Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2025

Kỷ Niệm Buồn -Trần Đại Bản - Lý Thu Thảo


Sáng Tác: Trần Đại Bản
Trình Bày: Lý Thu Thảo

Chỉ Có Trong Mơ



Một ngày ghé bến Tiền Giang
Đau lòng nhìn chiếc đò ngang xa bờ.
Pháo hồng khói tỏa mịt mờ
Lòng ta đau xót bơ vơ nỗi tình!

Nhớ xưa lời tỏ đinh ninh:
Ngàn năm kết chặt tình mình thiên thu!
Lời nay theo khói xa mờ
Đâu còn phong kín nỗi chờ đợi mong!

Chiều chiều nhìn nước xuôi dòng
Nhìn mây tan hợp mà lòng ngẩn ngơ
Bây giờ cho đến bao giờ?
Hay là chi cảnh trong mơ… tương phùng?

Hàn Thiên Lương
31-5-2025


Tình Xưa Như Hạt Bụi



Vạt nắng xuyên qua khe cửa
Soi lên hạt bụi trong ta
Tình xưa khuấy lên nhè nhẹ
Chợt nghe cơn đau hiện ra

Hồn ta vất vơ trong nắng hạ
Bóng em chập chờn trong nẻo xa
Buồn sao đôi mắt đã nhập nhòa
Lệ thấm trong tim không trào ra

Tình xưa cũng như hạt bụi nhỏ
Lặng yên chờ nắng lên gọi tên
Làm ta ngất ngây trong mắt đỏ
Tình xưa chờ nắng soi lộ ra.

Dương Vũ


Bão Biển

  

Biển lạ. Mùa hè vẫn có những con sóng dữ quẩy theo gió nghịch chiều. Tàu đã qua lại mấy lần những bến cảng xa xôi. Và chiều nay, lại nhổ neo dập dềnh nẻo sóng.
Và người khách đã lạc lõng giữa một thế giới phù hoa vô lối, vẫn lạc lõng chiều nay.

Những người bạn đồng hành vẫn còn tiếp tục vui trong những trò chơi lòe mắt, chấp chới thứ ánh sáng nhân tạo lộ liễu, vẫn đang lúc lắc theo điệu nhạc thời thượng trân tráo hoặc còn cố ngửa cổ nốc cạn ly rượu được bưng dọn bằng những bàn tay điệu nghệ đến ngây ngô. Sao bỗng dưng rồi người khách chợt bật cười khan, dằn ly rượu còn quá nửa, đứng dậy mặc kệ người bạn chung bàn dang tay kéo níu. Ông ta bỏ đi một nước, ngang qua cái sàn nhảy lố nhố bóng người, nháy mắt trả lại cho người đàn bà mặc xường xám xẻ hông tới hết chỗ xẻ, đi suốt qua cái phòng ăn dài thậm thượt, mở lớp cửa thứ nhất rồi lớp cửa thứ hai, gió lạnh tát vào mặt lạnh buốt. Ông ta sựng người rồi đưa tay kéo dựng cổ áo khoác, rẽ nhanh vào cái bar rượu lộ thiên giờ này vắng ngắt. Đèn đuốc vẫn sáng rực, bóng xanh đỏ chấp chới theo từng cơn gió hú. Người pha rượu quen mặt trốn đâu mất biệt. Cả những người phục dịch trên boong cũng lánh đâu hết. Phải rồi hồi chiều ông có nghe trên loa văng vẳng lời thông báo mà không để ý. Đêm nay khi ngang qua vĩ độ 60 bắc biển động sao đó. Nhưng rồi tánh lơ đãng ông cũng quên phứt. Gió quậy sóng rầm rầm, tung bọt trắng xóa, bắn vọt lên sàn tàu lênh láng những vạt nước mặn và lạnh như nước đá. Ông tính quày trở vô nhưng rồi bỗng nhớ đến cái không khí nhếch nhác của một đêm dạ hội rẻ tiền, ông lại ngần ngừ. Ban nãy, trên bàn tiệc, giữa hai hớp rượu, có lúc ông tự hỏi tại sao mình có mặt ở đây. Cái lối du hành tập làm trưởng giả này vốn dĩ ông đã chán chê từ lúc chưa từng tham dự. Vậy mà lần này, chỉ vì một chút nể nang với dăm ba chút bạn bè mà ông có mặt. Nhưng rồi qua vài ngày, ông cứ thấy ngán ngẩm, cứ muốn tìm cách xé lẻ mà rồi trên trời dưới nước và quanh quanh mấy góc phố lạ, ông cứ bị vây bọc chẳng có lối thoát. Bởi vậy, ngoài những lúc phải lên bờ, lội theo đoàn người rồng rắn cứ hay loay hoay nhìn ngó, lắm lúc đến nực cười tự hỏi không biết họ ngắm cảnh hay họ ngắm họ trong cảnh với những chiếc điện thoại tinh khôn quay lên lộn xuống, lúc trở về tàu là ông hay tìm cách bỏ ra lang thang một mình trên boong, hay ngồi lì nơi một góc bar, nhắp chút rượu mạnh rồi ngó cái không mênh mông của mặt biển mênh mông. Có hôm nắng tươi, chói chan, nước xanh ngan ngát. Có hôm mây mù, đục lờ con nước. Ông không vui không buồn. Nhưng mà ông thấy bình yên. Người ta vui chơi kéo nhau qua lại. Trước mắt ông chỉ có trời mây, biển lớn và những con chim hải âu cánh trắng bay vật vờ như không có nơi để đến mà cũng không có chốn để về. Ông cũng vậy, hơn ba mươi mấy năm nay dẫu vẫn ở cùng một địa chỉ mà thật ra ông có thấy ông ở đâu, làm gì, để làm gì ... trong cái đời sống lưu vong ngày qua tháng tháng qua năm như một điệp khúc buồn rầu. Đã có lúc, từ thăm thẳm của lòng như có gì thúc giục, ông cũng lôi giấy bút ra hí hoáy, chữ nghĩa đau đớn từ những kỷ niệm đau đớn của dân tộc ông và của chính ông chạy ùa ra tới không kịp nắn nót. Ông thức khuya dậy sớm, ngoài giờ lao động kiếm ăn, trên tay lái một chiếc xe van chở hàng giữa ngã tư đèn đỏ, nơi góc vắng một quán cà phê bình dân trong khi chờ đến lượt đổi phiên ... ông đã làm thơ, ông đã viết văn ... Những tờ giấy trắng kê trên đùi, những hàng chữ xiên xẹo được viết bằng mẩu bút chì đen lúc nào cũng nằm sẵn trong túi áo, ngày qua ngày, chất chồng trong những hộc tủ. Lâu ngày, xứ lạnh không mốc meo, nhưng phủ đầy bụi. Đôi khi rổi rảnh, ông lục ra phủi sạch, đọc tới đọc lui, rồi xếp cất lại. Có khi ông thấy đâu như hai con mắt mình rươm rướm. Nhưng riết rồi ông thấy lạnh tanh. Bạn bè mến mộ, có người đưa lên mặt báo này báo nọ. Có người gởi lên thế giới trên mây. Mấy khúc đoạn trường lâu ngày trở nên lạc lõng giữa cái vòng quay vô tình của lịch sử và lòng người. Đường về nước ngày một mù mịt. Quê hương rồi có lúc trở thành một hoài vọng mơ hồ, không bờ không bến, có đó mà không có đó, bởi vì phải thật lòng mà nói, cho tới giờ có còn gì là cái hình ảnh mà ông đã ôm ấp mang theo khi phải bỏ đi. Lâu rồi, lòng ông chỉ còn lại thứ tâm thức lạc loài kiểu lục bình không rễ.
Còn đang ngần ngừ, bỗng thấy lạt môi, ông nép vào một góc kín, tính đốt điếu thuốc tìm chút vị quen, ngay lúc đó, tiếng chuông reo lên. Chiếc điện thoại nhỏ rung rung như có ngón tay ai khều khều trong túi quần. Ai ? Ai gọi giờ này ? Có ai biết ông ở đâu mà gọi ? Lâu lắm rồi ông ít liên lạc với ai nếu không nói là gần như cắt đứt mọi giao thiệp. À mà chẳng lẻ lại là ... Nghĩ tới đó rồi ông vội gạt ngang. Làm gì có. Hẵn là còn bận bịu với trăm ngàn chuyện vây quanh. Nhưng nếu không thì là ai. Người duy nhất ông đã nói chuyện vài ngày trước khi lên máy bay rồi xuống tàu để tỉ tê một ít về chuyến đi gần như ngoài ý muốn này. Kể cả lịch trình của chuyến đi. Bởi vậy nếu không là ... Ai mà biết giờ này, ngày này ông đang lênh đênh trên một vùng biển lạ. Ngoại trừ ...
Bất ngờ làm ông luống cuống, nhét vội lại bao thuốc lá vào túi rồi thò tay móc cái điện thoại. Chiếc quần jean bó sát, miệng túi hẹp té, càng vội càng kẹt. Tiếng chuông vẫn reo ... reo. Sau hết ông cũng lấy được ra và bấm nút nhận. Trong góc kín mà gió vẫn tìm cách luồn vô thổi mấy tấm vải bạt kêu phần phật. Ánh sáng mấy ngọn đèn canh lao chao theo gió. Thêm mấy ngọn sóng dữ dồn dập lắc lư thân tàu. Ông vừa ngửa ngửa nghiêng nghiêng theo nhịp sóng vừa chú mắt nhìn, thoáng qua, ông chưng hửng. Trên mặt điện thoại, hình một người nữ. Vẫn nét cũ không phai. Buổi trưa xứ đó nắng còn vàng trên mái tóc ửng nâu. Chiếc kiếng mát đeo ngược lên tóc như chiếc lược cài. Y nguyên nét cũ dìu dịu. Và nụ cười mím như cứ ngần ngại trước những xô bồ của đời sống. Y như từ năm ba năm trước. Y như từ mươi năm trước khi biết nhau. Người đã đàn bà vẫn còn nguyên lòng con gái. Thoắt cái vụt biến mất. Nụ cười chưa kịp trọn vụt tắt ngang. Chắc thời tiết xấu quá làm mất tín hiệu. Tự dưng, tự dưng giữa lòng ông như có một nhịp tim hụt. Mà đúng ra, từ mấy ngày nay ông có đợi đâu mà bây giờ như vừa vuột tay một cái gì ông đã chờ. Ờ mà chắc ông không có đợi một cái gì đó không, mơ mơ hồ hồ lẩn khuất giữa lòng ông dù chính ông cũng thấy mình không có lý do gì để chờ đợi. Một chút hụt hẩng chưa kịp lắng xuống thì bỗng đâu điện thoại lại reo lên. Tim ông lại hụt một nhịp. Ông bấm nút nhận. Lần này chỉ nghe tiếng mà dáng dấp chẳng thấy đâu. Thầy vui không. Tiếng nói bay lẫn lẫn trong tiếng gió hú bầy. Vẫn cái tiếng thầy vừa nghiêm vừa nghịch ngợm. Bây giờ. Hồi đó. Ờ thì tui có dạy chữ nào đâu mà kêu thầy. Thì thầy dạy em tui cũng như dạy tui vậy. Hổng dám đâu. Mẫu đối thoại lần đầu cho đến giờ còn nhớ. Bữa đó mới ra trường đổi về một tỉnh nhỏ. Dạy học trò như một chuyện chẳng đặng đừng. Nhưng lâu ngày chầy tháng, riết rồi đâm ra hết lòng với đám em út mới lớn. Học trò có đứa thân còn hơn em ruột. Qua lại thăm viếng cả ngoài giờ học. Đứa học trò trai vừa tuổi lớn, thông minh và nghịch ngợm, cứ hay đem chuyện ông thầy mình về kể cho gia đình. Dưng không rồi ông thầy trở thành một hình ảnh quen thuộc trong nhà. Tới nỗi, cuối năm, có cô chị đang học đại học ở Sài-gòn về quê nghĩ tết, cũng rủ rê ghé lại chào hòi. Cô chị đằm thắm mà tinh quái, chìu lòng em trai. Vậy đó. Có gì lạ đâu. Vậy mà sau lần gặp mặt có chủ đích đó, những lần sau, khi tình cờ, lúc có việc cần, mỗi lần mỗi kéo dài hơn, và rộn rã hơn. Tết qua, cô trở lại Sài-gòn tiếp tục việc học. Thỉnh thoảng, những lá thư thăm viếng, kể chuyện học hành, chuyện phim ảnh, chuyện đường phố lộn xộn, chuyện sinh viên biểu tình, chuyện những cuốn sách mới xuất bản ở Sài-gòn ... Những lá thư với hàng chữ nắn nót cố ý ngoài phong bì và giọng điệu giả vờ lơ lửng trên những tờ giấy pelure mỏng dánh và trắng muốt. Có lúc đều đặn tới nỗi nhiều khi thấy người đưa thư đi qua mà không ghé lại, dưng không như có gì thiêu thiếu. Vậy thôi. Thì cũng vậy vậy thôi M. Vẫn thói quen gọi tên không ngôi thứ. Tự nhiên bữa nay trời nổi gió, sóng gió tơi bời M. ơi. Ai biểu đi chơi mà không rủ M. theo. Vẫn cái giọng ấm và ngọt tới xóa hết mọi ngại ngùng của người tiếp chuyện. Thêm nữa, một tấm lòng mà nhiều khi ông thấy thấm nhuần huệ từ bi. Gió vẫn rú từng hồi. Sóng tha hồ quẩy đập bắn tung từng chùm bọt biển trắng xóa lên tới góc kín. Con tàu thì vẫn sì sụp lê lết. Và ông, người khách lạc lõng từ mấy bữa nay, bỗng dưng rồi thấy như có gì vui ! Rồi chuyện trò tiếp tục trơn tru như đang tiếp nối một bữa chuyện trò nào khác, không từng đứt đoạn. Phải qua đây chơi, M. tặng cho không biết bao nhiêu là nắng vàng. Có hôm nghĩ tới xứ lạnh, M. muốn lùa bớt nắng sang cho. Vậy đó. Vậy đó. Toàn là cái chuyện không đầu không đuôi mà sao không dứt được. Cứ hết mưa nắng rồi lại nắng mưa, chuyện đời, chuyện người, chưa bao giờ, hơn mươi năm qua một lần lấn sang chuyện mình. Vậy mà từ thăm thẳm, làm như ngong ngóng một tiếng chuông reo. Hôm rồi, gặp ông anh họ làm nhà in, M. có hỏi chuyện in mấy cuốn sách của thầy. Ồ làm chi vậy em. Chuyện của M. thầy hỏi làm chi. Vẫn cái giọng dịu dàng mà quyết đoán. Lâu lâu thầy cũng cho M. làm một việc mà em thấy cần làm. Em ơi sách vở bây giờ có ai mà đọc. M. đọc. Thì bài vở của tui em đã đọc hết rồi. Thì tại M. đọc hết rồi nên em thấy cần in lên giấy trắng mực đen. Bỗng dưng ông thấy mũi lòng. Để làm dịu cái giọng dấm dẳn, ông pha trò. Vậy chớ em có bao nhiêu tiền mà đòi in sách cho tui. Mười ngàn đồng. Câu trả lời gọn bâng như người ta nói vài ba đồng bạc, biểu lộ một sự quyết tâm. Ông lặng người chưa biết tìm câu trả lời vừa lúc một vạt nước biển bắn lên mặt buốt như kim chích. Ông lách sâu hơn vào kẹt khoang vừa kịp nghe môi mình mằn mặn. Nước biển hay nước mắt rướm trên khóe hồi nào. Nhà in hỏi gấp em mấy chi tiết kỷ thuật. Ông nghẹn giọng. Lâu rồi, cái ý in sách cho ông đôi khi có nhắc tới nhắc lui nhưng rồi hoặc do ông hoặc do bận rộn bên đó mà khất lần khất lửa. Tại sao, đêm nay, giữa trời biển mênh mông và sóng động ì ầm lại được nhắc lại. Nhắc lại với một giọng dứt khoát và khẩn thiết. Và làm sao giấu được cái giọng thiết tha một cách bất ngờ. Bỗng dưng ông nghe thoáng thoáng lẫn trong tiếng gió rít ... cho M. được một lần lo cho an ... ơ... thầy. Nước mắt ông không kềm lại được nữa. Và xa tít bên kia biển lớn, dường như có một tiếng nấc. Rồi lặng thinh. Ờ thì đã từ lâu, sau khi gặp lại vẫn hay nói thích bài vở của ông mỗi khi đọc được. Đôi khi còn biểu lộ những xúc động với tâm trạng của người viết về những thảm cảnh sau khi cuộc chiến tàn, cũng như chia xẻ hết sức ân cần với số phận của cả một thế hệ đồng lứa với ông mà ông hay kể lể. Từ đó đến việc muốn giúp ông thực hiện cái giấc mộng mà bất cứ một người cầm bút nào cũng ao ước thật ra cũng không phải là một điều tất nhiên. Vậy sao ... Vã lại hồi nãy ông nghe tiếng gì như tiếng gọi lộn mà nửa chừng cầm lại. Có một cái gì là lạ làm ông bối rối. Bên kia đầu giây cũng nín lặng. Rồi cả hai cất tiếng cùng một lúc. Anh .. Em. Rồi lặng thinh. Một giây. Một phút. Hay nhiều hơn. Cũng chẳng biết. Chẳng ai đo được cái phút giây kỳ diệu đó. Thứ danh xưng mà gần như suốt nhiều năm ai cũng lẫn tránh. Làm như có một sợi giây vô hình nào đó chắn ngang nên cứ nói trỏng riết thành quen. Gió vẫn thổi miên man. Và sóng biển vẫn ì ầm. Bao nhiêu tháng. Bao nhiêu năm đã lũ lượt kéo qua, hối hả và chẳng bao giờ trở lại. Xuân thì như ánh chớp đêm giông. Có ai sống được hai lần. Chúng ta đã để cho vuột qua dẫu không ai cố ý. Trong cái giây phút tưởng chừng bất tận đó, hai cuộc đời ở hai đầu một ngã rẽ bỗng như nối lại, sau cơn thất tán não lòng.
Vậy đó. Chuyện như chuyện thần tiên với đoạn kết đã được định sẵn. Tao phùng. Ly tan. Tái hợp. Có điều, định mệnh có bao giờ suông sẻ như lòng người ao ước. Cuộc tỏ tình qua bằn bặt không gian rồi cũng phải chấm dứt. Bên kia chiều đã hết. Và ai rồi cũng phải trở lại với cuộc đời thực của mình. Dù muốn hay không.

Ông còn đứng lại, gần như bất động, khuất trong bóng tối. Đêm không sao. Ông châm lửa điếu thuốc. Gió thốc ngang không kip vướng lại chút khói bay. Ông thấy cổ đắng mà lòng vui và buồn mênh mông cùng lúc. Cũng như vừa yên lòng vừa lo lắng. Cõi lòng bỗng chốc chông chênh như biển. Biển ngoài kia dập vùi, dù sâu dưới lòng biển là một cõi lặng thinh. Dẫu vậy biển vẫn muôn đời khôn dò. Cuộc đời thăm thẳm như biển. Ai biết được ra sao giọt nước chơi vơi giữa cuồng nộ đại dương. Cũng như những cuồng nộ của lịch sử. Thứ lịch sử nghịch thường đã phá tan hết mọi giấc mơ hiền lành nhất của ông và nhiều người khác.
Năm tháng đó, những lá thư hồn nhiên qua lại và những gặp gỡ bất đ̣nh của hai người đã là dấu hiệu của một dặn dò hẹn ước nào đó, dù chưa ai có dịpxác định. Tháng cuối năm 73, đứa em trai xui rủi rớt tú tài hai bị gọi động viên. Đêm trước ngày đi bạn bè đưa tiễn, ông cũng được mời tham dự, có mặt cả M. từ Sài-gòn lật đật về gặp em. Giữa tiệc, bạn bè đứa cười đứa khóc. Cảm thán ông viết huyệch hoạc lên tấm giấy khăn ăn mấy câu thơ. Ngày mai em xa rồi. Ta còn trên bục giảng. Bạn bè ngơ ngác đợi. Bài Chinh Phụ như than. Tiệc tan, mọi người ra về. Còn đang lui cui mở khóa xe bỗng thấy M. cầm tấm giấy khăn ăn đi tới, hai con mắt đỏ hoe. Thầy bỏ quên ... hay là cho M. xin bài thơ này, nhen thầy. Vừa nói, M. vừa quẹt nước mắt. M. không ngờ thầy tình cảm tới vậy. Ông cười buồn, gật đầu. M. nói với nó mai mốt tui đi thăm.
Khi ông rồ máy xe chạy đi, ngoảnh lại còn thấy M. nhìn hút theo. Lòng ông bỗng nao nao.
Mấy tháng sau, có dịp đi Sài-gòn, ông theo M. đi Thủ Đức thăm đứa em trai. Khi về, sẵn dịp, hai người dạo ngang phố Lê Lợi. Chiều thứ bảy, phố đông nghẹt người. Người ta áo vàng áo đỏ. Áo M. trắng tinh. Qua hàng sách bày dọc theo lề đường, ông ghé lại tìm vài quyển sách cũ. M. lựa giúp ông rồi trả tiền lúc nào không biết. Ông ngần ngừ. M. dẩy nẩy. Thôi tui đưa cô đi uống nước bù. Chiều Sài-gòn bỗng nhiên hực nắng. Ông đưa M. vào La Pagode. Đường Tự Do áo dài vạt bay như bướm. Cùng lúc, tiệm để nhạc Mộng dưới hoa. Chưa gặp em tôi đã biết rằng. Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng. Giọng Jo Marcel lừng khừng mà thấm như hơi thuốc lá Lucky. Hai người ngồi đó khi nắng vàng rút ngắn lên nóc nhà thờ Đức Bà, thả cái bóng chạng vạng lên mấy đọt me châu đầu như cổng lá. M. kể cho ông nghe chuyện học hành, hỏi han ông chuyện dạy dỗ. Bất ngờ kể ông nghe chuyện vui. Cô bạn gái cùng trường quê ở Vĩnh Long mới về thăm nhà trở lên có cho M. trái ổi xá lỵ to như bàn tay M. nắm lại mà ngọt ngây. Mà tự nhiên sao nghe tên Vĩnh Long em thích ghê. Mấy lần về quê, xe đi ngang em tính ghé lại chơi cho biết mà rồi không có dịp. Vậy hả, Vĩnh Long là quê tui đó. Ủa thiệt hông thầy. Thầy nói chơi hay nói giỡn. Thiệt mà, tui sanh đẻ ở Vĩnh Long, lớn lên mới đi học xa. Tự nhiên ông thấy gò má vốn đã ửng hồng của M. như đậm hẵn lên. Rồi thôi lãng sang chuyện khác.
Những lần sau đó, mỗi khi có dịp về Sài-gòn, ông hay ghé lại cư xá Thanh Quan tìm thăm M. Hai người lại có dịp lang thang qua mấy phố quen. Có khi ông đưa M. ghé lại Brodard uống cà-phê liégoies, có khi lội ngang qua Passage d’Eden xem phim mới chiếu. Bỗng dưng rồi ông tìm lại được Sài-gòn của ông thời còn sinh viên, rủ M. đi ăn phở Pasteur, bánh cuốn ngã sáu Ngô Tùng Châu, qua khu Cường Để ông chỉ cho M. trường văn khoa mà ông đã học, kể cả cái quán cà-phê ông hay bỏ lớp ngồi làm thơ. Kể cả ngôi trường mà tường vách gì cũng cũ mèm, ở góc đường Cộng Hòa-Thành Thái, nơi ông đã ép mình theo đuổi cho đủ ba năm học làm-thầy dù cái đầu thì cứ lung lăng muốn làm-giặc ... Cùng với M. làm như ông đi ngược lại thời tuổi trẻ đã mất. Mà cũng ngộ, M. đi theo ông như một tình nhân dù giữa hai người không ai xác nhận một điều gì. Ông kể cho M. nghe mọi thứ chuyện, từ chuyện kéo nhau đi vũ trường lúc đầu tháng đến chuyện gặm bánh mì thay cơm khi cuối tháng, chuyện đầu khóa ăn chơi vun vít đến cuối khóa uống cà-phê đen thức suốt đêm ôn bài cho kịp kỳ thi, ngay cả chuyện những mối tình lăng nhăng chẳng đâu vào đâu ... M. nghe hết, cười với ông những chuyện phá phách, buồn với ông chuyện người bạn thân vừa tử trận, theo ông đi đưa đám tận nghĩa trang quân đội. Lúc ra về, lặng lẽ đi cạnh ông giữa hai hàng sao cao vút, có lúc len lén nhét vào tay ông chiếc khăn tay khi thấy mắt ông đỏ hoe. Mọi thứ mọi điều M. chia xẻ với ông hết lòng, như sống hẵn cùng ông tận cùng mọi kỷ niệm. Sự gần gũi đã vượt hơn một lằn ranh lễ nghĩa. Nhưng lại chưa bao giờ tới độ gá thân. Không biết sao, trong tận cùng ông làm như có một cái gì ái ngại. Hay ngần ngại ? Tại M. trong trắng đến độ hồn nhiên ? Hay tại chính ông, vốn rất buông thả, hay trửng giỡn chuyện yêu đương lại tự dưng rồi trở nên dè dặt, sợ đụng tới cái chuyện mà chính ông cứ cho là như mấy sợi lòi tói buộc riết chân người .
Đêm về khuya, gió cũng bỏ đi, biển dịu lại, trời len lén vài vì sao mọc muộn. Sinh hoạt trên boong trở lại bình thương. Khách bắt đầu rủ nhau lui tới . Ông tấp vô bar rượu, gọi một ly rượu mạnh, rồi kiếm chỗ khuất ngồi ngó biển, tưởng đến vùng đất ở bên kia chân trời. Chắc là đã trở lại với những công việc quen thuộc của một người đàn bà với gia đình. Cơm nước. Dọn dẹp. Coi chút tin tức. Rồi ngủ qua đêm chờ sáng mai thức dậy, trang điểm qua loa rồi lái xe tới sở. Cái nhịp điệu bất biến của bổn phận và trách nhiệm. Vậy mà mươi năm qua, lặng lờ đi bên cạnh cuộc đời chính thức với một nỗi lòng nặng trĩu và kín bưng. Đôi ba hôm, lấy giờ nghỉ trưa để gọi sang ông, thăm hỏi vu vơ, kể lể mưa nắng. Thời gian lật bật qua, tuổi tác lính quýnh chạy theo mà lòng thì vẫn bền hơn sợi chỉ đỏ xe duyên, dù chưa lần thề thốt.

... Giáng sinh năm 74, nghe lời nhắn, ông lấy chuyến xe đò tài nhứt về Sài-gòn. Đường xá cầu cống xiệu xạo, tới nơi đã xế chiều. Mặt trời cuối năm nhợt nhạt, dẫu vậy vẫn không giấu được chút chộn rộn của buổi chiều áp lễ. Vừa bước xuống xe, ông đã thấy M. đứng bên kia đường ngóng sang. Bên cạnh là chiếc xe solex mới tinh gia đình vừa mua cho mà M. đã khoe trong thư. Thầy về đi lần này khỏi trả tiền taxi nữa. Vã lại sao chạy một mình M. run quá. Về tập cho M. chạy solex đi thầy. Bên kia đường vẫn áo dài trắng thả lỏng đường eo, gió lật tung vạt trước để lộ cặp chân khép nép trong chiếc quần sa-teng đen rộng ống. Đêm đó ông chở M. trên chiếc solex mới tinh quanh quanh mấy khu xóm đạo. M. vén vạt áo dài ngồi yên sau mà làm như không biết để tay vào đâu. Lúc thì níu hờ cái yên trước, lúc lại vịn hờ lưng áo ông, mỗi lần tới ngã quẹo là như chực hờ bám vào hông ông mà vòng tay chưa khít đã rụt tay về. Chạng vạng, những hàng lồng đèn ngôi sao đủ màu giăng dọc theo đường bật sáng làm phố đêm lấp lánh. M. có vẻ thích chí, chỉ trỏ nói cười luôn miệng. Một lúc, ngang qua nhà thờ xóm Kỳ Đồng, M. đòi ghé lại nói hồi nhỏ có lúc ở gần đây. Đèn đuốc sáng trưng. Tháp chuông lừng lững ngó xuống. Ông kiếm chỗ gởi xe rồi đưa M. đi loanh quanh ngắm nhìn mấy cái máng cỏ. Người đi lễ bắt đầu qua lại rộn rịp. Chiều lắng sâu vào đêm đẩy nhạc thánh ca cao lên lồng lộng. Ông đọc cho M. nghe mấy câu thơ của Nhất Tuấn thuộc đâu từ thời còn trung học mà coi bộ M. thích lắm. Nhà thờ nơi cuối phố. Thấp thoáng sau ngàn dâu. Anh chờ em đi lễ. Chung dâng lời nguyện cầu. Chợt hỏi mà nếu mình ngoại đạo thì mình xin, chúa có cho không thầy. Ai mà biết. Mà M. muốn xin gì. Thoáng qua, ông thấy gò má M. ửng hồng, nín lặng và quay qua nhìn nơi khác. Hai người đi dần tới dưới tàng cây cuối sân. Khoảng sân chợt vắng hẵn vì dường như lễ thánh sắp bắt đầu. Hai người lại tiếp tục những câu đối đáp vô thưởng vô phạt. Từ thơ nhạc giáng sinh xoay qua tập thơ Đoạn Trường Vô Thanh của Phạm Thiên Thư vừa được trao giải thường Văn Học Toàn Quốc. Dưng không ông bắt gặp trên gương mặt M. một nét gì thanh thoát như nét hạc bay qua trong thơ của họ Phạm. Cặp mắt trong sáng, hiền lành không chút vẫn đục. Da dẻ tươi tắn dìu dịu chút son môi và phơn phớt chút phấn hồng. Nét hồn hậu không làm nhạt nét tinh anh. Thân thiếu nữ vừa quá tuổi dậy thì sao mơn mởn mà thoáng rất nhẹ mùi thơm xác thịt. Giọng nói tiếng cười ấm hĩm cứ như vuốt ve người nghe làm như cứ sợ người ta giận. Vậy rồi ngay lúc môi M. đang mấp máy theo điệu thánh ca quen thuộc, tự nhiên đứng ngay giữa sân giáo đường mà ông lẩm nhẩm mấy câu thơ phảng phất hương thiền đã thích từ lâu ... Ni cô hiện giữa ta bà. Búp tay hồng ngọc nâng tà áo trăng ...Tiếng em hát giữa giáo đường. Chúa về trong những thánh kinh bàng hoàng. Câu thơ ông đọc lẩm nhẩm mà M. lắng nghe, rồi từ trong hai con mắt thoát ra một chút gì xao xuyến làm rung lòng ông. Ông đặt tay lên vai M, kéo sát lại, vừa lúc M. ngửa mặt, hai vành môi rưng rưng, ông cúi xuống đặt lên đó nụ tình vừa hé trong lòng ông dịu dàng như một búp sen. M. nhón chân khứng chịu. Khi hai đầu lưỡi vừa khẻ chạm nhau, ông nghe chừng như vai M. run run. Một thoáng, hai riềm mi khép lại. Lâu hơn một giây. Vừa lúc giáo đường vọng lên hồi chuông nửa đêm, dội lại lòng ông ràn rụa tiếng kêu thương. Ông ôm sát M. vào lòng mà sao nghe lòng bình an đến lạ. M. úp mặt vào ngực ông, tựa hẵn người vào ông như đuối sức. Khuya im im. Một chốc, ông nghe như vải áo ngực ông ươn ướt. Đêm loang loáng sao thưa.
Tan lễ, người ta túa ra sân, từng nhóm nói cười vang vang. Hai người buông nhau ra. Bóng cây che nửa mặt người. M. đưa tay vuốt tóc. Ông vén mấy sợi tóc vướng mắt M. Một chút ngại ngùng. Một chút bối rối. Nhưng hai cặp mắt không rời nhau. Không ai lên tiếng. Dù chắc lòng ai cũng ăm ắp điều muốn nói. Mà thật ra có điều gì để nói thêm, mà có cần để nói thêm điều gì khi nụ hôn đầu đã nói với nhau hơn một điều cần nói.
Đêm đó khi ông đưa M. về cư xá, M. không nói gì thêm. Chỉ lúc chia tay, hai con mắt vui như một lời cám ơn lẵng lặng. Sáng hôm sau trước khi ra bến xe trở lại nhiệm sở, M. nhờ ông chở ra đường Lê Thánh Tôn, chỗ có mấy tiệm giày dép nổi tiếng. Rồi lục lọi mua cho được đôi guốc cao gót. Dáng thanh lại thêm chút vẻ nhí nhảnh của con chim vành khuyên vừa xổ lòng.
Trước khi lên xe, nơi một góc khuất hiếm hoi của bến xe lục tỉnh, ông hôn M. thêm một lần. Lần này, M. không phải nhón chân.
Vậy đó, một nụ hôn đầu. Rồi một nụ hôn kế. Rồi thôi.

Sau cơn thất tán, mỗi người chạy chết theo mỗi hướng khác nhau.

25 năm sau, khi mọi sự đã an bày, ở một thành phố có nắng vàng hực hở, họ gặp lại nhau. Gặp lại nhau như một rắn mắc của định mạng. Gặp lại nhau khi ainấy đã yên phận lứa đôi. Gặp lại nhau chỉ để hàn huyên mưa nắng dù giữa lòng ai sao cũng quá đỗi bồi hồi. Từ đó, qua hai đầu điện thoại viễn liên, là những nhắc nhở, kể lể, dặn dò ... từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ mỗi lúc mỗi kề cận tưởng đâu như chung nhà chung cửa ...
Mười năm sau nữa. Điện thoại gọi qua cơn bão biển. Tiếng “anh” được gọi lần đầu. Bất chợt như tiếng thất thanh. Hẵn đã là một cố gắng tuyệt cùng của mối tình tuyệt vọng, là tiếng kêu cứu của con chim lẻ bạn sau cơn vật vã của giông tố vô tình. Ông nốc cạn ngụm rượu chót rồi bỏ tuốt lên sân thượng. Mặt biển đen ngòm. Gió còn rền rỉ trên cao. Và sóng nước vẫn rập rờn dưới đó. Ông đứng tựa vào lan can tàu, khoanh tay ép sát lớp áo dạ vào mình không chặn được hơi lạnh ngấm sâu vào da thịt. Ông đứng đó. Im lìm như tượng. Lòng rã rời dù cứ thầm nhủ với mình. Như đang thầm nhủ với người bên kia. Sau hết, chúng ta đã tìm lại được nhau để trao cho nhau chút của riêng tư. Nhưng rồi ? Nhưng rồi, để làm gì ? Để làm gì em ! Mai mốt sách vở của tôi được tung ra, có người ngưỡng mộ, có người chê bai. Ngưỡng mộ ? Chê bai ? Để làm gì em ? Em mà từ lần gặp lại sau khi biệt tung tăm tích, tôi mới biết mình đã thật sự mất nhau. Em mà từ hơn mươi năm nay vẫn len lách gọi tới gọi lui để nói với tôi một lời thăm hỏi khi trái gió trở trời, để vỗ về tôi một lần thất bại, để nhắc nhở tôi một hướng tâm linh ... Em mà tiếng gọi trưa hè nghe mát rượi như một giọt nước trong. Em mà cuối tiếng cười vui trở cao giọng, như để phủ dụ người nghe khi tay mình không vói tới tay nhau. Rồi để làm gì em, mớ chữ nghĩa tôi mà em đã vun bồi bằng chính thứ mỹ cảm tuyệt vời của hồn em nhan sắc, đã xui tôi viết ra với hết dạ yêu thương tiếng mẹ đẻ của mình. Rồi để làm gì em, tình của chúng ta, khi hai người đã xa nhau như hai thành phố. Khi buổi sáng em là đêm tối tôi. Khi vàng nắng em là mây mù tôi. Khi nỗi nhớ em là biển sầu tôi, cùng tận.
Để làm gì em. Để làm gì nữa. Khi mỗi sáng mỗi trưa mỗi chiều mỗi tối, tôi chỉ gần em trong tâm tưởng tôi. Để làm gì em. Để làm gì nữa. Khi gần gũi em tôi phải dang xa em. Khi mắt mình vô ý chạm nhau, chúng ta, mỗi người phải nhìn ra hai hướng khác.
Để làm gì em. Để làm gì nữa. Đã trễ tràng một hẹn ước dù hai nụ hôn đã là một kết ước không lời. Đã bỏ lỡ một cơn mơ khi tuổi mơ em đã có tôi mà rồi mơ chung không kịp giấc.
Còn làm sao nữa em. Khi mỗi một xẻo nhớ là xối xả một nguồn đau. Khi chút dấu sót lại là hằn sâu tầng tầng kỷ niệm. Chỉ một nét chữ mơ hồ thăm hỏi đã long lanh rướm lệ.
Chỉ một nét chữ mơ hồ thăm hỏi đã long lanh rướm lệ.

Ít ngày sau tàu cặp bến cuối. Người đàn ông bước lên bờ, biển ngoài xa, mà chân cứ dập dềnh ... dập dềnh như lòng còn vật vã hoài với cơn bão biển mấy ngày qua.

Cao Vị Khanh

Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2025

Thơ: Qua Rồi Một Mùa Đông(Kim Phượng) - Thư Pháp (Quang Hà)

 
Thơ: Kim Phượng
Thơ Tranh: Quang Hà


Mưa Tháng Sáu - Thơ Kim Phượng - Hương Nam Diễn Ngâm - Kim Oanh Thực Hiện


Thơ: Kim Phượng
Diễn Ngâm; Hương Nam
Thực Hiện: Kim Oanh

Hẹn Ước

 

Cánh mỏng rải đầy trang phượng vỹ
Nắng chiều vàng đọng đấy tuổi thơ
Dòng sông xưa sóng nước vỗ bờ
Những da diết một thời vụng dại

Giải khăn sô lịm đời thiếu phụ
Vạn vạn lời cất nỗi thương đau
Ân tình xưa con chữ ngọt ngào
Đem gom tất đưa vào tháng Sáu

Phượng vẫn thắm trong màn sương lạnh
Gợn sóng lòng ẩn trái tim xanh
Người về miền đi khuất âm thanh
Bỏ thương lại đọng đầy khóe mắt

Kim Phượng

6.6.2025


Người Như Lá Biếc


Người như lá biếc trêu ngoài nội
Lòng dẩu vô tình cũng gió lay
Người như chim biển theo muôn sóng
Đâu biết trường giang nước thở dài

Người như mây nhớ ngàn thu trước
Đi để mơ màng chuyện nắng mưa
Người như hương nhớ ngàn hoa dại
Đi để rừng xưa có đợi chờ

Người như chiếc bóng vui hè phố
Sân nhỏ nhà ai nhớ nắng trưa
Tôi về cửa khép sau hiên vắng
Biết nắng qua chiều ấm mái xưa

Sao chưa về lại cơn mưa nhỏ
Thấm mái hiên buồn thêm cuối năm
Có tôi độc ẩm đêm trừ tịch
Tắt ngọn đèn khuya lạnh chổ nằm...

Lâm Hảo Khôi


Thứ Năm, 5 tháng 6, 2025

Trả Tôi Về - Mặc Thế Nhân - Kim Trúc


Sáng Tác: Mặc Thế Nhân
Trình Bày: Kim Trúc

Ta Hãy Chờ Nhau


Bạn với ta thân nhau từ tấm bé

Khi lớn khôn mỗi đứa một nơi
Năm mươi năm rồi - Biệt hơi lặng tiếng
Nào ngờ

Hai đứa gặp nhau

Bạn nhận ra
Hai ta hai cảnh đời xa lạ
Ngại ngùng chi
Đêm nay ở lại cùng ta
Hàn huyên tâm sự
Ta bây giờ
Chỉ còn thơ
Không còn rượu
Bạn hãy cùng ta uống vài tách trà
Chờ trăng lên
Chờ xem hoa nở

Bạn ơi
Trăng đã lên
Hoa đã nở
Hương Quỳnh hoa thơm ngát
Trà thêm ngon

Tình bạn thêm nồng

Trăng đã xế bóng
Bạn phải lên đường
Thôi thì

Bạn hãy lên đường
Cho thỏa chí mày râu
Còn ta
Vẫn quanh quẩn chốn già lam nầy

Mai đây
Bạn trở lại nơi nầy
Có thể không gặp ta
Nhưng chiếc bàn đá nầy vẫn mãi mãi còn đây
Có ghi vài câu thơ của ai đó:

“Đạo sĩ chờ ta chán hải hổ
“Ta chờ đạo sĩ nản hư vô”

Bạn ơi
Ta gắng chờ nhau

Hoàng Long
***
Cảm Tác:

Ừ Thì....Chờ Nhau!

Ta sẽ chờ nhau Huynh ới à
Chia tay độ ấy , vạn cách xa
Năm mươi năm biệt vô âm tín
Lại bên nhau , duyên đó chăng là!

Giờ thì gặp nhau ta với ta
Đời ta đời bạn khác mấy xa
Nhưng thôi , đừng ngại ngùng chi nhé
Cứ bao la, tâm sự đậm đà

Hàn huyên tâm sự, tấm tri giao
Thơ rượu hôm nào , tách trà trao ...
Nâng cốc , tưởng như nâng mỹ tửu
Ngâm thơ , ngỡ nhấm lấy men đào

Vậy đó mà trăng đã dần lên
Chờ chăng , một đóa Quỳnh Hoa Tiên!
Hương thơm tỏa ngát không gian vắng
Se lạnh hồn ta ... xa bạn hiền!

Thiên Phương
June 3rd, 2025 

Nỗi Nhớ



Trời sai cơn gió đi tìm
Gặp em gió cũng đứng im lặng chờ
Đợi khi em đến bất ngờ
Thổi bay một chút bụi mờ trần ai.

Thướt tha trong chiếc áo dài
Nửa bay trong nắng, nửa phai bóng chiều
Bỗng đâu nỗi nhớ niềm yêu
Tìm về trong nỗi cô liêu ngượng ngùng.

Trời Cali bỗng trùng phùng
Gió lay động nhẹ một vùng lá rơi
Tơ vương đau thắt tình người
Đâu đây nỗi nhớ bồi hồi âm vang.

Lê Tuấn


Vợ, Vỗ, Vu Vũ


VỢ THẦY TRANG SINH: TRANG SINH là Trang Tử, theo tích sau đây...

TRANG TỬ tên Chu 周 (Châu), tự là Tử Hưu 子休, người nước Tống 宋 thời Chiến Quốc (690-286 TCN), cùng vợ là Điền Thị ẩn cư ở phía nam núi Hoa Sơn. Một hôm, trên đường về nhà, trông thấy một thiếu phụ dùng quạt để quạt một nấm mộ bên đường. Trang Tử thấy lạ bèn hỏi, thiếu phụ cho biết là mộ của chồng mình, vì khi còn sống hai vợ chồng rất thương yêu nhau, nên có hẹn nhau là khi chồng chết, thì sau tang lễ, phải đợi cho mộ khô rồi mới tái giá, nhưng gần đây mưa gió cứ dập dìu, mộ không khô được, nên phải quạt cho mộ mau khô! Trang Tử nghe nói, thầm cười cho thế thái nhân tình nhưng cũng thi triển pháp lực giúp thiếu phụ quạt khô mộ chồng. Khi về nhà, đem truyện kể lại với vợ là Điền Thị, Điền Thị vô cùng phẫn nộ, chê trách thiếu phụ và bảo rằng: "Trung thần bất sự nhị quân, Liệt nữ bất sự nhị phu 忠臣不事二君,烈女不事二夫" có nghĩa "Tôi trung không thờ hai chúa, gái tiết liệt chẳng lấy hai chồng". Mấy tháng sau, Trang Tử bệnh chết, có một thiếu niên anh tuấn dắt theo một lão bộc, tự xưng là Vương Tôn của nước Sở, vì mộ tiếng của Trang Tử mà tìm đến để theo học đạo. Nay tuy Trang Tử đã mất, nhưng cũng nguyện thủ tang theo lễ thầy trò, ở lại cư tang một trăm ngày và để đọc Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Điền Thị rất vui dạ vì cảm cái vẻ cao sang tuấn tú của Vương Tôn, mới nhờ lão bộc làm người mai mối, rồi xuất tiền lo cho hôn sự của hai người. Đêm động phòng hoa chúc, Vương Tôn bỗng phát bệnh đau tim, thoi thóp sắp đứt hơi. Lão bộc cho biết là nếu có óc của người sống hoặc của người chết chưa quá bốn mươi chín ngày hòa với rượu uống vào thì khỏi bệnh. Điền Thị bèn xách búa bổ quan tài của Trang Tử định lấy óc ra làm thuốc cứu mạng Vương Tôn. Không ngờ khi quan tài vừa vỡ ra thì Trang Tử cũng vừa sống lại. Điền Thị cả thẹn, biết mọi việc đều do Trang Tử biến hóa an bày, nên treo cổ mà chết. Trang Tử gỏ bồn làm nhịp ca bài điếu tang rồi cảm khái ngâm rằng :

從茲了卻冤家債, Tòng tư liễu khước oan gia trái,
你愛之時我不愛。 Nhĩ ái chi thời ngã bất ái.
若重與你做夫妻, Nhược trùng dữ nhĩ tố phu thê,
怕你斧劈天靈蓋。 Phạ nhĩ phủ phách Thiên Linh Cái.

Có nghĩa:

Từ nay đã hết nợ oan gia,
Nàng bảo yêu, ta hết thiết tha.
Tiếp tục vợ chồng như thuở trước,
Có ngày búa bổ vỡ đầu ta.

Ngâm xong, nổi lửa đốt sạch nhà cửa quan tài ở dưới núi Hoa Sơn rồi đi mất. Dân chúng quanh vùng chỉ nhặt lại được hai quyển Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh chưa bị thiêu rụi mà thôi.
Câu truyện về "VỢ THẦY TRANG SINH" trên đây nhằm phê phán cho thói đời bạc bẽo, chỉ giỏi nói ngoài miệng cho tốt chớ trong lòng thì lại khác. Trong truyện thơ Nôm "Quan Âm Thị Kính" của ta có câu:

Còn người còn cái thẹn này,
Phải liều như thể VỢ THẦY TRANG SINH!


VỖ BỤNG chữ Nho là CỔ PHÚC 鼓腹 là từ nói gọn lại của thành ngữ CỔ PHÚC HÀM BÔ 鼓腹含哺 hay HÀM BÔ CỔ PHÚC 含哺鼓腹. Có nghĩa : Miệng thì ngậm thức ăn còn tay thì vỗ bụng; chỉ đời sống no đủ thoải mái. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ một câu trong sách "Trang Tử" đời Tiên Tần:
"Phù Hách Tư Thị chi thời, dân cư bất tri sở vi, hành bất tri sở chi, hàm bô nhi hi, cổ phúc nhi du, dân năng dĩ thử hỉ 夫赫胥氏之时,民居不知所为,行不知所之,含哺而熙,鼓腹而游,民能以此矣". Có nghĩa : Vào thời của Hách Tư Thị (chỉ Viêm Đế) cư dân không biết phải làm gì cả; đi cũng không biết muốn đi tới đâu; Miệng thì ngậm cơm vui thích, tay thì vỗ bụng rong chơi. Dân có thể được như thế là tốt quá rồi. Văn học cổ mượn ý nầy để chỉ cảnh thái bình thịnh trị. Như trong tác phẩm "Sãi Vãi" của cụ Nguyễn Cư Trinh thuộc văn học Đàng trong có câu:

Già phò gậy ra xem thạnh trị;
Trẻ NGẬM CƠM mừng gặp thái bình.

Còn trong bài "Tịnh Cư Ninh Thể Phú" của Nguyễn Hãng 阮沆 một danh sĩ đời Hậu Lê thì có câu:

Tuy ngày tháng đà ngày tháng Thuấn, đâu cũng vầng chiếu đất thênh thênh;
Song nước non còn nước non Nghiêu, ta thường VỖ BỤNG rau phạch phạch.

Còn trong "Hàn Nho Phong Vị Phú" của Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ thì viết là:

Ngày ba bữa, VỖ BỤNG rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no;
Đêm năm canh, an giấc ngáy o o, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ...


HÀM BÔ CỔ PHÚC 含哺鼓腹

VU QUY 于歸 là Đi về nhà chồng, là Xuất Giá 出嫁, là đi lấy chồng. Có xuất xứ từ chương《Chu Nam. Đào yêu 周南·桃夭》của Kinh Thi《詩經》như sau :

桃之夭夭, Đào chi yêu yêu,
灼灼其華。 Chước chước kỳ hoa.
之子于歸, Chi tử VU QUY,
宜其室家。 Nghi kỳ thất gia.

Có nghĩa:

Cành đào non mơm mởn,
Rực rỡ những bông hoa.
Cô gái về nhà chồng,
Cho yên bề thất gia.

Lục bát:

Hoa đào mơn mởn cành non,
Bông hoa rực rỡ hãy còn thong dong.
Cô con gái về nhà chồng,
Yên bề gia thất yên lòng mẹ cha!

Trong Truyện Kiều, khi Mã Giám Sinh đã "...ngã giá vàng ngoài bốn trăm"
để mua Thúy Kiều xong xuôi, thì cũng...

Định ngày nạp thái VU QUY,
Tiền nong đã có việc gì chẳng xong.


Khi biết mình đã lọt vào lầu xanh, Thúy Kiều đã quyên sinh và Tú Bà đã nài nỉ khuyên lơn:

Lỡ chân trót đã vào đây,
Khóa buồng xuân để đợi ngày ĐÀO NON!

Ngày ĐÀO NON là ngày xuất giá đi lấy chồng đàng hoàng đó. Đây chỉ là cách nói trấn an Thúy Kiều của Tú Bà mà thôi!


VU SƠN do tích Vu Sơn Thần Nữ 巫山神女 như sau:

Theo thần thoại Trung Hoa, con gái của Xích Đế 赤帝 là Dao Cơ 瑶姬, chết trẻ, chôn ở Vu Sơn, hồn phách không tan, biến thành Thần Nữ. Trong bài Cao Đường Phú của Tống Ngọc nước Sở thời Chiến quốc có ghi lại: Sở Vương đi chơi ở Cao Đường, mơ thấy Thần Nữ đến cùng ân ái, khi chia tay còn nói là “Đản vi triêu vân, mộ vi hành vũ 旦为朝雲,暮为行雨” (Thiếp kéo mây ở buổi sáng, làm mưa ở buổi chiều). Theo quan niệm cổ xưa thì nữ thần và vua giao hợp có thể làm cho phong điều vũ thuận, ngũ cốc phong đăng. Có nghĩa: Mưa thuận gió hòa, lúa thóc được mùa. Nhưng dân gian lại không chịu hiểu theo nghĩa đó, hễ nhắc đến Sở Vương và Thần Nữ thì sẽ nghĩ ngay đến “MÂY MƯA ân ái giữa trai gái với nhau” mà thôi ! Vì thế, sau nầy hễ nhắc đến Thần Nữ Vu Sơn, Cao Đường Thần Nữ là người ta nghĩ ngay đến một giai nhân tuyệt sắc gợi tình, và nói đến VU SƠN, Kéo Mây Làm Mưa, hay nói gọn thành Mây Mưa, là người ta lại nghĩ ngay đến việc ái ân trai gái.

Trong "Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập" của vua Lê Thánh Tông (1442-1497) cùng với các thành viên của nhóm "Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú". Trong bài "Lưu Nguyễn Nhớ Tiên Nữ" của vua Lê Thánh Tông có câu:

Tưởng người ngọc nữ thêm ngừng mặt,
Nhớ nỗi VU SƠN dễ chạnh lòng!


VŨ HẦU 武侯 là Vũ Hương Hầu 武鄉侯 chỉ Khổng Minh Gia Cát Lượng 孔明諸葛亮 được vua Thục Hán Lưu Bị phong là Thừa Tướng với tước hiệu là Vũ Hương Hầu và Thụy hiệu khi mất là Trung Vũ Hầu 忠武侯. Trong "Thiên Nam Ngữ Lục" ở cuối Thế kỷ 17 của Nguyễn Lương Ngọc và Đinh Gia Khánh có câu:

Thái Công trí độ tác nhiều,
Di Ngô dám ví, VŨ HẦU khá so.

VŨ LỘ 雨露 là hạt Mưa và hạt Móc rơi xuống làm cho cỏ cây hoa lá tươi tốt, nên được mượn ví với ân điển của nhà vua ban cho bề tôi. Hai câu cuối trong bài thơ "Tống Lý Thiếu Phủ biếm Hiệp trung, Vương Thiếu Phủ biếm Trường Sa 送李少府貶峽中王少府貶長沙" của nhà thơ Cao Thích 高適 đời Đường là:

聖代即今多雨露, Thánh đại tức kim đa VŨ LỘ,
暫時分手莫躊躇。 Tạm thời phân thủ mạc trù trừ!

Có nghĩa:

Vua nay MƯA MÓC ơn nhiều,
Chia tay tạm biệt chớ điều phân vân!

Trong bài "Tụng Tây Hồ Phú" của Nguyễn Huy Lượng 阮輝諒 (1759-1808) một danh sĩ làm quan dưới đời Tây Sơn có câu:

Trên dưới đều rồng mây cá nước phải duyên,
giọt VŨ LỘ tưới đôi hàng uyên lộ;
Gần xa cũng cõi bờ non sông một mối,
tấm đan thanh dung khắp lũ nghêu sò.

VŨ KHÁCH 羽客 là người khách mặc áo lông chim, thường dùng để chỉ đạo sĩ hay những người tu tiên; VŨ Y 羽衣 là Áo bằng lông chim, theo tích "Đường Minh Hoàng du nguyệt điện". Sau giấc mộng nhà vua thành lập một đội múa hát cho các cung nhân mặc y phục được kết bằng lông chim như là các tiên nữ trên cung trăng vậy, gọi là "Nghê Thường Vũ Y Khúc 霓裳羽衣曲"...

Trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Truyện Từ Thức" có câu:

Niềm trần gió thổi bụi tan,
Tuy không VŨ KHÁCH cũng là văn nhân.

Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều được mở đầu bằng hai câu :

Trải vách quế gió vàng hiu hắt,
Mảnh VŨ Y lạnh ngắt như đồng!


VŨ MÔN 禹門 là CỬA VŨ, còn được gọi là LONG MÔN 龍門, nằm ở thượng lưu sông Hoàng Hà, giữa huyện Hà Tân tỉnh Sơn Tây và huyện Hàn Thành tỉnh Thiểm Tây Trung Hoa. Ở đây có mỏm đá như hình cái cửa.
Theo truyền thuyết, thời thượng cổ vua Vũ nhà Hạ khi trị thủy đã đục phá mỏm đá nầy cho rộng thêm ra để nước dễ chảy xuống hạ lưu, nên mới gọi là VŨ MÔN (Cửa của vua Vũ tạo nên).

Theo sách Tam Tần Ký và Thủy Kinh Chú, thì Vũ Môn thường có sóng dữ, hằng năm vào tiết tháng ba, cá chép tập trung ở nơi đây để thi vượt qua Vũ Môn. Con nào vượt qua được thì sẽ hóa rồng, nên còn gọi là LONG MÔN. Do đó, CỬA VŨ còn được dùng để chỉ chốn trường thi. Ai thi đỗ thì gọi là đã Vượt Qua Được Cửa Vũ!

Nhưng, theo Đại Nam Nhất Thống Chí thì ở nước ta cũng có Vũ Môn ở dãy núi Khai Trưởng (tục gọi là núi Giăng Màn) thuộc huyện Hương Khê tỉnh Hà Tỉnh. Đây là một dòng suối có 3 bậc. Truyền thuyết kể rằng, hàng năm đến tháng tư có mưa to, nước nguồn tràn ngập thì có cá chép ngược dòng nhảy qua Vũ Môn để hóa rồng, như trong thơ của cụ Đào Duy Từ:

Kim ngư đeo ấn ở mình,
Cá trông CỬA VŨ, rồng giành hột châu.

CỬA VŨ còn được nói thành CỬA VÕ như trong Truyện thơ Lục Vân Tiên của cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu:

Công danh ai chẳng ước mơ,
Ba tầng CỬA VÕ một giờ nhảy qua!

Trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Phương Hoa-Lưu Nữ Tướng" thì có câu :

VŨ MÔN mong vượt sóng đào,
Hay tìm Trình Tử hay vào Thiên Thai.


杜紹德

Đỗ Chiêu Đức

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2025

Nghìn Năm Vẫn Không Quên - Phạm Duy - Khánh Hà


Sáng Tác: Phạm Duy
Ca Sĩ: Khánh Hà
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình


Phép Lạ



(Bài thơ bỏ quên 11 năm)

Một.

Ta giữa đời rong chơi,
Em đến, đời vui ghê,
Em đến, đời vui lạ,
Cảm ơn em, chị Hằng.

Hai.

1993 - 2013

Hai mươi năm, một bài thơ,

9.2013 - 9.2014.

Đệ nhất chu niên ngày em ướp thơm, hồn thi sĩ,
Hai trăm bài thơ, ngọt như mía lau chào đời.
Quà tặng trời trao: cuộc tình muộn.

Ba.

Đã hai tháng này em xa anh,
Họa hoằn lắm, cái điện thoại mới reng,
Ôi cái điện thoại gà nuốt dây thun,
Nhiều lần chuông đổ, người không có,
A lô rát cổ chẳng ai trả lời.
Điện thoại điên?

Bốn.

Đã 60 ngày, Trăng sáng phương nào?
Cũng 60 ngày anh nợ em 60 bài thơ.
Cho mỗi sáng cà phê nhấp môi,
Thơ tình anh, món điểm tâm tuyệt hảo.

Năm.

Hai tuần qua, nàng Hồng
Kông khuyến dụ anh,
Lao vào cuộc đấu tranh.
Hai tuần qua, anh tặng nàng năm bài thơ tranh đấu,
Giờ là lúc nàng hưu chiến.
Anh cho phép mình giã từ vũ khí.

Sáu.

Nhìn Hồng Kông, mơ Việt Nam,
Sáng nay, tin lục địa bão nỗi,
Sông Hồng Hà Nội, sắp vào trận,
Cuồn cuộn cuốn phăng búa liềm.

Bảy.

Chuẩn bị hành trang theo anh về,
Hà Nội, Huế, Sài Gòn- chúng mình có mặt.
Em làm thơ, anh đọc thơ,
Tiếng thơ anh, vang vọng núi rừng, sông biển,
Tiếng thơ em, rạt rào tình quê hương.

Tám.

Cảm ơn em đến, như phép lạ mang theo,
Giếng thơ anh, như giếng dầu ngoài Biển Đông.
Em đến, vực hồn thơ anh dậy,
Một năm, hai trăm bài thơ, kỷ lục chưa một ai.

Chín.

Ngày về nhớ tạt qua anh,
Một chút thôi, dẫu một chút thôi.
Vừa đủ cho anh quì gối,
Hôn lên, hít một hơi dài cho hả dạ.
Hương thơm rất riêng của em

Mười.

Nhưng nếu bận lắm thì thôi,
Anh sẽ gởi nụ hôn theo gió bay,
Anh sẽ gởi nụ hôn cho mây cuốn,
Hễ lúc nào em thấy mình nhột nhột,
Ấy là lúc, bên này anh đang hôn em.

Lê Mai Lĩnh

14/10/2014


Bài Cho Em



Bài Cho Em

Chiều nay ngồi viết riêng cho em
Cho em bài hát êm đềm,
Trôi theo từng tiếng tơ mềm
Nhờ mây gửi đến riêng cho em
Cho em một dòng sông mơ,
Trôi trên nụ cười phong kín

Mùa Thu chợt đến trong cô đơn
Buồn bay lên mờ lấp khung trời chiều lạnh lùng
Trời còn gọi tiếng mưa đêm nay
Mưa ơi! Đừng làm buồn mắt em thơ ngây

Bài ca này viết riêng cho em
Cho em ngày tháng vỗ về
Cho khung trời đó thôi buồn
Bài ca này viết riêng cho em
Cho em một trời mây vương
Vương lên mảnh hồn rêu phong

Tìm về màu mắt em long lanh
Rồi đi theo ngày tháng
Ấm thầm buồn một mình
Trời còn làm kiếp mây đi hoang
Lang thang, đem buồn lên ngón tay em mang

Ô hay! Mùa Thu đến bao giờ
Mưa bay buồn giăng mắc khung trời
Người tìm về trên đó để nhìn làn môi thắm
Cớ sao em còn buồn để mùa Thu đến rồi đi

Dòng sông nào vắng xa chưa em
Ghi lên hồn tuổi thơ này,
Thêm một lần chuốt u buồn
Hồn lên ngàn phím tơ vương êm
Ru em bằng lời ca đêm,
Ru lên tuổi buồn em mang

Dòng sông rồi vắng xa thôi em
Đời trôi theo ngày tháng,
Mang nhiều kỷ niệm buồn
Tuổi thơ còn có mơ không em
Hay trôi miệt mài ngày tháng mang cho em

Tác giả : Từ Công Phụng
1965

Cảm tác bài “Bài Cho Em”

Tác giả: Từ Công Phụng

Chiều nay ngồi viết cho em
Cho em từng tiếng tơ mềm êm trôi
Nhờ mây gởi đến em tôi
Ngàn lời yêu thắp lên môi nụ cười

Mùa thu chợt đến trong đời
Cô đơn buồn lấp khung trời chiều êm
"Trời còn gọi tiếng mưa đêm"
Mưa đừng cho khóe mắt em u buồn

Mùa thu chợt đến bên nguồn
Mưa bay giăng mắc ngõ hồn hoang vu
Người về trên đó âm u
Nhìn làn môi thắm sương mù lập đông

Cớ sao em vẫn còn buồn

Để mùa thu đến vội hôn vai mềm
"Dòng sông xa vắng chưa em"
Ru em hồng tuổi thơ hiền ngây ngô

Để một lần trút ưu tư
Hồn vương ngàn mối giăng tơ nhện sầu…
Ru em lời hát tuổi buồn
Để rồi xa vắng dòng sông lấp bồi

Thôi còn kỷ niệm buông trôi
Tuổi thơ còn mộng lên đồi hái hoa
Cô liêu ngày tháng đi qua

Đèo Văn Trấn


Chuyến Đi Ngắn Ngày Toronto - Montréal

                                            (Chợ Jean - Talon)

Chuyến bay của hãng hàng không Air Canada từ phi trường Zurich-Thuỵ Sĩ cất cánh lúc 13g (1g chiều) đáp ở phi trường Pearson-Toronto- Gia Nã Đại lúc 16g(4g) cùng ngày.

Hai địa điểm ở hai lục địa cách nhau một đại dương Atlantic, thông thường phải mất khoảng 12 tiếng, nhưng thoạt xem trong vé thời gian đi và đến chỉ mất có 3 tiếng, dễ khiến người ta tưởng là bay bằng phi cơ Concorde mới nhanh như thế. Hoặc có thể thời gian quay ngược, hay quay chậm hay ngừng lại như Faust* trước khi chết còn cầu xin:”Thời gian ơi, xin ngừng lại”chăng ?
*Tên một nhân vật trong vở kịch của văn hào Đức Wolfgang Goethe.

Concorde là chiếc phi cơ siêu thanh huyền thoại do hai quốc gia Anh, Pháp hợp tác chế tạo, có thể đạt vận tốc 2140km/giờ ở độ cao hơn 18km (các phi cơ khác có vận tốc trung bình gần 1000km/g và độ cao 10 km).
Tiếc thay cuộc sống của nó chỉ có 27 năm ngắn ngủi thì “bị cho về hưu” vì nhiều lý do, mà cuối cùng bởi ly nước bị tràn là tai nạn (đầu tiên cũng như duy nhất) vào tháng 7 năm 2000 trên đất Pháp khiến toàn bộ 9 phi hành đoàn và 100 hành khách( chuyến bay chỉ có ghế cho 100 người) thiệt mạng thì những người có trách nhiệm quyết định ngưng vĩnh viễn, phi cơ đem trưng bày trong viện bảo tàng. Nguyên do tai nạn từ một mảnh titan của chiếc phi cơ khác cất cánh chỉ 4 phút trước văng trúng vào bánh xe chiếc Concorde khiến bình xăng bốc cháy.

Nói đùa cho vui chứ khoa học dù có tiến bộ cách mấy cũng đâu biến lời cầu xin mà văn sĩ Goethe nhờ nhân vật Faust kêu réo:"Thời gian ơi xin ngừng lại" thành hiện thực được. Chẳng qua là trái đất tự quay từ đông sang tây, có múi giờ chênh lệch theo kinh tuyến. Châu Âu xoay trước châu Mỹ nên tôi bay vào buổi chiều, tới Toronto vẫn là buổi chiều cùng ngày, thế thôi.

Lần nầy tôi ở chơi xứ sở lá phong đỏ chỉ 1 tuần ngắn ngủi nên các cháu phải lên chương trình khít khao chi tiết. Ngày nào đi thăm những đâu, làm gì, ăn uống buổi trưa buổi chiều ở restaurant nào, món Tây, Việt, hay Tàu…v..v.
Có thực mới vực được đạo. Canada là xứ sở của các loài hải sản ngon nhất nhì thế giới, biết tôi là tín đồ đặc biệt king crab và lobster (bà dì nầy khôn quá vậy). Thật ra tôi vốn thuộc loại "người bệnh tưởng”, luôn sợ ngộ độc thực phẩm nhưng thỉnh thoảng cũng phá lệ tự cho phép ăn uống bừa bãi thả giàn không kiêng cữ trong thời gian đi du lịch chứ nhỉ.
Lúc các cháu đón tôi ở phi trường do bị kẹt xe trễ 2 tiếng, trời mùa đông tháng 12 mới 6g đã tối mù nên chúng tôi không về nhà cất hành lý thay y phục mà ghé thẳng qua nhà hàng Tàu Fishman Lobster Clubhouse ở Scarborough, xong mới về nhà tắm, nghỉ ngơi.

Đã sang Canada, Mỹ hơn chục lần nên không còn ngạc nhiên-dùng từ kinh ngạc đúng hơn-về phong cách ẩm thực ở lục địa nầy nữa. Nhớ lại cảm giác chuyến đi đầu tiên qua Vancouver 20 năm trước, mỗi khi vào nhà hàng hoặc nhìn thấy người ta ăn uống tôi cứ mở con mắt tròn vo như mắt cú mèo, miệng hết chúm lại chữ Ô lại há ra chữ A to tướng vì quá sửng sốt.
Vì sao sửng sốt? Vì khi người phục vụ mang món ăn cho mỗi người, nhìn cái dĩa (nếu là món khô) hoặc tô (nếu là món nước) kích thước to quá khổ đã gây sự chú ý
rồi. Đến khi họ đặt dĩa(tô) xuống bàn thì tôi mới “hết hồn” món ăn sao nhiều kinh- khủng- khiếp, một phần ăn mà như thể cho hai hoặc hai người rưỡi thì bao tử nào chứa nổi !!!* Nhiều khách ăn không hết, phải bỏ hộp mang về nhà ăn tiếp.
Tôi chụp hình nhiều hình lưu lại những dĩa thức ăn ở Canada và Mỹ, về Thuỵ Sĩ cho bạn hữu xem để làm bằng chứng.
Cho nên tuy người châu Âu và châu Mỹ cũng là dân da trắng nhưng nếp sống, sinh hoạt, tư duy… có nhiều điểm rất khác biệt thậm chí đối nghịch nhau.

Lần trước tôi đã thăm viếng nhiều nơi ở Toronto, kể cả thác Niagara–cũng vào mùa đông mưa gió lạnh lẽo–nên lần này các cháu xin nghỉ 3 ngày đưa tôi đi chơi
Montréal–Quebec cách Toronto gần 550 km. Suốt lượt đi và ở Montréal tuyết rơi trắng ngập hơn nửa thước. Ông Trời chơi khăm chúng tôi, chờ ngày quay về Toronto thì nắng vàng rực rỡ dù vẫn rất lạnh-mấy độ âm-.Tôi đâu còn xa lạ với cảnh tuyết rơi có khi dầy hơn 1m suốt cả tuần liên tiếp, nhưng không hiểu sao không chịu được khí hậu ở đây, luồng gió thổi mạnh lạnh buốt thấu tim gan, đã vậy đôi lúc còn hoà lẫn mưa quất vào mặt mũi ướt át, cảnh vật cây cối chao đảo bắt ngao ngán.

Lạnh thì lạnh cũng phải ra ngoài nhìn ngắm thành phố. Tìm chỗ đậu xe cũng cả một vấn đề. Sau đó cuốc bộ, khi nào thấm lạnh thì chạy vào các quán cà phê, các trung tâm thương mại sưởi cho ấm người xong đi tiếp.
Đây là vùng nói tiếng Pháp nên tôi có cảm giác thân quen như khi đến Paris vậy.

Có nhiều nơi đáng để chiêm ngắm, nhưng vì thời gian hạn hẹp nên chúng tôi chỉ “cỡi ngựa xem hoa”, chớp nhoáng mỗi chỗ một ít. Như bến cảng cổ Old Port, kênh Lachine, phố Saint- Paul, quảng trường Jacques Cartier, chợ Jean Talon nằm ở khu Tiểu Ý -Little Italy- giống kiểu chợ Bến Thành với hàng trăm gian hàng. Nơi bán đủ các loại trái cây, hoa quả, thịt, cá, phô mai, gia vị, hàng đặc sản vùng Quebec. Không quên thành phố ngầm-La Ville Souterraine-nơi có nhiều khu triển lãm, khách sạn, nhà hàng, cửa tiệm, rạp chiếu phim, thư viện…để trốn lạnh. Nhất là để trốn lạnh!

                                      (Quán Cà Phê Olimpico)

Chúng tôi có ghé vào caféteria Ý Olimpico ở trung tâm Eaton của Montreal cổ, quán tuy nhỏ nhưng cà phê ngon nên khách đứng sắp hàng đông đúc chờ đặt mua bánh croissant nhân hạnh nhân và cà phê-dĩ nhiên cà phê-. Tôi luôn thua thiệt vì không uống được cà phê, thèm thuồng nhìn các bạn đồng hành khoan khoái thưởng thức từng ngụm nhỏ. Croissant nhân hạnh nhân thì ngon “hết ý” rồi.
Nhìn các cây thông trang hoàng đèn màu đón lễ Giáng Sinh trước các nhà hàng, cửa tiệm dọc phố La Plateau-Mont-Royal mà chạnh lòng*

*Mỗi mùa Noel về là tận sâu trong hồn tôi vương vấn một mối sầu. Chủ nhật 15 tháng 12 là ngày hạnh phúc rời bỏ tôi đi mất.

Nhà thờ Saint Joseph-Montréal

                             (Nhà Thờ Saint - Joseph - Montréal)

Khi đến một xứ sở hay một thành phố nào tôi đều có thói quen viếng viện bảo tàng và nhà thờ Công giáo–mặc dù tôi theo đạo Phật. Không đủ thời giờ đến viện bảo tàng, chúng tôi quyết định đi thăm nhà thờ thánh St-Joseph- là cha của Đức Chúa Jesus-nghe đồn rất linh thiêng đã chữa lành bệnh cho những ai tin tưởng, cầu xin Ngài.

Được xây dựng trên ngọn đồi Mount Royal mà từ đây ta có thể phóng tầm mắt nhìn bao quát thành phố Montreal tuyệt vời. Do Cha André khởi công xây dựng từ năm 1904, mãi đến năm 1967 mới hoàn thành. Là biểu tượng văn hoá và tôn giáo theo lối kiến trúc thời Phục Hưng-Ý, với các bức tượng thánh tinh xảo và nhiều tác phẩm khác.
Tuyết rơi, trước mặt ngôi thánh đường phủ đầy bông tuyết trắng xóa. Vừa bước vào bên trong chúng tôi thấy một bức tranh hoạ mô tả cảnh thánh Joseph cùng với các con chiên hay đồ đệ trong ngôi đền(tôi đoán mò vì không phải tín hữu Công giáo nên không rành).

Giáo đường rộng lớn có sức chứa hàng ngàn người đến tham dự lễ. Không khí trang nghiêm thanh thoát. Dọc theo tường có nhiều cảnh trang hoàng, bày trí ngay cả các ngọn nến cũng rất nghệ thuật tinh tế, theo hai hàng màu xanh lá ở hai bên rìa, sắc đỏ ở giữa nổi bật những ngọn nến trắng sắp thành hàng chữ Pháp và Anh “Saint Joseph Patron de l’Église–Patron of The Church”.Trên cao là tượng thành Joseph.
Nhà thờ đặc biệt về thánh Joseph (là cha của chúa Jesus) nên các bức tượng chủ yếu khắc hoạ chân dung Ngài.

Có một gian phòng thờ tượng bán thân thánh Saint Frère André, người xây nhà thờ nầy, nhiều hình ảnh và bảng ghi chép kể tiểu sử và công đức mà Ngài đã cống hiến cho đời. Tôi có ghi cảm tưởng của mình vào quyển lưu niệm dành cho người hành hương đặt dưới bệ thờ.

Dọc bức tường đối diện có nhiều ngăn treo các cây gậy được máng chi chít thành bốn tầng từ dưới lên gần tận trần nhà thờ mà lúc đầu tôi không hiểu ý nghĩa. Hơn nữa, với ánh sáng mờ ảo cứ ngỡ các cây gậy ấy dùng để trang trí nên chỉ đi lướt qua không gian thánh đường to rộng.
Lát sau, nghe cô cháu giải thích tôi mới vỡ lẽ, đứng lại đọc hàng ghi chú bên cạnh. Thì ra đây là những cây gậy của những người bịnh vốn di chuyển khó khăn, họ đến nhà thờ cầu nguyện thánh Joseph, được Ngài ban phước khoẻ mạnh trở lại không cần dùng gậy nữa nên gởi tặng nhà thờ như một chứng tích cho sự nhiệm mầu mà thánh Joseph ban phát.
Có trên chục ngăn, mỗi ngăn khoảng trăm cây gậy được treo dọc theo bức tường không đếm xuể, tức tổng cộng hàng ngàn cây gậy. Chứng tỏ con số người bệnh cầu cứu Thánh Joseph đã linh nghiệm ra sao.

Thảo nào trong thời gian chúng tôi ở đấy, dù thời tiết đang có tuyết lẫn mưa trơn ướt đường xe dẫn lên đồi Mount Royal quanh co ngoằn ngoèo vẫn có nhiều bậc cao niên ngồi xe lăn được người hộ tống đến viếng nhà thờ.
Đức Tin là một trong những yếu tố góp phần tạo nên sự mầu nhiệm (phép lạ) mà không khoa học nào có thể lý giải được.
Tôi vẫn luôn tin vào Đấng Thiêng Liêng: Phật, Chúa, Thánh Thần.

Thanh Hà
LCDF, 15/04/2025
Ảnh Do Tác Giả Cung Cấp



Thứ Ba, 3 tháng 6, 2025

Yêu Em Và Yêu Em - Phạm Anh Dũng - Minh Ngọc & Vương Đức Hậu


Sáng Tác: Phạm Anh Dũng
Trình Bày: Minh Ngọc & Vương Đức Hậu
Thực Hiện: Hoàng Khai Nhan

Tạ Ơn


Tạ ơn Mẹ Cha, một đời khổ nhọc nuôi con ăn học nên người
Tạ ơn Thầy Cô, tận tâm dạy bảo
Tạ ơn vợ hiền ,một nắng hai sương, vét rãnh đào mương, ngày đêm khổ nhọc nuôi con thay chồng
Tạ ơn bằng hữu, xẻ áo nhường cơm
Tạ ơn chiến hữu, xả thân nơi trận mạc
Tạ ơn những đoạn đường, không làm tôi chùn bước
Tạ ơn những người đi trước, vạch lối chỉ đường
Tạ ơn các bạn theo sau, không nản lòng thối chí
Tạ ơn đất trời, sông nước quê hương có gió mát trăng thanh, có đồng lúa chín, có bãi cỏ
xanh, có mục đồng nghêu ngao trên lưng trâu thổi sáo, mơ làm Đinh Bộ Lĩnh, có suối
chảy thông reo, có sớm nắng chiều mưa
Tạ ơn cầm thú chim muông,sáng sớm có chim hót, đêm về có dế nỉ non
Tạ ơn núi rừng có chim kêu vượn hú, có lau sậy ngả nghiêng
Tạ ơn hoa lá cỏ cây, những loài hoa quý cũng như những loài hoa dại ven rừng
Tạ ơn đời
Tạ ơn người thương
Tạ ơn kẻ ghét
Và tôi tạ ơn tôi

Hoàng Long

Mẫu Đơn

Tia nắng ấm Mẫu Đơn khoe sắc
Gió ban mai phe phẩy hoa tươi
Màu đỏ thắm sương sớm chào mời
Khoe cành lá màu xanh hy vọng

Cành hoa đẹp tặng lời chúc tụng
Đem mùa xuân tươi thắm cuộc đời
Cảnh ngộ nào... đời vẫn niềm vui
Như màu đỏ sắc hồng khoe dáng

Bầu trời xanh vầng mây lãng đãng
Cánh chim trời lượn gió tung mây
Như thuở nào ước vọng trời tây
Ươm mộng đẹp tuổi xuân chắp cánh

Dẫu ngày nay bóng chiều lãng đãng
Ngắm màu hoa thấy đẹp tình đời
Hoa Vạn Thọ chúc tụng muôn người
Vui và sống yêu thương viên mãn....!

Ngư Sĩ

Từ Bi


Sáng nay Sao Khuê đang ngồi thưởng thức một ly sữa đậu nành nóng hổi với những hạt sô-cô-la ngọt lịm thả vào, bên cạnh đó là hai chậu hoa cúc vàng tươi…
Sáng nay, như thường lệ Sao Khuê cũng đã nghe pháp thoại của thầy Viên Minh và cũng như thường lệ, mỗi ngày Sao Khuê đều học được một bài học từ những bài pháp thoại này. Bài pháp thoại hôm nay giúp Sao Khuê thực tập được sự buông xả những dính mắc, những bứt rứt mà ngày hôm qua đã để lại trong Sao Khuê…

Hai năm vừa qua tầng hầm nhà Sao Khuê bị nước vô mà lần sau, mới đây thì nước lên tới nửa thước làm hư hại hết tường và sàn. Sao Khuê già rồi, rất ngại chuyện trông coi thợ sửa nên Sao Khuê đã bán căn nhà mà Sao Khuê ở từ ngày tới Canada tức là gần 40 năm cho con của một người hàng xóm sát vách với nhà Sao Khuê. Chú này, tên Carlos, mua căn nhà không phải để ở vì chú đã có một căn nhà to đùng trước mặt nhà Sao Khuê. Chú mua để đầu tư bằng cách cho thuê. Chú tính sau 15- 20 năm chú sẽ có căn nhà lớn mà không mất đồng nào.
Điều kiện mà Sao Khuê bán với giá nới là thuê lại với một giá vừa phải phần Sao Khuê đang ở, tức là tầng trệt của một triplex và phần sân trước cửa garage để đậu xe (driveway). Về mùa đông chỗ này được dựng một cái mái gọi là tempo để tránh tuyết, Tiền dựng sẽ được chia đều với cả nhà bố mẹ Carlos kế bên (hai nhà liền vách, liền driveway).

Ngay từ lúc bắt đầu Carlos đã tỏ ra tham lam bằng cách chia số tiền mua và dựng tempo không hợp lý.
Sau đó, trong vòng gần hai tháng trời, khoảng 30 lần, mỗi lần Sao Khuê cần lấy xe để đi đâu thì phải điện thoại gọi Carlos để Carlos dời xe đi chỗ khác vì Carlos luôn đậu xe chắn lối ra xe của Sao Khuê. Sao Khuê phải chờ ít nhất là 10 phút dưới trời lạnh nhất là những lúc gần lễ, tết Sao Khuê phải thường xuyên đi chợ.
Sau một tháng thì Sao Khuê không có thể tiếp tục dễ thương như thế nên Sao Khuê đã bắt đầu than phiền nhưng Carlos bỏ ngoài tai, vẫn tiếp tục đậu xe cản xe Sao Khuê mà không đậu trước nhà mình, bên kia đường như trước kia. Cuối cùng Sao Khuê phải viết một lá thư dài, yêu cầu rằng từ nay trở đi không được chắn lối ra xe nữa vì tôi sẽ gọi police đấy. Carlos không đậu nữa, trở về đậu driveway của mình. Tuy vậy, sau đó thì lại đến ông bố của Carlos, người hàng xóm mấy chục năm của Sao Khuê. Chúng tôi rất thuận hòa, không bao giờ xảy ra chuyện cãi cọ bởi vì Sao Khuê cũng thường nhường nhịn cho họ. Tiếp tục ông bố là những người thợ đến làm việc sửa nhà khiến cho Tarzan Sao Khuê nổi giận đùng đùng. Sao Khuê dọa lần sau sẽ gọi người câu xe và họ phải trả tiền, từ đó họ mới để yên.

Để giúp cho Carlos được thuận lợi trong lúc sửa sang tầng hầm, Sao Khuê giao chìa khóa xe mình cho Carlos để Carlos có thể dời xe của Sao Khuê những lúc cần thiết. Việc gì đã xảy ra? Carlos để xe của Sao Khuê dưới trời tuyết và khi Sao Khuê ra lấy xe thì đầy tuyết trên mui khiến Tarzan lại nổi giận. Carlos không chịu nhận lỗi nên Sao Khuê lại phải la hét om sòm…

Bây giờ đến chuyện trả tiền sưởi trong garage. Hệ thống sưởi chạy bằng nước nóng chung cho garage
và tầng trệt. Trước kia hệ thống sưởi chung cho cả tòa nhà nhưng Sao Khuê đã cho tách riêng, chỉ có lối vào, garage và tầng trệt là chung hệ thống nước nóng. Lúc đầu Carlos tính lờ đi, tưởng là Sao Khuê quên. Khi được nhắc thì Carlos nói sẽ trả 10$ một tháng. Nghe qua đã muốn nổi nóng rồi, tuy vậy vẫn bình tĩnh Sao Khuê đo diện tích của tất cả các lò sưởi trong nhà và sẽ chia ra theo tỷ lệ. Tính tham lam chưa hết, Carlos lại nói phải theo tỷ lệ căn nhà. Ừ, thì theo tỷ lệ căn nhà, như vậy sẽ nhiều hơn là theo tỷ lệ diện tích của lò sưởi. Chưa hết, để tiết kiệm năng lượng, để giảm ảnh hưởng đến môi trường nên Sao Khuê đặt thêm một lò sưởi phụ nhỏ ở hành lang, khi nào cần mới bật, thế mà Carlos bảo phải tính thêm. Quá chán với con người biển lận nên im lặng là hơn.

Mới đây trong lúc nói chuyện Sao Khuê đã chỉ vào Carlos và nói “chú đã biến tôi từ một người dễ thương thành một người hung dữ”.
Thú thật với bà con cô bác là Sao Khuê rất xấu hổ và bứt rứt về sự hung dữ của mình. Sao Khuê lại không thể nào tiếp tục dễ thương nhã nhặn lịch sự với Carlos bởi vì Carlos tỏ ra rất tham lam, biển lận.

…Gần 40 năm trước khi vừa mới mua căn nhà này thì Sao Khuê qua chào hai bên hàng xóm “bán anh em xa mua láng giềng gần”. Khúc đường này có bốn căn nhà giống hệt nhau, đó là 2 triplex attaches, Cứ hai nhà thì lại chung một vách. Nhà Sao Khuê chung vách với nhà của cha mẹ Carlos, cách ông hàng xóm bên tay mặt bởi một lối đi nhỏ có một hàng rào cây ở giữa. Ông này cũng gốc Ý nhưng nói tiếng Anh, dạy học, rất dễ thương. Ngày đầu, ông nói hai nhà luân phiên cắt hàng cây ở giữa và dặn không cần mua cưa kéo gì cả vì ông đã có sẵn rồi. Ông chỉ cho ông xã Sao Khuê cách xử dụng và cắt sao cho vừa. Một ngày khi Sao Khuê vừa đi làm về thì ông đã ra tận xe, mặt đỏ gay kéo Sao Khuê, chỉ vào cái hàng rào. Quý vị biết không cái hàng rào được ông xã Sao Khuê cắt lởm chởm, chỗ cao chỗ thấp, méo mó, trông thật là rùng rợn khiến từ đó mấy chục năm, Tony phụ trách luôn việc cắt hàng rào. Không những thế, sau khi mua được máy thổi tuyết thì ông thôi tuyết luôn cả hai nhà. Sau này ông già rồi thì ông vẫn run rẩy mà đầy máy khiến Sao Khuê rất ái ngại. Sao Khuê nói ông đừng làm nữa nhưng ông không nghe và cuối cùng Sao Khuê phải cấm: “Ông không được làm nữa vì đây là tuyết của nhà tôi đấy nhé”.

Dĩ nhiên thì “bánh ít đi bánh quy lại” nhưng quý ở việc làm không xuất phát từ lợi lộc mà từ tấm lòng, bất cứ lúc nào cần giúp đỡ là ông có mặt. Ông sống đến 96 tuổi và mới ra đi năm rồi.
Nhớ hồi còn nhỏ khi quét sân thì Sao Khuê cũng quét luôn một mạch cho cả xóm 10 căn nhà.
…Trở lại ông hàng xóm kiêm chủ nhà tai ngược Carlos mà Sao Khuê luôn phải ầm ỹ .

Thời gian gần đây, Sao Khuê thường nghe pháp thoại và đọc những lời chỉ dạy của Đức Phật và nghe luôn lời giảng của cha … Quý vị sẽ ngạc nhiên vì tại sao Sao Khuê nghe lời dạy của các ngài mà hung dữ như vậy.

Chuyện là thế này: Có một vị vua đến hỏi Đức Phật,

- Nếu thực hành hạnh từ bi, không sát sinh vậy thì đối với những kẻ phạm tội, nhà vua có thể nghiêm trị hay không? - Khi đất nước bị xâm lăng, nhà vua có thể hô hào binh sĩ và nhân dân cầm vũ khí chiến đấu bảo vệ đất nước mình hay không?
Nghe xong Đức Phật liền kể cho nhà vua nghe một câu chuyện về con rắn độc : Trong một ngôi làng nọ có một con rắn độc rất hung dữ. Nó đã cắn rất nhiều người khiến họ phải mất mạng. Người trong làng vô cùng lo sợ, trẻ con cũng không dám chơi gần các gốc cây. Một hôm có vị tu sĩ đi đến ngôi làng và ngồi nghỉ dưới bóng mát của gốc cây. Con rắn độc bò ra, định cắn vị tu sĩ. Thấy sắc mặt của vị tu sĩ vẫn thản nhiên không sợ hãi nó rất là kinh ngạc. Vị tu sĩ nói với nó rằng “khi con cắn người và gây tổn thương cho họ, họ sẽ vô cùng đau đớn thậm chí là mất mạng, con nên thương xót họ…”

Rắn độc liền khởi tâm từ bi quyết định sẽ không bao giờ hại người nữa. Khi rắn độc không cắn người, người trong làng dần dần hết sợ, bắt đầu trêu chọc nó và trẻ con thì đập nó, ném đá cho nó khiến nó bị thương, dù vậy nó vẫn không hề làm tổn thương ai và không hề muốn báo thù. Đói khát và đau đớn khiến nó kiệt sức. Một ngày kia vị tu sĩ nọ lại đến. Thấy tình cảnh của con rắn, thầy rất đau lòng. Sau khi xoa thuốc chữa trị, vị tu sĩ mới hỏi “tại sao con lại lâm vào cảnh ngộ này”? Rắn độc trả lời “con đã lĩnh ngộ được lý đạo nên không cắn người, không ăn thịt chuột, cóc nhái nữa”. Vị tu sĩ mỉm cười nói rằng “ta bảo con kiềm chế bản tính hung hăng nhưng con lại làm mất bản tính tự vệ của mình. Con không cắn người thì cũng phải thè lưỡi ra để mà dọa họ chứ.”… Đức Phật nói tiếp với nhà vua, “bất cứ một sự thái quá nào trong hành vi dù đó là không sát sinh cũng đều biến thành bạo lực. Người phạm tội phải bị trừng phạt vì tội lỗi, ác nghiệp mà họ gây ra để họ sợ mà không dám tiếp tục gây khổ đau cho người khác. Khi trừng phạt một ai đó thì tuyệt đối không để thù riêng cũ chi phối sự phán quyết của mình. Khi “Tà” thắng thế thì nhân tính sẽ không tồn tại. Hãy lấy cái Thiện để thắng cái Ác. Hãy làm theo luật pháp. Hãy làm theo ý kiến của quần thần nhân dân. Điều quan trọng là mọi hành động đều bắt nguồn từ tâm từ bi”.

Đức Phật giảng tiếp:

Hãy nhớ rằng tất cả đều phải bắt nguồn từ tâm từ bi.
Từ bi không có nghĩa là yếu đuối.
Từ bi không có nghĩa là phải buông khả năng tự vệ.
Từ bi cũng không phải là để cho người khác làm tổn thương mình.
Từ bi đúng đắn là biết kềm chế cái xấu trong mình mà bảo vệ được bản thân.
Từ bi không phải là sự buông xuôi hay nhu nhược mà là một đức hạnh cần thực hành với trí tuệ và sự Công Bằng…

Thế là Sao Khuê thực hiện sự công bằng bằng cách chỉnh đốn Carlos, cho hẳn hai bài học nhưng mà nhân chi sơ tính không bổn thiện mà là tính tham lam. Carlos vẫn tiếp tục tham lam khiến Sao Khuê lại phải tiếp tục tranh cãi và sau mỗi lần tranh cãi thì Sao Khuê lại bứt rứt về chuyện mình trở thành một người xấu xa hay tranh luận, tranh cãi, nhỏ nhen…

Sáng nay khi nghe pháp thoại của thầy Viên Minh, Sao Khuê đã buông được cái sự bứt rứt này vì thầy có kể nếu thị giả của thầy làm điều sai thì thầy cũng dạy bảo hay có khi còn phạt nữa. Vấn đề là sau khi phạt xong thì không còn giận hay ghét bỏ người này…
Đúng vậy, cần phải thương xót cho họ đã vô minh mà tham lam ích kỷ. Mình cũng phải thương xót cho mình, đừng nổi sân để mình phải khổ sở.

Chúa cũng đã nói “ xin cha hãy tha lỗi cho họ vì họ không biết được những việc mà họ làm”.
Jesus said “Father, forgive thêm, for they do not know what they are doing” Bible, Luke 23:34

OK, Sao Khuê sẽ viết mail để tránh tranh luận và từ bi …không thèm để ý đến người tham lam. Tội nghiệp cho Carlos, bị đồng tiền làm mờ mắt. Thương thay!
Tha thứ khiến cho mình nhẹ mình và hạnh phúc …về sự độ lượng của mình!

Tưởng bán nhà thì sẽ tránh được lo lắng phiền hà, ai dè tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa! Nhưng thầy đã giảng “những hoàn cảnh không tốt xảy đến cũng là một bài học giúp cho mình tiến bộ, giúp cho mình thay đổi mình với hoàn cảnh, có được thái độ đúng đắn. Mình không thể bắt hoàn cảnh thay đổi theo mình thì mình đổi mình.
Trời không chịu đất thì đất đành chịu trời…

Sao Khuê
7 tháng 5 năm 2025

Thứ Hai, 2 tháng 6, 2025

Con Thuyền Giấy - Trần Văn Khang (Khanh Phương) - Nguyễn Văn Nam - Anh Thư


Thơ: Đông Dương
Sáng Tác: Ngyễn Văn Nam & Khanh Phương
Trình Bày: Nguyễn Văn Nam & Anh Thư
Thực Hiện: Ban Nhac

Giọt Lệ

Thu nầy...chẳng khác Thu xưa
Em ơi...trăng gió đổi mùa...

Và lòng anh cũng đã chín

Cây cành...hoa lá lưa thưa ...

Lưa thưa...nhưng vẫn rn trong lòng!

Mây m én nhn ch mong!

Ni nim riêng luôn dấu kín...

Lòng đau quặn thắc...lệ tuôn dòng!

Tuôn dòng...mờ ph trời xa...

Đó đây...tím ngắc ánh chiu tà!

Nhưng tơ tình...không gở rối...

Ni lòng l khách xót xa!

Xót xa...nhìn vế phương ấy mù khơi!

Hồn thơ thương nhớ...gởi lại đời...

Hi ai! thuyn còn nh bến!

Lái đò...vẫn lượm nhặt sao rơi!

Sao rơi...ve vuốt tim mình

Sương mai lấp lánh ánh bình minh!

Tình Đầu...nhưng đây Lời cuối...

Dâng tặng Em...giọt l chung tình!

Tô Đình Đài