác nhau. Sự tăng cường chất hữu cơ trong đất bằng cách sử dụng phân chuồng, phân mục rất  cần thiết để hỗ trợ các phân vô cơ. Người Thượng chỉ chăn thả trong rừng, không có chuồng bò, chuồng heo nên lượng phân hữu cơ bị mất đi, trong khi đó phân hữu cơ giúp đất tạo ra nhiều chất lân vốn bị cố định hoá trong các loại đất đỏ nhiều sắt và nhôm. Vì TN có nhiều thảo nguyên, đồng cỏ nên có nhiều tiềm năng nuôi đại gia súc như bò sữa. Ngành chăn nuôi tiểu gia súc (heo) cũng cần chú ý vì heo có chu kỳ nhanh, cho nhiều phân hữu cơ cải tạo đất; tuy nhiên cần các dịch vụ yểm trợ như công tác thú y,  thực phẩm gia súc, chế biến, tồn trữ


9.2 an toàn lương thực.


Các hệ thống canh tác cổ truyền của phần đông đồng bào Thượng như chọc lỗ, châm hạt giống, lấy chân dậm lại ..không tạo ra được nhiều sinh khối trước sự gia tăng dân số. Như vậy, công tác khuyến nông, huấn luyện nông dân trở thành quan trọng với các sắc tộc: cần phát triển tại các khu vực đồng bằng, các thung lũng, các nơi đất mà thủy cấp không sâu cho lắm (2-3 mét) những hoa màu lương thực như lúa, bắp, khoai lang cũng như đậu nành.  Thủy nông, phân hoá học, thâm canh các vùng này giúp tăng gia lương thực cho Tây Nguyên và như vậy làm giảm bớt áp lực trồng cây lương thực trên đất dốc. Các đồng bằng Lạc Thiện ở Daklak, đồng bằng sông Ba ở Phú Bổn (nay thuộc tỉnh Gia Lai), thung lũng An Khê, dọc sông Bla gần Kontum cần được đầu tư phát triển. Nên lập các đập thủy nông nhỏ đưa nước vào ruộng; ngoài những đập nước, có thể sử dụng các xe quạt nước (noria) để đem nước vào ruộng vì mực nước các sông suối rất gần mặt đất  như Bình Định, Quảng Ngãi vẫn làm. 

An toàn lương thực trên đà tăng gia dân số cũng đòi hỏi sự canh tác định canh thay vì du canh,  nông lâm kết hợp, trồng cây lương thực với cây lâu năm, khuyến nông với các chương trình phì nhiêu đất đai.


9.3 sở hữu đất đai (Land tenure)


Hiện nay, trên TN, người Kinh mua lại đất của người Thượng với giá rẻ mạt và chỉ có người Kinh mới biết cách hợp thức hoá như xin giấy sử dụng đất đai (land use certificate) do đó, người Thượng dần dà không còn sở hữu chủ đất đai, mất đất sản xuất mà không có đất thì không đi vay tiền phát triển được vì đất được dùng để thế chấp trong khi đi vay. Do đó phải ngăn cấm ngay các cuộc mua bán như vậỵ. 

Mỗi làng trên TN có lãnh vực đất đai tức địa vực riêng, không có làng khác lân cận đến chiếm được. Có nhiều khu rừng gần làng, tưởng như vô chủ, nhưng kỳ thực là của làng và người dân làng có thể đến đó bứt mây, lấy măng, hái tổ ong cho mật. Như vậy, dân làng nào cũng chỉ được làm rẫy, hái lượm, săn bắn trong địa vực của mình. Nay với sự gia tăng các cộng đồng người miền xuôi đến (cả Kinh lẫn Thượng du Bắc Việt), họ không đủ đất để sản xuất, không được lấy gỗ làm nhà theo truyền thống. Quyền làm chủ và lợi ích bị xâm phạm nên nhiều hiện tượng tranh chấp đất đai luôn luôn xẩy ra và đây cũng là một ngòi nổ cho các xung đột về lâu về dài. Do đó, cần qui định diện tích mỗi làng tương ứng với việc tăng gia dân số và tập quán làm ăn của mỗi tộc người và giao đất, giao rừng cho dứt khoát để họ có trách nhiệm gìn giữ và sử dụng lâu dài, bền vững; các cơ sở quốc doanh trung ương tại địa phương như các nông trường chiếm qúa nhiều đất đai mà không đủ sức quản lý, lại làm ăn thua lỗ vì guồng máy hành chánh qúa nặng nề.  

Lại còn có trường hợp ngân hàng cho vay để khai hoang, nhưng nếu đáo hạn mà không đủ tiền để trả nợ hoặc không hoàn vốn kịp thời cho ngân hàng, chính quyền lợi dụng lúc đó xiết luôn đất và chuyển cho người di dân mới đến để thuê (ở Việt Nam, đất đai thuộc Nhà Nước). Có chổ, người Thượng phải cho con ở đợ với chủ nợ để trừ nợ.


9.4  hoạt động phi nông nghiệp.


Tài nguyên đất đai có hạn, nông nghiệp tiến bộ sẽ làm trội ra một số lao động nông thôn. Do đó, các hoạt động phi nông nghiệp như trong khu vực chế biến (chế biến các nguyên liệu trong nông nghiệp như cà phê, cao su, cây ăn trái, lúa gạo, trà, tơ tằm..), khu vực dịch vụ ( chuyên chở, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, trạm xăng, sửa chữa xe cộ), khu vực thương mại, khu vực doanh nghiệp  nhỏ và vừa, khu vực tiểu công nghệ truyền thống của người Thượng như đan lát, dệt, điêu khắc, mộc v.v. để tạo ra những mặt hàng có màu sắc TN sẽ giúp tạo công ăn việc làm cho  lao động mỗi năm.


9.5 vấn đề giáo dục và huấn nghệ. 


 Ai cũng biết muốn thoát khỏi chu kỳ nghèo thì vấn đề giáo dục học vấn là một điều kiện ắt có (nhưng chưa đủ!). Tại TN, các dân tộc thiểu số vẫn học theo các chương trình của miền xuôi và vì nội dung các chương trình giáo khoa này không hợp với người sắc tộc nên họ bỏ học rất nhiều. Nội dung chương trình học phải tôn trọng các khác biệt văn hoá của các tộc ít người chứ cứ khư khư lấy chương trình miền xuôi đem lên miền Thượng áp dụng một cách máy móc là không thực tế. Tại các vùng đông người bản địa như Jarai, Rhade thì nên có một chương trình song ngữ, dạy tiếng địa phương vài năm đầu rồi mới dần dần thêm tiếng Việt vào để các học sinh đỡ bỡ ngỡ. Điều này cũng cần được ứng dụng cho vùng  các tộc khác như người Bahna ở Kontum, người K'ho ở Lâm Đồng v.v.. Giáo dục cần được đầu tư liên tục, đầu tư về lâu về dài mới có kết quả, nhưng giáo dục sẽ kéo theo một loạt hậu quả bền vững như bớt sinh đẻ, chất lượng cuộc sống cao hơn, kinh tế vững mạnh hơn. Hiện nay, số học sinh bỏ học ở TN đứng ở tỉ lệ cao nhất nước. 

Thất học sẽ kéo theo nghèo đói vì thất học, không biết chữ thì khó huấn luyện ngành nghề cho thanh niên. Một thành phần đông đảo không nghề chuyên môn tràn về các thị thành sẽ kéo theo sức ép của thị trường lao động và gây ra thêm các vấn nạn xã hội.

Giáo dục phụ nữ giúp điều hoà sinh đẻ, bớt sức ép dân số.


9.6 vấn đề chế biến


Các nông phẩm sản xuất ra từ lúa, đậu nành, cà phê, trà cần được biến chế để tăng thêm giá trị tiêu thụ, dễ thương mãi hóa, dễ xuất cảng mà lại tạo công ăn việc làm. Vai trò của các doanh nghiệp tư nhân cần được nâng đỡ trong những đầu tư này. Cái quan trọng là hướng vào giảm chi phí hàng sản xuất để dễ xuất cảng và chỉ đầu tư vào các dự án công nghiệp chế biến có hiệu quả. Thị trường trong nước cũng cần được chú trọng vì dân số đông có thể đẩy mạnh tiêu thụ.


9.7 năng lượng thủy điện và năng lượng mặt trời.


TN nhiều tiềm năng sản xuất điện; ngoài đập Yali đang xây, trước kia, thời Việt Nam Cộng Hoà đã có nhà máy điện Da Nhim giữa đường Dalat đi Phan Rang, đó là chưa kể các nhà máy thủy điện nhỏ ở Dalat hoặc Ban Me Thuot ( Drayling). Nhiều vị trí trên sông suối có thể sử dụng xây các nhà máy thủy điện nhỏ (microcentrale). Để bảo đảm tuổi thọ các hồ nước, cần tăng độ che phủ rừng quanh lưu vực. Trên cao nguyên Kontum, đã có nhiều dự án nghiên cứu cho thấy có những vị trí có thể xây thêm các hồ thủy điện khác như Thượng Kontum, sông Bla, sông Poko. Tại các cao nguyên khác như cao nguyên Daklak, cao nguyên Dak Nong cũng có nhiều vị trí thuận lợi trên các sông suối để tạo ra thuỷ điện. Thung lũng sông Ba tức Cheo Reo là vùng rất nóng có tiềm năng sử dụng năng lượng mặt trời để bơm nước, tưới cây v.v.

 

9.8  tài nguyên bauxit.


TN cũng có nhiều nơi có quặng bauxit nghĩa là chứa nhôm. 


9.9 du lịch


TN có nhiều đặc điểm dễ tổ chức du lịch sinh thái, du lịch văn hoá, góp phần vào sự phát triển bền vững. Thực vậy, miền TN rất đa dạng :

-về thảo mộc: rừng thưa, rừng dày, rừng tre, nứa, rừng thông -về động vật: khỉ, nai, mễn, voi, thỏ rừng, heo rừng, chim rừng, 

- về văn hoá bản địa của hàng chục sắc tộc rải rác, như mừng lúa mới, lễ đâm trâu, lễ bỏ mả, các âm nhạc cồng chiêng vang dội cùng các điệu múa của các tộc thiểu số.

Những vùng núi hoang vu, những hồ nước thủy điện, là những nơi lý tưởng tổ chức du lịch sinh thái.


9.10. nước


Tây Nguyên là một trong những vùng thường xuyên chịu tác động nặng nề bởi hạn hán, thiếu nước sinh hoạt, đặc biệt trong vài năm gần đây diện tích cây trồng bị ảnh hưởng bởi hạn hán liên tục tăng qua các năm. Một trong những biện pháp cấp bách phòng chống hạn hán  là  xây dựng, phát triển hệ thống ao, hồ nhỏ, nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống thủy lợi trên từng địa bàn thôn, xã; đồng thời nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ, giữ gìn và tiết kiệm nguồn nước tưới quanh năm cho cây trồng. Bên cạnh đó, cũng phải xây dựng những công trình thủy lợi lớn, đặc biệt là các hồ chứa, đập dâng, trạm bơm 


10. Kết luận.


Như trên đã trình bày TN có nhiều triển vọng phát triển vì có nhiều tiềm năng về đất (đất đỏ tốt, sâu), về thủy lợi ( sông, suối ), về rừng. Nhưng tài nguyên thiên nhiên chỉ là một yếu tố cần, nhưng chưa đủ. Thực vậy, muốn phát triển, các yếu tố khác như quản lý, tài chính, giáo dục v.v.cũng quan trọng Hiện nay, ta chứng kiến có sự chênh lệch lớn trong sự phát triển của  các thành phần  dân tộc tại đó : các tộc người bản địa có tỷ lệ thất học rất cao, tỷ lệ đói nghèo cũng lớn so với người miền xuôi. Trở ngại ngôn ngữ trong các công tác xã hội, khuyến nông khi tiếp xúc với dân cũng là một khó khăn .  

 Có sự liên hệ hữu cơ giữa nhiều vấn đề : nông và lâm, nông và súc, liên hệ giữa dân số và tài nguyên, giữa dân số và môi sinh, giữa giáo dục và dân số. Sự tiếp cận toàn bộ giúp ta hiểu các vấn đề để tác động sao cho có hiệu quả cao.


Một loạt chương trình đồng bộ khác cũng cần thiết như  giáo dục cơ sở, cải thiện y tế, nước uống, khắc phục tình trạng người dân thiếu đất sản xuất, vốn vay để sản xuất-chế biến-xuất cảng, đó là chưa nói đến việc tạo cho các tộc người bản địa một môi trường bình đẳng với người Kinh bằng cách giúp con em họ có cơ hội tham gia trong mọi ngành công vụ như trong y tế, giáo viên, cảnh sát, quân đội.. tóm lại tăng cường năng lực cho các dân tộc bản địa.  


Thái Công Tụng