Thứ Bảy, 26 tháng 11, 2022

Trích Đoạn Tâm Sự Mai Đình - Kim Trúc - Hoàng Vân


Trình Bày: Kim Trúc - Hoàng Vân

Như Cuộc Rong Chơi

 

Mây nối đường mây, tiếp dặm không
Giữa bao la hiện ánh dương hồng.
Ta về dừng lại từng ga trạm
Chở khối tình trong ánh mắt trong.

Ý niệm thời gian loạn dáng màu,
Nỗi niềm thế sự chạnh lòng đau
Ai hay từng chuyện đời sau trước,
Nhân phẫm ơ hờ… đáy vực sâu!

Thời thế đã làm nên thế đó
Đảo điên đạo nghĩa kiếp con người
Càng lên chót vót đài danh phận
Càng thấp bùn đen bẩn chất đời.

Có kẻ lạnh lùng bên quán trọ
Có người nô bộc dưới chiều hoang
Phím đàn đã nát theo cung bậc
Giọt lệ sầu lên chuyện đá vàng.

Màu mắt chìm trong màu bể hoạn
Niềm vui ẩn hiện vạn niềm đau
Ngàn thu chớp mộng màu mây nước
Nhịp vỗ thời gian vạn cổ sầu!

Ta vẫn đi theo muôn bến đời
Theo từng ga trạm cuộc rong chơi
Lắng nghe cung bậc lời dâu bể
Để dệt tình thơ giữa kiếp người.

Mặc Phương Tử


Thu Vẫn Đầy Trên Lối Thơ

 

Người đến thăm tôi thật bất ngờ
Nắng chiều gió sớm tuyệt vời thơ
Tôi như một kẻ đường trăng lạc
Em chiếc áo tình cập bến mơ

Từ khi chia biệt xứ sương mù
Trở lại miền Đông đợi đến Thu
Tôi giữ ảnh hình xanh lối ấy
Cùng tình em đẹp để yêu thơ

Mùa Thu Đông Bắc sắp qua rồi
Tôi đợi mong Hè sớm tới nơi
Để được về thăm đường lối cũ
Và cùng em bước bước thơ đôi

Tôi tháng ngày trông đầy cõi lòng
Đem thơ hong ấm giữa mênh mông
Cho Thu cõi nhớ hồng mơ tưởng
Nhưng vẫn lạnh lùng chợt gió Đông

Chờ hết mùa Xuân mình tới Hè
Tình nào thôi thúc bước chân đi
Đường xa ngàn dặm hương còn ngát
Thơ níu tình nhau một lối về

Thơ mãi tình thơ mùa Hạ vàng
Đi về sau trước bước thênh thang
Đông Tây câu chữ tròn vai nặng
Hạ sắp qua rồi Thu xốn xang.

09/28/2022
Hoa Văn

Khổ Qua

 

Khổ Qua

Đến khi trái khổ qua đầu
Trên giàn kết trái tình đâu mất rồi
Anh ngồi tưới nước làm vui
Mà em như lệ khóc người đó đây.

nguyễn nam an
***
Thơ Nối Tiếp: 

khổ ai như nỗi khổ nầy
thì ra cái khổ đã đầy vườn tôi
khổ hoài sao chẳng chịu vơi
chẳng ai ngoái lại để tui đỡ buồn?!
Nước tui cũng đã cạn nguồn
còn đâu để tưới cái buồn lỡ mang?!

Trần Bang Thạch
***
Khổ qua nụ trổ đầy giàn
Ới người gieo khổ chẳng màng để tâm
Sụt sùi trời đổ mưa dầm
Ới người gieo khổ trăm năm bạc lòng

Kim Phượng
***
Cánh vàng nhụy điểm trắng trong
Khổ qua kết trái đắng lòng người ơi
Oằn mình cam chịu ngậm lời
Ai hay ai hiểu cuộc đời khổ qua.

Kim Oanh
***
Nối Tiếp Vần Thơ Kim Phượng

Khổ tôi lệ chảy thành dòng
Người còn đi mãi …hết mong ngày về
Giọt buồn nỗi khổ lê thê
Tôi đâu quên được lời thề ngày xưa
Khổ qua vị đắng sao vừa
Xin người nhớ lại những mùa yêu nhau.

songquang
20221124
(Ngày Thankgiving 2022)

Nghe Lại Một Bài Hát


(Khi nghe Ngọc Huyền hát “Cánh Hoa Yêu” Hoàng Trọng).

Hôm nay nghe Huyền hát “Cánh Hoa yêu”
Tôi bất chợt thấy một màu hoa tím
Những cánh Pensé ngày xưa tôi thích
Ép vào trang thơ, vào tận tâm hồn.

Ôi hoa Pensé một màu tím buồn
Đã phai nhạt rồi cùng trang vở cũ
Cả bài thơ tôi rất yêu thuở đó
Đã lạc vần cùng với cánh hoa rơi.

Hôm nay nghe Huyền hát lên từng lời
Từng điệu nhạc sao mà thân quen quá
Màu hoa tím đưa tôi về quá khứ
Cánh hoa yêu. Tôi gặp lại cố nhân.

Xin lỗi hoa vì tôi đã từng quên
Có những lúc bộn bề trong cuộc sống
Có những lúc tôi từng nghe ai hát
Mà trái tim vô cảm lẫn vô tình.

Hôm nay Huyền hát tôi tìm lại mình
Cô bé ngày xưa một lần đã “cảm”
Yêu hoa Pensé chỉ vì lãng mạn
Thổn thức chỉ vì tiếng nhạc lời ca.

Tưởng rằng đã quên tưởng rằng đã xa,
Tưởng hoa Pensé bao mùa đã héo
Cánh hoa yêu. Bao giọng ca tiếp nối
Tôi lại nghe thổn thức thuở ban đầu.


Nguyễn Thị Thanh Dương 
(Oct.30, 2021)

Thăm Viếng Zagreb, Croatia


Vào cuối tháng 8, chúng tôi 7 người cư ngụ Virginia ghi tên thăm viếng Croatia, Bosnia, Lovenia và Venice 15 ngày với hãng du lịch Gate 1. Còn 9 người Việt Nam nữa từ California sẽ gặp nhau ở phi trường Croatia. Chúng tôi đến Dulles Airport, Washington DC đáp phi cơ đi Amsterdam. Chuyến bay dài 7g35 phút. Sau đó chuyển phi cơ bay đến Croatia mất thêm 1g45 nữa. Nhân viên viên Gate 1 sẽ đón chúng tôi từ phi trường đưa về khách sạn Westin.

Máy bay KLM cất cánh buổi chiều lúc 17g 45 nhưng 14 giờ chúng đã rời nhà đi đến Dulles airport , Washington, DC. Hôm ấy thứ 6 đường bị kẹt xe, mãi 15 giờ chúng tôi mới đến phi cảng. Nếu cuối tuần chỉ mất 30 hay 40 phút thôi. Tuy còn sớm nhưng anh chị Dương đã đến trước chúng tôi. Từ cổng phi cảng vào đến nơi check in cũng mất 20 phút gồm đi xuống, đi lên, đi bộ khoảng ngắn, đi xe train … Tôi thích đi phi cảng Reagan, không mất nhiều thì giờ, từ cổng phi cảng đến phi đạo gần hơn. Ngoài ra sắp hàng rồng rắn chờ đến lượt kiểm soát an ninh mất gần cả tiếng. Ngày nay thiên hạ du lịch quá sức là đông, có lẽ vì vào mùa học sinh nghỉ hè chăng.

Chúng tôi đi phi cơ hãng KLM, chỗ ngồi tương đối rộng rãi, ai muốn ngồi chỗ tốt hơn như gần cửa sổ hay gần hạng sang chỉ cách một vách ngăn để duỗi chân cho thoải phải trả thêm tiền từ 30$ đến 180$. Các nữ tiếp viên nói năng nhẹ nhàng, ân cần và lịch sự, đồng phục màu xanh nhạt. Cô nào cũng to, cao khác với tiếp viên Á châu người nhỏ nhắn, thanh thanh nhưng tất cả đều tươi cười nhã nhặn. Máy bay cất cánh đúng giờ. Họ cho ăn tối, ăn khuya (nhẹ) và ăn sáng. Rạng đông hôm sau chúng tôi có mặt ở phi trường Amsterdam. Nơi này xinh đẹp rộng rãi, phòng đợi ghế nệm êm ái nhiều màu sắc giống như phòng khách tư gia. Các cửa tiệm hàng hóa xinh đẹp trình bày bắt mắt hấp dẫn. Có đủ các cửa hiệu đắt tiền: Hermes, Burberry, Chanel, Gucci…

Tiệm bách hóa bày hoa Tulip (uất kim hương) bằng nhựa thật to lá xanh hoa vàng rất đẹp. Thiên hạ xuôi ngược đông đúc. Nhiều cửa hàng bán thức ăn và tiệm nào cũng đông khách dù mới sáng sớm. Nhóm chúng tôi cùng nhau đi bộ đến cổng (gate) phi cơ đi Croatia, khá xa. Cô bạn và tôi bỗng nhìn thấy đồng hồ treo trên tường giờ khác với giờ Virginia. Cả hai bèn đứng lại sửa đồng hồ theo giờ địa phương xong nhìn lại các bạn đi hết, chẳng biết họ đi về phía nào vì trước mặt con đường rẽ làm hai lối. Hỏi nhân viên phi cảng họ chỉ sai nên đi vòng vo mất thì giờ, chậm trễ thêm. Báo hại anh chị Dương đi tìm và cả nhóm lo lắng. Tôi nói để quý độc giả hình dung sự đông đúc ở phi trường Amsterdam.

Zagreb, Croatia


Zagreb là thủ đô Croatia. Phi trường quốc tế Zagreb rộng rãi, sạch sẽ. Nơi phòng đợi hành khách đi và đến có tiệm bán café, bánh ngọt, nước giải khát rộng rãi, bày biện vui mắt nhưng kiến trúc phi trường rất lạ. Nóc phi cảng dài uốn lượn như con cá biển to lớn hay lượn sóng khổng lồ…

Chờ đủ du khách GATE 1 lên xe, bác tài cho xe lăn bánh đưa mọi người về khách sạn Westin khá đẹp, cũng mất cả tiếng. Chiều hôm ấy cô Tina, tour guide mời tất cả du khách da vàng da trắng đến phòng họp nhỏ khách sạn, ân cần dặn dò những điều cần thiết như trước khi đi ngủ hay điểm tâm nên ghé xem thông cáo Gate1 nơi phòng tiếp tân,

cho biết giờ ăn sáng, lúc lên đường, thời tiết hay phải mang loại giày nào để đi bộ cho thoải mái… Lúc chúng tôi đến khách Westin thấy khách vào ra khách sạn mặc rất đẹp tôi nghĩ dân địa phương mặc sang hóa ra họ có tiệc cưới. Chúng tôi ăn tối tại khách sạn hôm ấy với thực đơn đám cưới rất ngon. Cũng có thể vì thức ăn trên máy bay không hợp với khẩu vị chúng tôi ngày hôm trước.


Zagreb có khoảng 70 khách sạn từ 3 sao đến 5 sao. Là thành phố xinh đẹp Zagreb có khoảng 1 triệu dân cư, hai nơi du khách thường thăm viếng là quảng trường Kaptol ở Phố Trên (upper town)và Phố Dưới (Lower Town). Theo cô Tina tháng 8 thành phố vắng vẻ hơn các tháng khác trong năm. Thiên hạ thường đi nghỉ hè ở các bãi biển hưởng gió mát, ngâm người dưới nước biển xanh, tránh ánh nắng nóng nực và người đông đúc trong đô thị.


Xe đưa chúng tôi gần đến quảng trường thả xuống, hẹn giờ trở lại đón. Ngồi trên xe bus nhìn lên sườn núi (hay đồi) thấy nhà lầu tường vôi trắng, mái đỏ san sát nhau trông thịnh vượng, trù phú, xinh đẹp. Xe chạy ngang qua viện bảo tàng nghệ thuật rông lớn, tráng lệ, phía trước sân có bồn hoa to rực rỡ màu sắc trông hấp dẫn và vui mắt.


Chúng tôi đi thăm quảng trường Kaptol, nơi có Thánh Đường Zagreb (Zagreb Cathedral) to nhất Croatia với 2 ngọn tháp giống nhau vươn cao khỏi nóc thánh đường. Nhà thờ xây từ 1093, đến thế kỷ 13 tu bổ lại và đại tu bổ chinh trang vào thế kỷ 20 và 21. Du khách có thể viếng thánh đường bất cứ lúc nào trong ngày và cũng có nhiều thánh lễ dành cho tín hữu theo giờ giấc ấn định trong lịch trình. Cả đoàn đi bộ đến quảng trường, không xa lắm. Đường phố Zagreb nhỏ nhưng sạch sẽ và đẹp. Hai bên đường các cửa hiệu bán quần áo thời trang, đồ điện tử, tiêm mỹ phẩm, tiệm nữ trang… nằm san sát nhau. Có tiệm bán cà vạt bày cái cà vạt to tướng trước cửa còn quảng cáo là Zagreb là nơi sản xuất cà vạt đầu tiên trên thế giới. Toàn cà vạt bằng tơ kiểu nọ, kiểu kia rất đẹp.


Chúng tôi cũng viếng nhà thờ cổ St. Mark đặc biệt với mái ngói nhiều màu làm thành hoa văn xinh đẹp. Thánh đường xây từ thế kỷ 13 nhưng mái ngói hoa văn xanh đỏ mới hơn nhưng không biết rõ năm nào. Bên trong trang trí xinh đẹp do các nghệ sĩ tài danh thời bấy giờ. Thỉnh thoảng có buổi hòa nhạc đàn Organ tổ chức trong nhà thờ.

Về ẩm thực cô hướng dẫn địa phương cho biết thức ăn vừa ngon vừa rẻ theo nhưng theo cô Tina là tùy khẩu vị mỗi người. Người địa phương thường hỏi” ăn ở đâu “ ( where to eat ) khi họ rủ nhau đi ăn. Nơi chọn cho biết người mời có sành ăn hay không. Tôm hùm đồ biển đều có cả và giá cũng không đắt. Về rượu vang người Zagreb tự hào rượu vang của họ ngon không kém chi các nước khác, có thể còn ngon hơn. Khi mua bán họ dùng Kuna, tiền Croatia hay euro. It cửa hàng nhận mỹ kim nhưng họ nhận credit card nếu mua nhiều. Các văn phòng đổi tiền và khách sạn đổi được giá cao hơn ngân hàng, mở cửa từ thứ hai đến thứ bảy, chủ nhật nghỉ, nghỉ trưa từ 12 giờ đến 14 giờ.

Chúng tôi cũng đến Lower Town thấy nhà cửa phố phường đông đúc người qua lại. Đi thăm chợ rau nhưng thấy họ bán nhiều hoa tươi đẹp quá, có thể gọi chợ hoa cũng được. Ngoài các loại rau cải xanh xanh, củ dền màu tím còn cà chua đỏ tươi rực rỡ như bức tranh đẹp của người họa sĩ tài hoa. Bên trong chơ cũng bán các loại phó mát, xúc xích, thịt nguội pâté , jambon, bơ… Những cây dù che nắng rất to màu xanh, tím,vàng, đỏ trông thật vui mắt. Cà chua (Sweet, juicy tomatoes ) Zagreb có tiếng ngon hơn các nơi khác. Chúng tôi có đi ngang qua nhà quốc hội rộng lớn ở Zagreb. Theo hướng dẫn viên du khách có thể mua thẻ Zagreb card để đi xe công công, viếng sở thú, viện bảo tàng miễn phí, được giảm giá nhiều nơi giải trí khác, giá 78 kuna cho 24 giờ và 135 kuna cho 72 giờ.

Kumrovec


Sau khi ăn trưa tự túc chúng tôi lên xe đi Kumrovec, thăm quê hương Thống chế Tito, nằm phía Bắc Croatia, nơi ông sinh trưởng và cư ngụ thời thơ ấu. Nhà ông là nhà gạch đầu tiên trong làng xây năm 1860. Ông Tito sinh ngày 7-5 1892 mất 4-5-1980. Đến nơi vào làng hình ảnh đầu tiên là tượng ông Tito bằng đồng mặc áo khoác thật khéo, cao hơn người da trắng bình thường, đứng trên bục, đầu hơi cúi xuống như tư lự điều gì. Xéo xéo ở sân phía trước bức tượng có cây nho nhỏ đang nở đầy hoa trắng xóa. Sau lưng phía trái bức

tượng ngôi nhà sàn gỗ cũ nhưng tươm tất gọn gàng, treo một hàng trái bắp khô buộc lại thành chùm trước hàng hiên giống như những nhà nông phơi bắp cho khô làm hạt giống cho mùa năm tới. Làng này làm thành khu bảo tàng, mở cửa từ 1953, bán vé cho du khách vào xem. Làng có nhiều ngôi nhà trệt nho nhỏ tường quét vôi trắng nằm gần nhau. Mỗi nhà một đề tài. Có nhà bày bàn ăn, nhà bếp, lò nướng bánh mì… Các thức ăn bày trên bàn ăn phủ khăn trắng sạch sẽ như các nhà trung lưu thời xưa: muỗng, nĩa, khăn ăn… Bánh mì, bơ, phó mát, trái cây… giống như thật. Trong nhà có nôi em bé , lò sưởi than. Cái bếp, giường ngủ đều nhỏ so với ngày nay. Có nhà trình bày đám cưới, cô dâu chú rể, ban nhạc… Nhà khác bày dụng cụ nhà nông, xe đẩy tay chở cỏ khô… Nhiều nơi quá tôi không đi hết. Tôi trở vào gian nhà bán quà lưu niệm, nơi du khách mua quà đứng xếp hàng chờ đến lượt mình trả tiền. Có nhà bán kem, nước giải khát cũng đông khách. Cô hướng dẫn nói một tràng dài về tiểu sử công trạng ông Tito nhưng tôi không nhớ hết chỉ còn nhớ ông sống thọ, được đồng hương quý mến, bố người Croatia, mẹ người Slovenia. Con trai ông còn sống và không nổi tiếng như ông.

Veliki Tabor Castle.


Rời Kumrovec xe đưa mọi người lên núi xem lâu đài cổ Veliki Castle và ăn tối. Lâu đài trên núi cao hơn mặt biển 334 mét. Xe đậu nơi bãi đậu dưới chân núi. Mọi người đi bộ lên núi, đường trải nhựa nhưng hơi dốc. Thấy lâu đài phía trước nhưng đi mãi chưa đến. Có lan can bằng gỗ dọc dài hai bên lề đường. Hướng dẫn viên luôn miệng nhắc nhở xin vịn vào lan can cho khỏi ngã, nếu ai không đi được thì chờ ở chân núi, xe nhà hàng xuống đón. Các ông da trắng đi ngon lành, có ông 1 tay vịn lan can, 1 tay dắt vợ vừa đi vừa thở. Chị bạn và tôi tuy chậm nhưng vẫn đến nơi.

Tóm lại mọi người trong đoàn đều lên đến nhà hàng. Lâu đài, cảnh núi rừng, cây, lá sao mà đẹp. Tuy trên núi cao nhưng người ta cũng trồng được hoa kiểng. Hồng đang ra hoa đỏ thắm rực rỡ. Một số du khách vào nhà hàng uống nước. Ai ngồi nghỉ chân trước sân thì họ mang rượu hay nước trái cây ra mời. Chúng tôi đi loanh quanh bên ngoài lâu đài chụp ảnh, không biết có vi nào vào bên trong không.

Lúc trở lại mọi người đã vào nhà hàng kiến trúc đặc biệt theo tôi, bốn bề trống trải, chỉ có mái che. Có thể nhìn thấy cảnh vật bên ngoài, chim thú, cây lá…. Hình như mấy bàn phía trong có vách bằng gỗ. Thức ăn địa phương mang ra ê hề cho 1 bàn 4 người. Tôi nghĩ 8 người mới tiêu thụ hết và bùi ngùi nhớ đến trẻ em vùng núi thiếu ăn nơi quê nhà. Ngoài ra rượu vang địa phương có tiếng là ngon được mời thưởng thức thoải mái. Du khách phần lớn trên 60 tuổi. Người ngồi chung bàn với tôi đến từ California cho biết sau chuyến đi này ông sẽ đi ThaiLand, Campuchia và Việt nam. Ông bảo hưu trí rồi nên đi cho biết đó đây vì đâu có ai khỏe mạnh mãi để ngôi trên phi cơ hàng chục tiếng thăm viếng nhưng đất nước xa xôi…

Tôi nghĩ thầm thành phố Zagreb tuy nhỏ nhưng đẹp, có nhiều di tích lịch sử. Có thể tôi sẽ ghi lại để những người trong nước, những ai không có cơ hội đi xa xem qua hầu có một chút khái niệm. Biết bao giờ trẻ em miền núi hay chị em nông thôn Việt Nam được xem các lâu đài cổ hay các kiến trúc xinh đẹp nước ngoài. Ngày mai xe buýt sẽ đưa cả đoàn đến viếng nơi khác: Sarajevo, thủ đô Bosnia. Đêm nay mọi người phải thu dọn hành lý sẵn sàng để sáng mai trả phòng khách sạn, lên đường sau buổi điểm tâm ….

Ngọc Hạnh

Tiếp Cận Tư Tưởng Việt Nam (Tư Tưởng Nguyễn Du Qua Đoạn Trường Tân Thanh) - Chương IV (Phần Cuối)

 

Chương IV

Yếu tính của tư tưởng

qua tác phẩm

Đoạn-Trường Tân-Thanh


Hình thức diễn tả của tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh vay mượn lối văn chương tiểu thuyết. Phương thức dùng một câu truyện có tính cách tượng trưng xuyên qua các hình ảnh cụ thể trong cuộc sống của một cá nhân nhằm gợi lên những nội dung tư tưởng về thân phận con người nói chung, không phải là một sáng kiến độc đáo của Nguyễn Du; trong kho tàng văn hoá nhân loại, nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng hướng dẫn nếp sống con người cũng sử dụng hình thức diễn đạt nầy: Chẳng hạn các bản kịch của Sophocle, Eschyle; các bản văn Cựu ước như sách Sáng thế, sách Job; kịch bản Faust của Goethe; Tây Du ký của văn chương Trung Hoa; các tác phẩm tiểu thuyết cũa Dostoievski; quyển I của Lĩnh Nam Chích Quái...Nhưng trong hình thức diễn tả nầy, Nguyễn Du có được đặc sắc riêng là dùng phần dẫn nhập của Đoạn-Trường Tân-Thanh để minh nhiên nêu lên rõ chủ đề suy tư, và sắp đặt lại thành một hệ thống, dù rất cô động, trong phần tổng luận. Điểm đặc sắc nầy xích gần tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh với lối trình bày tư tưởng của các tác phẩm văn hoá ứng dụng lối văn chương hệ thống hoá có tính cách trừu tượng hơn, như Trung Dung, Đạo Đức kinh hoặc các luận văn triết học Tây phương.

Nhưng điểm quan trọng không phải ở trong lối hình thức văn chương, dù rằng nỗ lực nầy của Nguyễn Du là một công trình xuất sắc trong tiến trình văn học Việt Nam.

Điểm quan trọng mà chúng ta đã phân tích rõ trong phần dẫn nhập, là điểm khởi phát thiết định đâu là khung trời của tư tưởng. Nói cách khác điều gì đáng gọi là tư tưởng hay yếu tính của tư tưởng là gì ?

Tư tưởng bao giờ cũng là câu tra vấn cho đến cùng để có được câu trả lời về nền tảng tối hậu. Nhưng tra vấn về việc gì? Nếu lấy hình ảnh của một vụ án, chúng ta có thể đặt câu hỏi: có gì oan ức cần phải xử cho ra lẽ, nội dung nào cần được nêu lên để tra vấn?

Truyền thống triết học cho rằng nội dung thiết yếu của vụ án là thắc mắc về nền tảng thiết định bản chất của mọi sự hiện hữu. Mệnh đề nầy thoạt tiên xem ra như đã đạt được đến mức rốt ráo. Kỳ thực, đằng sau khởi điểm "thắc mắc" nầy còn có những vấn nạn nguyên sơ hơn nữa chưa từng được xác minh, mà truyền thống triết học nầy xem như đương nhiên, thường được gọi theo ngôn ngữ chuyên môn là tiên thiên (a priori), nghĩa là vốn đã như thế. Trong những vấn nạn đó, theo sách Job phải lưu ý đến lời chất vấn nầy của công lý, đó là vấn đề thân trạng của chủ thể đặt câu hỏi. Sách Job viết :


Ta sẽ chất vấn ngươi và ngươi cho ta hay. 

Ngươi đã ở đâu khi ta đã dựng nên trái đất ?

Hãy nói đi, nếu sự hiểu biết của ngươi minh bạch".


Nỗi khắc khoải về thân trạng nầy là thắc mắc nguyên sơ của bi kịch Hy lạp, đặc biệt trong các kịch bản của Sopocle (xem Oedipe vua), cũng như các tác giả truyện Bánh dày, Bánh chưng trong Lĩnh Nam Chích Quái. Lang Liệu hoang mang về thân trạng của mình trước ý định của cha. Lang Liệu đã nghe nhưng không hiểu. Trong sách Sáng Thế ký của Cựu ước, Adam và Evà đã hái trái hiểu biết để phân định tốt xấu, tráo đổi thân trạng của mình làm thân trạng của Giavê Thiên Chúa, nên đã sai lạc.

Ta sẽ thấy Triết học Tây phương khi nêu lên thắc mắc về nền tảng đã tiền kiến rằng câu hỏi nầy phát xuất do tự khả năng mình, theo ý mình. Trên bình diện hữu thể học, mọi sự như đã ở trong quyền lực của con người, từ nguồn gốc câu hỏi, sự kiện nêu lên câu hỏi (mọi sự hữu) và nền tảng của nó, đều đã được thiết định. Bước nhảy vọt ra khỏi thân trạng của mình như thế cũng là bước khởi đầu hay bình minh của tư tưởng triết học truyền thống.

Thực vậy, trước khi xác định nền tảng cho lối suy tư triết học nầy, trong Bài Ca Hữu Thể Parménide đã diễn tả bước nhảy vọt kỳ lạ trên đây một cách khá chi tiết. Trong giấc mơ, Thần thánh đã đưa con người lên trời xanh vượt qua ngưỡng cửa phân chia Đêm-Ngày để sống trong cõi hiểu biết đầy ánh sáng của Hữu thể. Trong cõi đó mọi sự đều ở trong chân lý, vì "Bất luận ta bắt đầu từ đâu, vì ta sẽ trở lại nơi đây" . Từ nay tư tưởng sẽ dựa trên nền tảng duy nhất có tính cách căn cơ về thân trạng nầy : "Hữu thể không phân chia, vì toàn thể hữu thể đồng nhất với chính mình" . Do đó có thể nói Hữu thể là Hữu thể, và Vô thể là Vô thể ; và tư tưởng thuộc về hữu thể nầy nên "tư tưởng và đối vật của tư tưởng trùng hợp nhau" .

Rồi tác giả còn nói thêm, đó là Định mệnh đã trói buộc như thế.

Có gì khác giữa bài ca hữu thể nầy và bi kịch Hy lạp đặc biệt trong bản kịch "Oedipe vua" của Sophocle ? Sophocle gợi ý rằng sự hiểu biết ngày là ngày, đêm là đêm của Oedipe hàm ngụ sự quên lãng một tương quan thiết yếu, nên đã tạo ra tình trạng cô độc của Oedipe. Oedipe đã giết cha mình là Laios, dành thân trạng của cha để ăn nằm với chính mẹ mình mà không hay. Bi kịch chính là nỗi oan của lạc lầm gắn với kiếp con người tại thế. Nên tư tưởng gắn liền với thảm kịch không khởi đầu từ sự hiểu biết ngày là ngày đêm là đêm; nhưng là nỗi khắc khoải khi nghe được tiếng gọi từ Đại-ký-ức thức tỉnh con người về thân phận lầm lạc mình đang sống, đồng thời cảm nhận tình trạng bất cập về mối tương giao với người cha Laios, mà mình đã giết mất rồi.

Ngược lại, điểm khởi phát của Triết học Truyền thống đã tiên liệu sự đồng nhất tính giữa Laios và Oedipe. Đây là hình ảnh để nói lên nguyên tắc đồng nhất hay tác động đồng nhất hoá. Nguyên tắc đồng nhất ấy hàm ngụ một sự vững chắc cô đơn của Hữu thể bất động tự đủ cho mình, đồng thời cũng hàm ngụ sự đồng nhất giữa tư tưởng và vật thể mình muốn biết. Ứng dụng nguyên tắc nầy vào sự trôi chảy của thời gian, người ta sẽ có tính hữu lý hay tất định của nguyên tắc nhân quả. Như thế Nguyên tắc đồng nhất được xem là nền tảng bất khả kháng và hiển nhiên đi trước cả câu hỏi về nền tảng của mọi sự hữu. Thắc mắc về nền tảng ở đây xuất lộ như là một thắc mắc giả tạo, qua lối đặt câu hỏi : Cái gì ? Tuy đấy là một câu hỏi, nhưng đã hàm ngụ một câu trả lời, hay nói cách khác buộc câu trả lời phải nằm trong chính cái nền mình đã có sẵn trước trong tay. Tại sao như thế ? Vì cái gì trong câu hỏi nầy phải được hiểu vừa là cái nền chung, lại vừa đồng hoá với khả năng con người nêu câu hỏi.

Nói cách khác "Cái gì" xuất lộ ra trong sinh hoạt con người vừa như một câu hỏi và đồng thời cũng tiên liệu được câu trả lời. Nói theo Parménide, tự nó, hữu thể dù ở đâu đâu đi nữa, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng không thể phân chia, nhưng đồng nhất với mình, tự đủ cho mình. Nên từ nền tảng nầy mọi câu hỏi có thể đều được phát biểu như nhau : Thiên Chúa là gì ? Con người là gì ? Cha tôi là gì ? Củ khoai là gì ? Kỳ cùng tôi là gì?

Hữu thể học nầy chi phối vận mệnh của lối đặt vấn đề tư tưởng của truyền thống triết học Tây phương, từ Aristote cho đến nay.

Người ta thường nhắc đến Nietzsche như kẻ thù của tư tưởng truyền thống triết học, vì đặt ngược lại vấn đề, không phải Hữu mà là là nền tảng của Thiên nhiên và cuộc sống con người. Nhưng Vô của Nietzsche trong hư vô chủ nghĩa của ông lại đã nằm trong khung Hữu-Vô nầy.

Ông đã táo bạo nêu lên khả năng nói ngược lại: Hữu là Vô Vô là Hữu, nhưng hay Hữu của Nietzsche cũng tiền kiến tiêu chuẩn đặt vấn đề của Parménide. Nietzsche mặc dù đã quay lại truy cứu thời bi kịch Hy lạp, nhưng không vượt qua được tiền kiến hữu thể học của triết học truyền thống. Ông đã tìm ra nơi bi kịch, căn cơ Vô làm nền cho tư tưởng. Nhưng "" của Nietzsche, cũng như Hữu của Parménide đều là tính đồng nhất giữa khả năng con người và chân tính hay vô chân tính. Nietzsche chưa nhận ra cái khác về cách đặt vấn đề tư tưởng nơi bi kịch, ông chỉ nêu lên cái ngược lại trong khung trời Đêm-Ngày, Hữu-Vô của Oedipe lúc chưa tỉnh ngộ hoặc trong sự đối nghịch Hữu-Vô của Parménide. Heidegger nhấn mạnh rằng hư vô chủ nghĩa tự căn không phải nằm trong lối nói ngược lại với Hữu của hữu thể học truyền thống, nhưng hư vô chủ nghĩa là vận mệnh chung của toàn bộ hữu thể học, bao gồm việc nhấn mạnh Hữu hoặc Vô của nó :


Hư vô chủ nghĩa đúng hơn, nếu được suy nghĩ trong yếu tính của nó, là vận hành nền tảng của Lịch sử Tây phương" . 


Nói cách khác chữ "ai" gắn liền với cõi người ta chưa hề bao giờ được nêu lên thành câu hỏi.

Hư-vô phát xuất từ bước trật chân căn bản về thân trạng của câu thắc mắc về tư tưởng, do hành vi đồng-nhất-hoá đi trước nó như nghiệp chướng của thân phận con người tại thế. Đồng-nhất-hoá là một lối nói của nhà Phật về chữ Karma tạo ngã-chấp. Sách Sáng thế dùng hiện tượng bàn tay hái trái cây hiểu biết để đồng nhất hoá mình với Thiên Chúa. Từ lúc ấy mọi sự hiện hữu đều là cái gì, kể cả con người và Thượng đế.

Hư vô không phải là không thực hiện được cái gì trong viễn tượng của hữu thể học truyền thống. Lịch sử chứng minh con người đã dùng kiến thức của mình để hiểu biết nhiều chuyện, làm được những điều mình ước muốn một cách hữu hiệu. Con người đã từng nối dài cuộc sống, rút ngắn lại thời gian xa cách bằng các phát minh kỹ thuật giao thông, xoá bỏ ngăn cách không gian bằng kỷ thuật truyền thông điện tử...nhưng tất cả không giải thích được tại sao giữa ngày hội Đạp Thanh, muôn người chen chúc, Kiều lại không thấy bóng dáng một ai để tương giao ; và tại sao gần đến như vợ chồng, cùng giường mà xa cách vì khác mộng !

Gioan, một trong những nhà chép Kinh Thánh Tân ước đã nói về hư vô như sau :


"Họ đã ra đi, lên thuyền ; đêm đó, họ đã không bắt được gì" .


Họ không bắt được gì, vì toàn bộ nỗ lực của họ nằm ở trong khung của đêm đó. Toàn bộ có-không được Parménide cho là đã sáng tỏ trong cảnh ngày hoàn toàn khai mở : Người-Trời- Đất đã được đồng nhất hoá. Nhưng ngày đó là đêm cho chân tính, vì chân tính không là cái gì tự đứng một mình, dù là Trời, người hay Đất - Mà chân tính là tương quan, là sự sống đặc loại của con người.

Trở lại với lối đặt vấn đề tư tưởng của Đoạn Trường Tân Thanh

Thắc mắc nguyên ủy nêu lên trong phần dẫn nhập phát xuất không phải là ưu tư về sự hiểu biết bản chất của một cái gì ; nhưng từ đầu, khung của tư tưởng là "cõi người ta" của ai và những ai. Chữ ai gói gọn chân tính con người tại thế ngỡ ngàng về thân trạng mình, được đặt thành vấn nạn trong mối xung khắc tài-mệnh dấy lên trong mình, làm con người đau khổ, nhưng không biết do từ đâu đến. Con người đã nghe lời chất vấn gián tiếp qua Mệnh để thấy được rằng quê thật hay chân tính của mình là một tương quan ; nhưng thực trạng của thân phận tại thế của mình lại chìm vào "ngày của Tài", mà toàn bộ không có đường mở ra. Con đường duy nhất mở ra không phải do tự nơi Tài, vốn là ngã chấp luôn cố thủ đóng kín mình lại trong giấc mơ đầy an bình của riêng mình. Nhưng Mệnh là lời quấy rầy đến từ Chân tính, phủ định toàn bộ hư vô nơi Tài. Sự xung khắc khởi đầu cho thắc mắc về Chân tính, hay còn gọi là khởi đầu của tư tưởng, không liên quan gì đến xung khắc có-không, tinh thần-vật chất theo biện chứng pháp của Hegel - là xung khắc giữa hai đối cực trong khuôn khổ của Tài. Xung khắc Tài-Mệnh là cuộc vật lộn giữa nghiệp chướng đồng-nhất-hoá do ý chí quyền lực của ngã cô đơn, và chân tính thúc bách một sự mở ra để có tương quan ; giữa trật tự của các cái gìcõi người ta.

Nếu nền móng cho tư tưởng triết học truyền thống là nguyên tắc đồng nhất, hay đúng hơn là hành vi đồng nhất hoá (indentification), thì trong thân phận con người tại thế tư tưởng chỉ xuất hiện khi có lời chất vấn của chân tính, ta có thể nói là âm vọng của Đại-ký-ức, đến với con người, làm con người thấy hụt chân, hay thiếu vắng tương quan làm nền cho thân trạng của mình. Cảm thức thiếu vắng nầy, về phía con người, là điều kiện tiên quyết của tư tưởng. Cảm thức thiếu nền lại là nền cho tư tưởng. Ngôn ngữ tôn giáo gọi là lòng khiêm hạ, hay tinh thần nghèo (tâm hư = lòng trống rỗng).

"Phúc cho những kẻ nghèo trong thần trí" .Tư tưởng phát xuất từ cảm thức thiếu vắng, hàm ngụ niềm tin hay hy vọng Thời Chung Mãn trong đó Trời-Người sẽ nối kết. Bao lâu thân phận con người còn tại thế, chân tính của nó gắn liền với hữu hạn tính của "Thời tại thế nầy", được cảm nhận như cơn khát hay khổ căn nguyên làm sức mạnh đẩy con người vươn tới Thời Chung Mãn, vươn mãi lên đến tương giao Thái Hoà. Tương quan Trời-Người trong chánh nghiệp của con người có thân là khổ cứu độ, vọng lên từ "lòng ta", lòng của bất cứ ai là người.


Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.


Thiện cănChân tính, và nay là Phúc thật cho những ai lìa quê an bình giả tạo của Tài, để làm người lữ hành trên bước đường đầy thách đố của Đạo Tâm.

Nhưng, Duyên nào đây sẽ đưa người lữ hành trên bước đường lưu lạc, xa quê đến bến bờ thời chung mãn?


Phụ chú

_________________________


Kiều của NGUYỄN DU (1766-1820),

 một gia sản văn hóa nhân loại


Vĩ nhân không chỉ là người nắm bắt thời đại bằng tư duy của mình, mà còn giúp con ngời nơi cõi nầy đụng chạm đến vô tận.

Vì thế tự căn nét siêu việt trong tác phẩm và nơi cuộc sống người ấy cống hiến một tấm gương soi dẫn mọi thời đại, mỗi một người trong toàn thể nhân loại.    


Thi phẩm Kiều của Nguyễn Du là một lời được cảm hứng, một tư tưởng.

Vì là lời được cảm hứng, thi phẩm đó ở bên kia bờ của việc mô tả hay biện minh cho một thời đại hay một xã hội nào bất kỳ. Lời ấy không bị ràng buộc bởi những định chế và các giá trị đang chi phối nếp suy tư của xã hội, nhưng đặt vấn đề về ngay chính nền tảng của chúng nhân danh một quyền uy khác hơn quyền uy đương đại, đó là quyền uy của sự thật, của ý nghĩa về nhân tính con người. Vì vậy lời được cảm hứng không quan tâm đến việc mô tả những thực tại xã hội, những tập tục của một cộng đoàn, những sáng kiến, giấc mơ hay tình cảm của một nhân vật. Nhưng đưa tòan bộ thực tại con người, kể cả những nền tảng và định chế xã hội, trực diện với một câu chất vấn duy nhất và căn đế : chất vấn về ý nghĩa của nhân tính.

Con người là vấn nạn cho chính mình, đó là một câu chất vấn duy nhất gợi hứng cho đạo lý các thánh hiền, cho minh triết của những nhà tư tưởng đi tiên phong trong các nền văn hoá khác nhau của nhân lọai.

Khi tiếp cận được lời thi ca, lời vượt lên trên những kiến thức giới hạn của con người, hoặc khi cảm hứng được câu chất vấn đến từ bờ bên kia, các thánh hiền và các nhà tư tưởng chạm đến con tim con người bất cứ nơi đâu và bất cứ thời đại nào. Sứ điệp của họ được tiếp nhận như là gia sản văn hóa đối với toàn thể nhân loại và đi vào Đại Ký Ức của các dân tộc. 

Nếu gia sản văn hoá của nhân loại không chuyển đạt điều gì khác hơn là ý nghĩa về nhân tính, thì sứ điệp văn hóa ấy cũng hé lộ cho thấy thân phận con người tự căn vốn kỳ lạ và mâu thuẫn. Nét kỳ lạ ấy là dấu chỉ linh ư vạn vật của nhân tính buộc con người phải dấn thân vào Cuộc Chiến bi thảm, nhưng hào hùng để có thể chu tòan Mệnh làm người của  mình.

Dưới ánh sáng của lời được cảm hứng từ bên kia bờ, Cuộc Chiến ngoại thường nầy, văn hóa Hy Lạp xưa gọi là Khôn Ngoan về nhân tính (άνθρωπίνη σοφία) hay Đức Lý (Ήθος):  Cuộc Chiến vượt lên trên các hình thái đối nghịch của vũ trụ, trên các biện chứng tư duy và tranh chấp xã hội, trên mọi hình thức tự phủ định ý chí muốn sống hay con đường khổ hạnh để tu thân…, Cuộc Chiến mà thánh hiền Đông Tây chuyển đạt như là sứ điệp cao cả nhất, nếu không nói là duy nhất : 


  • Cuộc Chiến giữa Đạo sâu kín, chân thực, đối nghịch với những đạo giả tạo do trí năng con người tự vạch ra (xem Đạo Đức Kinh của Lão-tử, quyển 1, chương 1). 

  • Cuộc Chiến giữa nhân tính ảo tưởng đặt nền tảng trên Ngã đơn độc và tự mãn bên nầy bờ của bến mê và nhân tính đích thực (Phi Ngã) được soi dọi từ Ánh Sáng đến từ bên kia bờ, trong đạo lý Phật giáo.

  • Cuộc Chiến giữa Vương Đạo của chính nhân quân tử và Bá Đạo của tiểu nhân, theo Khổng giáo (xem Trung Dung).

  • Cuộc Chiến giữa Tài (Τέχνη) và Mệnh (Μοίρα) trong Bi Triết của Hy Lạp, đặc biệt trong Prométhée bị trói của Eschyle và trong Œdipe-Vua của Sophocle:


 Tài (Τχνη – giả tạo) có là gì trước uy quyền của Mệnh

Cuộc chiến vinh quang mang nguồn sinh lưc cho quê hương, xin Trời đừng dẹp tắt.


  • Cuộc Chiến (Πόλεμος) giữa Lời siêu việt (Λόγος) và lý lẽ con người trong tư tưởng của  Héraclite.

  • Cuộc Chiến giữa một bên là Đạo Công Chính và Chân Lý, Đạo được linh hứng bởi Thần Khí và được hướng dẫn bởi những ái nữ của Thần Mặt Trời , và bên kia là con đường bế tắc của mê lầm mà mọi người đang đi, không trừ một ai trong Thi Ca của Parménide.

  • Cuộc Chiến mà Socrate là một chứng tá sống động trong cuộc sống, trong cái chết bi thương nhưng vinh quang, trong lời giáo huấn ngược đời của ông.

  • Cuộc Chiến giữa nhân tính đặt nền tảng trên (Tài), trên lý của trí năng đo lường các sự vật, và một nhân tính siêu phàm được cảm hứng bởi « Lý của Con Tim » (Đạo Tâm) trong tư tưởng Pascal...


Chính cuộc chiến đấu bi hùng đó đã khơi nguồn cảm hứng cho tư tưởng gia-thi sĩ Nguyễn Du và được diễn đạt qua hai câu thơ đầu tiên của truyện Kiều:


Trăm năm trong cõi người ta,

Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau (Kiều, c. 1-2)


Toàn bộ thi phẩm Kiều là một sự triển khai trực giác độc đáo nầy.

Nhân vật Kiều thể hiện cuộc chiến giữa hai căn tính con người, một căn tính đặt nền tảng trên chữ Tài và căn tính kia trên chữ Mệnh, ở ngay giữa cuộc sống. 

Lời thi ca nơi Âm vọng Khổ Đau từ bờ bên kia (qua bóng dáng Đạm Tiên) thức tỉnh Kiều nhận ra một Kiều hồng nhan gắn liền với Nghiệp (Tài), và một Kiều chân thực bên trong (thanh cao) của Mệnh mà Giác Duyên sẽ khai mở, sau cái chết rốt ráo của Nghiệp nơi sông Tiền-Đường, giao thoa giữa Tài và Mệnh.

Con đường của Tài xuyên qua những hình ảnh tượng trưng như :


  • Sự tự vẫn, con đường vô sinh, vô cảm.  

  • Thúc Sinh, biểu tượng cho khóai lạc cá nhân và lòng trắc ẩn thường tình.

  • Con đường khắc kỷ ở trong một am thất,

  • Từ Hải, biểu tượng sự giải phóng xã hội...


Những con đường giải thoát ấy của Tài đều bế tắc.


Tuy nhiên Lời từ bên kia bờ không ngừng âm thầm nhắc rằng thế giới Ảo-tưởng của Tài sẽ tàn, và Con Đường khác của Mệnh sẽ hé lộ nhờ Giác Duyên :


  • Đạo của Mệnh, Đạo-Tâm tuyệt đối ở bên kia bờ của Tài và đòi hỏi cái chết tận căn của Tài : Kiều hồng nhan phải chết trên sông Tiền Đường để sống lại một Kiều được Giác Duyên khai mở.

  •  Đạo của Chữ Tâm là Đạo duy nhất của sự cứu rỗi, Đạo tuyệt hảo (Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài). (Kiều c.3252).


Từ hai thế kỷ nay, thi phẩm Kiều của Nguyễn Du đã cảm hứng tâm hồn và qui hợp con dân Việt-nam. Trong tương lai, hội ngộ nguồn cảm hứng tư tưởng thi ca của nhân lọai, thi phẩm Kiều hẳn sẽ cống hiến cho mọi dân tộc trên thế giới một lời mời gọi cấp bách để có thể nhận ra bí nhiệm vô tận, đó chính là CON NGƯỜI.


Một bí ẩn từ Truyện Kiều 

của Nguyễn Du


Trong gần hai thế kỷ, Truyện Kiều của Nguyễn Du đi vào Đại Ký Ức của người Việt.  Mỗi người, mỗi sinh hoạt tiếp nhận những lời thơ Kiều như một nguồn cảm hứng, một kho tàng tài liệu hay một lời biện minh.

 Nguồn sinh lực của Truyện Kiều khó mà cạn, vì đây là một lời thơ, một lời cảm hứng đến từ ‘Vô Phương’ bên kia bờ của không gian và lịch sử. Tuy nhiên điều đáng làm cho chúng ta hôm nay ngạc nhiên, đó là qua gần hai trăm năm, nguồn cảm hứng đến với Truyện Kiều của Nguyễn Du, nguồn cảm hứng còn được gọi là Lời-Mới-Làm-Đứt-Ruột - Đoạn Trường Tân Thanh - mà Đạm Tiên là hiện thân làm sứ giả truyền đạt cho Kiều, nguồn cảm hứng kỳ lạ ấy dường như không một bậc thức giả nào lưu ý. Mà nếu có nhắc đến, thì người ta cũng chỉ biết lặp lại lời của Vương Quan, một con người ở-bên-ngoài  cảm thức của nỗi-đau-làm-người mà Nguyễn Du muốn truyền đạt qua nhân vật Kiều. 

Trong Truyện Kiều, người nghe được từ miệng Đạm Tiên lời làm đứt ruột nhắc nhở ý nghĩa làm người, người hoàn thành cái chết của thế giới mê lầm do Tài đã được Đạm Tiên loan báo, người nhận ra Đạm Tiên là lời cứu độ khi gián tiếp cho hay Đạm Tiên cũng là Giác Duyên, người duy nhất ấy trong truyện Kiều không ai khác hơn là Kiều, kẻ hữu-tình-ta-lại-gặp-ta với Đạm Tiên.

Thế nhưng, Đạm Tiên, lời làm cho cổ nhân bên-kia-bờ miệt mài say đắm, nay con người bên-nầy-bờ đã đẩy lui vào dĩ vãng xa xăm, nếu không nói là đã biến lời âm thầm làm đứt ruột nầy - lời của lương tri, lời đạo nghĩa - thành một con điếm, một nấm mộ bị lãng quên bên lề đường. 

Hai trăm năm ca tụng mối tình Kim Trọng-Thúy Kiều đến độ quên tương-giao-hữu-tình-bên-trong giữa Đạm Tiên và Kiều; hai trăm năm tôn vinh Từ Hải hiệp nghĩa giang hồ khí phách đến độ quên đi cuộc-vượt-qua uy dũng từ cõi chết của Tài đến ơn cứu độ của Mệnh!  Phải chăng hai trăm năm đó cũng là nghiệp quên lãng của phận làm người ‘đã mang lấy nghiệp vào thân’ (Kiều, c. 3249)! 

Trước bỉ ẩn lịch sử nầy, thử hỏi có lời nào của Đạm Tiên giúp ta nêu lên hai vấn nạn nầy :


  • Kiều là gia sản văn hóa của dân Việt Nam và của nhân loại, phải chăng chỉ vì Nguyễn Du có công chọn được một truyện tình cảm xã hội của một tác giả người Tàu và đã chuyển được qua tiếng Việt một cách hết sức văn chương? 

  • Hay đã đến lúc chúng ta lại cần một « lới mới làm đứt ruột » để đọc lại Truyện Kiều và tiếp nhận được sứ điệp tư tưởng của nhà văn hóa Nguyễn Du?


Chữ Trời

trong Đoạn Trường Tân Thanh


Dựa vào chính từ ngữ chính xác được dùng : Trời hay chữ hán-việt Thiên, cũng như dựa vào một trong hai thành tố tương quan làm nền tảng cho yếu tính của con người tại thế, một bên là người và bên kia là trời (hoặc một thuộc tính của trời nầy mà cách gọi tên đổi thay tùy mức cảm nhận về mối tương giao đó, hoặc tùy hoàn cảnh làm xuất lộ một mối tương quan cá biệt), chúng tôi sắp xếp bản liệt kê sau đây :


A- Trời được nêu lên như một vật gì bao la làm khung cho vũ trụ, hoặc một hiện tượng thời tiết của vũ trụ thiên nhiên. Trời đây là đối tượng của nhận thức thường nghiệm


        Cỏ non xanh tận chân trời (câu 41)

       Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa (câu 484)


Chữ Trời nầy được dùng trong các câu : 140, 449, 546,899,910, 914, 1041, 1603,1637, 1639, 1876, 2062, 2248, 2251, 2441, 2550, 2628, 2924, 2943, 3049.


B- Trời được dùng như tĩnh từ, một đặc tính tự nhiên di nhiên, bẩm sinh (inné), hoặc vốn đã là như thế. Từ ngữ chuyên môn của triết học truyền thống gọi là tiên thiên hay tiên nghiệm (a priori).


      Thông minh vốn sẵn tính trời (câu 29).


      Xem các câu : 150, 494, 1065, 2239, 2922.


C- Trời còn chỉ về nhà vua, hàm ngụ một quyền lực tối thượng trong cuộc sống xã hội.


     Năm mây, bỗng thấy chiếu trời (câu 2947).


D- Trời trong tương quan với con người để kết dệt nên cõi người ta. Có lúc trời xuất hiện như một tài năng theo dự phóng của Tài dựa trên nguyên tắc nhân quả; có lúc Trời trời kia vượt trên khả năng vươn tới của con người, nhưng con người thấy cần để đặt nền cho tương quan chân thật của nhân tính.


"Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen (câu 6).

Phủ phàng chi mấy Hoá công (câu 85)

Khuôn xanh biết có vông tròn mà hay (câu 412)

Xưa nay nhân định thắng Thiên cũng nhiều (câu 420)

Ông Tơ gàn quản chi nhau (câu 449)

Oan nầy còn một kêu trời, nhưng xa (câu 596)

Trời làm chi cực bấy Trời ! (câu 659)

Trăng già độc địa làm sao ! (câu 688)

Rủi may âu cũng sự Trời (câu 817)

Tiếng oan đã muốn vạch Trời kêu lên (câu 892)

Nàng rằng : "Trời thẳm đất dày !" (câu 979)

Người dù muốn quyết, Trời nào đã cho ! (câu 998) 

Túc nhân âu cũng có Trời ở trong (câu 1018)

Trên đầu có bóng Mặt trời rạng soi (câu 1030)

Mà xem Con Tạo xoay vần đến đâu (câu 1116)

Hoá nhi thật có nở lòng (câu 1129)

Nàng rằng : "Trời nhé có hay" (1179)

Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong (câu 1340)

Bây giờ đất thấp, Trời cao (câu1817)

Chúa Xuân để tội cho mình cho hoa ! (câu 1946)

Không dưng chưa dễ mà bay đường Trời (câu 2100)

Chứng minh có đất, có Trời (câu 2125)

Tài tình chi lắm, cho Trời đánh ghen (câu 2154)

Biết thần chạy chẳng khỏi Trời (câu 2163)

Đội Trời, đạp đất, ở đời (câu 2171)

Đạo Trời báo phục chỉn ghê (câu 2309).

Nàng rằng : "Lồng lộng Trời cao ! (câu 2381)

Dễ đem gan óc, đền ghì Trời mây (câu 2416)

Chọc Trời, quấy nước, mặc dù (câu 2472).

Tấm lòng phó mặc trên Trời, dưới sông (câu 2634)

Trời làm chi đến lâu ngày càng thương (câu 2649)

Sư rằng : "Phúc họa đạo Trời (câu 2655)

Trời mà cũng có ta (câu 2657) 

Bán mình đã động hiếu tâm đến Trời (câu 2684)

Khi nên, Trời cũng chiều người (câu 2689)

Duyên ta mà cũng phúc Trời chi không ! (câu 2694)

Tâm thành đã thấu đến Trời (câu 2717).

Hơn người trí dũng, nghiêng Trời uy linh (câu 2904)

Cõi trần mà lại thấy người Cửu nguyên (câu 3000)

Rằng : trong tác hợp Cơ Trời (câu 3063)

Dưới dày có đất, trên cao có Trời (câu 33086)

Trời còn để có hôm nay (câu 3121)

Ngẫm hay muôn sự tại Trời (câu 3241)

Trời kia đã bắt làm người có thân (câu 3242)

Cũng đừng trách lẫn Trời gần, Trời xa (câu 3250)


E- Và âm hưởng của Lời từ Trời trong Mệnh như Lời phủ nhận thế giới của Tài, cũng như tác động của Trời là Duyên bất ngờ đến cứu độ để mở ra tương quan Trời-NgườiThiện-căn, mà nhà của nó là Tâm.




Tài liệu tham khảo


Tài liệu Việt ngữ


Bùi Kỷ 

Trần Trọng Kim

Hiệu chính và chú giải Truyện Thúy Kiều, bản in thứ tám, Tân Việt, Sàigòn.

Dương Quảng Hàm

Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Bộ Giáo dục, in lần thứ 10, Sàigòn 1968.

Đào Duy Anh

Việt Nam Văn Hoá Sử Cương, Quan Hải Tùng thư, Huế 1938.

Khảo luận về Kim Vân Kiều, Quan Hải Tùng thư, Huế 1943


Hiệu khảo, chú giải, xb. Văn Học, Hà Nội 1984

Đặng Trần Côn

Chinh Phụ Ngâm Khúc, Đoàn Thị Điểm diễn nôm, Văn Bình Tôn Thất Lương diễn giải, xb. Tân Việt, Huế 1950

Khuyết Danh

Đại Việt Sử lược, Nguyễn Gia Tường dịch, xb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993

Lê Quý Đôn Toàn Tập

Khoa học Xã hội, Hà Nội xb, 1978.

Lê Ngọc Trụ, Bửu Cầm

Thư mục về Nguyễn Du, Sàigòn, Bộ Giáo dục, xb. 1965.

Lê Văn Hoè

Nho giáo và Truyện Kiều, Đời Mới số 39, 1953.

Lê Văn Siêu

Việt Nam Văn Minh Sử Cương, tái bản, Khởi Hành, Đức quốc 1990.

Lý Tế Xuyên

Việt Điện U Linh Tập, bản dịch Lê Hữu Mục, Sàigòn 1962.

Một nhóm Giáo sư

Kỷ niệm đệ II bách chu niên thi hào Nguyễn Du, trong Văn Hoá Nguyệt San, số đặc biệt, Sàigòn 1965.

Một số tác giả

Lịch sử Văn học Việt Nam, Khoa học Xã hội xb, Hà Nội, 1980.

Nguyễn Đăng Trúc

Văn Hiến, Nền Tảng của Minh Triết, Định Hướng xb, Reichstett, Pháp, 1996.

Nguyễn Khoa

Khảo luận Đoạn Trường Tân Thanh, Khai Trí, Sàigòn 1960.

Nguyễn Thạch Giang

Truyện Kiều, Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội 1973

Nguyễn Trãi Toàn Tập

xb. Khoa học, Hà Nội 1976

Ôn Như Hầu

Cung Oán Ngâm Khúc, dẫn giải, Văn Bính Tôn Thất Lương, Huế 1950.

Phạm Quỳnh

Truyện Kiều, trong Nam Phong, số 30, 1919

Phan Huy Chú

Lịch triều Hiến chương loại chí, 1821 tái bản.

Phan Bội Châu

Khổng Học Đăng, xb. Khai Trí 1973 Sàigòn.

Trần Thế Pháp

Lĩnh Nam Chích Quái, Vũ Quỳnh hiệu chính, Lê Hữu Mục dịch, xb. Khai Trí, Sàigòn 1960.

Trần Trọng Kim

Việt Nam Sử lược, tái bản, Institut de l’Asie du Sud-Est, Paris.

Nho giáo

2 quyển, xb. Bô Giáo dục, Sàigòn 1971.

Trần Văn Đoàn

Bản thể và Bản chất của Việt triết, trong Vietnamologia, số 2, Montréal 1996.

Viện Văn học

Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, xb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 1971.

Vũ Đình Trác

Triết học Nhân bản Nguyễn Du, xb. Hội Hữu, California 1993.

Lão Tử Đạo Đức Kinh

Quốc văn chú giải, bản dịch của Hạo Nhiên Nghiêm Toàn, xb. Khai trí, Sàigòn 1970

Kinh Thư

Bộ Văn hoá Giáo dục Sàigòn 1965.

Khổng cấp Trung Dung

Bộ Giáo dục, Sàigòn 1972. 

Đại học

Bộ Giáo dục, Sàigòn 1972. 



Tài liệu ngoại ngữ


Alquié, Ferdinand

La nostalgie de l'être, Paris 1950

Aristote

La Métaphysique, (commentaire de J. Tricot), Nouvelle Ed. J. Vrin, 2 vol., Paris 1986.

Saint Augustin

Confessions, trad. A. Mandouze, Ed Seuil, Paris 1982.

Bachelard, Gaston

La dialectique de la durée, Paris 1936.

La terre et les rêveries du repos, Paris, 1948.

Bréhier, Emile

Histoire de la Philosophie, PUF, Paris, Nlle éd, 1981.

Brun, Jean

Les conquêtes de l’homme et la séparation ontologique, PUF, Paris, 1961.

Les Stoiciens, PUF, Paris, 1957.

L 'Europe Philosophe, 25 siècles de pensée occidentale, Ed. Stock. 1988.

Brunschvicg, Léon

Le progrès de la Conscience dans la Philosophie occidentale, 2 vol., Paris,1927.

Burnet, John

L’Aurore de la philosophie grecque, trad. Reymond, Paris, 1919.

Canguilheim, Georges

La connaissance de la vie, Paris 1952.

Chestov, Léon

Le pouvoir des clefs, trad. B. de Schloezer, Paris 1928

Childe Gordon

Crayssac, Réné

What happened in history, Ed. Harmondsworth, 8e Ed 1960.

Kim Van Kieu, le célèbre poème annamite de Nguyen Du, Ed. Lê Van Tan, Ha Noi, 1926.

Delacroix, Henri

Le Langage et la pensée, Paris 1924.

Descartes, René

Oeuvres, Ed. Adam, Tannery.

Diès, Auguste

La définition de l’être et la nature des idées dans le "Sophiste" de Platon, 2e éd, Paris 1932.

Dufrenne, Mike et Ricoeur Paul

Karl Jaspers et la Philosophie de l'existence, Paris, 1947.

Eliade, Mircea

Traité d’histoire des religions, Payot, Paris 1949.

Le mythe de l’éternel retour, Gallimard, Paris 1969.

Eschyle

Oeuvres, trad. Paul Mazon, Ed. Les Belles lettres.

Gilson, Etienne

L’être et l’essence, J. Vrin, 2e éd, Paris 1987.

Goethe, 

Jean Wolfgang

Faust, trad. Gérard de Nerval, Ed Flammarion, Paris 1964.

Gusdorf Georges

Mythe et Métaphysique, Paris, 1956.

Hegel, G.W.

La phénoménologie de l'esprit, trad. J. Hyppolite, 2vol. Paris 1939-1941.

Leçons sur l’histoire de la philosophie, trad. J. Gibelin, Paris 1954.

Heidegger, Martin

Être et Temps, trad. F. Vezin, Ed. Gallimard, Paris.

Kant et le problème de la métaphysique, trad. A. de Waelhens et W. Biemel, Ed Gallimard, Paris 1953.

Qu’appelle-t-on penser ? trad. A. Becker et G. Granel, PUF, Paris 1959.

Qu’appelle-t-on penser ? trad. A. Becker et G. Granel, PUF, Paris 1959.

Introduction à la métaphysique, trad. G. Kahn, Et. Gallimard, Paris 1967.

Chemins qui ne mènent nulle part, trad W. Brokmeier, Gallimard, Paris 1962.

Hölderlin, Friedrich

Hymnes, Elégies et autres, trad Guerne, Flammarion, Paris 1983.

Hyppolite, Jean

Etudes sur Marx et Hegel, Paris 1955.

Jaspers, Karl

La situation spirituelle de notre époque, trad. Paris, Louvain 1952.

Nietzsche et le Christianisme, trad. Jean Hersch, Paris 1494

Kant, Emmanuel

Critique de la raison pure, trad. Barni et Archambault. 2 vol. Paris 1934.

La philosophie de l'histoire, trad. Stéphanne Piobetta, Paris 1947.

Kierkegaard, Soren

Le concept d'angoisse, trad. P.H Tisseau, Paris 1935.

Riens philosophiques, trad. K. Ferlov et J. T. Gateau, Paris 1937.

Lévinas, Emmanuel

Difficile Liberté, Ed. A. Michel, Paris 1963.

Le temps et l'autre, PUF, Paris 1983.

Mallarmé, Stéphane

Divagations, Paris; s. d.

Marx Karl, 

Engels. Friedrich

Nietzsche 

S. Friedrich

L'Idéologie allemande, trad. H. Auger et autres, Ed. sociales, Paris 1976

La naissance de la tragédie, trad. Geneviève Bianquis, Paris 1938.

Ainsi parlait Zarathoustra, trad. M. Betz, Paris 1936.

Le Gai Savoir, trad. A. Vialatte, Paris 1950.

La volonté de puissance, trad. G Bianquis, 2 vol. Paris 1942.

Parménide

Le Poème, présenté par Jean Beaufret, PUF, Paris 1955.

Pascal, Blaise



Les penseurs grecs avant Socrate,


Pensées et opuscules, petite édition de L. Brunschvicg, lib. Hachette, Paris 1946.


trad. Jean Voilquin Flammarion, Paris 1964.

Philosophes taoistes

Lao-Tseu, Tchouang-Tseu, Lie-Tseu, trad. Liou Kia-Hway, ed. Gallimard, Paris 1980.

Platon

Oeuvres, trad. E. Chambry, Les Belles lettres.

Scheler, Max

Nature et formes de la sympathie, trad. M. Lefèbvre, Payot, Paris.

Le formalisme en éthique et l’éthique matériale des valeurs, trad. M.  de Gandillac, Ed Gallimard, Paris 1955.

Schuhl, P.M

Essai sur la formation de la pensée grecque, Paris 1934.

Sophocle

Oeuvres, trad. A. Dain et P. Mazon, 3 vol, coll. Belles Oeuvres.

Spenlé, Edouard

Novalis. Essai sur l’idéalisme romantique en Allemagne, Paris 1903.

Spengler, Oswald

Le déclin de L’occident, trad. M. Tazerout, 2 vol, Paris 1948.

Schopenhauer, Arthur

Du monde comme volonté et comme représentation, trad. A. Burdeau, PUF, Paris 1966.

Teilhard de Chardin, Pierre

Le phénomène humain, Ed, Seuil, Paris 1955.

Toynbee, Arnold

A Study of History, Ed. Oxfod University Press and, Thames and Hudson Ltd, London 1972.

Trần Đức Thảo

Phénoménologie et Matérialisme Dialectique, Ed. Gordon Breach Paris 1971.

Waelhens, A. de

Phénoménologie et Vérité, Paris 1953.

Wahl, Jean

Etudes Kierkégaardiennes, Paris 1938.

Walpola, Ruhaha

L’enseignement du Bouddha, du seuil, Paris 1961.

Whitehead, Alfred North

Symbolism, its Meaning and Effect, Cambridge 1929.


Nguyễn Đăng Trúc

(HẾT)