THÂN THẾ PHAN THANH GIẢN
Phan Thanh Giản sinh Giờ
Thìn, Ngày 12 tháng Mười, Bính Thìn (1796), đời Lê Cảnh Hưng; mất vào
đêm mồng Bốn rạng ngày mồng Năm tháng 7 năm Đinh Mão (1867) sau khi
tuyệt thực 17 ngày rồi uống thuốc độc tự vẫn; hưởng tho 72 tuổi. Linh
cữu an táng tại làng Bảo Thạnh,Ba tri Bến Tre.
Phan Thanh Giản lấy tên tự
là Tịnh Bá và Đạm; hiệu là Lương Khê; biệt hiệu là Mai Xuyên. Sau khi
thi đậu, cụ cưới vợ người đầu tiên người làng Cần Giuộc. Bà này mất, cụ
tục huyền với bà Trần Thị Hoạch ở Quảng Trị và đưa vợ về Kiến Hòa để lo
phụng dưỡng cha mẹ. Trong dịp này, cụ làm một bài thơ để tạ ơn vợ đã
thay cụ báo hiếu cha mẹ.
Từ thuở vương xe mối chỉ hồng
Lòng này ghi tạc có non sông
Đường mây cười tớ ham dong ruổi
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng
Ơn nước, nợ trai đành nỗi bận
Cha già, nhà khó, cậy nhau cùng
Mấy lời dặn bảo cơn ly biệt
Rằng nhớ, rằng quên, lòng hỡi lòng
(tham khảo: Vĩnh Long Xưa và Nay của Huỳnh Minh, 1967)
Tương
truyền tổ phụ cụ Phan Thanh Giản là Phan Thanh Tập, hiệu là Ngẫu Cừ,
sống dưới đời Nhà Minh.Sau đó Phan Thanh Tập di cư sang Việt Nam cư ngụ
tại Phủ Hoài Sơn, Bình Định. Phan Thanh Tập có một con trai là Phan
Thanh Ngạn tục kêu là Xán. Năm 1771, gia đình ông Ngạn di vào Nam, ngụ ở
Thanh Trông, Định Tường. Sau dời về Mân Thích, Vĩnh Thanh, Vĩnh Long;
rồi lại dời về Huyện Bảo An, Hoằng Trị, Vĩnh Long. Cuối cùng, ông lại
dời về thôn An Hòa, Tân Thạnh, Vĩnh Bình., phủ Định Viễn, Trấn Vĩnh
Thạnh; nay là xã Bảo Thạnh, Ba Tri, Bến Tre. Ông cưới vợ là bà Lâm Thị
Bút sinh hạ ra Phan Thanh Giản. Năm 1802, Phan Thanh Giản được 7 tuổi
thì bà mẹ qua đời. Bà mẹ kế là bà Trần Thị Dưỡng rất yêu quý ông và cho
ông thụ giáo với nhà sư Nguyễn Văn Noa ở chùa làng Phú Ngãi. Năm 1815,
cha của Phan Thanh Giản bị tù oan. Phan Thanh Gian xin với quan cho ông
được ở tù thế cho cha. Quan không thể giúp được nhưng tạo cơ hội cho ông
ở gần cha và trau giồi kinh sử. Sau khi cha mãn tù, Phanh Thanh Giản ở
lại Vĩnh Long tiếp tục học để tạo sự nghiệp.
SỰ NGHIỆP
Năm
1825, cụ đậu Cử Nhân Khoa Ất Dậu.Năm sau, cụ đậu Đệ Tam Giáp đồng Tiến
Sĩ. Cụ là người đậu Tiến Sĩ khai khoa ở Nam Bộ. Cụ từng giữ nhiều chức
vụ: dưới ba triều Minh Mạnh, Thiệu Trị, và Tự Đức: Lang Trung Bộ Hình,
Tham Hiệp Quảng Bình và Giám Khảo Thi Hương Thừa Thiên; Hiệp Trấn Quảng
Nam, Hàn Lâm Viện, Phó Sứ sang Nhà Thanh, Đại Lý Tự Khanh Cơ Mật Viện,
Kinh Lược Trấn Tây, Bố Chánh Tỉnh Quảng Nam, Hộ Lý Tuần Phủ Quan Phòng,
Nội các Thừa Chỉ, Tả Thị Lang Bộ Hộ, Thị Lang Bộ Hộ, Binh Bộ Tả Thị
Lang, Tham Tri Bộ Binh, Chánh Chủ Khảo Trường Thi Hà Nội, Hình Bộ Thượng
Thư, Lại Bộ Thượng Thư, Kinh Lược Sứ, Nam Kỳ Kinh Lược Phó Sứ, Gia Định
Tuần Vũ (coi giữ Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, và Hà
Tiên), Chánh Tổng Tài Quốc Sử Quán biên soạn bộ Khâm Định Việt Sử Thông
Giám Cương Mục, Quốc Tử Giám Sự Vụ, được cử đi sứ tại Pháp, Trung Hoa,
và nhiều nước khác. Năm 1852, Vua Tự Đức ban cho cụ tấm kim khánh khắc
“Liêm, Bình, Cẩn, Cán” [Ngay Thật, Công Bằng, Cẩn Thận, Siêng Năng].
Ngày 4 tháng Ba, năm 1863, để tìm cách chuộc lại 3
tỉnh Miền Đông, Vua Tự Đức bèn cử Phan Thanh Giản dẫn đầu phái đoàn đáp
Tầu L'Européen qua Pháp điều đình với Hoàng Đế Napoleon III. Cùng đi với
cụ Phan có Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản, và 53 tùy viên trong đó có
Trương Vĩnh Ký làm thông dịch viên.
Trước khi lên đường, cụ Phan làm bài
thơ Thuật Hoài để giãi bày tấc lòng như sau:
Chút nghĩa vương mang phải gắng đi
Tang bồng đành rõ chí nam nhi
Thuyền ngô phơi phới giăng hòn bạc
Khói đá phăng phăng lướt tích ti
La Hán dang tay chờ khách đến
Tướng quân ghé mắt hẹn ngày về
Phen nay miễn đặng hòa hai nước
Nỗi tớ xin đừng bận bịu chi!
Đề
nghị giảng hòa tố cáo tâm trạng tuyệt vọng của Tự Đức nếu không muốn
nói đó là thái độ đầu hàng. Tình trạng hòa hoãn này làm cho các quan đầu
tỉnh bó tay không dám động tĩnh gì. Lợi dụng tình thế đó, quân Pháp súc
tiến chiếm đoạt Nam Kỳ.
Cụ
bị giáng chức 5 lần. Lần thứ nhất lúc cụ bị thất bại khi dẹp loạn Cao
Gồng ở Chiên Đàn, phía bắc Quảng Nam. Lần thứ hai cụ bị giáng chức vì
can gián Vua Minh Mạng trong chuyến ngự du Quảng Nam với lý do là dân
tình Quảng Nam lúc đó đang đói kém. Lần thứ ba cụ bị giáng vì lỗi thuộc
viên sơ ý không đóng dấu triện vào một tờ sớ. Lần thứ tư cụ bị giáng vì
ông không ký vào bản án Cơ Mật Viện buộc tội Tổng Đốc Bình Định xin vua
hủy bỏ bản tuồng Lôi Phong Pháp lý do vở tuồng có lời lẽ bôi bác, chế
nhạo Trời, Đất, và các Thần Minh. Lần thứ năm, cụ bị kết tội bất cẩn khi
ông làm Phó Chủ Khảo Trường Thi Thừa Thiên. Cuối cùng, cụ bị giáng cách
vì thực dân Pháp tráo trở chiếm đoạt thành Vĩnh Long trong lúc còn đang
diều đình. Thực tế, cụ xét thấy tình thế không thể cứu vãn được nữa và
để cứu lê dân trước mắt khỏi bị nan binh đao, nên cụ trao thành cho Pháp
rồi uống thuốc độc tự vẫn. Vua và một số quan lại xiểm nịnh lên án cụ
nặng nề ... Nhưng tấm lòng son sắt của cụ đối với quốc gia và dân tộc đã
được trời xanh soi sáng và ngày nay tên tuổi của cụ đã được phục hồi.
Xét cuộc đời và sự nghiệp văn thơ, chính trị của cụ, cụ quả xứng đáng là
một bậc đại trí, đại nhân, và đại dũng.
Mặc dầu trên vai cụ nhiều
gánh nặng quốc gia phải chu toàn, cụ Phan vẫn hoàn tất nhiều tác phẩm
rất giá trị về văn học và chính trị như sau:
Lương Khê Thi Thảo (454
bài thơ); Lương Khê Văn Thảo; Sứ Thanh Thi Tập; Tây Phù Nhật Ký; Ước
Phu Thi Tập; Tích Ung Ca Hội Tập; Sứ Trình Thi Tập; Việt Sử Thông Giám
Cương Mục; và Minh Mạng Chính Yếu.
Năm 1864, lúc làm Kinh Lược trấn
nhậm Vĩnh Long, cụ Phan và Nguyễn Thông phụ tá xây dựng Văn Thánh Miếu
thờ Đức Khổng Tử và Văn Xương Các làm nơi hội họp xướng họa thi văn. Tại
Vĩnh Long ngày nay, Tòa Văn Xương Các có thờ chân dung của cụ và bài vị
của Võ Trường Toản.
GÁN GHÉP TỘI VÀ PHỤC HỒI DANH DỰ CHO PHAN THANH GIẢN.
Triều đình Nhà Nguyễn gán ghép tội cho cụ Phan như thế nào?
Trước
hết phải kể tới sự kiện triều đình Tự Đức gán ghép tội cho cụ. Sau khi
Pháp chiếm trọn 6 tỉnh miền Nam, Triều Đình Tự Đức trút hết trách nhiệm
cho cụ về tội để mất thành với những lời buộc tội rất nặng nề như: “Xét
phải tội chết chưa đủ che được tội.” và quyết định: “truy đoạt lại chức
hàm và đẽo bỏ tên ở bia tiến sĩ, để mãi mãi cái án giam hậu.”
Sự
thật cụ Phan có đầu hàng Pháp và để mất thành không? Các nhà phân tích
sử liệu sau này căn cứ vào tư cách và nhân cách cao quý của cụ Phan để
đưa ra kết luận là: Trước họa xâm lược của Pháp, vua tôi triều Nguyễn tỏ
ra rất bị động và lúng túng. Trong triều chia ra người chủ chiến, kẻ
chủ hòa, người lo chống giữ lâu dài. Vua Tự Đức thì tỏ ra phân vân và có
thái độ chủ hòa hơn là chủ chiến nên nhà vua đã cho lịnh “tư cho quan
Kinh Lược không đánh nhau với quân Pháp, tự phải rút lui. Tư liệu lịch
sử cho thấy Phan Thanh Giản không đầu hàng và không nộp thành cho giặc
như miêu tả trong một số tư liệu của Pháp. Việc mất ba tỉnh Miền Tây là
hậu quả của chủ trương sai lầm của Vua Tự Đức. Tuy nhiên, năm 1886, Vua
Đồng Khánh cho khôi phục nguyên hàm và khắc lại tên cụ trên bia tiến sĩ.
Tháng
10.1963, Tạp Chí Nghiên Cứu Lịch Sử công bố bài viết tổng kết của GS
Trần Huy Liệu với nhan đề “Chúng Ta Đã Nhất Trí về Nhận Định Phan Thanh
Giản”.
Qua bài đó, Trần Huy Liệu đã lên án cụ Phan rất gắt gao: “Công đức đã bại hoại thì tứ đức [bốn Đức của Vua Tự Đức ban cho cụ
Phan: Liêm, Bình, Cẩn, Cán] còn gì là đáng kể?”; “Phan trước sau vẫn
rơi vào thất bại chủ nghĩa, phản lại quyền lợi tối cao của dân tộc, của
nhân dân.” và “Phan đã dâng hiến thành cho giặc”.
Năm 1994, trước những dư luận nổi lên từ nhiều phía trong
và ngoài nước yêu cầu phục hồi danh dự cho Phan Thanh Giản, một cuộc
hội thảo được tổ chức tại Vĩnh Long có lẽ là vì nơi đây còn di tích của
cụ để lại như Văn Miếu và Văn Xương Các (có chân dung của cụ đặt tại
đây) trong khu đất Văn Thánh ở Long Hồ. GS Phan Huy Lê, Chủ Tịch Hội Khoa
Học Lịch Sử VN, đọc bài tổng kêt có đoạn như sau: “Chúng ta đều nhất
trí không nên quy kết cho ông cái tội “bán nước' hay “phản bội tổ quốc”.
Ngày
16 tháng 8 năm 2003, một cuộc tọa đàm diễn ra tại Saigòn do Tạp Chí Xưa
& Nay tổ chức với chủ đề - và cũng chính là nhan đề của cuốn sách :
-
“Thế Kỷ thứ 19: Nhìn Về Nhân Vật Lịch Sử Phan Thanh Giản”.
Khoảng trên
một trăm nhân vật tham dự buổi tọa đàm này trong đó có Võ Văn Kiệt, Trần Văn Giàu, và Trần Bạch Đằng.
Tuy nhiên,
sau đó, nguyên cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt viết một bài đăng với tựa đề
“Những Suy Nghĩ Sau hai cuộc Hội Nghị về Nhân Vật Phan Thanh Giản” trong
có đoạn viết:
- Tôi khẳng định rằng Phan Thanh Giản là một người yêu
nước, thương dân mà lo không tròn bổn phận, cụ đã tự làm bản án cho
chính mình: đó là cái chết. Một cuộc đòi thanh sạch đáng để lại gương
soi cho hậu thế. Sau cuộc tọa đàm tháng 8/2003, tôi đã về thăm mộ cụ PTG
và thắp nhang lạy hương hồn cụ. Và tôi cũng quyết định sửa sang lại khu
mộ phần và nhà thờ Cụ bởi mộ đã bị thời gian bào mòn quá nhiều.
(trích
bài “140 Năm Sau” của Nguyễn Như Hùng (Santa Clara, CA) đăng trong Đặc
San PTG & ĐTĐ Cần Thơ, tr. 23)
Như vậy, phải chờ tới 40 năm kể
từ cuộc hội thảo lần thứ nhất vào năm 1963 trong đó Trần Huy Liệu gắt
gao lên án cụ PTG là “chủ bại”, “phản lại quyền lợi của dân tộc”, “dâng
thành, hiến đất cho giặc”, đến năm 2003, Nguyên Thủ Tướng Võ Văn Kiệt
nói lên lời cải tội cho cụ Phan rằng cụ là người yêu nướcthương dân.
(Trích theo http://cothommagazine.com)
Đã 141 năm, kể từ ngày 4/8/1867, cụ Phan Thanh Giản kết
thúc đời mình bằng 17 ngày nhịn ăn và chén thuốc độc tự vẫn vì buồn
đau, thương dân thương nước. Bi kịch đời cụ là bi kịch lịch sử cần được
làm sáng tỏ. Chuyện ấy đã thành sự thật.
Khi thăm mộ và đền thờ Phan Thanh Giản, chúng tôi thấy
rất nhiều vòng hoa đang còn tươi của Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân, Hội đồng
Nhân dân tỉnh Bến Tre, Huyện ủy, UBND, HĐND huyện Ba Tri, rồi các ban
ngành, sở, xã Bảo Thạnh (Ba Tri) đến viếng nhân ngày giỗ của cụ ngày
4/8.
Nghĩa là đám giỗ cụ đã được tỉnh long trọng tổ chức,
chỉ một tuần trước khi chúng tôi đến Bến Tre. Dịp này, Sở Văn hóa - Thể
thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Long cũng đã tổ chức lễ rước và an vị tượng
Phan Thanh Giản tại Khu Di tích Văn Thánh Miếu Vĩnh Long - nơi Kinh lược
sứ đại thần Phan Thanh Giản tuẫn tiết.
Pho tượng do cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt phụng hiến. Tượng
đúc bằng đồng, cao 85 cm, nặng 250 kg, được tỉnh Vĩnh Long đặt trang
trọng tại nơi thờ trong Văn Thánh Miếu.
Thật vui khi được biết, ngày 24/1/2008, Cục trưởng Cục
Di sản văn hóa Đặng Văn Bài vừa có công văn gửi UBND tỉnh Bến Tre, cho
biết Cục đã làm việc với Viện Sử học và cơ quan này có công văn nêu rõ,
các nhà sử học đánh giá cao công lao của cụ Phan Thanh Giản trên nhiều
lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa.
Cụ nổi tiếng thanh liêm, đạo đức, có nhiều đóng góp lớn
đối với lịch sử dân tộc trên các lĩnh vực văn học, sử học... Viện Sử
học kết luận: “Với nhận thức mới trên quan điểm lịch sử cụ thể, nhân vật
Phan Thanh Giản xứng đáng được tôn vinh bằng nhiều hình thức khác
nhau”. Đó là sự phán quyết công bằng. Như vậy Phan Thanh Giản đã được
giải oan sau gần 150 năm mang tiếng “bán nước”.
…Người dân Miền Tây hiểu rất rõ công tội của cụ Phan
Thanh Giản, rằng thời kỳ đó, triều đình Huế là mới là nguyên nhân chính
để mất lục tỉnh Nam Kỳ, vì đã quyết “chủ hòa”.
Cụ Phan Thanh Giản không thể tự mình làm trái ý vua.
Nên không thể quy cho cụ tôi “bán nước” hay “phản bội Tổ quốc”. Mặc dù
cụ vẫn ý thức được hoàn cảnh và trách nhiệm của mình.
Trong lá sớ gửi vua Tự Đức trước khi tự vẫn, cụ viết: “Nghĩ tôi đáng chết, không dám sống cẩu thả để cái nhục lại cho quân phụ”!
Đứng trước mộ cụ Phan Thanh Giản tôi cứ nghĩ miên man
về nỗi niềm lịch sử. Hết lòng vì dân vì nước nhưng lại không được người
đời hiểu mình.
Hơn ba chục năm qua, tất cả những đường phố, trường học
mang tên Phan Thanh Giản đều bị gỡ bỏ. Tượng cụ ở Châu Thành, ở trường
Trung học Cần Thơ cũng bị gỡ. Hẳn nhiên bức tượng nằm trong lòng dân mới
là vĩnh cửu.
Một tin vui nữa là tại kỳ họp lần thứ 13 HĐND tỉnh Bến
Tre khóa VII (ngày 10 và 11/4/2008) đã thông qua việc đổi tên trường
THPT Ba Tri thành trường THPT Phan Thanh Giản từ năm học 2008-2009. Sắp
tới tỉnh sẽ dựng lại tượng cụ Phan Thanh Giản.
Rời Ba Tri, tôi cứ ước ao không chỉ ở Bến Tre, Vĩnh
Long mà tên của Đại thần Phan Thanh Giản tài hoa, khí tiết sẽ được đặt
cho nhiều trường học và đường phố miền Nam như trước đây.
(Trích theo http://www.tienphong.vn)
Huỳnh Hữu Đức Sưu Tầm