Trước đây, mọi người đều cho rằng Quách Tấn là nhà thơ lớn cuối cùng của Đường Luật Thi. Có thể đúng mà cũng có thể sai. Những tưởng thơ Đường Luật sẽ lụn tàn theo Quách Tấn. Nhưng thực tế, Thơ Đường Luật phát triển khá mạnh, các thế hệ 30 - 40 tuổi cũng tìm tòi học hỏi và gia nhập các thi đàn Đường Luật Thi. Không chỉ sáng tác, các Thi nhân ngày nay còn cho ra rất nhiều biến dạng hay, mới lạ.
Chúng ta cùng nhau tìm hiểu Các Dạng Của Thơ Đường Luật trước đây và ngày nay.
***
Dương Quảng Hàm (1898-1946)
Theo Thầy Dương Quảng Hàm, Thơ Đường Luật có 8 dạng chính thức vừa của Tàu vừa của Việt Nam. Có lẽ vì thế mà 8 dạng này rất quen thuộc với giới làm thơ Đường Luật.
1- Thủ Vỹ Ngâm
Dạng thơ này có câu đầu cũng là câu cuối.
Tết
Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu.
Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy
Trà sen mượn hỏi, giá còn kiêu.
Bánh chưng sắp gói e nồm chảy
Giò lụa toan làm sợ nắng thiu.
Thôi thế thì thôi đành tết khác,
Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo.
Trần Tế Xương
2- Liên Hoàn
Liên Hoàn là lối thơ lấy câu cuối của bài trên làm câu đầu của bài dưới:
Hủ Nho Tự Trào
I
Ngán nỗi nhà nho bọn hủ ta,
Hủ sao hủ gớm hủ ghê mà !
Thơ suông nước ốc còn ngấm váng;
Rượu bự non chai vẫn chén khà.
Múa mép rõ ra văn chú chiệc;
Dài lưng quen những thói con nhà.
Phen này cái hủ xua đi hết.
Cứ để cười nhau hủ mãi a?
II
Cứ để cười nhau hủ mãi a ?
Cười ta, ta cũng biết rằng ta.
Trót quen nho nhã đầu khăn lượt.
Hóa kém văn minh cổ áo là.
Khó vậy làm em, giàu đã chị;
No thì nên bụt, đói ra ma,
Nay được buổi học ganh đua mới.
Còn giữ lề xưa mãi thế là!
(Bài Hủ Nho Tự Trào của Tình Si Tử, có tất cả 4 bài Liên hoàn, ở đây chỉ đưa ra hai làm thí dụ)
3- Thuận Nghịch Độc
Thuận nghịch độc (thuận: xuôi; nghịch: ngược) là lối thơ đọc xuôi đọc ngược cũng thành câu có nghĩa cả; có khi đọc xuôi thành thơ quốc âm mà đọc ngược thành thơ chữ Hán.
Đền Ngọc Sơn
(Bài đọc xuôi)
Linh uy tiếng nổi thật là đây:
Nước chắn, hoa rào, một khoá mây.
Xanh biếc nước soi, hồ lộn bóng:
Tim bầm rêu mọc, đá tròn xoay.
Canh tàn lúc đánh chuông ầm tiếng;
Khách văng khi đưa xạ ngát bay.
Thành thị tiếng vang đồn cảnh thắng:
Rành rành nọ bút với nghiên này.
(Bài đọc ngược)
Này nghiên với bút nọ rành rành:
Thắng cảnh đồn vang tiếng thị thành
Bay ngát xa đưa khi vắng khách;
Tiếng ầm chuông đánh lúc tàn canh .
Xoay tròn đá mọc rêu bầm tím,
Bóng lộn hồ soi nước biếc xanh.
Mây khóa một rào hoa chắn nước,
Đây là thật nổi tiếng uy linh
Vô danh
4- Yết hậu
Yết hậu (yết: nghỉ; hậu; sau) là lối thơ có bốn câu trên đủ chữ, còn bốn câu dưới chỉ có một chữ. Thí dụ:
Lươn
Cứ nghĩ rằng mình ngắn,
Ai ngờ cũng dài đườn.
Thế mà còn chê trạch:
Lươn!
Vô danh
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585)
5- Lục ngôn thể
Lục ngôn thể là lối thơ thất ngôn xen vào hai câu chỉ có 6 chữ. Lối thơ này ở nước ta về đời Trần, Lê hay dùng. Thí dụ :
Cảnh nhàn
Lọ là thành thị, lọ lâm toàn,
Được thứ thì hơn miễn phận nhàn.
Vụng, bất tài nên kém bạn (lục ngôn thể)
Già, vô sự ấy là tiên (lục ngôn thể)
Đồ thư một quyển nhà làm của;
Phong nguyệt năm hồ khách nổi thuyền.
Dù nhẫn chê khen, dù miệng thế,
Cơ mầu tạo hóa mặc tự nhiên.
Nguyễn Bỉnh Khiêm.
6- Tiệt hạ
Tiệt hạ (tiệt: ngắt, hạ: dưới) là lối thơ nào cũng bỏ lửng như bị ngắt, bớt ở cuối, nhưng ý nghĩa rõ rệt, người đọc đoán mà hiểu được.
Thí dụ:
Thác bức rèm châu chợt thấy mà …!
Chẳng hay người ngọc có hay đà …!
Nét thu dợn sóng hình như thể …
Cung nguyệt quang mây nhác ngỡ là …
Khuôn khổ ra chiều người ở chốn ..
Nết na xem phải thói con nhà ..
Dở dang nhắn gửi xin thời hãy …
Tình ngắn tình dài chút nữa ta …
Vô danh
7- Vĩ tam thanh-
Vĩ tham thanh (vĩ: đuôi; tam: ba, thanh: tiếng ) là lối thơ ba tiếng cuối cùng, câu nào cũng phát âm giống nhau. Thí dụ:
Ta nghe gà gáy tẻ tè te,
Bóng ác vừa lên hé hẻ hè.
Non một chồng cao von vót vót,
Hoa năm sắc nở loẻ loè loe.
Chim tình bầu bạn kia kìa kỉa,
Ong nghĩa vua tôi nhẹ nhẻ nhè.
Danh lợi mặt người ti tí tỉ
Ngủ trưa chưa dậy khoẻ khoè khoe
Vô danh.
8- Song điệp
Song điệp (song: đôi; điệp: trùng nhau) là lối thơ mỗi câu hoặc ở đâu hoặc ở cuối có đặt hai cặp điệp tự (chữ lắp lại) Thí dụ:
Vất vất vơ vơ cũng nực cười!
Căm căm cúi cúi có hơn ai?
Nay còn chị chị anh anh đó,
Mai đã ông ông mụ mụ rồi.
Có có không không, lo hết kiếp
Khôn khôn, dại dại chết xong đời.
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy,
Ngủ ngủ, ăn ăn, nói chuyện chơi
Vô danh
(Theo Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm).
Như thế tất cả các dạng thơ Đường Luật bên dưới đây xuất hiện theo thú chơi thơ của các thi nhân mà thôi:
- Nhất Thủ Thanh: Các chữ đầu của các cây trong bài thơ giống nhau.
- Nghi Vấn: Câu thơ nào cũng có dấu hỏi ở cuối câu.
- Bát Điệp: Tất cả các câu đều có một từ giống nhau.
- Ô Thước Kiều: Tương tự như thơ Liên Hoàn, nhưng chỉ lấy hai chữ cuối của bài trên làm hai chữ đầu của bài dưới.
- Dĩ Đề Vi Thủ: Lấy các chữ ở tựa bài thơ làm chữ đầu tiên của các câu thơ.
- Dĩ Đề Vi Vận: Lấy các chữ ở tựa bài thơ làm vần để gieo.
- Áp Cú: Lấy chữ cuối của câu trên làm chữ đầu của câu dưới.
- Khoán Thủ: Ghép các chữ đầu các câu thơ thành một câu văn có ý nghĩa.
- Ngũ Độ Thanh: Dựa theo Ngũ Độ Thanh từ xưa bên Tàu áp dụng vào thơ Đường Luật ở Việt Nam. Các câu thơ phải hội đúng 5 dấu thanh trong 6 dấu thanh của tiếng Việt: Không dấu, Sắc, Huyền, Hỏi, Ngã, Nặng.
Ngoài ra còn rất nhiều biến dạng khác tuỳ theo sở thích của Tác giả nhưng vẫn theo 5 quy tắc căn bản của Đường Luật Thi là Vần, Niêm, Luật, Đối và Bố cục.