Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2020

Cơn Mưa Phùn - Thơ Hoàng Long - Nhạc&Hoà Âm Tùng Nguyên



Thơ: Hoàng Long 
Nhạc&Hoà Âm: Tùng Nguyê
Giọng Ca: Áo Vàng

Ngắm Biển Đông



Cho Mình yêu dấu, để nhớ Sài Gòn
Em e ấp với ngượng ngùng, bỡ ngỡ;
Anh ngọt ngào buông thả những nhịp thơ
Biển ngẩn ngơ nhìn sóng vỗ tràn bờ
Thơ mắc cỡ bài tỏ tình âu yếm.

Á Nghi
15-11-2012

Đón Sinh Nhật Cùng Trăng (Vườn Thơ Thẩn)



Bài Xướng:

Đón Sinh Nhật Cùng Trăng

Sinh nhật năm này chỉ có ta
Mời trăng đang đứng trước hiên nhà
Vào đây, hai đứa vui trò chuyện
Ngồi kế, đôi mình say hát ca
Lời nhớ lời thương tràn đắm đuối
Giọng cao giọng thấp quyện chan hòa
Nâng ly tao ngộ cùng nhau uống
Cứ ngỡ cận kề tri kỷ xa...

Phương Hà
(11/03/2020)
***
Các Bài Họa:

Trăng 18
Trăng mười tám ở cách quê ta
Vàng rụng bên hiên trước cửa nhà

Kết nghĩa, cung thiềm vui chuyện vãng
Giao tình, đối nguyệt đẹp song ca
Mơ chàng, sinh nhật đây thân thiện
Mộng thiếp, kim bằng đó thái hoà
Rượu chén mềm môi mình độc ẩm...
Vời trông tri kỷ hãy còn xa !...

Mai Xuân Thanh
Ngày 11/03/2020
***
Đón Sinh Nhật Cùng Trăng

Mừng nay sinh nhật chẳng riêng ta
Ta với trăng nghiệng trước chái nhà
Ta cùng đắm đuối tung lời hát
Ta cũng say mê cất tiếng ca
Ta cảm như xưa luôn thịnh trị
Ta mong hiện tại thật an hòa
Ta về thăm lại quê hương ấy
Ta sẽ bên người-thôi cách xa.

Thái Huy
3/11/2020
***
Sống Chết Cùng Trăng

Có nàng Lý Bạch của vườn ta,
Thơ thẩn mời trăng đứng trước nhà.
Thỏ thẻ lời tình trăng gió cuốn,
Ngân nga cung luyến nguyệt hằng ca.
Say hình mơ bóng hồn đà lỡ...
Ôm mộng vờn trăng nước chẳng hòa.
Sinh tử tử sinh cùng quyện lấy,
Tỉnh say say tỉnh chẳng rời xa!

Đỗ Chiêu Đức
***
Trăng Thiếu Phụ

Lầu cao sinh nhật một mình ta
Chỉ thấy cô đơn ngự khắp nhà.
Dạ khúc mênh mang sầu gối chiếc
Tơ sầu u ẩn khóc tình ca.
Lao xao trong lá hồn đêm dậy
Quấn quýt bên hoa ánh nguyệt hoà.
Tri kỹ, ô hay! biền biệt mãi
Trăng tà dõi bóng nhớ người xa.

Mailoc
3-12-2020
***
Tự tình Cùng Trăng

Trăng còn bẽn lẽn đến cùng ta
Tỏa sáng trăng ơi ấm mái nhà
Bóng ngyệt ngây tình đêm mộng mị
Hương đưa chén rượu khúc tình ca
Niềm riêng canh cánh lần tao ngộ
Tri kỷ tâm giao phút quyện hòa
Dần khuất mặt đêm mình giã biệt
Lòng đâu đưa tiễn dẫu chia xa

Kim Phượng
***
Vầng Trăng Sinh Nhật

Sinh ngày ấy điểm cuộc đời ta
Ảnh nguyệt vàng soi đỗ trước nhà
Đã đến bên thềm lay mộng cảm
Âu dàn cảnh tượng luyến lời ca
Màu trăng tản mạn luôn ngầm nhắc
Điệp khúc triền miên vẫn phổ hòa
Dấy nghĩa hồn thơ mời tưởng niệm
Cho tròn ước vọng ngưỡng tình xa.

Mai Thắng
200316

Đón Sinh Nhật Cùng Trăng



Bài Xướng:
Đón Sinh Nhật Cùng Trăng

Sinh nhật năm này chỉ có ta
Mời trăng đang đứng trước hiên nhà
Vào đây, hai đứa vui trò chuyện
Ngồi kế, đôi mình say hát ca
Lời nhớ lời thương tràn đắm đuối
Giọng cao giọng thấp quyện chan hòa
Nâng ly tao ngộ cùng nhau uống
Cứ ngỡ cận kề tri kỷ xa...

Phương Hà
(11/03/2020)
***
Các Bài Họa:

Bên Vần Cổ Nguyệt

Ngày nàng hay chính tuổi vàng ta
Xanh biếc vầng trăng trải khắp nhà
Cổ nguyệt mênh mông xuân chửa cạn
Trường đình bát ngát gió hoà ca
Hãy cùng chuốc rượu chờ mê đắm
Hoặc muốn tha phương đợi thái hoà
Bất lão ông Tơ sầu diễm tuyệt
Trước đôi bạn thiết gọi tình xa ...

Hawthorne 11 - 3 - 2020

Cao Mỵ Nhân 
***
Mời Trăng Vui Sinh Nhật

Coi kìa… trăng đã xuống cùng ta,
Cung thỉnh mừng sinh nhật trước nhà.
Chén rượu hân hoan vui uống cạn,
Cung đàn thanh thoát xướng tình ca.
Câu thơ ghẹo nguyệt lòng tươi tỉnh,
Cúc huệ đơm hoa nhuỵ thắm hoà.
Chung cuộc trà thơm hương đãi khách...
Cười say hội ngộ bạn phương xa !

Liêu Xuyên
***
Hoang Tưởng

Ngỡ đón ngày sinh chỉ chính ta
Dè đâu trăng khẽ trốn vào nhà
Mơn man làn tóc khơi dòng nhạc
Lẻn tận buồng tim trổi tiếng ca
Gợi nhớ môi hồng thời mật ngọt
Mơ về mắt biếc buổi giao hoà
Xôn xao cung bậc chao vần nguyệt
Chợt tỉnh. Tình ơi! Đã rất xa!

Phương Hoa
Mar 11th 2020
***
Vui Đơn Độc

Nguyệt mừng sinh nhựt đến cùng ta,
Quà cáp vườn sân quanh khắp nhà.
Cúc hé môi tươi vui chúc tụng,
Đào đưa liếc thẹn gió say ca.
Trăng mềm chiếu bóng lung linh đón,
Lá mỏng quơ tay quyện thắm hòa.
Đơn độc một mình tay rót rượu,
Vài câu thi hứng gởi tình xa.

Hồ Nguyễn
(11-3-2020)
***
Chúc Mừng Sinh Nhật

CHÚC nàng thả mộng, nở cùng ta
MỪNG nguyệt cười duyên trước cửa nhà
SINH tỏa hoa hồng ngời đất mẹ
NHẬT vời suối nhạc thắm lời ca
PHƯƠNG khai kỷ niệm tình luôn nhớ
HÀ ngắm vầng trăng biển mãi hòa
VUI thích giao lưu mời quý hữu
VẺ lòng quyến luyến dẫu trời xa…!

Đức Hạnh
12 03 2020
***
Trăng Với Ta

Dần quen...đối nguyệt,chỉ mình ta
Lặng lẽ,trăng treo lạnh gác nhà
Nhớ những đêm xưa tràn điệu nhạc
Thương nhiều buổi nọ rộn lời ca
Trời trong,mây trắng hồn phơi phới
Gió thoảng hương đưa...cảnh thái hoà
Xiêm áo Hằng Nga còn lả lướt
Một vầng đắm đuối,mộng tình xa...

Thanh Hoà
***
Trăng Với Ngày Sinh Nhật Ta

(Họa 4 vận)

Kỷ niệm ngày sinh, trăng tiếp ta
Rân rân, tim sưởi ấm căn nhà ?
Thi thần khởi tứ bừng tâm khúc
Tửu ngọc cung bôi sáng dạ ca !
Chuốc chén mặn mà tình thâm cốt
Trông nhau đằm thắm nghĩa giao hòa!
Nhớp môi,...chạnh tưởng người trong mộng
Gìm nén mi hoen giọt lệ sa !?

12-3-2020
Nguyễn Huy Khôi
***
Thỏa Lòng

Thì thầm bạn nói vẫn chờ ta
Hớn hở đèn giăng rực cả nhà
Khúc khích môi cười nghe chuyện kể
Thẹn thùa phím khảy đón lời ca
Đêm về sương lạnh mời trăng viếng
Quỳnh nở trời trong nhắp rượu hòa
Sinh nhật đong đầy bao nỗi nhớ!
Tâm đầu ý hợp thỏa lòng xa.

Như Thu
11/03/2020
***
Chạnh Lòng

Ngày tháng năm nào có mặt ta?
Nhớ khi lẫm đẫm bước quanh nhà
Nay chưa lãng trí thơ còn viết
Mốt sẽ phai tình nhạc hết ca
Giữa sóng,bọt bèo luôn bất ổn
Trong ao,tôm cá khó an hòa
Đọc thơ,bạn đón mừng sinh nhật
Tri kỷ cùng trăng tao ngộ xa… 

Lý Đức Quỳnh
12/3/2020
***
Trăng Xưa

Mấy độ trăng về, Sinh Nhật ta
Cho lòng thỏa nhớ thuở quê nhà
Ánh vàng lóng lánh dường khiêu vũ
Gió nhẹ rì rào tựa khúc ca
Gác cũ thân yêu đầy luyến tiếc
Tình xưa nồng mặn mãi giao hòa
Thời gian đâu dễ mà che khuất
Ký ức còn đây, mãi xót xa 

Thanh Trương
***
Ngày Sinh Nhật Hai Ta


Trăng đã ra đời trùng với ta
Nên chi tháng tháng đến thăm nhà
Giữa trời Nàng mỉm nhìn không nói
Trên thượng Thu hì vẫy với ca
Sinh nhật hai mình mời gió dự
Thân huân khắp chốn gửi meo hòa
Thơm thơm hương bưởi bay lên tặng
Nào có chi buồn dẫu cách xa


Trần Như Tùng
***
Chuyện Lòng

Năm nay sinh nhật có mình ta,
Vui với Hằng Nga dặng liễu nhà.
Cùng gió thì thào trao mộng mị,
Theo mây tình tự dệt thi ca.
Chuyện lòng biết lấy ai bầy tỏ,
Tâm sự tìm đâu kẻ giải hòa.
Trăng lặn đêm tàn sương giá buốt,
Nhớ thương nát dạ bóng người xa.

Nguyễn Thị Mỹ Ngọc
Mar.12/2020.
***
Sinh Nhật

Sinh nhật cô buồn tự chúc ta
Có trăng bầu bạn trước sân nhà
Lòng dâng nỗi muộn, đôi dòng lệ
Tai vẳng cung sầu, một khúc ca
Gió cũng sẻ chia, hơi mát quyện
Nguyệt như an ủi, ánh vui hòa
Chợt nghe chim khách trên cành liễu
Nhắc nhở ta đừng lạc chốn xa…

Cao Bồi Già
12-03-2020

***
Sinh Nhật Trăng

Trăng vừa sinh nhật có mời ta
Rủ cuội cùng lên, nghé gửi nhà
Say đắm tàn canh màn “hóp” vũ(1)
Ngọt ngào khắc lậu bản tình ca(2)
Thơ trời điện Quảng còn câu xướng
Phú nguyệt cung Nga vẫn điệu hòa
Mai mốt ai vời sang Hỏa Tú
Quen rồi chẳng ngán dặm trình xa

Phan Tự Trí

(1) Hippop
(2)khắc lậu canh tàn: Hết ngày hết đêm (ngày 6 khắc, đêm 5 canh)
***
Bạn Trăng 

Đã có Trăng hiền chúc tụng ta 
Khi sinh nhật đến ghé sân nhà 
Ly trà ấm giọng nào cùng hát 
Chén rượu say lòng hãy hợp ca 
Tối xoả Anh Đào tăng dịu vợi 
Đêm lay Cẩm Chướng nhẹ hiền hoà 
Vườn Xuân nét thắm tình tri kỷ 
Bạn hỡi vui cùng thỏa lúc xa 


Minh Thuý 
Tháng 3/12/2020

Lại Nhớ...

Hẳn đã nhiều năm sinh nhật ta
Nàng Trăng chẳng dịp ghé thăm nhà
Mây buồn...xám ngắt che hồn mộng
Gió rét...lạnh lùng át tiếng ca
Khoác mảnh khăn len ...thèm tiết ấm
Nâng ly trà Vối...tiếc trời xa
Ngày xưa theo bước thơ và nguyệt
Thương mãi... đường quê thuở thái hòa!

Thy Lệ Trang
 

Gương


GƯƠNG NGA chênh chếch dòm song, 
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân. 

Đó là hai câu thơ chuyển cảnh thật hay, thật nên thơ như trong nghệ thuật điện ảnh của cụ Nguyễn Du trong Truyện Kiều, khi diễn tả Thúy Kiều vừa về đến nhà sau buổi đạp thanh với nhiều gặp gỡ: Gặp hồn ma Đạm Tiên và gặp chàng Kim Trọng với "Đề huề lưng túi gió trăng" và dáng vẻ "Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa". GƯƠNG NGA là vầng trăng mới mọc "chênh chếch dòm song", còn được cụ Nguyễn Du gọi là BÓNG NGA ở những câu sau đó: 

Một mình lặng ngắm BÓNG NGA, 
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời. 

GƯƠNG NGA hay BÓNG NGA còn được gọi là GƯƠNG QUẢNG HÀN như trong truyện Nôm khuyết danh Lưu Nữ Tướng: 

Kiệu dừng, hé bức màn sương, 
Khác nào non thúy, rạng GƯƠNG QUẢNG HÀN. 

GƯƠNG NGA, BÓNG NGA hay GƯƠNG QUẢNG HÀN đều dùng để chỉ mặt trăng một cách nên thơ trong bầu trời ban đêm, nhưng có những cái gương làm cho người ta phải khiếp đãm kinh hồn, đó chính là Gương Chiếu Yêu (Chiếu yêu kính) làm cho yêu quái bị chiếu vào sẽ hiện nguyên hình như trong truyện Phong Thần; đến đời Tần còn xuất hiện thêm một cái kiếng chiếu thấy cả gan ruột con người, gọi là CHIẾU ĐÃM KÍNH 照膽鏡. Theo sách Tây Lương Tạp Ký đời Đông Tấn của Cát Hồng 东晋葛洪《西京杂记》có ghi : Trong cung Hàm Dương đời Tần có một cái gương rộng 4 thước (khoảng 1m2 tây), cao 5 thước 9 (gần 2 thước tây), bên trong kiến phát sáng. Người đến trước gương soi sẽ thấy cả lòng dạ ruột gan, ngũ tạng lục phủ. Tần Thủy Hoàng đã dùng chiếc gương nầy để cho các cung nhân soi vào, người nào tim rung động, mật nở to là có gian tình thì giết chết. Chiếc gương nầy đã gây chấn động và làm khiếp đãm mọi người, nên Tần Thủy Hoàng đã lợi dụng cái tâm lý "Có tật thời Giật mình" đã phát hiện rất nhiều gian tình và nịnh thần trong cung cấm và trong triều đình. Vì những người gian xảo dối trá khi đứng trước gương sẽ không tránh khỏi sợ hãi hoang mang, chính nét mặt, cử chỉ và biểu hiện bất bình thường... của chính bản thân họ đã tố cáo cho sự gian dối của họ với những người chung quanh. 

Trong văn học cổ của ta gọi cái Chiếu Đãm Kính nầy là GƯƠNG LẦU TẦN, như trong Chinh Phụ Ngâm Khúc để diễn tả lòng chung thủy của người chinh phụ đối với chồng đang đi chinh chiến ở biên cương xa xôi, nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã có câu : 

Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá, 
GƯƠNG LẦU TẦN dầu đã soi chung. 

Còn trong truyện thơ Nôm Lưu Nữ Tướng thì gọi là GƯƠNG TẦN ĐÀI như: 

Bỗng đâu hẩy trận Đằng Vương, 
Thày lay sớm đã tỏ GƯƠNG TẦN ĐÀI. 

Gương soi còn là vật để làm đẹp chốn khuê phòng của các bà các cô ở trên bàn trang điểm, thường được trang trí bởi hình con chim loan, nên thường gọi là GƯƠNG LOAN. Theo sách Thái Bình Ngự Lãm 太平御覽 : Kế Tân Vương 罽賓王 xây nhà ở núi Tuấn Kỳ, bắt được một con chim loan. Vương rất yêu thích cho ăn toàn ngũ cốc, ở lồng vàng, nhưng suốt ba năm chim vẫn không hót. Phu nhân mới hiến kế rằng :"Thiếp nghe nói, khi chim loan gặp được đồng loại thì sẽ vui mừng mà kêu hót". Vương nghe theo. bèn cho dựng một tấm gương lớn trước mặt chim. Quả nhiên chim loan vui mừng kêu hót không ngừng, nhưng kêu mãi mà chim loan trong gương vẫn không bay ra, nên tiếng kêu hót trở nên bi thương. Cuối cùng gục chết trước gương. Sau dùng rộng ra, GƯƠNG LOAN là gương dùng để cho lứa đôi soi bóng và là chiếc gương trang điểm trên bàn phấn của qúy bà qúy cô. Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều tả lúc nàng cung nữ bị thất sủng có câu : 

Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng, 
GƯƠNG LOAN bẻ nửa, dải đồng xẻ đôi. 

Còn trong bài "Mai Rụng" của Jean.Leiba thời Tiền chiến đã diễn tả vẻ sầu thương ủ rủ của nàng thiếu nữ đang mòn mõi chờ đợi tình quân bằng những câu : 

Sầu đối GƯƠNG LOAN, bóng lạ người,
Chàng không lại nữa, đẹp cùng ai?
Bơ phờ tóc rối, vành khăn lệch,
Ủ rũ hoa gầy, má đỏ phai! 

Nhắc đến câu "GƯƠNG LOAN bẻ nửa, dải đồng xẻ đôi" làm cho ta lại nhớ đến điển tích GƯƠNG VỠ LẠI LÀNH. Theo "Bổn Sự Thi" của Mạnh Khải đời Đường 唐.孟棨《本事詩》có kể lại chuyện như sau: 

Em gái của Trần Hậu Chúa 陳後主 Nam Triều là Lạc Xương Công Chúa 樂昌公主 có chồng là Thái tử Xá nhân Từ Đức Ngôn 徐德言. Vợ chồng rất mực thương yêu nhau. 

Khi Tùy Văn Đế cử binh đánh nước Trần, thì Trần Hậu Chủ chỉ lo ở trong cung ăn chơi, làm thơ đề từ. Nên quân Trần thua chạy khắp nơi. Từ Đức Ngôn thấy đại cuộc sắp tiêu vong, nên vô cùng lo lắng. Biết rằng nước Trần sẽ mất trong nay mai, không còn cách gì cứu vãn được nữa. Từ bèn nói với Công chúa rằng : " Với tài hoa và sắc đẹp của nàng, khi nước đã mất rồi, chắc chắn sẽ lọt vào tay những bậc quyền qúy sau nầy. Nếu duyên phận chúng ta chưa dứt, ta rất mong gặp lại nàng sau nầy, nhưng chúng ta cũng phải có một tín vật gì đó để mà nhận ra nhau chứ!". Nói đoạn, Từ Đức Ngôn vói tay lấy chiếc gương đồng trên bàn trang điểm của công chúa, đập bể làm đôi. Đưa cho công chúa một nửa, còn mình thì giữ một nửa còn lại. Hai người cùng ước hẹn nhau rằng, sau nầy nếu có muốn gặp nhau thì vào ngày Tiết Nguyên Tiêu, rằm tháng giêng hàng năm, cứ đem nửa mảnh gương nầy mà rao bán giữa chợ Trường An.

Qủa nhiên, nước Trần mất vào tay nước Tùy. Lạc Xương Công chúa lọt vào tay của hoàng thân nước Tùy là Dương Tố. Tố rất sủng ái công chúa, nhưng nàng thì luôn luôn buồn bã vì nhớ đến chồng. 

Những năm sau đó, tuy cuộc chiến đã yên, nhưng Từ Đức Ngôn luôn nhớ đến công chúa qua nửa mảnh gương, nên thường ra dạo chợ Trường an. Tiết Nguyên Tiêu năm đó, Từ cũng mang nửa mảnh gương ra chợ, tình cờ gặp được một gia nhân cũng đang rao bán nửa mảnh gương. Ráp lại thì vừa vặn với nửa mảnh gương của mình. 

Từ bèn khẩn khoản mời gia nhân về nhà trọ hỏi thăm về tin tức của công chúa. Sau khi biết công chúa luôn thương nhớ đến mình. Từ rất xúc động viết một bài thơ ngũ ngôn gởi cho công chúa như sau:

鏡與人俱去, Kính dữ nhân câu khứ,
鏡歸人不歸; Kính quy nhân bất quy;
無復嫦娥影, Vô phục Thường Nga ảnh,
空留明月輝! Không lưu minh nguyệt huy!

Có nghĩa:

Gương đi người cũng đi theo,
Gương về người chẳng về theo lại nhà. 
Đâu còn thấy được bóng Nga,
Bơ vơ như ánh trăng tà trống không !

Công chúa đọc thơ của Từ Đức Ngôn mà lòng đau như cắt. Suốt mấy ngày liền không ăn uống gì cả. Dương Tố biết chuyện, cảm thông cho tình vợ chồng sắt son gắn bó, mới cho người đi mời Từ Đức Ngôn vào dinh, làm tiệc khoản đãi và mời cả công chúa đến dự. Khi công chúa đến nơi, thấy trong bàn tiệc có cả chồng cũ lẫn chồng mới, nàng vô cùng ngỡ ngàng, nửa mừng nửa lo, xúc động mà ngâm rằng:

今日何遷次, Kim nhật hà thuyên thứ,
新官對舊官; Tân quan đối cựu quan.
笑啼俱不敢, Tiếu đề câu bất cảm,
方驗作人難! Phương nghiệm tác nhân nan!

Có nghĩa:

Hôm nay khéo đổi dời,
Chồng cũ cùng chồng mới.
Cười khóc cũng lỡ làng,
Khó làm người cho nổi!

Lục bát:
Hôm nay sao khéo đổi dời,
Chồng cũ chồng mới cùng ngồi chung nhau.
Khóc, cười thiếp biết phải sao ?
Làm người khó lắm phải nào dễ đâu! 


Từ Đức Ngôn nghe xong cảm động mà rơi nước mắt; còn Dương Tố nghe xong thì cảm động mà cười lớn rằng :"Thôi được rồi, ta sẽ trả nàng về để cho vợ chồng đoàn viên sum họp". 

Sau tiệc, Dương Tố chẳng những trả Lạc Xương Công Chúa về cho Từ Đức Ngôn mà còn ban thưởng rất nhiều vàng bạc cho vợ chồng về lại Giang Nam để sống yên vui hạnh phúc tới già .

Câu chuyện PHÁ KÍNH TRÙNG VIÊN 破鏡重圓 từ đó được lan truyền khắp thiên hạ, qua đến Việt Nam ta thì thành "GƯƠNG VỠ LẠI LÀNH". Thành ngữ nầy thường dùng để chỉ vợ chồng hoặc đôi lứa yêu nhau, vì hoàn cảnh mà phải phân ly cách trở, xa nhau một thời gian, rồi do một cơ duyên nào đó lại được sum họp đoàn viên trở lại. Như Thúy Kiều sau mười lăm năm lưu lạc vì phải bán mình chuộc cha, "thanh lâu hai lượt thanh y hai lần", cuối cùng cũng được đoàn viên sum họp với gia đình và Kim Trọng, nên trong buổi tiệc đoàn viên, khi đã "Tàng tàng chén cúc dở say" Thúy Vân mới đứng lên phân bua:

Rằng: Trong tác hợp cơ trời,
Hai bên gặp gỡ một lời kết giao.
...Những là rày ước mai ao,
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình.
Bây giờ GƯƠNG VỠ LẠI LÀNH
Khuôn duyên lừa lọc đã dành có nơi ...


Xin được kết thúc các GƯƠNG ở nơi đây, và...
Tha thiết mong rằng tất cả những GƯƠNG VỠ trong thiên hạ đều LẠI LÀNH sau những sầu thương lận đận tang thương chìm nổi của cuộc đời !

Đỗ Chiêu Đức

Thứ Sáu, 13 tháng 3, 2020

Chiếc Lá Cuối Cùng

(Ảnh: Kim Phượng)

Hoài mong chiếc lá cuối cùng
Ân tình sâu đậm ngại ngùng biếng rơi
Phất phơ theo gió lả lơi
Phơi mình đón hạt sương trời bâng khuâng
Đã yêu xa lại hóa gần
Cho nồng thắm chẳng nợ nần chi nhau
Ước mơ chấp cánh bay cao
Phủ phàng cuống lá nao nao chuyển mình


Kim Phượng
***
Các Bài Họa:

Còn Nguyên Một Chiếc Lá


Cành trơ một lá sau cùng
Chung quanh trống vắng lạnh lùng chẳng rơi
An lành tiếng nhạc buông lơi
Gió ru nhè nhẹ tơ trời cuối Xuân
Duyên xưa những ước mơ gần
Tựa vai mà có nợ nần gì nhau
Tâm hồn bay bổng lên cao
Còn nguyên chiếc lá lòng xao xuyến mình!
 
Mai Xuân Thanh
 Ngày 18/03/2020
***
 Ườc Mơ Cuối Cùng

Còn trơ chiếc lá cuối cùng
Sợ thân lấm đất ngại ngùng chẳng rơi
Lao xao gió gọi buông lơi
Tần ngần e ngại, bời bời nỗi khuâng
Trời xa mà lại rất gần
Nắng mưa quen thuộc muôn phần nhớ nhau
Ước gì gió thổi lên cao
Cho ta thỏa ước thanh cao đời mình.


Phương Hà

Lỗi Hẹn


Lâu lắm rồi, tôi chẳng trở về
Thăm vùng kỷ niệm phía trời quê
Nửa vòng trái đất còn xa lắc
Một giải non sông ngỡ cận kề
Đau đớn tâm can lìa tổ quốc
Mịt mùng sương tuyết phủ sơn khê
Bóng hình năm cũ hằng vương vấn
Thì cũng đành thôi, lỗi hẹn thề

Nguyễn Kinh Bắc
Cape Cod 3-12-20

Cho Người Tình Nhỏ



Bao năm tình nghĩa lắm yêu thương
Nghịch cảnh chia tay xót đoạn trường
Kỷ niệm mới vừa lưu dấu tích
Thời gian nào dễ cắt tơ vương
Dằn lòng trở gót rời xa bến
Lệ đổ vào tim xót rẽ đường
Hai ngã từ nay đành cách biệt
Xuân còn hoa thắm phải dừng hương.

Quên Đi


Quê Hương Nỗi Nhớ



Chiều nay chợt nhớ quê xưa
Nhớ con sông nhỏ, chiều mưa bến đò
Nhớ con thuyền, nhớ câu hò
Nhớ dòng nước chảy lượn lờ mênh mang
Nhớ cây đa, lũy tre làng
Hàng dừa rợp bóng bên đàng vào thôn
Cánh diều bay bổng chiều hôm
Con đê rộn bước người thôn đi về
Gập ghềnh xóm vắng đường quê
Nhớ trưa hè với tiếng ve rộn ràng
Nhớ lời mẹ ru mênh mang
Câu ca dao hát thơm vàng tuổi thơ
Kẽo kẹt theo tiếng võng đưa
Ẩu ơ…tiếng hát ngày xưa nhịp nhàng
Nhớ vườn hoa cải trổ vàng
Có con bướm lượn trên hàng lá xanh
Nhớ khói lam quyện mái tranh
Nhớ bông cúc dại mong manh bên tường
Nhớ ao rau muống sau vườn
Đàn gà xao xác bên chuồng gọi nhau
Nhớ mùi hương của hoa cau
Thoảng trong làn gió hương ngâu, hương lài
Nhớ dàn thiên lý nhà ai
Có người hong tóc, tóc dài thướt tha
Tình quê tràn ngập lòng ta
Tràn trong trí nhớ, tràn qua tuổi đời
Quê hương nơi đó xa vời
Hồn quê ấp ủ muôn đời trong tim.

Tường Thuý

Linh Hồn Gió



Ngôi chùa nằm sâu trong con đường nhỏ, ngoại ô thành phố Raleigh, bang North Carolina. Chùa mang tên Vạn Hạnh, cách nhà tôi khoảng 1 giờ lái xe. Thiền sư Vạn Hạnh, người đã phò Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế (Lý Thái Tổ), tạo dựng triều đại nhà Lý kéo dài cả 216 năm và đã để lại bài kệ nổi tiếng Thị Đệ Tử:

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
“Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
“Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
“Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

Ngô Tất Tố dịch thơ:

“Thân như bóng chớp, có rồi không
“Cây cối xuân tươi, thu não nùng
“Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
“Kia kìa ngọn cỏ giọt sương đông

Hàng năm bà xã và tôi thường đi chùa chỉ đôi ba lần, đêm Giao thừa, lễ Phật Đản và Vu-lan. Phần ở xa, phần bà xã dựng một bàn thờ Phật ở góc, ngay trong phòng khách, nên thường lễ tại nhà. Lần này thì ngoại lệ, bà xã muốn đến chùa thỉnh một cái phong linh để treo phía sau nhà. Thứ bảy, cuối tuần bãi xe không còn chỗ, tôi phải đậu xe dọc ven đường phía ngoài chùa. Khuôn viên chính điện thật đông người, mùi hương khói ngào ngạt từ xa. Những người quen cười, vẫy chào nhau, tay bắt mặt mừng. Nhìn khung cảnh chùa, tôi chợt nhớ đến bài thơ “Nhớ Chùa” của thi sĩ, hòa thượng Thích Mãn Giác: 

“... Biết đến bao giờ trở lại quê
“Phân vân lòng gửi nhớ nhung về
“Tang thương dẫu có bao nhiêu nữa
“Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê

“Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng
“Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung
“Mái chùa che chở hồn dân tộc
“Nếp sống muôn đời của tổ tông. 

Ngày xưa tôi hay theo bà nội đi chùa, gần như một hai lần trong tháng. Ngôi chùa ở đầu làng, nằm ẩn trong khoảng sân đầy cây kiểng và tượng Phật rất đẹp. Tôi thích nhất là tượng Phật Quan Âm với nét thanh thoát, diệu hiền và trang nhã đứng giữa hồ sen nhỏ. Tuy chưa hiểu những lời kinh kệ, nhưng tôi thích nghe tiếng tụng niệm vang dìu dặt theo tiếng mõ. Cho đến bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu hết những lời kinh kệ, nhưng mùi hương khói trầm tỏa quyện trong tiếng niệm vang theo tiếng mõ, như đưa tâm hồn ta thoát khỏi mọi bận phiền tục lụy vây quanh. 

Chùa Vạn Hạnh - Raleigh, North Carolina

Sau khi cùng bà xã thắp hương trong chính điện, tôi hay đi loanh quanh vãng cảnh chùa và gặp gỡ vài người bạn đồng hương cùng thành phố. Nhìn nét mặt trang nghiêm của bà xã ngồi niệm Phật trong chính điện, tôi chợt chạnh lòng. Chừng như suốt cuộc đời, bà ấy có nhiều niềm tin để… khổ. Niềm tin chồng, tin vào mọi niềm ước vọng của chồng. Bà xã đã hy sinh một đời làm vợ, cho mọi mơ ước của tôi được thành hiện thực. Rồi niềm tin vào con, đem tất cả nghị lực, lòng hy sinh để đưa các con vươn tới những tầm cao nhất mà chúng có thể. Riêng mình, bà xã tin số phận, tin vào định mệnh đã dành sẵn cho mình. Nhiều lần tôi nói với bà ấy, bây giờ đến phiên em tuy muộn, nhưng em muốn làm gì, đi đâu hay có điều gì muốn thực hiện, hãy làm ngay đi, anh và các con sẽ ủng hộ hết mình. “Làm gì nữa bây giờ. Tất cả đã trở thành nếp, thành thói quen. Em sẽ không biết phải làm gì, đi đâu nếu không có anh và con”, bà xã thường nói như vậy. Một lần tôi “đẩy” bà ấy đi Seattle thăm người bạn gái thân thiết thời “áo trắng”, hai tuần lễ. Nhưng vừa đúng một tuần là bà xã đã đáp chuyến bay về sớm, dù phải tốn thêm tiền thay đổi chuyến bay! “Tâm sự, đi chơi, ăn uống một tuần là hết chuyện. Mỗi người đã một cảnh, một góc đời, một cuộc sống. Chỉ còn lại với nhau là ký ức, là kỷ niệm”, bà xã bùi ngùi... 

Trời bắt đầu có nắng, hoa cảnh chung quanh chùa rộ nở, hoa hồng leo, hoa mười giờ, hoa hiên, hoa cúc Thái, hoa ngọc hân.. . sắc màu thắm tươi, rực rỡ. Đi quanh đã thấy nhiều khuôn mặt lạ, nhiều gia đình thế hệ trung niên đang dần dà thay đổi đám đông của cộng đồng người Việt ở đây. Hỏi ra, biết được các anh, các bác phần lớn thời gian đến chùa đều ở phía “hậu liêu”, phòng ăn dưới căn bếp. Đã lui vào hậu trường, cả một thế hệ “tiền phong”, gầy dựng ngôi chùa thuở chỉ là một mảnh đất trống. Nay thật khang trang, xứng đáng để lại thế hệ mai sau như một thành quả văn hóa tinh thần như hai câu thơ của hòa thượng Thích Mãn Giác: “Mái chùa che chở hồn dân tộc / Nếp sống muôn đời của tổ tông”.

Chừng như gió và tôi là cả một duyên nợ. Từ thuở nhỏ, tôi đã yêu những cơn gió đổi mùa mỗi năm. Bên dòng sông nhà nội, mùa gió đổi mang theo thật nhiều ký ức. Mùa gió đổi của mùa nước nổi. Nước ngập tràn vào sân nhà trước, lúp xúp mí của căn nhà dưới. Có thể ngồi câu cá ngay bên cạnh sàn nước hông nhà. Mùa gió đổi của những ngày hè oi ả, nghỉ học theo đám bạn trong làng đi cắm câu, tát đìa. Mùa của ngày nước cạn, có thể đi qua bên kia sông mà không cần phải biết bơi. Mùa của cây trái vườn sau, từng liếp chôm-chôm sặc sỡ màu, quằng cành ăn trừ bửa. Rồi mùa gió đổi cuối năm, đồng ngập lúa vàng, mùi thơm của nồi cơm gạo mới. Gió đã theo tôi, thì thầm suốt quãng thời thơ ấu... 

Những buổi chiều ngồi lặng lẽ, cặm cụi chấm bài trong lớp học trống trải, chỉ có lũ ghế bàn và gió vọng phía sân ngoài. Gió hắt hiu của vùng biển bùn, nặc nồng mùi muối mặn. Gió vẫn thì thầm với tôi, và nay tôi đã là bạn gió. Có những điều tôi không biết nói với ai hay không thể nói, đành tỉ tê cùng những cơn gió mùa trở ngọn. Có khi gió thổi từ cuối dãy sân trường. Có khi gió bắt đầu từ ngoài cổng, thổi dạt dào vào những khe cửa những buổi học rộn ràng. Trò áo mới mừng đầu năm học; thầy tâm hồn mới cho một đợt “khách qua sông”! Gió đón người và gió tiễn đưa ai? 

“Gió... gió về là về miền xuôi
“Anh đưa em nước lớn nước ròng
“Để em qua sông qua suối thăm chồng
“Gió về miền xuôi qua bốn vịnh năm vời
“Đò vẫn đưa đưa ngược xuôi
“Em ơi, em ơi!
“Đường về quê ta mấy bước, đường về quê xa mấy ngõ
“Mà sao người nỡ bỏ quên đường... 
 (Gió Về Miền Xuôi – Anh Việt Thu) 


Bên ngoài, bây giờ trời cũng đang trở gió. Tiếng chuông ngân nhịp ngắn nối vài ba nhịp dài, âm thanh khoắc khoải, thiết tha. Chừng như gió mượn chiếc phong linh để nói lên tiếng lòng của mình trong vô lượng đất trời, bát ngát. Chừng như vạn vật đều có một linh hồn, một cuộc sống trong một cõi riêng của nó. Cuộc sống thay đổi, vạn vật cũng không ngừng đổi thay. Gió phía đông có nhịp thở không như gió phía tây? Tiếng gió của những buổi chiều trên bến sông quê nội có còn không, khi những dãy nhà mới xây chạy dài theo bãi nước? Có còn không, tiếng linh hồn gió thì thầm đêm chia tay Rạch Giá, không thấy rõ mặt người? Thuyền mang chúng tôi ra khơi, chạy dọc theo cơn gió mùa định mệnh. Gió đùa với biển, biển đùa với bao nhiêu thân phận con người! Gió mãi theo tôi, mang theo bao nhiêu thao thức của bến sông chiều ngày tiễn biệt. Có gió len lõi dọc theo con nước, dãy nhà ven sông cúi bờ kinh hay chợt loay xoay giữa ngã ba sông về phía một bến bờ? Có bao nhiêu hình bóng chợt thoáng qua, một đời người bắt gặp. Như thật, như không. Những linh hồn gió ngày đó đã phương nào? Vẫn tất bật giữa đời rong ruổi hay đã biền biệt dấu này một đời người thương tưởng, cưu mang? Cho dù thế nào, gió có hôm trở về như linh hồn của câu chuyện kể hôm qua. 

Tiếng leng-keng ngắn dài chợt rộn rã hơn, linh hồn của gió như trở về bên tôi “những ngày xưa thân ái”! Có bước chân ai đang trở về từ chập chùng dĩ vãng, mang âm vang tiếng cười nói vọng cố nhân... Bao nhiêu khuôn mặt, bao nhiêu nụ cười và cả bao nhiêu đôi mắt ướt long lanh dòng lệ đã qua đời nhau? Những người con gái ta yêu và những người con gái yêu ta, tất cả như đang chợt hiện về trong tiếng ngân vang linh hồn của gió? Cảm ơn người, cảm ơn đời và cảm ơn em đã cho tôi những ngày tháng một đời không tiếc: 

“… Ôm lòng đêm, 
“nhìn vầng trăng mới về
“Nhớ chân giang hồ
“Ôi phù du, từng tuổi xuân đã già
“Một ngày kia đến bờ
“Đời người như gió qua..
(Phôi Pha – Trịnh Công Sơn)

           
Đêm chợt tĩnh lặng, sau vài cơn gió mùa trở nhẹ. Những tiếng ngân của chiếc phong linh treo sau nhà cũng tắt lịm, thoáng qua. Tôi nằm thẳng, cố giữ hai vành tai không vật cản, chờ đợi tiếng linh hồn gió sẽ đến bên ngoài. Dù là một thoáng nhẹ, bạn có nghe, tiếng linh hồn gió của hôm qua. Huyễn hoặc, vô cùng. Có những tiếng lung linh của linh hồn gió hôm nay? Không thể. Gió hôm nay không thể có linh hồn nếu không phải là gió của hôm qua. Có lẽ ở một thang tuổi nào đó, chúng ta sẽ dễ ý thức hơn cái nhỏ bé của kiếp người, cái mong manh của hiện tại. Hãy nghiêng tai, lắng nghe lượng từ tâm đất trời; những linh hồn gió của bao tháng ngày trôi xuôi một dòng thoáng chợt: 

"... Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?" 
(Ông Đồ - Vũ Đình Liên)

Durham, North Carolina
Người Chợ Vãng

Thứ Năm, 12 tháng 3, 2020

Mây Xưa -Thơ Trần Quốc Bảo, Nhạc Chương Lưong - Hòa Âm Tuyền Linh



thơ Trần Quốc Bảo, Trần chương Lưong viết nhạc và S Tuyền Linh hòa âm Casĩ Giáng Hương trình bày trong video của Nguyễn văn Thơ

Chúc Mừng Sinh Nhật


(Kính tặng mừng sinh nhật chị Đỗ Dung)

CHÚC vạn điều may đến trọn niên
MỪNG ngày “hạ thế” chút niềm riêng
SINH thần nguyệt tỏa hừng song ngoại
NHẬT đáo hoa khai rực mái hiên
ĐỖ rạng yêu kiều danh thục nữ
DUNG quang đằm thắm tiếng nhu hiền
HẠNH duyên cung hỷ thêm tài lộc
PHÚC phận đẹp bền hưởng bách niên

Phương Hoa
Mar 9th 2020
***
Mừng Sinh Nhật Đỗ Dung

CHÚC ngày Dung Đỗ bẩy ba niên
MỪNG bạn ra đời tốt số riêng
SINH hạ yêu kiều công chúa nhỏ
NHẬT sang thắm đặm ánh dương hiền
Đỗ: hàng gia thế,ngời danh cửa
Dung : bậc đài trang,nức tiếng hiên
Hạnh phẩm tuyệt vời,ai nấy mến
Phúc nhà rạng rỡ,mãi...thiên niên

Thanh Hoà  

Yểu Điệu Nàng Thu Rón Rén Sang!


Long Hồ vàng lá thu bay
Mùa thu lộng ngọc thêm say men đời
(Kim Phượng)

Ghé Vườn Thơ Thẩn xem chơi
Mới hay bên Úc lá rơi thu vàng
Rừng phong cảnh đẹp huy hoàng
Mười ba bức ảnh nai vảng ngẩn ngơ (*)
Thiên nga sông lạnh bên bờ
Ngựa hồng cảnh vắng như tờ hoang vu
Có nàng dạo giữa sương mù
Đằng xa thơ thẩn điệu ru mơ màng
Con đò cập bến sương tan
Thấy chim cất cánh vội vàng vụt bay
Vầng trăng vành vạnh trên mây
Núp vào bóng tối cành cây xanh ngời
Hữu tình cảnh sắc dạo chơi ...
Thăm Vườn Thơ Thẩn khách mời tự nhiên !...

Mai Xuân Thanh
Ngày 06/03/2020

(*) Link: Bây Giờ Trời Sắp Vào Thu - Bộ Ảnh Của Họa Sĩ Nguyễn Sơn

Bồi Hồi Nào


Bồi hồi nào còn ngây ngất buồng tim
Tôi cúi xuống cho bờ môi chạm đất
Bùi ngùi nào cuốn theo cơn gió bấc
Biển lạnh hoang sơ giá buốt đầu non.

Đêm không em thành phố cũng thấy buồn
Chỉ riêng tôi cãm nhận niềm cay đắng
Biển không em biển lúc nào cũng mặn
Tôi không em nghe thiếu một chút tình.

Trót thương em thời trai trẻ chúng mình
Nên anh cũng không mơ hình bóng khác
Từ màu tóc đen đến giờ chớm bạc
Anh moi tìm trong ký ức ngày xưa...

Mỗi đêm về anh nhìn mưa làm thơ
Dáng hình em dật dờ trong ý tưởng
Em đi đỏ hồng màu huyết phượng
Lúc em về cằn cỗi cội mai già !..

Dương hồng Thủy

Nước Mắt Của Một Hiệu Trưởng


Xin được thắp nén hương lòng kính viếng.Lại nhớ một tối Đọc Thơ "Reaching To The Stars" ở Arlington Career Center gồm các sắc dân đa văn hoá vào cuối thập niên 1970, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích góp phần, thay mặt cho Hội Phụ Huynh Học Sinh Việt Nam vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn, đã đọc và phiên dịch ra tiếng Anh, một bài thơ của Lê Tất Điều, vừa khóc vừa dịch trong nước mắt:

"Mai mốt anh về có thằng túm hỏi
Mầy qua bên Mỹ học được củ gì 
Muốn biết tài nhau đưa ông cây chổi 
Nói mầy hay ông thượng đẳng cu li ..." ̣ 

Tôi đã không cầm được nước mắt và từ đó thương qúy nhau lắm.

Nhân nhắc đến chuyện thấy anh Nguyễn Ngọc Bích vừa đọc thơ vừa khóc trong buổi hội thơ Reaching To The Stars ở Arlingon Virginia cuối thập niên 1970, tôi lại muốn nhắc đến ở đây với qúy anh chị em PTGĐTĐ một câu chuyện trong nhà ̣Sau 6 năm trả nợ nghĩa vụ công dân, tôi được phép giải ngũ trở về đời nhà giáo.

Ngày đầu tiên, trường đang trong thời gian đóng cửa, tôi chỉ gặp được anh Nguyễn Trung Quân Hiệu Trưởng, quần áo cravate chỉnh tề, đang ngồi một mình ở văn phòng ̣ Rồi mấy ngày sau, mới gặp thêm được anh Phan Đăng Trực Giám Học, anh Võ Văn Trí Pháp Văn, anh Lại Thanh Tòng, anh Lê Văn Quới Việt Văn ... Tôi đã được đón tiếp niềm nở và thân tình như một người bạn đồng nghiệp trở về dạy học trở lại. ̣ 
Một sáng đến trường, anh Quân nghẹn ngào thông báo với anh em chúng tôi là trường vẫn phải tạm đớng cửa thêm một hai tuần nữa để sửa chữa, dọn dẹp, xây dựng lại những đổ vỡ vì biến cố Tết Mậu Thân. Hình ảnh anh Quân vừa nói vừa khóc vì trường đã khiến tôi thật sự xúc động.
 ̣ 
Cho đến bây giờ, mấy chục năm gần đây, người cựu hiệu trưởng, cựu giám học Nguyễn Trung Quân này, gần như không một lần vắng mặt trong các đaị hội thường niên của nhóm PTGĐTĐ hải ngoại.
Thương qúy nhau lắm!

Phạm Khắc Trí
CGS PTG 1968-75

Thứ Tư, 11 tháng 3, 2020

Hoài Thu - Văn Trí - Mạnh Đình


Sáng Tác: Văn Trí
Ca Sĩ: Mạnh Đình
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình



Mơ Khách Từ Xa



Đường về lạnh lẽo gió đìu hiu
Cỏ úa vàng theo bóng nắng chiều
Ghé mắt trông vời mây cuối nẻo
Gạn lòng chia xót tiếng chim kêu
Giật mình tiếng lá mơ chân bước
Tơ tưởng bên trời mộng chắt chiu
Mơ khách từ xa về cố quận
Hương xưa trầm ngự giữa xuân kiều


Bằng Bùi Nguyên

My Way - Paul Anka & Frank Sinatra


My Way 

[Verse 1]
And now, the end is near
And so I face the final curtain
My friend, I'll say it clear
I'll state my case, of which I'm certain
I've lived a life that's full
I traveled each and every highway
And more, much more than this
I did it my way

[Verse 2]
Regrets, I've had a few
But then again, too few to mention
I did what I had to do
And saw it through without exemption
I planned each charted course
Each careful step along the byway
And more, much more than this
I did it my way

[Verse 3]
Yes, there were times, I'm sure you knew
When I bit off more than I could chew
But through it all, when there was doubt
I ate it up and spit it out
I faced it all, and I stood tall
And did it my way

[Verse 4]
I've loved, I've laughed and cried
I've had my fill, my share of losing
And now, as tears subside
I find it all so amusing
To think I did all that
And may I say, not in a shy way
Oh, no, oh, no, not me
I did it my way

[Verse 5]
For what is a man, what has he got?
If not himself, then he has naught
To say the things he truly feels
And not the words of one who kneels
The record shows I took the blows
And did it my way.

Paul Anka & Frank Sinatra
***
Thơ phỏng dịch của Nguyên Trần
Con Đường Tôi Đi

[Phiên bản 1]
Bây giờ kết thúc gần kề
Nên tôi đối mặt cơn mê lộ nầy
Xin được cùng bạn tỏ bày
Đời tôi từng đã chân mây dặm trường
Cho dù lăn lóc gió sương
Và tôi theo đúng con đường tôi đi

[Phiên bản 2]
Nhưng tôi cũng tiếc vài điều
Tuy không lớn lắm để nhiều băn khoăn
Trải bao gian khổ nhọc nhằn
Tôi cũng làm được tuy rằng vấn vương
Mặc cho sóng gió bất tường
Và tôi theo đúng con đường tôi đi

[Phiên bản 3]
Nhiều lần các bạn đã mong
Tôi cần một ít lót lòng cho thân
Không cần tự hỏi băn khoăn
Tôi ăn với điệu ân cần muôn phương
Trên cao soi sáng tinh tường
Và tôi theo đúng con đường tôi đi

[Phiên bản 4]
Tôi yêu tôi khóc tôi cười
Ấy là duyên số cuộc đời của tôi
Và khi dòng lệ thôi rơi
Đó là giây phút tuyệt vời yêu thương
Cho dù còn chút vấn vương
Và tôi theo đúng con đường tôi đi

[Phiên bản 5]
Một thân nam tử trong đời
Bôn ba xuôi ngược trùng khơi mỏi mòn
Có chi ngoài những héo hon
Lụy quỳ phủ phục chỉ còn thê lương
Chập chờn bao nỗi chán chường
Và tôi theo đ́úng con đường tôi đi./.

Toronto 9/3/2020
Nguyên Trần




Lời Tiếng Pháp: Claude François  


Lời Việt: Nhạc Sĩ Nam Lộc - Nguyên Khang ca


Theo Bóng Tình Về



Tôi thấy vầng trăng trong mắt em
Lung linh sóng lượn rất êm đềm
Con đò neo lại làn tóc gió
Và mắt hồ thu neo sóng đêm

Tôi thấy ngày về trên tóc bay
Líu lo chim hót nắng hương gầy
Ngẩn ngơ ký ức neo chiều hẹn
Tình tôi neo lại một vòng tay

Tôi thấy hạ về trên nụ môi
Cánh phượng nghiêng rung đỏ nụ cười
Tôi như bàn ghế sân trường vắng
Nỗi nhớ người theo tóc rẽ đôi

Tôi thấy tình về trên giọt mưa
Tóc người, khăn mãi chẳng lau khô
Tóc ướt để tình luôn sũng ướt
Cho lòng thương nhớ mãi che dù

Tôi thấy người về trên gió đông
Se se cái lạnh má thêm hồng
Người tận phương trời xa cách nhớ
Soi gương kỷ niệm nỗi buồn hong

Trầm Vân

Chùa Long Thiền


Khoảnh đất mà ngôi chùa tọa lạc thuở đầu, bề ngang 50 thước, dài 50 thước, tổng cộng khoảng 2500 thước tương đương hai công rưỡi, với thời gian cùng sức ép cư dân, đất chùa teo tóp dần còn lại khoảng chừng non hai công cho ba công trình: Sân trước, chùa và khu mộ phía sau chùa. Nằm bên trên bờ sông Long Hồ, giữa hai chiếc cầu là cầu Thiềng Đức và cầu Bạch Đằng, phía sau chùa giáp ranh phía sau nhà thờ họ đạo Thiềng Đức, hai ông này đâu lưng nhau, mặt xây hai hướng khác nhau, nhưng mục đích không khác nhau ... 

Ngôi chùa nhìn từ phía ngoài đường Nguyễn Chí Thanh mà ngày xưa là đường Lê minh Thiệp, xa nữa là lộ làng, xa hơn nữa là đường thôn xóm vắng. Cách mặt đường khoảng gần hai mươi thước là ngôi chùa theo kiến trúc phái thiền thuộc Lâm Tế tông, từ ngoài nhìn vào không thấy được bên trong chánh điện, bức tường gạch gian chánh điện che kín liền lạc, muốn vào viếng chùa phải qua sân đất trống được lát đá xanh nguyên tảng, dài khoảng 1 thước rưỡi, ngang khoảng 3 tấc, dầy chừng 1 tấc rưỡi, đi gần chục tảng đá sấp xuôi là đến 5 bậc thềm, hai bên hông chánh điện gồm hai hành lang thường gọi, đông lang dành cho nam, bên trái hông chùa là tây lang dành cho nữ. Vào chánh điện phải đi hết hai hành lang tùy theo nam nữ, rẽ trái hay phải mới vào chánh điện được. Cuối đông lang là chiếc chuông công phu sáng sớm và chiều tối, cuối tây lang < dành cho nữ > an vị chiếc trống to, dùng trong dịp lễ, nhịp trống vào giữa thời kinh còn gọi < đánh trống bát nhã >, cửa vào chánh điện mở chính giữa, cách khung cửa khoảng hai thước là bức vách bằng cây che phía lưng tượng đức Thế Tôn, vào chánh điện cũng đi vòng theo nam nữ, mà vào hẳn bên trong hành lễ thì nam nữ đồng vị Trong chánh điện bện trái sát giữa tường có bộ lễ âm gồm một trống nhỏ, một cái giá treo chiếc chuông nhỏ đường kính khoảng 3 tấc, phía dưới chuông treo tấm cây bằng gỗ đen, còn gọi là bảng, để đánh trống có cặp dùi nhỏ, để đánh bảng cùng chuông dùng chiếc búa bằng cây, bộ lễ cụ này thường dùng trong công phu khuya gần sáng, phần này phải học nhuần nhuyễn mới đánh được, chỉ bởi một vị thầy.


Hồi xưa, tượng đức Bổn Sư ngồi trên nghi cao, mà người lớn đi dưới nghi không cần cuối đầu, tượng được dát vàng, theo thời gian mầu sậm lại trông cổ kính, nhìn kỷ chiếc miệng dường như cười, nên vừa từ ái lẫn nét hoan hỉ. Cách đây khoảng hơn 10 năm vị trụ trì già, có lẽ nghĩ để trang nghiêm tượng phải làm cho đẹp, nên ông sơn bên ngoài bằng sơn dầu với môi son mặt hồng phấn, y sơn nhủ vàng sáng sủa, còn chiếc đại hồng chụng theo thời gian đã đen mun, ông nhận thấy cần cho bóng mới đẹp, ông sơn dầu trong cho toàn chuông, và chuông bị điếc. Giữa chánh điện và tổ đường có khoảng đất trống bên dưới, cũng để trống luôn bện trên thường gọi là sân khấu, chẳng biết ngày xưa có phải dùng vào việc họp tăng chăng? Cũng xưa lắm trong khuôn viên nhỏ của sân khấu có một con quy khá lớn thường chậm chạp bò quanh sân nhỏ ẩm ướt, được cho ăn rau cải, thường là trái chuối xiêm, có lần < ông chín khùng> thân cao to mập ăn trầu liền miêng, trên tay luôn có cây gàu với đầu gàu là chiếc son sữa bò, dùng múc nước tưới cây dọc đường đi, tưới vài lon nước là xin tiền hoặc xin trầu ăn, ông vào chùa ngồi lên con quy, vị thầy trụ trì phải hô lên vài lần ông mới chịu đứng lên, cách đây vài chục năm không thấy con quy trong sân khấu, có lẽ đã tham gia buổi nhậu nào đó chăng? 


Trước tổ đường, gần sát sân khấu có một nghi trên đó an vị tượng đang ngồi, mặt hướng về sân khấu sau chánh điện, tay tựa lên cán búa dùng cho tiều phu, được sơn son thếp vàng, vị này là lục tổ Huệ Năng khi còn là tiều phu danh xưng trong đại chúng là Ông Giám, tương truyền trong lịch sử thiền tông ngài là vị dốt đặc, dốt một cách bi tráng, ngài chỉ nghe âm hưởng tụng đọc của bộ kinh Kim Cương mà cảm ngộ. Phía sau lưng tượng, nghi giữa là tổ vị, hai bên là hai nghi thờ các vị có công đức với chùa. 

Ngày xưa, sát vách ván của gian thờ tổ, mà đàng sau là nơi ngụ của vị hòa thượng, hai bên phía ngoài sát vách là hai phòng, bề ngang khoảng 2 thước rưỡi, sâu khoảng hơn bốn thước, cả hai phòng dành cho giáo thọ và yết ma, là hai chức vụ phụ hòa thượng điều hành mọi việc trong chùa. Trên nghi cao của tổ vị, góc trái có một xương đầu cọp, mà theo truyền miệng là của vị tu trì đầu tiên nơi cuộc đất này, ông ngụ nơi đây tịnh tu cùng với một con cọp, mà người xưa gọi là ông hổ tu theo thầy, sau đó vị sư này mất, con hổ cũng chết theo, mộ của con hổ nằm cuối dãy mộ, gần sát mương nước, thuở tôi còn nhỏ, thì núm mộ nhỏ đã lạng gần sát mặt đất, cách đó khoảng 5 thước là một buội trúc sát mương nhỏ, mương này thông ra cống chảy vào sông Long Hồ. Hiện nay xương đầu cọp cũng hô biến đâu mất tiêu, chắc là được vào nồi nấu cao du hí muôn phương rồi. 

Thông thường gian thờ tổ thường xây dựng cao hơn chánh điện một chút, với ước mong hậu bối tấn phát hơn các vị tiên hiền. Bên phải chùa là gian nhà cất riêng biệt rộng, dùng tiếp đãi bá tánh trong những ngày rằm, ngày vía lớn, với hai dãy bàn dài cùng hai bộ ngựa bằng gổ khá to, phía trong cũng nằm bên phải của nhà khách là phòng dành cho khách tăng hoặc tăng nhân của chùa cư ngụ. Phía sau bên ngoài cùng là trù phòng, nơi nấu ăn cho tăng chúng, từ đây mở ra sân sau, nơi an nghĩ vĩnh hằng của hòa thượng, tăng nhân cùng bá tánh.


Vào khoảng năm 1956 bên trái phía ngoài sân trước chùa, chánh quyền có xây một giếng nước dùng bơm tay để đưa nước lên, người dân cũng ít dùng vì sát mé sông, theo thói quen dân cư là xách hay gánh nước từ mé sông lên, lóng phèn là dùng, không phải hì hục bơm, thời gian lâu lại phải chờ đợi, do vậy đám con trai trong xóm buổi xế chiều thường tụ tập kẻ bơn người bịt cho đến khi áp suất lớn, mới nhích khẻ tay ra cho nước văng tung tóe rồi cùng nhau đùa giỡn, hơn mười năm sau, chánh quyền đặt ống nước dẫn vào nhà dân, một trụ nước sạch công cộng đặt sát đường cách giếng nước cũ khoảng 5 thước, về phía cạnh đường đi, kể từ đó giếng bơm tay được gở bỏ. 

Năm 1968 chiến tranh lan vào thành phố, gian nhà khách bị cháy và sập, chùa nghèo không xây dựng lại được, khoảng sau đó ít lâu, hai nhân sĩ địa phương phá bức tường phía trước chánh điện làm cửa mở thẳng ra phía lộ, cho sáng sủa mặt tiền chùa do vậy đức bổn sư không còn ngồi trên nghi cao nhìn tường mà ngó thẳng ra đường cho vui mắt. Đến đây chấm dấu hết nét xây độc đáo dành riêng cho ngôi cổ tự thuộc phái Lâm Tế tông ở địa phương. 

Khi xưa chùa không có cổng, nay trước chùa là chiếc cổng tam quan bề thế, vị trụ trì hiện tại đã khởi công tu sửa và phát triển toàn bộ ngôi chùa đâu khoảng từ năm 2007 cho đến nay là năm 2015. Mặt sân trước được nâng lên cách nền chùa khoảng 2 tấc, do vậy khi vào chùa không còn phải lên năm cấp như xưa. Hai hành lang đông và tây được bỏ vách tường ngăn, nên bề ngang chánh điện được rộng thêm, nền lót gạch men theo hiện thời, chồng lên nền gạch tàu cũ, nơi nghi giữa, có thêm tượng đức Thích Ca cao to, tượng xưa cũng chính giữa nhưng thấp hơn, hai bên vách hông cũng nhiều nghi đặt tượng mà không biết tên vị nào, thành thử cũng không biết luôn thứ bậc “ chức vụ “, cho nên các vị thiện tín khi vái lạy có lẽ vái trổng rồi lạy mà thôi, phần này cũng dễ, thấy tượng phía trước có bát nhang thì cứ cuối lạy là trúng. Ngói nóc từ chánh điện cho đến tổ đường đã hư hỏng khá nhiều được đưa xuống thay gổ hỏng, rồi xấp nóc trở lại, do đó từ trên nhìn xuống vẫn y nguyên kết cấu của ngôi chùa cổ.


Theo cách bày trí ngày nay, thông thường trước chùa miếu thường có tượng đức Quán Thế Âm, thân nữ, ngài đứng, có lẽ tiện lợi cho người cầu nguyện khỏi phải vào chánh điện. Nơi sân khấu sau chánh điện, hiện thời là một ao sen vuông, chiếc cầu bắt bên trên dẫn lối đến một tượng Quán âm ngồi xem sách có lẽ được tạc từ đá cảm thạch trắng, tượng khá bề thế và đẹp. Bên trái khuôn viên sân khấu, một gian xây dành thờ riêng đức Quan Thánh Đế Quân, được biết tượng được tạc từ một gốc cây cổ thụ hàng trăm năm, thế ngồi cao to đen bóng khá uy nghi. 

Bên phải là khuôn viên một trệt hai lầu, tầng trệt một tượng bằng cây to, ngồi trên tòa sen cũng là tượng đức quán thế âm, hai tầng trên sử dụng làm nơi đặt cốt cho bá tánh. Đứng trên bao lơn tầng cao có thể nhìn bao quát thành phố và một phần sông Tiền vĩnh long. 

Dựa theo thông tin được cập nhật gần đây, Phật giáo Việt Nam đã phát triển từ lâu lắm, có lẽ từ trước công nguyên, bởi tại Bắc Ninh đã có trung tâm tu học phật tên gọi – Trung tâm Tuy Lâu – Tại nơi này, đôi vợ chồng người Ấn sang buôn bán, hạ sinh một người con trai, < khoảng giữa những năm 180- 190 > hai ông bà mất khi cậu con còn vị thành niên, vị này xin vào tu học nơi trung tâm Tuy Lâu, tỉnh Bắc Ninh, đó là thiền sư Khương Tăng Hội, tạm gọi là sơ tổ thiền tông Việt nam. 

Vào khoảng giữa năm 500 thời Lý Nam Đế, Tì Ni Đa Lưu Chi đắc đạo với tam tổ Tăng Xán, đã sang Việt Nam truyền pháp. 

Năm 826 nhánh thiền Vô Ngôn Thông vào tiếp 
Năm 867 nhánh Chuyết Công Nguyên Thiều, thuộc dòng Lâm Tế. 
Năm 949 nhánh Vô Ngôn Thông với tông phái Thảo Đường. 
Cuối năm 800 đến đầu những năm 900 nhánh Tào Động Tông với phái Nhất Cú


Năm 1683, thiền sư Nguyên Thiều người Quảng đông, Trung Hoa, theo thuyền buôn vào Bình Định, góp nhặt gạch, đá của Thập Tháp xậy nên ngôi chùa Thập Tháp Di Đà hoàn thành năm 1683. Tính đến nay đã hơn 16 đời truyền thừa dòng Lâm Tế chánh tông nơi chùa Thập Tháp. Các đời kế tiếp xuôi về phương nam theo sự khuyến khích của chúa Nguyễn, riêng thời Tự Đức cho mở mang bờ cõi mạnh về phương nam, kèm theo đó là nơi nào có làng xã thì lập chùa, các sư, tăng, từ các chùa miền trung cũng được vua khuyến khích vào nam khoảng năm 1853. Chùa Long Thiền cũng được tạo dựng trong khoảng thời gian này. 

Vị sư đầu tiên đến lập nơi thờ Phật và truyền bá là hòa thượng Thiện Sơn, ngài đến cùng với một con cọp, về sau ngài tịch con cọp cũng mất theo. 

Vị kế tiếp là hòa thượng Tâm Hội, ngài vốn người Bình Định, họ Lại, sinh năm kỷ tỵ - 1869, là đệ tử chánh truyền dòng Lâm Tế, là tổ thứ 39 của chùa Thập Tháp Di Đà kế thừa và xây cất lại toàn bộ chùa Long Thiền. Trong thời gian hoằng hóa Phật Pháp, ngài lên vùng Châu Đốc mua gỗ súc kết thành bè, xuôi theo sông đưa bè gỗ đến bến an lành, trừ thời gian công phu khuya và sớm, suốt ngày trầm nơi bến sông lo việc cất chùa. Không rõ thời gian xây chùa trong bao năm mới hoàn thành, năm hoàn tất được ghi trên tấm hoành gian giữa chánh điện vào năm nhâm dần ( 1902 ). Hai vị thí chủ lớn của chùa là Đốc Phủ Bảo và bà Phủ Y “ Trương Thị Loan “, ngoài ra còn nhiều vị nữa được ghi trong bảng treo bên vách trong chánh điện của chùa. Như vậy hòa thượng Tâm Hội là sơ tổ chùa Long Thiền, thuộc hệ phái Lâm Tế chánh tông chùa Thập Tháp, ngài viên tịch ngày mùng 3 tháng 8 năm bính tý ( 1936 ), hưởng thọ 63 tuổi. Các đệ tử truyền thừa của ngài thuộc hàng chử Chơn, rất nhiều được phân ra các nơi trong miền nam, hai đệ tử còn lại gắn bó với chùa là, thầy Chơn Hòa và Chơn Nguyện, thầy Chơn Nguyện yết ma kế thừa chùa Long Thiền. 

Khoảng thập niên 70 thầy Yết Ma già yếu, thầy Thiện Tâm kế thừa, Thiện Tâm là pháp hiệu, pháp danh là Từ Khai do sư bác là thầy Chơn Hòa đặt trong lễ xuất gia tại chùa Hội Phước nơi An Hửu, thuộc tỉnh Định Tường, cách bắc Mỹ Thuận khoảng 10 cây số, sau đó ông theo học tốt nghiệp cao trung Phật học, cư ngụ nhiều chùa tại Sài Gòn, sau cùng về chùa Long Thiền 

Giữa năm 1985 Thiện Tâm mời thầy Minh Thanh, đang trụ trì chùa Bảo An, tỉnh Cần Thơ, về chăm sóc chùa, có lẽ do duyên tu của Thiện Tâm đã mãn. Thầy Minh Thanh trụ trì hơn năm năm, rồi cũng rời chùa.



Nhận thấy ngôi tam bảo không thầy chăm sóc, chánh quyền phường 5 mời vị cư sĩ tu tại gia là ông ba Bê, người địa phương đến trông nom hương khói, pháp danh Minh Pháp, ông trở thành trụ trì chùa trong nhiều năm sau đó, vào thuở chính thức nhận chùa, ông cũng đã cao niên lắm, sức yếu, phải nhờ đến một vị thượng tọa phụ việc trong chùa, thầy Phước Quang, vốn là thầy trẻ, có học lại giao tiếp rộng, được các vị thí chủ ủng hộ, trong số đó có vị đại thí chủ là cô Diệu Mãn gần như lo toàn bộ từ xây dựng cho đến an vị các tượng thờ. Chùa Long Thiền có thể được xem như đổi mới toàn bộ, khi viếng khách có cảm giác tôn kính trước cảnh uy nghiêm rạng rỡ của ngôi chánh điện. 

Từ năm 1902 trở về sau là cảnh hưng thịnh của chùa, với đầy đủ lễ nghi theo phong thái tông Lâm Tế, nhưng mang đậm nét tịnh độ của dân tộc Việt nam. Đó là thời của sơ tổ Hòa Thượng Tâm Hội, sau khi ngài tịch, chùa suy hoại từ từ, mãi đến thời thầy Minh Thanh, rồi sư ông Minh Pháp, chùa không còn suy trầm, song chưa phát triển được. Nay đến thời thầy Phước Quang chùa khởi sắc trở lại với nhiều hoạt động Phật sự, đáng lưu ý nhất là rất nhiều tượng được thay đổi mang về thờ trong điện với nhiều tên rất lạ hơi hướng giống tên các tiên thánh bên Tàu. Ngày thường rất ít người viếng, chỉ ngày lễ tết cùng ba rằm lớn là mở rộng cửa cho dân chúng vào lễ lạy. 

Đáng lẽ tôi có nhiều ảnh của chùa Long Thiền, song không thể vào chùa ghi hình được bởi năm 2012 Nhâm thìn, ngày mồng một theo lệ gia đình, tôi cùng con cháu vào viếng chùa chụp vài ảnh con cháu lễ kính, tôi vai đeo máy ảnh, con Bé Ky xuống xe vào trước, tôi định xuống xe vào chùa theo sau cháu, chợt có tiếng nói từ máy phóng thanh của nhà chùa vọng ra, không cho chụp hình, tôi ở ngoài xe chờ cháu lễ xong, đến viếng chùa ông, rồi thiền viện Sơn Thắng, kế đó mới lên nhà mừng tuổi má tôi ở cầu Huyền báo. 

Đó là nguyên do tôi không có nhiều hình về chùa Long Thiền ở gần nhà tôi, nơi ngày xưa tôi tới lui thường xuyên như ở nhà vậy.


Trương văn Phú

Nhớ Nhà



Xướng:

Nhớ Nhà

Gót bước, quê nhà xa lắc lơ
Chiều buông mắt ngóng hướng tây mờ
Tàu cau gợi nhớ vuông vườn ngoại
Tiếng mẹ ru hời những giấc mơ
Đất lạ mà quen danh địa chí (*)
Trời quen nhưng lạ mái nhà thờ
Vẳng đâu tiếng quạ cung sầu thảng
Nửa mảnh hồn ta tựa vất vơ …

Cao Bồi Già
(*): L. SaigonSanta Anna, 08-03-2020
***
Các Bài Họa:
Hồn Tổ Quán

Nghĩa tình nguồn cội dễ gì lơ
Mòn gót phong sương sạm bụi mờ!
Mê mải đường trần sa bể mộng
Lao lung dặm nẻo lạc trời mơ ?
Hiếu chung khắc cốt hằng tu tỉnh
Cúc dục ghi tâm mãi phụng thờ!
Ký ức hằn sâu hồn xứ sở
Chạnh lòng xa xót thuở bơ vơ!

6-3-2020
Nguyễn Huy Khôi
***
Tứ Cố Vô Thân

Ca Li xuân đến trời xanh lơ
Quê mẹ vời trông tận thẳm mờ
Lạc tổ chim sầu kêu tiếng nhớ
Lìa cành lá úa rụng triền mơ
Làn mây viễn xứ còn hoang hoải
Ngọn gió cô phương đã thẫn thờ
Gót lữ đau mòn theo tuế nguyệt
Tay đời cũng mỏi níu vu vơ…

Lý Đức Quỳnh

8/3/2020
***
Tâm Sự Kẻ Xa Quê

Lạc lõng xứ người thân láo lơ
Vời trông quê cũ khuất xa mờ
Con đường đi học ...chìm trong mộng
Quán nước hẹn hò...lạc giữa mơ
Thôn mẹ: sông trăng và bến đợi
Vườn cha: nhà tổ với trang thờ
Mỗi chiều dõi mắt nhìn mây trắng
Lòng lại bồi hồi nghĩ vẩn vơ.

Sông Thu
***

Khắc Khoải

Bao ngày trông đợi chẳng hề lơ!
Trên chuyến ly hương cảnh nhạt mờ!
Nhớ buổi người đưa ngờ giấc mộng
Ghi lời bạn chúc thỏa niềm mơ
Đường quê vời vợi lòng hiu hắt
Sóng biển lao xao mặt thẫn thờ
Khắc khoải canh dài ôm vạn mối!
Trăng già thương cảm bóng chơ vơ!

Như Thu
03/08/2020
***
Xa chốn cũ

Trông về xứ mẹ,biển xanh lơ
Mây trắng lang thang,núi nhạt mờ
Cảnh lạ,chưa nằm trong ký ức
Tên quen,từng gọi giữa cơn mơ*
Tiết xuân trở lại hoa tươi thắm
Tiếng quạ bay qua,dạ thẫn thờ
Khóm trúc vườn ai khơi nỗi nhớ
Xa rồi...mái rạ, thấy bơ vơ

*sài gòn(little)

Thanh Hoà
***

Nhớ Quê Hương

Nhìn lên mây trắng khó làm lơ,​
Chạnh nhớ quê hương tận mịt mờ.​
Những buổi chiều tàn thầm ước vọng,​
Một mai trời sáng thỏa hoài mơ.​
Trở về cố quốc yêu sâu đậm,​
Thăm lại người xưa nhớ thẫn thờ.​
Đất khách lang thang đời bất định,​
Xứ người lạc lõng sống bơ vơ.​ 

Nguyễn Thị Mỹ Ngọc.​
Mar.8/2020
.​***
Hoài Hương

Đất khách quê người dạ chẳng lơ
Quê hương đậm nét khó phai mờ
Sông nằm nhớ mãi con đường mộng
Bến ngủ thương hoài góc phố mơ
Gắn bó hoà chung nơi lớp học
Lân la nhập hội ở ngôi thờ
Khung chiều dạo bộ lòng hoang vắng
Nắng rũ chân đồi mắt vẩn vơ 

Minh Thuý
Tháng 3/8/2020
***
Ra Khơi

Trùng dương bát ngát biển xanh lơ
Mấy chốc làng thôn ẩn hiện mờ
Mây ráng chân trời dải lụa tím
Xóm chài xa tắp khói lam mơ.
Buồm giăng sóng vỗ lòng se thắt
Gió nổi thuyền đi dạ thẫn thờ.
Đăm đắm trông theo viền núi biếc
Nhớ nhà chiều xuống nỗi bơ vơ.

Mailoc
***

Xứ Lạ Buồn Tênh

Đã tới rồi ư, khách giả lơ
Biển tây xa thẳm khói sương mờ
Chưa đi, có vẻ như thầm mộng
Vừa đến, sao đành nghĩ chỉ mơ
Ở hẳn hay về còn lãng đãng
Chơi thôi hoặc nhớ cũng bơ thờ
Trời cao, đất thấp đều ngơ ngẩn
Xin chớ buồn đây đó vẩn vơ...

Hawthorne 8 -3 - 2020
Cao Mỵ Nhân
***
Thầm Mong

Bỗng chốc mây buồn treo lửng lơ
Tâm xao xuyến đến mắt hoen mờ
Nương đồi xanh thẳm tươi đồng lúa
Biển bạc bao la sáng ước mơ
Sợ ở phương xa quên tục lệ
Thầm mong chốn mới nhớ đền thờ
Vấn vương sáu khắc năm canh mãi
Dạ cứ nôn nao nghĩ vẩn vơ 

Hồng Phượng
 ***
Chiều Buông

Đồi vắng mây chiều treo lửng lơ
Dừng chân dõi mắt tít xa mờ
Ngời ngời nét ngọc khơi duyên đắm
Đạo mạo dung nghi gọi ước mơ
Hà cớ thần quang dường dã dượi
Can chi sắc vóc toát ơ thờ
Ai hay viễn khách lòng đau đáu
Đất tổ trông vời trí vẩn vơ

Phương Hoa 
Mar 8th 2020
***
Nhớ Quê

Xứ người quê ngóng bóng xa lơ,
Ẩn hiện đâu đây dáng thoáng mờ.
Lời mẹ mãi in như giấc mộng,
Tiếng ba dường ẩn tợ trong mơ.
Nghìn trùng đất Mỹ ngồi hiu quạnh,
Viễn hút quê xưa nghĩ thẩn thờ.
Nhớ quá Việt nam! Ôi nhớ quá!
Mượn vần thơ thẩn đọc vu vơ.

Hồ Nguyễn
(09-3-2020)
***
Nỗi Lòng Kẻ Xa Quê

Nhìn về quê Mẹ bể xanh lơ
Xa tít mù khơi quá mịt mờ
Nhớ mãi vườn xưa bao nỗi xót
Thương hoài cảnh cũ lắm niềm mơ
Xứ người thấy lạ lòng hiu quạnh
Đất khách chưa quen trí thẫn thờ
Còn chút hồn say nên khắc khoải
Như vầng mây trắng lạc bơ vơ

songquang
20200308
***
Gợi Nhớ

Đứng ngẩn ,trông vời mây lửng lơ
Quê hương thấp thoáng giữa sương mờ
Đồi xưa...xanh biếc con diều nhỏ
Hiên vắng ...êm đềm nhịp võng mơ
Một sớm mưa buồn ...thân lử thứ
Bao đêm lệ đẫm...dáng ơ thờ
Xa xôi...mấy chục năm thầm lặng
Ai gợi ?cho hồn thêm vẩn vơ !

Thy Lệ Trang
***
Cứ vẩn vơ!


Chìm mài ven rừng hát lới lơ
Nay đà thoát được cảnh mây mờ
Nhìn Nga, nó đó vào mộng tưởng
Ngắm Mỹ, ta đây nảy ước mơ
Nước họ văn minh nên dạo viếng
Quê mình lụp sụp đáng chi thờ
Đời không nghệ giỏi tiền đâu chứ
Đành tắm ao nhà, cứ vẩn vơ !

Trần Như Tùng

***
Thanh Thản Từ Đây


Phố xá Saigon, xa tít lơ
Quê hương bỏ lại, lệ hoan mờ
Vì đâu lưu lạc về nơi lạ
Chẳng nhẽ kiếm tìm lại giấc mơ
Gian khổ đũ rồi, thôi tạ biệt
Nghĩa tình còn chút, đáng tôn thờ
Đất lành chim đậu, vui sum họp
Thanh thản từ đây hết vẩn vơ.

Thanh Trương
***
Dời Đô

Ngước mắt lên trời sắc xanh lơ
Vời trông chỉ thấy bóng mây mờ
Thương bao kỷ niệm thời thơ ấu
Nhớ những ân tình thuở mộng mơ
Xứ lạ nên lòng còn bỡ ngỡ
Nhà cao nhưng dạ vẫn ơ thờ
Tình quê lưu luyến không xao lãng
Giấc ngủ mơ màng nhớ vẩn vơ!

Thiên Lý
***
Trời Quen Đất Lạ

Nơi đâu trời đất cũng xanh lơ
Nhà cũ vời trông biển mịt mờ
Đất Mẹ thương hoài nơi ướp mộng
Quê Cha nhớ mãi chốn thầm mơ
Lòng người viễn xứ buồn rười rượi
Dạ kẻ tha hương xót thẫn thờ
Mới đến , chưa quen nên thấy lạ
Lâu dần , hy vọng hết bơ vơ

Người Sông Cửu
***
  Sầu Quê

Xa vời đất lạ núi xanh lơ,
Gió thoảng mây trôi sóng biển mờ.
Ga đẹp xứ người tươi phố mộng,
Bướm hồng hoa lá thắm tình mơ.
Tà dương nắng tím nhìn vương vấn,
Cảnh sắc vườn xinh ngó thẫn thờ!
Tha thiết dạ quê sầu tưởng nhớ…
Nhà tan cách nước hận buồn vơ!

Liêu Xuyên

***
Vọng Khúc Cô Lữ

Càng thêm sâu lắng giọng hò lơ
Khi bóng miền quê chẳng khuất mờ
Mai mốt tương lai neo bến thực
Bây chừ kỷ niệm tắm dòng mơ
Miếu đình tiên tổ đà thương phụng
Hương khói ông cha mãi kính thờ
Cô lữ không nhà đành gửi gió
Ru thành vọng khúc đỡ buồn vơ...

11-3-2020
Phan Tự Trí

Thứ Ba, 10 tháng 3, 2020

Nhạc Kịch Đàn Ca Tài Tử - Kiều ( Nguyễn Du)

Trúc Tiên và toàn Ban kính mời quý vị tham dự buổi nhạc Kịch: Kiều.
Trân trọng kính mời 


Bông Sầu Riêng - Thơ Đỗ Thị Minh Giang - Nhạc Nguyễn Hữu Tân



Thơ Đỗ Thị Minh Giang 
Nhạc Nguyễn Hữu Tân
Tiếng Hát: Thùy An

Thu Quạnh Hiu


(Ảnh - N.Đ.Trọng & Thanh Đan)

Đất trời thay áo khoe vàng đỏ
Gần cuối thu rồi em ở đâu?
Đảo xa đất khách sầu mưa gió
Bạn cũ loe hoe trắng mái đầu

Thi hữu cách chia chẳng thấy mặt
Rải rác phương trời khắp năm Châu
Vẳng tiếng vọng âm gầm đại pháo
Sắc mầu chinh chiến sao bền lâu?

Thu đến thu đi  thu lại lại
Hà nội thu xưa mối tình đầu
Thừa Thiên Thành Nội thu êm vắng
Sài gòn còn tưởng thu tình sâu

Đã lắm lá vàng chen lá đỏ
Ta khóc cho em mối tình sầu!
Gần cuối thu rồi còn tìm mãi,
Ai người mang ấm sưởi hồn nhau?

Locphuc

Tình Lỡ



(Họa từ thơ của Tác Giả Phạm thị Mỹ Phương)
Tình lỡ muộn màng dạ ngổn ngang
Mây trời lãng đãng sắc thu vàng
Hương tình lai láng muôn cành thắm
Sương khói lung linh mấy dậm hoang
Điệu nhạc reo vang hòa khóm trúc
Lời ca vi vút vọng cành bàng
Chờ hoài chẳng thấy người xưa đến
Chỉ có nỗi sầu mãi nặng mang.

Toronto 3/3/2020
Nguyên Trần

Nỗi Niềm Em



Bài Xướng:

Nỗi Niềm Em


Ngày qua tháng lụn thân già
Cùng sông cùng núi quanh ta bóng chiều
Tháng năm còn đó bao điều
Còn trong trăng gió mãi trêu tình người.
Bao mùa gối mộng ngày trôi
Vọng âm vạn dặm xa xôi đất trời
Tóc mây buông gió hiên đời
Bâng khuâng sợi nắng đầy vơi nỗi niềm

Hương Thềm Mây
2020
***
Bài Họa:

Nỗi Niềm Riêng

Lá vàng rụng dưới cội già
Khác chi héo hắt bóng ta cuối chiều
Còn đây manh áo lụa điều
Ủ hương xưa giữ như trêu lòng người
Thời gian vun vút mùa trôi
Tâm hơi biền biệt xa xôi mây trời
Người vui say giấc mộng đời
Xót xa kẻ ở sao vơi cảm niềm

Kim Oanh
3/2020

Trần Ai



Trần ai cứ tưởng chốn nhân gian
Cõi thật nên người ở địa đàng
Mở mắt vào đời sinh lão bệnh
Khóc nhòe nhập thê bước quan san
Bạn thân thấu hiểu bao lâu nữa
Tri kỷ nào hay khoảnh khắc sang
Sống tạm trả vay còn nợ mãi
Phù du cát bụi mớ tro tàn

Phù du cát bụi mớ tro tàn
Xuất thế từ tâm hỉ xả ban
Sự nghiệp tiêu tan đâu phú quý
Cơ ngơi hủy hoại đấy kinh hoàng
Lìa đời chôn cất bàn tay trắng
Tạ thế hỏa thiêu cỗ áo quan
Giây phút dứt hơi như gió thoảng
Hồn theo khói quyện gởi mây ngàn

Mai Xuân Thanh
Ngày 06 tháng 03 năm 2018

Thứ Hai, 9 tháng 3, 2020

Phân Biệt Giữa Coronavirus, Cảm Cúm, Và Cảm Thường - Bác Sĩ Wynn Tran



Bác Sĩ: Wynn Trn

Anh Vẫn Đợi



(Gửi người “Chiêm Bao” – KP)

Anh vẫn đợi nắng về qua khung cửa
Một ngày thôi sao cứ ngỡ nghìn trùng
Tim vẫn đập theo điệu mòn rất cũ
Như con tàu lầm lũi chuyến hoàng hôn

Anh vẫn đợi cuối mùa hoa trái nở
Cành cây thưa in bóng dáng em về
Như cánh cò đáp bờ sông bữa nọ
Bến nước nào sương trắng phủ buồn ghê..!

Anh vẫn đợi tháng năm dài thăm thẳm
Một ngày kia sẽ hết nợ phong trần
Câu hát cũ ru lòng người thiếu phụ
Nhánh sông dài vọng lại tiếng ngàn năm

Anh vẫn đợi như một lời tạ lỗi
Con sáo còn nhớ lại nhịp cầu qua?
Thương dĩ vãng kéo về theo cơn lũ
Nước leo bờ ngập cả khoảng trời xa


Anh vẫn đợi từng chiêm bao bất chợt..!


Nguyễn Hoài Nam

Còn Chút Hương Xưa



Nắng nghiêng xuống gió đưa lời biển
Mây dạt trời sương sóng vỗ bờ
Ta giữa mênh mông trời đất ấy,
Phút giây hồn nhập với tình thơ.

Người đến đây, ta cũng đến đây
Phương trời phiêu bạt, một nguồn say
Áo đời mấy lượt phai màu nắng,
Còn chút hương xưa đọng tháng ngày.

FL, 1 tháng 3 . 2020.
Mặc Phương Tử