Ca Sĩ: Thái Hiền & Mai Hương
Thực Hiện: Hoàng Khai Nhan
1/ Thả Hồn Vào Đá
Ai đã thả hồn vào đá
Mà nghe thương nhớ mênh mông
Dáng xưa sân trường thuở nọ
Thướt tha ghi mãi trong lòng
Trần Việt Long
***
Bản Dịch:
Dropping Soul Into Stone
Who put the soul into stone?
My memory remains strong,
Your image in the schoolyard,
In my heart, you're known!
Trần Việt Long
2/ Thì Thầm Cùng Đá
Whose soul touches the heart of stone,
At night, the ocean calls,
The wind whispers a gentle song,
Joining the waves, overflowing with missing all,
Like first love just blooming,
Engraved in my heart forever and never gone!
Trần Việt Long
Cánh hạc đầu sông thoắt mịt mù
Bay lên rừng biếc đón tin thu
Lá chưa vàng hẳn rời thân áo
Khách đã buồn tênh lạc chuyến đò
Người chở trăng đi tìm huyễn ảo
Sầu mang thơ đến gọi huyền mơ
Thành San ủ mộng từ khi đó
Mỗi bước chân xa một ngóng chờ
Cao Mỵ Nhân
Hawthorne 14-9-2015
Thơ Khánh Trân
Nhạc: Nguyễn Tâm Hàn
Trình Bày: Diệu Hiền
(Tặng một Người...)
Người ơi, có nhớ ta không?
Tiếng thu nức nở trong lòng!
Che dấu kín từ bao năm tháng...
Giờ đây hiện rõ giữa trời trong.
Làm sao quên được Hỡi người ơi!
Nghẹn ngào, xao xuyến lá chiều rơi!
Bức tranh kỷ niệm còn in nét...
Ôm ấp trong tim, một bóng người.
Đó, đây... giờ đã quá xa!
Tơ buồn thêu dệt mãi lòng ta!
Xin gởi hồn về phương ấy...
Hồn Thu réo rắt ...bản tình ca!
Hẹn gặp nhau ở Cõi đời đời,
Tình buồn như lá thu rơi!
Ai ơi, vươn vấn mãi mùa thu cũ!
Xin xuân mơ ước...sắp đến rồi!
Tô Đình Đài
(Tưởng niệm nhỏ bạn thân đã gửi xác trùng dương trong chuyến vượt biển tìm tự do)
Bá Nha đã hiểu Tử Kỳ!
Tình bạn họ đẹp cách chi
Thời nay tri âm, tri kỷ
Chắt chiu rồi cũng vết tỳ!
Nhớ bạn mà lòng quặn đau
Từ ngày hai đứa chào nhau
Trùng dương nhỏ thương gửi xác
Đất người, ta ôm nghẹn ngào.
Bạn chết có hết thật rồi?
Ta còn mà hồn lẻ loi
Tìm đâu tâm đồng chính khí,
Tìm ai được như bạn tôi?
Nhỏ ơi! Nhớ nhỏ quá thôi!
Bây giờ nhỏ vẫn trùng khơi?
Xác thân chín chìm, mấy nổi?
Còn nhớ những ngày sóng đôi?
Bạn như phiến đá nam châm,
Hai đứa luôn đồng một tâm,
Đêm nay ta nghe lạ lẫm
Nhớ ngày xuống biển tự trầm?
Đêm khuya nhỏ có buồn không?
Thắp hương cho nhỏ ấm lòng,
Mà ta lạnh cơn thương nhớ,
Ôm buồn thả vào mênh mông.
Ngoài sân tuyết rơi u hoài
Trong này lệ người bi ai
Nhớ ơi! Ôi là nỗi nhớ
Hương tàn, buồn chẳng nguôi ngoai.
Ý Nga,
Em đến thăm anh đắng cả lòng
Đường xa hun hút gió mênh mông
Giữa khuya lạnh lẽo con đò bé
Anh hiểu tình em nước ngược giòng!
Gió hú xuồng đêm rờn rợn da
Trăng nghiêng bóng đổ rừng bao la
Em mang đến anh tình nồng ấm
Là cả ân tình nghĩa thiết tha
Tay nắm bàn tay phút nhiệm mầu
Nghe từng nhịp thở tim xôn xao
Mơ hồ âu yếm trong hương áo
Mà ngỡ đôi lòng quyện lấy nhau
Anh gửi hồn theo vạt áo nhầu
Em về cô quạnh lệ thương đau
Từng đêm thao thức bao niềm nhớ
Một cõi buồn tênh vạn cổ sầu …
Thu lại đến rồi em nhớ không?
Bao mùa lá rụng nhạt môi hồng
Nỗi buồn vô tận trong tiềm thức
Nhìn bóng thời gian gió lạnh lùng!
Trời bỗng ảo huyền trong khói sương
Núi rừng buồn bã cảnh thê lương
Em về mà ngỡ lòng dao cắt
Một mảnh hồn đau giữa núi rừng
Số là cách đây hơn tháng, chú Huế Kiên được ông Tám Sang mướn chèo ghe, chở lúa lên Saigòn bán cho mấy chành gạo. Trong lúc rảnh rỗi, chú theo mấy người bạn lái ghe đi thăm Saigòn, Chợ lớn cho biết. Tới khu chợ bán đủ loại chim, cá, chó, mèo... thấy có bán con chim Vành Khuyên, có lẽ chạnh lòng nhớ về xứ Bắc xa xôi, chú đứt ruột trích ra một món tiền, mua chú chim đem về, chắc mong hằng ngày ngắm nhìn cho đỡ nhớ quê xưa. Không ngờ gặp nhóc tì Tín là người đồng điệu. Tuy mới 8-9 tuổi đầu, nhưng cu cậu rất mê chim chóc. Nó đã từng nuôi 1 con sáo (từ lúc mới ra ràng), bỏ công hằng ngày bắt cào cào, châu chấu cho ăn. Sau đó còn lột lưỡi và dạy sáo ta nói được vài câu. Nhưng 1 hôm bất cẩn, anh chàng bỏ mạng dưới nanh vuốt của mấy con mèo hoang bên nhà bà Sáu Tân (sát hàng rào)! Cu Tín tiếc thương con sáo khóc hết mấy ngày. Từ hôm biết chú Huế Kiên có con chim lạ, vừa đẹp lại hót hay, hầu như ngày nào nó cũng ra nhà chú, ngoài lộ mới, để chơi với con chim. Cách đây 2 hôm, con Lanh, con chú Kiên bị trúng gió (?), trên thổ hạ tả, chú kẹt tiền mua thuốc cho con, nên muốn bán rẻ, vừa chim vừa lồng có năm đồng. Cu Tín mừng rơn, nhưng đào đâu ra tiền?
Suy nghĩ nát óc, sau cùng mê con chim quá, cu cậu đành nhắm mắt "mượn đại" tiền của bà via. Hy vọng bả không khám phá ra. (Ai bảo trai gái khi thương nhau mới mù quáng? Hỉ mũi chưa sạch như thằng Tín, khi mê chim cũng dám uống thuốc liều chớ bộ)!
Sau khi tặng ông con 2 cái tát gần gẫy cổ, chú Thuận quay ra cho cái đám học trò, đang ngẩn tò te, một bài mô ran: Lợi dụng lúc nhà người ta đang "tang gia bối rối" để mua đồ rẻ như thằng Tín là gian ác! Thay vì ăn cắp tiền đi mua con chim, nó có thể xin chú thuốc đem cho con Lanh nhưng Mai có nghe gì đâu. Vì tuy sóng gió đang ầm ầm xảy ra trong lớp học, ngoài kia, chú Vành khuyên vẫn thản nhiên nhảy nhót và cất tiếng hót véo von. Sau khi tan học, chú Thuận dẫn thằng Tín, cầm lồng chim tới nhà chú Huế Kiên trả lại, 5 đồng cho luôn. Chú Kiên mừng lắm, cám ơn rối rít! Cũng từ đó, tiếng hót và chú chim màu xanh có cái tên Vành khuyên đã thấm sâu vào tâm hồn non nớt của cô nhỏ.
Nhớ hoài.....
Rồi năm học sau, Mai không nhớ vì lý do gì (thuở đó, ăn, học, đánh chuyền, nhảy lò cò, tắm sông, cất nhà chòi... chiếm hết thì giờ và tâm trí của Mai, còn chỗ nào để nhớ đến chuyện khác?) chú Thuận dẹp ngôi trường nhỏ và chú Sáu Lân, cũng em họ của ba, tốt nghiệp trường "Xách Lu" (tức Chasseloup Laubat, các bà dưới quê phát âm nôm na là Xách lu cho tiện!) trên Saigòn về, xin phép ty học chánh dưới Cao Lãnh mở một ngôi trường tiểu học (chỉ có 3 lớp).
Trường được cất trên nền cũ của ngôi nhà nền đúc xưa (bị tiêu thổ khang chiến phá từ lâu), vách ván bổ kho, mái tôn đàng hoàng. Tuy mái tôn nhưng không nóng, nhờ núp dưới bóng mát của 2 cây vú sữa tím cổ thụ. Ngoài Hiệu trưởng Lân còn có 2 cô giáo. Cô Bích độc thân, từ tỉnh khác đổi tới, nên cô phải mướn một căn phòng, ăn ở luôn tại nhà bà Sáu Tân. Cô xinh xắn,hiền, dạy lớp 5. Lớp tư do cô Liễu phụ trách. Cô Liễu có gia đình, năm đó đang mang bầu đứa con thứ nhì. Mỗi sáng cô phải đi 7 cây số, từ Cao Lãnh lên Tân An dạy. Học trò đứa nào cũng mê tơi mùi nước hoa từ người cô tỏa ra. Chú Lân dạy lớp 3. Chú đánh học trò còn dữ hơn chú Thuận. Chú không xài roi mây mà xài thước bảng! Làng Tân An nằm cạnh con sông Cửu Long, đất bồi nên cây trái sum suê. Nhiều nhất là xoài và dừa. Ít người làm ruộng. Trái lại xã Mỹ Ngãi nằm sâu trong đất liền, cách Tân An một cánh đồng khá rộng. Đa số làm nghề nông. Đến mùa gặt, cần nhiều nhân công, nên con cái họ đi học thất thường. Nhiều đứa trụ trì một lớp 2-3 năm là chuyện tự nhiên. Trong lớp Mai có 5 đứa bên Mỹ Ngãi qua học. Tội nghiệp, phải đi bộ 3-4 cây số mới tới trường, nên tụi nhỏ phải gói cơm đem theo ăn trưa tại lớp. Chiều, tan học lại phải băng qua cánh đồng rộng mênh mông mới về tới nhà. Còn sức đâu để học bài, nên đứa nào cũng học rất kém, nhứt là thằng Đức. Nó hơn Mai 2 tuổi, mà tháng nào cũng bị cầm cờ đứng chót. Mỗi khi bị thầy kêu đọc bài thuộc lòng là mặt mày nó xanh dờn. Có hôm làm toán sai be bét, bị chú Lân phạt 5 khe. Mỗi lần cây thước bảng quất cái trót xuống bàn tay đen đủi của thằngĐức là Mai lại giật thót người. Nó nghiến răng chịu trận không dám khóc, nhưng cặp môi xám ngoẹt!Có một lần chú oái oăm bắt Mai thi hành bản án, vì Mai được nhiều điểm nhứt lớp. Mai là người từ bi, chớ đâu có gian ác như chú Lân, nên chỉ khẻ nó 1 cái nhẹ hều. Chú giật cây thước, bắt Mai xoè bàn tay bé bỏng ra, rồi quất xuống 1 cái mạnh ơi là mạnh. Đau thấu trời xanh! Đâu có chịu tha, chú bắt Mai tiếp tục thi hành bản án. Lần này, con nhỏ lấy hết sức quật cho anh cu Đức 5 cái.
Hôm sau, Mai đem cho nó trái xoài thanh ca chín vàng lườm, thơm phức:
- Trò đừng giận tui nha.Tui đâu muốn đánh, tại thầy bắt.
Thằng Đức nhận trái xoài, ra vẻ cảm động:
- Tui hổng giận trò đâu. Cũng tại tui học dở thôi! Mà Mai à, trò làm cách nào mà học giỏi quá vậy? Tháng nào cũng đứng nhứt.
Con nhỏ nghệt mặt ra, rồi cười trừ, vì biết phải giải thích cách nào đây?
Chú Lân còn độc thân lại đẹp trai. Cô Bích xinh xắn, dễ thương, thì chuyện gì đến tất phải đến. 2 người thương nhau. Nhưng Mai nghe mấy người lớn nói gia đình cô Bích không môn đăng hộ đối (Mai đem câu này hỏi con Hải, con chú Thuận, nó hơn Mai 1 tuổi, ai ngờ nó cũng mù tịt, không hiểu gì hết, nhưng ráng làm tài lanh, đóng vai Mao Tôn Cương:
- Chắc nhà cô Bích nghèo, không có nhiều đăng để bắt cá với gia đình mình, nên ông bà Tám Dư đang đi hỏi vợ cho chú Lân dưới Cao Lãnh.
Cô Thu, con gái ông Hội đồng Tâm, nhà rất giàu. Một trưa chúa nhật, con Hải, thằng Lâm và Mai hẹn nhau đến nhà bà Sáu Tân. Nhà bà cất cách mặt đất độ nửa thước, dưới sàn tối om, có một đám mèo hoang trú ẩn. 3 đứa chui vô sàn để nhìn mấy chục cặp mắt sáng rực, di chuyển trong bóng tối của lũ mèo, đang chạy lung tung vì sợ. Không ngờ phía trên là phòng cô Bích. Tụi Mai nghe tiếng cô khóc nỉ non, rồi tiếng chú Lân dỗ dành:
- Em đừng lo. Anh nhứt định không cưới cô Thu đâu.
Anh thề chỉ thương mình em thôi...
Nghe đến đây 3 nhóc tì bấm nhau rút lui có trật tự, vì lỡ chú biết được, tưởng mấy đứa đi rình thì no đòn! Không ngờ nhỏ Hải miệng bép xép, bật mí cho thiếm Thuận nghe, bả lật đật chạy đến nhà bà Tám Dư "ráp bo" y chang. Cuối cùng, như tất cả những ông anh, bà chị đi trước, chú Lân cũng phải cưới cô Thu, áo mặc không qua khỏi đầu. Cô Bích thất tình, ốm nhom, ốm nhách. Nhưng vì yêu chú Lân cô vẫn ở lại trường Tân An. 2 người cứ lén lút qua lại với nhau, bị thiếm Lân đánh ghen mấy trận.Cô xấu hổ phải xin đổi đi tỉnh khác. (Chuyện này Mai không thấy tận mắt, chỉ nghe con Hải kể lại. Vì lên lớp nhì, Mai theo má và chị Lan qua bên làng Phong Mỹ, cách Tân An 7 cây số).
Trường tiểu học Phong Mỹ có 4 lớp: năm, tư, ba, nhị. Lớp Mai có tới 40 học sinh. Dạy lớp Mai là thầy Hiệu trưởng Lương. Vừa tốt nghiệp Sư phạm là bị đổi xuống cái làng quê xa lơ xa lắc này. Hôm thầy và bà mẹ từ Saigòn dọn xuống, hầu như cả chợ Phong Mỹ túa ra xem, vì lần đầu họ mới thấy một người Bắc chính cống! Bà cụ trạc 50 (thời đó dưới quê, 50 đã là lão lắm rồi!), tóc vấn khăn nhung đen, răng nhuộm đen, người tầm thước. Thầy Lương ốm, cao, trắng trẻo, đúng câu bạch diện thư sinh.Mẹ con thầy mướn căn nhà sát chợ, ngay trước cửa trường. Mọi người không giấu được sự kinh ngạc khi nghe thầy gọi mẹ bằng u. Sau này Mai nghe kể, bà cụ góa chồng sớm. Hai mẹ con dắt díu nhau vào Nam năm 54. Bà buôn tảo bán tần nuôi con ăn học cho khi thành tài. Một mẹ một con nên bà thương và săn sóc thầy một cách quá đáng. Đôi khi làm thầy mắc cỡ đỏ cả mặt, gắt lên:
- U, u, u đừng làm thế!
Má mướn nhà tại chợ cho chị Lan mở tiệm may và cũng là người duy nhứt đã từng sống trên Saigòn nên dễ thân với bà cụ. Có chuyện vui buồn gì cũng kể cho nhau nghe.
Như thường lệ, Mai là đứa nhỏ tuổi nhứt lớp. Bên con trai có anh Dương và anh Sang tới 17 tuổi. Bên gái có chị Lệ Hoa và chị Kim Sa cũng 17. Còn sàng sàng 13-14. Học trò làng Phong Mỹ có phần văn minh hơn bên Tân An, vì phần lớn ở tại chợ. Tuy vậy vẫn không bỏ được thói quen đi chân đất. Mấy ngày đầu còn mang guốc, sau Mai phải lén má bỏ guốc ở nhà. Như vậy mới có vẻ hòa hợp, hòa giải dân tộc!
Chỉ khổ mùa mưa, lũ trùn bò lổm ngổm. Mỗi bước đi phải nhìn trước nhìn sau. Cả tháng đầu nghe thầy giảng bài, lũ học trò ngẩn tò te, vì thầy nói tiếng Bắc. Những tiếng nhé, nhỉ, chưa có đứa nào đã được nghe qua trong đời! Nhưng từ từ cũng quen. Thầy rất hiền, tận tâm, vui vẻ và thỉnh thoảng lại vác cây guitar vô lớp gảy từng tưng cho lũ học trò nghe, nên ai cũng mến thầy.
Qua năm lớp nhì không có gì đáng ghi nhớ. Họa chăng thỉnh thoảng Mai thấy trong hộc bàn có 1 tấm tranh vẽ.
Khi thì vẽ 1 đóa hoa, lúc chỉ là 1 chiếc lá vàng. Tranh nhỏ thôi, nhưng rất đẹp. Không bao giờ có chữ ký, nhưng Mai biết tỏng là của thằng Bằng, vì trong lớp chỉ có nó vẽ đẹp nhứt. Đôi khi vô tình con nhỏ còn bắt gặp cu cậu nhìn lén mình nữa chớ. Những lần bị bắt quả tang, cu ta đỏ mặt lên như con gái!....
Thỉnh thoảng cuối tuần, Mai, Kim, Hằng với chị Lệ Hoa đạp xe vào chơi nhà Kim Sa, ở tuốt trong ngọn (con rạch Phong Mỹ, bắt đầu từ sông Cửu long, chạy sâu vào tuốt trong Đồng Tháp Mười. Chỗ giáp sông gọi là vàm, cuối rạch gọi là ngọn. Dân chúng cất nhà dọc hai bên bờ rạch và dùng xuồng nhỏ để di chuyển. Dân quê giặt quần áo, rửa thức ăn, tắm gội, uống nước cũng chỉ với con rạch này. Nên má kể có năm, bịnh đậu mùa hoành hành, dân chúng hai bên bờ chết như rạ).
Nhiều lần tụi Mai đụng đầu với thầy Lương ở nhà Kim Sa. Thầy có vẻ hơi lúng túng, nhưng cô nàng chẳng những rất tự nhiên mà có phần hơi... kênh kênh! Cũng từ đó Mai để ý thấy thầy Lương gọi cả lớp bằng trò, trừ Kim Sa thầy gọi bằng em ngọt sớt! Lũ nhóc cà nanh, nói hành nói tỏi, không ngờ tới tai thầy. Một hôm thầy la tụi Mai một trận giữa lớp. Tụi con trai được trớn, giờ ra chơi bu lại mắng thêm, nói bọn con gái nhiều chuyện. Thằng Luyện còn dám xỉ vô trán Mai nữa chớ! Cả đám tức mình khóc hu hu... Nghĩ lại tại bọn Mai thấp cổ bé miệng, chớ một lần đang chơi nhà nhỏ Kim, cách nhà thầy Lương có 1 căn (mẹ thầy về Saigòn thăm bà con). Chính mắt tụi Mai thấy Kim Sa vô nhà thầy. Mấy phút sau cả đám tới gõ cửa. Thầy ra mở, nhưng không đóng cửa lại mà mở toang, cho cánh cửa dựa sát vách. Tụi Mai làm bộ hỏi bài, nhưng cặp mắt đảo chung quanh. Không thấy bóng dáng "Mụ Dạ Xoa", (từ hôm bị thầy rầy "oan", tụi Mai tức mình bèn đặt biệt danh này cho Kim Sa để trả thù!), mấy nhóc đành chào thầy. Ra ngoài, nhỏ Hằng thì thầm:
- Tao nghe rõ ràng có tiếng thở phía sau cánh cửa.
Chắc chắn là Mụ Dạ Xoa núp ở đó. Tức quá chời!....
Thời gian trôi nhanh, Mai lên lớp nhứt. Thầy Lương càng ngày càng "lậm" và cuối cùng chuyện này cũng tới tai bà cụ. Mẹ thầy không thích Kim Sa, bà nói con bé có cặp mắt lẵng lơ quá (đó là lời cụ tâm sự với má Mai). Nhứt là bà đang ngắm nghé chị Bạch (chị thằng Đức học cùng lớp Mai).Chị đẹp dịu dàng, tánh tình thùy mị, đảm đang, cả chợ ai cũng mến. Bà nhờ má Mai đứng ra làm mối. Thầy Lương cũng bằng lòng. Hai bên định ngày làm đám hỏi. Thứ bảy, học trò chỉ học buổi sáng. Sau khi tan học, mẹ con thầy sẽ cùng với má của Mai đem lễ vật tới nhà chị Bạch. Bên nhà gái chuẩn bị tiệc tùng từ hôm trước. Không ngờ, học trò vào lớp được khoảng nửa giờ, bên Hội Đồng Xã cho người qua mời thầy Lương đến trụ sở có việc. Thầy tỉnh queo trong khi đám học trò ngơ ngác nhìn nhau. Thầy dặn không trò nào được rời khỏi lớp trong lúc thầy vắng mặt. Nhưng nhứt quỉ nhì ma thứ ba là học trò mà! Thầy vừa qua tới trụ sở Xã thì thằng Triết (lí lắc nhứt lớp), cũng đã nhảy qua cửa sổ, chạy theo núp phía sau để dọ thám. Độ 15 phút sau, nó hớt hải chạy về báo một tin động trời: Gia đình chị Kim Sa thưa thầy Lương về tội... dụ dỗ gái tơ và khủng khiếp hơn nữa là cô nàng đang mang bầu! Lúc đó bộ tam sên Kim - Mai - Hằng vênh mặt lên:
- Thấy chưa? Năm ngoái đứa nào nói tụi tao nhiều chyện?
Phía con trai nín khe... Ngồi trong lớp mà đứa nào cũng như ngồi trên đống lửa. Cuối cùng chịu hết nổi, cả đám rủ nhau qua trụ sở.Lúc đầu còn sợ sợ, núp núp, lén lén. Lát sau thấy hấp dẫn quá, quên cả sợ, đám học trò chen chúc nhau xem. Thầy Lương và bà mẹ đứng trước mặt Ban Hội Đồng (trong đó ngài phó Chủ Tịch là bác của "nạn nhân". Điệu này thầy thua là cái chắc)!
Kim Sa ngồi cúi gằm mặt, bên cạnh là bà dì. Gia đình họ bắt thầy Lương phải nhận cái bầu và làm đám cưới ngay. Mẹ thầy đâu chịu đầu hàng dễ dàng, bà nhất định không công nhận Kim Sa và đặt một câu hỏi to tướng về tác giả cái bầu nọ!?
Trước mặt đám học trò, thầy Lương mắc cỡ đỏ mặt tía tai, quên tuốt luốt công lao dưỡng dục của bà mẹ, lớn tiếng quát:
- U im đi. U biết gì mà nói!
Không ngờ ông quí tử có thể đối xử với mình một cách phủ phàng như vậy, bà cụ oà lên khóc, kể lể tùm lum. Những tiếng "ối giời ôi.." cụ vừa khóc vừa rên lên khiến mọi người cũng cảm thấy não lòng! Thầy Lương xin phép dẫn mẹ về rồi sẽ trở lại. Thầy lôi tay, cụ nhất định trì lại, sau cùng vì yếu sức hơn, bà đành theo con ra về. Hôm sau, những lễ vật thay vì được đem đến nhà chị Bạch, lại phải trực chỉ hướng nhà Kim Sa!
Sau này, tụi Mai mới biết chính thầy Lương "khả kính" có dự phần trong cái "âm mưu" đi kiện này. Thầy dư biết nói suông không đời nào bà cụ chịu cho thầy cưới Kim Sa, nên mới đồng ý dựng vở tuồng này. Tuy xấu hổ một chút, nhưng kết quả 100%! Chỉ tội nghiệp chị Bạch vỡ mộng làm bà Hiệu trưởng và gia đình chị bữa đó chờ đàng trai dài cả cổ cũng chẳng thấy đâu! Vậy mới biết khi đã vướng vào lưới tình thì sẵn sàng tung hê hết. Cả danh dự lẫn tình mẫu tử đều phải cuốn gói đi ra chỗ khác chơi! Bà cụ chỉ còn nước cắn răng khóc thầm.
Lên trung học Mai theo má lên Saigòn ở luôn, nên biệt tin cả đám bạn cũ. Nhưng từ khi bỏ nước ra đi, rất thường, trong mơ Mai thấy mình sống lại y hệt cái thời thơ ấu đó.
Cũng những mái trường làng rợp bóng cây xanh. Cũng giòng sông hiền hòa, mà hầu như ngày nào bọn Mai cũng nhảy xuống tắm, đến khi mặt mũi tái xanh vì lạnh mới chịu lên. Cây sung già thân thể sần sùi tại bến đó. Núp dưới bóng mát đó, chị Hạnh tươi cười mời những khách bộ hành qua lại mua những chùm mía ghim ngọt ngào, những chén bánh lọt chan nước dừa mát rượi và nhứt là tiếng hót của chú chim Vành khuyên màu xanh, mỏ vàng, nhảy tung tăng trong lồng, cặp mắt đen nhánh lúng liếng nhìn qua nhìn lại...
Sáng hôm sau dậy trễ, Mai ra bếp đã thấy Tiến đang ngồi nhâm nhi ly cà phê phin bốc khói thơm lừng, vừa đọc báo. Thấy vợ ra, Tiến buông tờ báo xuống hỏi:
- Làm gì mà đêm qua cứ lăn lộn hoài vậy nhỏ?
Mai bưng ly cà phê của chồng uống một hớp:
- Nghe bài Trường Làng Tôi, em nhớ tới những mái trường xưa dưới quê lúc còn nhỏ. Nhớ muốn chết luôn!
Tiến giả bộ hốt hoảng:
- Ấy ấy, nhớ thì cứ nhớ nhưng đừng chết. Bỏ tui cu ky một mình tội lắm à nha!
Mai xì một tiếng:
- Người ta nói vậy thôi, chớ bộ ngu sao chết! Còn anh nữa, sao không bao giờ em thấy anh nói nhớ về miền Bắc?
Tiến lấy giọng bi thảm:
- Ối giời, bà xã yêu quí, bộ bà tưởng ông chồng bà có trái tim bằng sắt hay sao chứ? Nhiều khi tui nhớ da nhớ diết cái xứ Hưng Yên. Nhất là vào mùa hè, mỗi khi bà mua nhãn về ăn, là lòng tui đứt ra từng đoạn (?!) vì nhớ tới mấy cây nhãn ngon không thể tả trong vườn nhà bà ngoại ngày xưa...
Mai ngắt lời, dài giọng:
- Thơ mộng dữ hôn! Nhớ gì không nhớ, chỉ nhớ mấy cây nhãn!
Tiến cười hà hà:
- Cưng ơi, cổ nhân có phán rằng: có thực mới vực được đạo. Chà, nói đến đây anh lại cảm thấy đói bụng. Thôi đi hâm nồi bún riêu đi cưng.
Mai vừa mở tủ lạnh vừa nói:
- Thưa ông tướng có ngay. Trong khi chờ đợi, gọi dùm mấy nhóc tì dậy ăn luôn.
Tiến đứng lên cái rụp:
- Xin tuân lệnh bà nội tướng!
Tiểu Thu
Thơ Du Tử Lê
Nhạc Hoàng Quốc Bảo
Guitarist Thiên An
Tiếng Hát: Ngọc Mai
Thực Hiện: Hoàng Khai Nhan
Nhận ra mùi cỏ dại
Thoáng bay theo gió nhẹ
Sương trắng giăng trước ngõ
Hôm nay thu đã về.
Lá còn bay ngoài kia
Tiếng chim kêu gọi mời
Em còn đang chờ đợi
Nắng lên rồi rong chơi.
Một làn mây trắng bay
Vắt ngang vai em gầy
Điểm trên mái tóc mây
Chiếc lá thu tình đầy.
Giấc mơ nào trong đêm
Đổ nghiêng bình rượu đầy
Bờ môi còn nồng ấm
Giọt rượu nào ngất ngây.
Đem thu vào trang thơ
Dòng mực ướt từng tờ
Lời tình tràn nỗi nhớ
Nóng lên từng cơn mơ.
Thổi vào ngọn gió se
Làn sương trắng vuốt ve
Má ửng hồng bẽn lẽn
Tình nóng như nắng hè.
Đêm trong cơn mộng du
Mò mẫm khói sương mù
Môi hôn làm chết lịm
Em nghiêng mình sang thu.
Tế Luân
Xe lăn bánh vật vờ
Giữa cõi lòng bơ vơ
Miên man niềm sương khói
Thấp thoáng trời hư vô
Dòng đời xe chạy vội
Cuốn hút cơn muộn phiền
Đi – về muôn vạn lối
Có nẻo nào bình yên
Tâm la đà trĩu ngọn
Tình chôn chặt đáy sâu
Một đời đi chưa trọn
Tháng ngày đã qua mau
Thôi cũng đành như thể
Dòng suối cạn nước khô
Chờ cơn mưa mùa hạ
Từng giọt rơi hững hờ…
Phong Châu