Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2016

Nỗi Buồn Hoa Phượng - Thanh Sơn - Mai Thiên Vân


Nhạc Sĩ: Thanh Sơn
Ca Sĩ: Mai Thiên Vân
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình

Tình Xưa

Tình xưa, nghĩa cũ, mây trôi. Bệnh già êm ngồi chép lại mấy vần thơ cũ thay lời thăm hỏi.
Cầu nguyện thương yêu và an lành cho tất cả chúng ta. PKT 05/31/2016



Tình Xưa

"Sớm nay tiếng chim thanh trong gió xanh 
Dìu vương huơng ấm thoảng xuân tình"
(Màu Thời Gian - Đoàn Phú Tứ)

"Tóc mây một món chiếc dao vàng" 
Tình nghĩa còn đây chút dở dang.
Phận số không cho tròn nguyện ước 
Bể dâu đành chịu lỡ cung đàn.
Ba sinh hương lửa bao đời hận 
Duyên nợ đá vàng mấy kiếp mang.
Ngày ngắn, đêm dài, nơi đất khách 
Thẫn thờ nhìn ngắm ánh trăng tan. 

(Mây Tần - Tạ Tình)

Phạm Khắc Trí

Huyền Thoại Về Bác Vật Lang Đào Đất Địa Sưu Khảo



Bác Vật Lang tên thật là Lưu Văn Lang chào đời tại làng Tân Phú Đông - Sa Đéc ngày 5.6.1880.
Thân phụ là ông Lưu Văn Cứng. Thuở trẻ ông học chữ Nho. Đến mười tuổi ông mới bắt đầu học chữ Pháp và quốc ngữ. Thông minh vốn sẵn tính trời, lại thêm có lòng hiếu thảo với cha mẹ, ông cố gắng hơn các bạn đồng học, cùng trang lứa. Chăm chỉ học tập chuyên cần chẳng mấy năm, ông vào học ở trường Trung học Chasseloup Laubat tại Sài Gòn năm 1897.
Năm mười bảy tuổi tài học của ông áp đảo bạn đồng môn, được chánh phủ Pháp cấp học bổng qua Paris theo học trường Cao đẳng Bách khoa Quốc gia.

Năm 1904 thì ông ra trường, đậu hạng 8 trong số 250 thí sinh, nghiễm nhiên là vị kỹ sư (Ingénieur des Arts et Manufactures de l’École Centrale de Paris) nhưng dân gian kính mộ vẫn gọi là Bác vật Lang.
Khi ông về nước, tài ba “Bác Vật Lang” truyền tụng khắp trong xứ. Đầu tiên là Chánh phủ Pháp bổ nhiệm ông lên Vân Nam lo thiết lập đường xe lửa. Rồi đến năm 1909, ông về giúp việc trong sở Công chánh Sài Gòn đến năm 1940.

Trong năm 1933, ông đảm nhận chức vụ “Hội viên hội đồng danh dự và cố vấn”cho đến năm 1942.
Sau cuộc đảo chính của quân đội Nhựt ngày 9.3.1945, Pháp trao trả quyền hành lại cho vua Bảo Đại, nội các đầu tiên do cụ Trần Trọng Kim thành lập, có mời ông và ông Hồ Tá Khanh ra Huế đảm nhận chức vụ Tổng Trưởng. Rồi biến cuộc xảy ra trên đất nước, ông giữ khí tiết, không chịu hợp tác gì với người Pháp.

Tài năng của ông từng khiến các vị kỹ sư người Pháp đều thán phục, đức độ và tâm chí của ông được hầu hết các nhân sĩ trọng vọng kính nể.
Con người có tài có đức, hẳn là trời đất ưu ái, dành cho đầy đủ phước, lộc, thọ. Vợ chồng ông sinh ra rất đông con cái, đều sống khỏe mạnh thông minh. Năm 1930, ông đã có đến 9 người con…

Năm 1954 vì nhiệt thành yêu nước, ông tham gia phong trào Hòa Bình với địa vị chủ tịch danh dự, thuộc Ủy Ban Hòa Bình Sài Gòn, bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giữ trong đợt thứ nhất vào tháng 11 năm ấy. Ông từ trần ngày 03.8.1969, thọ 90 tuổi…

Báo “Đuốc nhà Nam” ngày 08.08.1969, chủ bút là ông Trần Tấn Quốc, đã viết một bài đăng ở trang nhất, nơi danh dự với nhan đề: “Kính điếu cụ Lưu Văn Lang, một sĩ khí miền Nam” lời lẽ vô cùng cảm xúc và chân thành rất mực.

Huyền thoại về “Hang Bác Vật Lang”
(Theo sự thuật lại của Tu sĩ Trần Văn Phúc)

Thế núi Thất Sơn nhất là: núi Dài, Cô Tô, núi Cấm, có vùng nó chỉ toàn là đá, cứ đá chồng lên đá, có chỗ bên trong như tàng ong, bộng rỗng tạo thành hang đá, thời kháng chiến có hang là cả một trung tâm, lương thực, bệnh viện… thậm chí có cả ban chỉ huy dưới hang.
Vị trí hang Bác Vật Lang:

Chùa Vạn Linh

Ta lên núi Cấm lấy mốc là Chùa Phật lớn (Trung tâm hành hương) đi về hướng tây tới chùa mới xây là Vạn Linh (hiện tại xây tượng Phật Di Lặc, với uy thế kỳ quang).
Rời chùa Vạn Linh đi tiếp khoảng vài trăm mét đến chỗ có tấm biển nhỏ có mũi tên, chữ “Hang Ông Thẻ và Bác Vật Lang” từ đó xuống, có dây nương theo mà đến miệng hang.
Do vì Bác vật Lang đã thám hiểm hang này nên người ta gọi hang đó là hang Bác vật Lang.

Chuyện kể: Hôm đó đến phiên thám hiểm hang ở núi Cấm, đoàn thám hiểm đến hang này thấy có vẻ sâu và nguy hiểm, nên không dám xuống, mới cho khỉ xuống trước.
- Khỉ xuống trước : buộc dây vào cổ khỉ, cho khỉ xuống hang, khỉ đi khá lâu, càng lâu, càng sâu rồi im bặt (không còn động đậy). Lúc kéo lên rất nhẹ, đến lúc hết dây thấy chú khỉ mất tích, có điều là đầu dây chỉ có dấu tháo mở mà thôi.

- Chó xuống kế: Đoàn tiếp tục cho chó berger xuống tiếp, cũng buộc dây vào cổ như chú khỉ trước, kết quả cũng độ sâu đó rồi im hẳn, dấu dây cũng bị tháo như cũ.

- Người thám địa huyệt: Rồi bỗng cả đoàn nhao lên, không biết hiện tượng gì lạ lùng ? Từ xưa tới nay chưa từng xảy ra. Phần lo sợ vì “hiện tượng lạ”. Nhưng có điều… Bác vật Lang cứ trầm tư… Tánh hiếu kỳ của đoàn bị kích thích, cuối cùng Bác vật Lang tình nguyện một mình đơn độc xuống hang.

Lúc này vì cho người xuống nên hết sức cẩn thận, “dây giật làm tín hiệu liên tục”, cứ liên tiếp trên giựt ba cái, dưới giựt trả lời ba, trên giựt hai cái, dưới trả lời hai, cứ thế mà tiếp tục xuống đến… hết dây. Trên hang giựt ba cái, dưới im lặng… Trên giựt liên tục… dưới im lặng
Sau thời gian khá lâu, đợi chờ mãi, từng giây, từng phút nặng nề trôi qua. Giờ trong đoàn kẻ đi tới, người đi lui rồi chỉ nghe tiếng thở ra, chắc lưỡi.

Trời đã về chiều, từng tiếng kêu, từng tiếng hú của loài vượn khỉ, một cảnh tượng ngột ngạt. Giờ chỉ biết nhìn sự chậm rãi của bóng hoàng hôn, rồi bóng đêm phủ trùm lên núi rừng…

Suốt đêm không ngủ, mỗi người đôi mắt như dán chặt vào miệng hang, thỉnh thoảng có bóng đèn pin lóe sáng, họ ngồi dựa vào nhau, gục gặc đầu... không, họ ngủ gật !

Trời chưa sáng mà mọi người đã tỉnh hẳn, và không nói, tiếp tục chờ… Bỗng một bóng đen bò lên chậm rãi. Một tiếng thét hãi hùng “Á !”. Bỗng giọng chùng xuống, Bác vật Lang… Vâng ! Đúng Bác vật Lang rồi!
Bác vật Lang còn sống, nhưng ông chỉ ú ớ, cho đến bây giờ chúng ta cũng chẳng biết cái gì trong đó.
Sau nghe nói Bác được đưa về Sài Gòn chữa trị, sức khoẻ thời bình phục, nhưng vẫn không nói được câu nào. Cũng từ đó mà có câu ca :

Đàn kêu tích tịch tình tang
Đố ai biết được trong hang là gì?
Đàn kêu tích tịch tì t
Đố ai biết được cái gì trong hang?

Hôm nọ có đoàn đại diện Bửu Sơn Kỳ Hương đến thăm, được bác tiếp, không biết do bác vô tình hay cố ý mà chỉ nói vỏn vẹn một câu. Các vị bô lão hỏi; 
- Thưa ông, ông đã thấy gì trong ấy ?
Bác trả lời:
- Tôi… chỉ nói… như… vầy… “Ở… dưới núi… là một mâm cơm… dọn sẵn… trên núi là một… cái lồng bàn… dỡ ra là ăn…, các ông… ráng tu”.
Cũng chỉ nói bấy nhiêu, cúi đầu chào rồi đi vào bàn Phật tiếp tục ngồi thiền.
Chỉ nói bấy nhiêu ! Nghe nói về sau cho đến lúc cuối cùng vẫn mang xuống đáy mồ chứ không nói thêm một câu nào.

Đào Đất Địa sưu tập.

Ngoài những câu chuyện về rắn thần, các cao tăng, thú dữ... thường được đề cập thì câu chuyện bí ẩn ở hang Bác Vật Lang có lẽ nhiều người chưa biết. Đặc biệt, những điều bí ẩn trong hang Bác Vật Lang cho tới nay vẫn chưa được khám phá ra, càng làm cho vùng này thêm phần kỳ bí.

Trong hang có gì?

Câu hỏi này tưởng chừng như sẽ được trả lời, khi mọi người thấy Bác Vật Lang chui lên khỏi miệng hang. Thế nhưng, một câu nói với những chữ rời rạc như trở nên bất hủ của ông còn lưu truyền tới ngày nay đang làm nhiều người thắc mắc: Dưới hang có gì? Đến nỗi, dân gian nơi này còn có một bài vè về sự này: "Đàn kêu tích tịch tình tang/Đố ai biết được trong hang là gì?/Đàn kêu tích tịch tì tì/Đố ai biết được cái gì trong hang?".

Theo lời kể lại của ông Trần Văn Phúc, một chuyên gia biết nhiều về vùng đất này thì chuyện kể lại rằng, có một đoàn thám hiểm các hang ở dãy Thất Sơn. Sau khi hoàn thành thám hiểm nhiều hang, đến hang ở núi Cấm, đoàn thám hiểm thấy có vẻ sâu và nguy hiểm nên cho khỉ xuống trước. Khi khỉ xuống, người ta buộc dây vào cổ, cho khỉ xuống hang. Khỉ đi khá lâu, càng lâu, càng sâu rồi im bặt, không còn động đậy. Đợi mãi không được, mọi người kéo dây lên thì cảm giác rất nhẹ. Đến lúc hết dây không thấy chú khỉ đâu nữa. Có điều là đầu dây chỉ có dấu tháo mở mà thôi.

Giải thưởng lớn cho cuộc thi ảnh Việt Nam Xanh
Những bí ẩn đó đã theo chân Bác Vật Lang về bên kia thế giới để lại không ít thắc mắc cho đời sau.
Vẫn chưa yên tâm, đoàn đã nghĩ ra cách cho con chó berger xuống. Chó xuống, họ cũng buộc dây vào cổ như chú khỉ trước, kết quả cũng độ sâu đó rồi im hẳn, dấu dây cũng bị tháo như cũ. Theo lời kể của ông Trần Văn Phúc thì lúc đó, cả đoàn nhao lên, không biết hiện tượng gì lạ lùng đã xảy ra dưới hang? Chuyện này, từ xưa tới nay chưa từng xảy ra. Phần lo sợ vì hiện tượng lạ, phần muốn biết dưới hang có gì mà kỳ quái đến thế, cả đoàn cứ loay hoay. Trong khi đó, Bác Vật Lang cứ trầm tư... Sau một hồi, cuối cùng Bác Vật Lang tình nguyện một mình đơn độc xuống hang. Sau một hồi tính toán, cả đoàn bàn mưu tính kế để cho Bác Vật Lang xuống được an toàn, một kế hoạch đã được vạch ra.

Theo đó, khi Bác Vật Lang xuống sẽ được cột dây làm tín hiệu. Những người ở trên sẽ giật dây để theo dõi và ngược lại Bác Vật Lang cũng sẽ giật trở lại. Xuống một đoạn, sợi dây được giật liên tục ở hai đầu. Càng xuống sâu bao nhiêu thì sợi dây được giật liên tục bấy nhiêu để báo hiệu. Đến khi hết dây nhưng không thấy tín hiệu giật dây của Bác Vật Lang, mọi người thực sự lo lắng. Họ liên tục giật nhưng dưới hang vẫn im lặng đến đáng sợ... Khi màn đêm buông xuống, cũng là lúc những loài thú bắt đầu cuộc đi ăn đêm. Khỉ, vượn và những loài thú dữ khác cứ hú, gầm xé tan màn đêm trên núi Cấm, làm cho cảnh tượng hãi hùng vô cùng.

Cả đêm, không nghĩ ra cách gì khác, họ cứ thấp thỏm và chờ đợi. Trong khi đêm đen cứ ôm lấy dãy núi, nhiều người đã nghĩ tới cảnh tượng xấu nhất diễn ra. Cho tới khi trời dần sáng ra, mọi người đang loay hoay tính phương án khác... thì bỗng nhiên có một bóng người lồm cồm bò lên. Có người phát hiện ra đó chính là Bác Vật Lang và thét lên "A Bác Vật Lang. Đúng Bác Vật Lang rồi" và mừng rỡ vô cùng.

Tuy Bác Vật Lang còn sống và bò lên được miệng hang, nhưng các thành viên trong đoàn cũng không biết trong hang có gì. Vì Bác Vật Lang chỉ ú ớ được vài tiếng rồi không nói được gì thêm. Sau đó, Bác Vật Lang được đưa lên Sài Gòn chữa trị, một thời gian sau đó, sức khỏe phục hồi nhưng vẫn không thể nói được. Các bác sỹ cũng bó tay không hiểu nguyên nhân vì sao. Khi có đoàn đại diện các bô lão Bửu Sơn Kỳ Hương (giáo phái do đức Phật Tây An Đoàn Minh Huyên sáng lập) đến thăm, được Bác Vật Lang tiếp. Nhưng không biết do Bác Vật Lang vô tình hay cố ý mà chỉ nói vỏn vẹn một câu, khi các vị bô lão hỏi: Thưa ông, ông đã thấy gì trong ấy?

Bác Vật Lang trả lời: Tôi... chỉ nói... như... vầy... "Ở... dưới núi... là một mâm cơm... dọn sẵn... trên núi là một... cái lồng bàn... dỡ ra là ăn..., các ông... ráng tu". Bác vật Lang chỉ nói bấy nhiêu, cúi đầu chào rồi đi vào bàn Phật tiếp tục ngồi thiền. Cho đến khi qua đời, Bác Vật Lang cũng không nói thêm câu nào, thế là mọi bí mật trong hang vẫn là bí ẩn với mọi người và đi theo Bác Vật Lang về nơi chín suối. Chính vì thế người ta đã đạt hang này theo tên ông.
Núi Cấm có nhiều giai thoại, đặc biệt là hang Bác Vật Lang vẫn còn nhiều bí ẩn phía trong.

Nhà khoa học đầu tiên của Nam bộ

Ông Phi Vân, một người sống lâu năm tại khu vực núi cấm và được xem là thổ địa của núi này cho biết, đã từng dẫn một đoàn có gan, dám thám hiểm hang Bác Vật Lang. Dù chuẩn bị chu đáo, cẩn thận với nhiều thiết bị nhưng cuối cùng cũng chỉ xuống được một đoạn trong thời gian nửa ngày trời. Ông Vân cho biết, trong hang rất nhiều ngõ ngách thông với nhau, đi hoài không không thấy cái gì cả. Và mọi bí mật về hang Bác Vật Lang vẫn là bí ẩn cho tới ngày nay.

Người ta lại càng nhớ Bác Vật Lang. Bác Vật Lang, tên thật là Lưu Văn Lang (1880 - 1969) người làng Tân Phú Đông, hạt Sa Đéc, (thị xã Sa Đéc, Đồng Tháp ngày nay). Ông là kỹ sư bản xứ đầu tiên và cả Đông Dương, chính vì vậy mà dân gian quen gọi ông là Bác Vật Lang (ý nói ông là nhà khoa học).

Ngay từ nhỏ, ông đã bộc lộ những tư chất thông minh, chăm chỉ. Thủa nhỏ ông học chữ Nho, lên 10 tuổi bắt đầu học chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp, sau đó giành được suất học bổng đặt cách vào trường Chassluop-Laubat ở Sài Gòn. Đến khi 17 tuổi, ông thi đậu tú tài 2 của Pháp với điểm xuất sắc và nhận được học bổng sang Pháp học tại trường Bá nghệ Trung ương Pháp quốc. Đây là ngôi trường đào tạo kỹ sư lớn nhất tại Pháp lúc bấy giờ.

Đến năm 1904 thì ông tốt nghiệp, đứng hạng 8 trong tổng số 250 sinh viên. Ngày nay, về miền Tây, đặc biệt là các địa phương: Đồng Tháp, Bạc Liêu, An Giang... nhiều người cố cựu nơi đây đều biết đến nhà bác học này. Ông vốn là người rất đức độ và tài năng nên được mọi người hết sức kinh nể. Đặc biệt là những lần "thần cơ diệu toán như thần" nên dân gian khu vực miền Tây Nam bộ đã phong cho biệt danh là người biết được "thiên cơ".


Đồng hồ Đá ở Bạc Liêu ngày nay.
Bí mật phía sau chiếc đồng hồ mặt trời

Biết được chuyện này, viên tỉnh trưởng tỉnh Bạc Liêu thời ấy đã vô cùng kính phục Bác Vật Lang. Phần vì mến mộ tài năng, phần vì quý Bác Vật Lang có đức độ nên viên tỉnh trưởng đã khoản đãi Bác Vật Lang như khách quý. Đáp lại tình cảm đó, Bác Vật Lang đã tặng viên tỉnh trưởng một chiếc đồng hồ đá ngay trong khuôn viên dinh tỉnh trưởng Bạc Liêu (nay là Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Bạc Liêu). Đồng hồ này có hai mặt hình vuông được xây bằng gạch tàu, mỗi mặt khắc 6 chữ số La Mã theo hình vòng cung, biểu thị số giờ. Khi ánh nắng chiếu xuống phần hình chữ nhật tạo ra vệt sáng tối. Con số nào nằm giữa hai vệt này là số giờ lúc ấy. Lúc bấy giờ, viên chức muốn đi làm chính xác thì tạt ngang dinh tỉnh trưởng nhìn giờ rồi vào sở làm. Cho tới ngày nay, chiếc đồng hồ này vẫn còn hoạt động và số giờ "chạy" tương đối chính xác như đồng hồ đeo tay.

(Yên Đỗ - sưu tầm&tổng họp từ Net)


Mùa Hè



Bài Xướng: Hè Về

Sinh viên tốt nghiệp đã ra trường,
Báo hiệu hè về thấy vấn vương.
Nắng hạ chia tay từng lớp học,
Mùa hè tạm biệt bạn muôn phương.
Quê nhà nhảy nhót vui bơi lội,
Phố thị rong chơi kỷ niệm thường.
Nhớ mái trường xưa ngày họp mặt,
Thầy yêu bạn quý với tình thương.

Mai Xuân Thanh
***
Họa: Vấn  Vương Kỷ Niệm


Cũng đã từ lâu biệt mái trường,
Mà bao kỷ niệm mãi còn vương.
Quên sao lớp học từng niên khóa,
Nhớ quá bạn bè khắp bốn phương.
Gốc phượng tán xòe không biến đổi,
Bồn hoa nụ thắm vẫn như thường.
Mỗi năm hè đến lòng xao xuyến,
Đầy ắp tâm tư nỗi luyến thương.

Phương Hà
***

Nhớ Hè Xưa

Ba tháng ve kêu lúc bãi trường,
Mấy mười năm cũ mãi còn vương.
Thị thành trốn nắng về quê ngoại,
Quê ngoại ra thành đi bốn phương.
Lưu bút ngậm ngùi thêm quyến luyến,
Phượng hồng đỏ thắm gởi vô thường.
Hè về mỗi độ lòng xao xuyến,
Mấy chục năm rồi vẫn luyến thương.

Đỗ Chiêu Đức
***
Bãi Trường

Còn mấy ngày thôi đến bãi trường
Lòng tôi cảm thấy chút buồn vương
Cháu con đưa rước ngưng vài tháng
Thơ phú nằm nhà gởi bốn phương
Trí nhớ lụn tàn đâu mãi mãi,
Mộng mơ tan biến cũng vô thường
Bâng khuâng nhớ lại hè thơ ấu,
Thầy cũ bạn bè mãi nhớ thương 

Mailoc

Thứ Sáu, 10 tháng 6, 2016

Giấc Mơ Hoa


Thơ: Vĩnh Trinh
Thơ Tranh: Kim Oanh


Việt Nam Văn Học Sử Yếu - Dương Quảng Hàm.(Chương Thứ Hai)

VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ YẾU
THIÊN THỨ HAI
ẢNH HƯỞNG CỦA NƯỚC TÀU
CHƯƠNG THỨ HAI


VĂN CHƯƠNG CỔ ĐIỂN

Những điều giản - yếu về các sách giáo khoa cũ để học chữ Nho 
(Thứ nhất là cuốn Tam Tự kinh) 
Như chương dẫn đầu đã nói, xưa kia, ở nước ta, chữ Nho là thứ chữ dùng trong việc học việc thi. 
Trước khi học đến Tứ thư, Ngũ kinh, Bắc sử, Cổ văn, thì người học chữ Nho phải học qua các sách giáo khoa thông thường để có được cái học lực kha khá mà đọc các sách kia. Vậy ta phải xét các sách ấy, trước khi nói đến kinh, truyện. 

Mục đích và phương pháp sự học chữ Nho. Trước hết ta nên nhận rằng mục đích sự học chữ Nho của ta ngày xưa không những là học chữ Nho thông hiểu văn tự, mà thứ nhất là học cương thường đại nghĩa. Ta đã có câu: “Tiên học lễ, hậu học văn (Trước hẳn học lễ phép, sau mới học văn chương) đủ chứng rõ cái khuynh hướng của sự học ấy. 
Bởi cái mục đích chú trọng về luân lý ấy, nên cách dạy không vụ sự mẫn tiệp, khiến cho người học chóng biết dùng chữ đặt câu, không theo những phương pháp sư phạm như “do thiển nhập thâm”, nghĩa là dạy từ điều dễ đến điều khó. Bất kỳ bài học nào cũng là bài học luân lý, mà dạy một câu là dạy một điều đạo nghĩa, cương thường, nên không kể gì tuổi và trình độ của học trò mà có khi đem những chữ rất khó, những nghĩa lý rất cao dạy ngay những trẻ mới vỡ lòng. Như mấy câu đầu trong cuốn Tam tự kinh đã nói đến thiên tính người ta là một vấn đề triết học rất cao mà hiện nay các nhà tư tưởng còn tranh luận chưa ngã ngũ ra sao. 

Chữ Nho vốn là thứ chữ “tượng hình” mỗi chữ là một hình vẽ có nhiêù nét mà không hình nào giống hình nào: học thứ chữ ấy cho thuộc được mặt chữ để đọc và viết đã cần nhiều trí nhớ lắm rồi. Lại thêm cách dạy của ta xưa không theo thứ tự từ dễ đến khó, không dùng phép phân tích (phân: chia, tích: chẻ; chia tách ra từng phần) để giúp cho sự hiểu biết của học trò. Nhất nhất cái gì cũng học thuộc lòng thành ra phải dùng đến trí nhớ nhiêù quá. Có lẽ cũng vì thế mà ở phần nhiều người nước ta khiếu nhớ rất mở mang mà trí phán đoán, phê bình có kém, và trong nền học thuật của ta, phần “hấp thụ” của người thì nhiều mà phần “sáng tạo” của mình thì rất ít. Âu cũng là một cái kết quả không hay của phương pháp dạy học của ta ngày trước. 

I. Sách của người nước Nam làm.

Trong các sách xưa dùng dạy chữ nho, có thứ do người nước ta làm, có thứ của người Tàu làm. 
Sách của ta làm có mấy cuốn sau này: 
Nhất thiên tự: Tên sách nghĩa là “một nghìn chữ”, nhưng thực ra có 1015 chữ đặt theo thể ca lục bát, cứ một chữ Nho thì tiếp theo nghĩa của chữ ấy. Các chữ sắp đặt không theo thứ tự gì và các câu không có ý nghĩa gì. Trích lục mấy câu đầu: 
Thiên trời, địa đất, vân mây, vũ mưa, phong gió, trú ngày, dạ đêm, tinh sao, lộ móc, tường diềm , hưu lành, khánh phúc, tăng thêm, đa nhiều… 

Tam Thiên tự: Tên sách đặt thế, vì cuốn ấy có “ba nghìn chữ” Chữ và nhĩa kế tiếp nhau thành từng đoạn hai tiéng một, cứ tiếng cuối đoạn trên ăn vần với tiếng cuối đoạn dười. Các chữ sắp đặt không thành loại mục, ý nghĩa gì. Trích lục một đoạn đầu: 
Thiên trời, địa đất, cử cất, tồn còn, tử con, tôn cháu, lục sáu, tam ba, gia nhà, quốc nước. 
Ngũ thiên tự. Cuốn này, theo như tên đặt, có “năm nghìa chữ”. Chữ và nghĩa ghép lại theo thể ca lục bát như cuốn Nhất thiên tự, nhưng các chữ đêù sắp thành từng mục như những mục thiên văn, địa lý, quốc chính, luân thường, tứ dân, ẩm thực v.v.. . Trích lục mấy câu đầu: 
Thừa nhân, nhân vằng, hạ rồi. 
Càn trời, khôn đất, tài bồi trồng vun. 
Tích xưa, tự chữ, do còn. 
Quan xem, soạn soạn, viên tròn, thiên thiên. . . 

Sơ học vấn tân. Nhan sách nhĩa là “bắt đầu học hỏi bến” (hỏi bến nghĩa bóng là hỏi đường lối về việc học) Sách gồm có 270 câu bốn chữ. Câu đặt không có vần, nhiều câu cũng không đối. Chia làm ba phần: 
a) Phần thứ nhất (130 câu) : tóm tắt lịch sử nước Tàu từ đầu đến đời Đạo Quang (1821-1850) nhà Thanh. 
b) Phần thứ hai (64 câu): tóm tắt lịch sử nước Nam từ đời Hồng Bàng đến triều Nguyễn. 
c) Phần thứ ba (76 câu): lời khuyên học trò về việc học và cách xử thế. 

Trích lục mấy câu ở phần thứ hai: 
Âm. Kỳ tại quốc bản, cổ hiệu việt thường; Đường cải An nam, Hàn xưng Nam Việt, Thần nông tứ thế, thứ tử phân phong; viết Kinh Dương Vương, hiệu Hồng Bàng thị. 
Nghĩa. Ở nước ta, xưa gọi là Việt Thường; nhà Đường đổi làm An nam, nhà Hán gọi là Nam Việt. Cháu bốn đời vua Thần nông , (vốn là) con thứ được phong (làm vua ở xứ ta) gọi là vua Kinh Dương hiệu là Hồng Bàng. 
Ấn học ngũ ngôn thi. Nhan sách nghĩa là “thơ năm tiếng (để) trẻ học”. Sách gồm có 278 câu thơ ngủ ngôn, đại ý nói về lạc thú và kết quả của sự học và tả cái mộng tưởng của một người học trò mong thi đậu trạng nguyên. Bởi thế cuốn ấy cũng gọi là Trạng nguyên thi. Trích lục một đoạn: 
Âm. Di tử kim mãn doanh, hàn hư giáo nhất kinh. Tinh danh thư quế tịch, chu tử liệt triều khanh. Dưỡng tử giáo độc thư, thư trung hữu kim ngọc, Nhất tử thụ hoàng ân, toàn gia thực thiên lộc. 
Nghĩa. Để cho còn đầy hòm vàng, sao bằng dạy con một quyển sách. Họ tên chép vào sổ quế (sổ người được đỗ vi thì đỗ thường gọi là bẻ quế), mặc màu đỏ tiá (màu áo đại trào) đứng gnang hàng các bậc công khanh trong triều. Nuôi con mà dạy con đọc sách, (tức là) trong sách có vàng ngọc. Một người con được chịu ơn vua, cả nhà được ăn lộc trời. 

2. Sách của người Tàu làm 

Những sách của người Tàu làm mà xưa ta dùng để học chữ Nho thì có cuốn Thiên tự vạn (1) trong có một nghìn chữ đặt thành những câu bốn chữ có vần, cuốn Hiêu kinh của Tăng tử chép (2) lời đức Khổng tử dạy về đạo hiếu; nhưng thông dụng hơn cả là những cuốn Minh tâm bảo giám, Minh đạo gia huấn và thứ nhất là cuốn Tam tự kinh. 
(1) Cuốn này do Chu Hưng Tự làm quan đời nhà Lương soạn ra. 
(2) Tăng Tử: tên là Sâm tự là Tử dư học trò đức Khổng tử. 
Minh tâm bảo giám . Nhan sách nghĩa là “tấm gương báu soi sáng cõi lòng” Sách này sưu tập các câu cách ngôn của các bậc thánh hiền đời xưa chép trong kinh truyện và các sách để dạy người ta sửa tâm rèn tính cho ngày một hay lên. Sách chia làm 20 thiên. Trích lục mấy câu trong thiên thứ nhất là thiên “Kế thiện” 
Âm: Tử viết: Vi thiện giả, thiên báo chi dĩ phúc (phước); vi bất thiện giả, thiên bào chi dĩ họa. 
Nghĩa: Đức Khổng tử nói rằng: “Người làm điều lành thì trời lấy phúc mà báo cho; người làm điêù chẳng lành thì trời lấy vạ mà báo cho”. 

Âm: Thượng thư vân: Tác thiện giáng chi bách trường, tác bất thiện giáng chi bách ương. 
Nghĩa: Sách Thượng thư chép rằng: “ai làm điêù lành trời giáng cho trăm điều phúc, ai làm điều chẳng lành, trời giáng cho trăm điều vạ.” 

Âm: Trang tử viết: “Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác giai tự khởi” 
Nghĩa: Ông Trang tử nói rằng : “Một ngày không nghĩ đến điều thiện, thì mọi điều ác đều tự dấy lên” 
Minh đạo gia huấn. Nhan sách nghĩa là “sách dạy trong nhà của Minh đạo”. Minh đạo tức là Trinh hiệu(3), một bậc danh nho đời Tống. Sách gồm có 500 câu thơ tứ ngôn, hoặc mỗi câu mỗi gieo vầ, hoặc cách một câu mới có vần. Các câu ấy đều là những lời khuyên răn về luân thường đạo lý và chỉ bảo về cách tu thân xử thế. Có nhiều câu lời gọn ý hay đã thành những câu cách ngôn được người ta truyền tụng. 

(3) Trinh Hiệu: tự Bá Thuần, anh Trinh di, học trò Chu Đôn Di, đổ Tiến sĩ, làm quan về đời Tống Thần Tôn (1068-1086) có soạn những sách Định tính và Thái cực đồ thuyết . Đến lúc mất, Văn Ngạn Bác để ở mộ, gọi là Minh đạo tiên sinh, bởi thế người đời sau vẫn danh hiệu ấy để gọi ông. 
Thí dụ: 
Khai quyển hữu ích. Chi giả cành thành (câu 71-72) 
(Mở sách có ích. Người có tri thì nên) 

Tích cốc phòng cơ; tích y phòng hàn 
(Trữ thóc phòng đói, trữ áo phòng rét) 

Giáo phụ sơ lai; giáo tử anh hài 
(Dạy vợ lúc mới về; dạy con lúc còn thơ) 

Nữ vật tham tài; nam vật tham sắc. 
(Gái chớ tham của; trai chớ tham sắc.) 

Bần nhi vô xiểm; phú nhi vô kiêu 
(Nghèo mà không nịnh; giàu mà không kiêu) 

Nhân tham tài tử; điểu tham thực vong. 
(Người tham của thì chết; chim tham ăn thì mất) 

Cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ 
(Đói rét thiết đến thân, không đoái tới liêm sỉ ) 

Tự tiên trách kỷ, nhi hậu trách nhân. 
(Trước tự trách mình, rồi sau trách người) 

Hàm huyết phún nhân, tiên ô ngã khẩu 
(Ngậm máu phun người, trước bẩn miệng ta) 

Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác 
(Trữ thiện gặp thiện, trữ ác gặp ác) 

Cận chân giả xích, cận mặc giả hắc 
(Gần son thì đỏ, gần mực thì đen. ) 

Đãn hoạn vô tài, bất hoạn vô dụng 
(chỉ lo không có tài, chẳng lo không được dùng) 

Tam tự kinh. Nhan sách nghĩa là “sách ba chữ” vì các câu trong cuốn âý đều có ba chữ. Các chữ cuối câu chẵn đều có vần, và cứ hai vần trắc lại đổi sang hai vần bằng. Sách ấy vẫn truyền là do vương Ứng Lân, người đời nhà Tống soạn ra. 

(4). Vương Ứng Lân, tự là Bá Hậu, người đời Khánh nguyên, nhà Tống (1105-1201)- Đến đời nhà Thanh, Vương Tấn Thăng có làm bài giải thích sách Tam tự kinh, nhan là Tam tự kinh huấn hỗ trong bài tựa đề năm Bính ngọ niên hiệu Khang Hi (1666), cũng nói là sách ấy do vương Bá Hậu soạn ra. những các nhà khảo cứu gần đây lại cho sách ấy là do Khu Thích tử, người cuối đời Tống làm ra. 
Sách có 358 câu, chia làm bảy đoạn đại ý như sau: 
1) Đoạn thứ I : Nói về tình người và sự dạy dỗ. 
2) 2) Đoạn thứ II: Lễ nghi, hiểu để, bổn phận của trẻ con 
3) Đoạn III: Các điều thường thức: kể rõ các số mục giải thích thế nào là tam tài (trời, đất, người), tam quang (mặt trời, mặt trăng, sao), tam cương (ba giềng: vua tôi, cha con, vợ chồng), tứ thời (bốn mùa), tứ phương (bốn phương), ngủ hành (năm hành :thủy, hỏa,mộc, kim, thổ) , ngũ thường (năm nết thường: nhân, nghĩa, lể trí, tín), lục cốc (sáu giống lúa) lục súc (sáu giống vật nuôi), thất tình (bảy mối tình trong lòng người), bát âm (tám thứ tiếng trong âm nhạc), cửu tộc (chín đời trong họ.), thập nghĩa (mười điều nghĩa). 
4) Đoạn thứ IV: Các sách học : Hiếu kinh (sách dạy về đạo hiếu), Tứ thư (bốn cuốn sách gốc trong đạo Nho), Ngủ kinh (Năm cuốn sách chính trong đạo Nho), ngủ tử (năm nhà triết học) chư sử (các sách sử) 
5) Đoạn thứ V: Kể các triều vua trong lịch sử nước Tàu từ đâù đến đời Nam Bắc triều; 
6) Đoạn thứ VI: Kể gương của người chăm học đời xưa để khuyến khích học trò. 
7) Đoạn VII:Mấy lời khuyên trẻ con nên chăm học để sau này được hiển vinh. 
8) Trích lục một đoạn: 
Âm: dưỡng bất giáo, phụ chi quá. Giáo bất nghiêm, sư chi nọa. Tử bất học, phi sở nghị. Áu bất học, lão hà vi. Ngọc bất trác, bất thành khí. Nhân bất học, bất tri lý 
Nghĩa: Nuôi mà chẳng dạy là lỗi của người cha. Dạy mà chẳng nghiêm, do sự lười của ông thâỳ Người con mà không học là lỗi đạo làm con. Bé không học, già làm gì. Hòn ngọc không giũa không thành được đồ dùng. Người ta không học, không biết được lẽ phải. 

Kết luận. 

Tất cả các sách kể trên này, xét về phương diện sư phạm, đều không hợp với trình độ trẻ con, vì quyển nào cũng ngay tự chỗ bắt đầu, dùng những chữ khó hoặc về ý nghĩa, hoặc về mặt chữ. Nhưng ta cũng phải nhận rằng ,trừ ba quyển trên chỉ là những sách dạy tiếng một đặt thành câu có vần cho dễ nhớ không kể, còn các quyển dưới đều có chủ ý dạy trẻ biết luân thường đạo nghĩa, lại phần nhiều đặt theo lối văn vần, thành ra trẻ con học thuộc những câu ấy, tuy lúc nhỏ chưa hiểu rõ nghĩa lý, nhưng đến lúc lớn, nhớ ra, ôn lại, thời dần dần cũng vỡ vạc thấm thía các nghĩa lý ấy mà coi những câu ấy như những câu châm ngôn để tu thân xử thế, thật rất có ảnh hửởng về đường tinh thần luân lý vậy.

Dương Quảng Hàm
(ktk sưu tầm)

Mưa Đêm


Thao thức đêm dài thương nhớ ai
Bên hiên mưa giọt ngắn giọt dài
Có nghe cô quạnh lòng em gọi
Một cánh hoa đêm nỡ lạc loài

Mấy độ Đông về tim se thắt
Mơ hương tình cũ mắt môi xưa
Tiếng lòng em hòa lẫn tiếng mưa
Như cố gọi tình xưa trở lại

Em vẫn đứng bên lề ngang trái
Vẫn âm thầm gọi mãi cố nhân
Như mưa đêm sùi sụt ngoài sân
Anh có biết bao lần mưa khóc.

Biện Công Danh

Mưa


Mưa! mưa! mưa em, trời mưa ...

Có phải nhờ mưa mà mình gặp nhau? Gặp giữa đời thường, gặp trong thơ. Với đời thường, hay trong thơ, mưa dễ thương khi mưa vừa đúng lúc, mưa vừa niềm mong. Lãng mạn, nhẹ nhàng và thích thú, như hồi biết tựa đầu vào nhau dưới cái tán dù nhỏ xíu, thèm nhìn giọt nước lăn theo sợi tóc em chảy xuống vai trần.

Mưa! mưa! mưa em, trời mưa

Câu thơ giản dị mà dễ thương quá chừng, dễ thương như em chưa tùng trau chuốt để đỡ vướng bụi đời, khỏi nhìn vào gương thấy mình lạ hoắc. Bởi dễ thương vậy, nên anh sợ em sũng ướt trong mưa khi anh ngoái nhìn em vừa ra khỏi cửa, ra với thiên nhiên với trời rây nắng. Vậy mà gió đã lay mưa, cho anh có cớ làm vừa lòng em.

Mưa! mưa! mưa rộn đường thơ

Trong thơ anh, có những cơn mưa buồn nặng trĩu. Viết rồi, chẳng lẽ xóa đi. Dẫu gì, những giọt mưa Ngâu vẫn còn tồn tại, cho thơ có cớ nắm lại bàn tay vuột qua một thời, vuột qua một đời! Mà không quên, để lòng tự nhủ: âu đó cũng là một kỷ niệm đẹp. Một chuyện tình đẹp tựa vào lưng huyền thoại.

Tặng em những sợi mưa Ngâu
anh vừa hái được trong màu thời gian

Thật tình, anh muốn viết về những điều nhẹ hẫng như mơ. Nhẹ hẫng như nụ cười em, như tiếng chim hát trong vườn thơ:

Có tiếng chim hát vui buổi sáng
trong khu vườn anh đang gieo thơ

Mỗi cơn mưa, báo một vụ mùa, báo một khoảng thời gian vừa vụt qua, mất hút. Để thấy tiếc hay là thấy sợ những mắc xích thời gian siết lại, cuốn mình quăng vào cái trũng hư vô!

Vậy mà anh sợ không gian hơn là thời gian, vì trong không gian luôn có những nghi hoặc kể cả sự nghi hoặc niềm tin:

Chữ em là thánh thể
người nói đó bụi trần
lời anh là sông bể
kẻ nghĩ đó vực thâm

Ta với ta là bạn
anh với em là tâm
đời nghìn năm phỉ báng
trên năm tháng hương trầm

Thời gian ươm mầm, thời gian kết nụ trỗ hoa. Không phải là vui hơn sao, và nắng, và mưa dự phần vào sự tái tạo niềm tin trên những úa tàn. Hãy nhận sự vươn lên, đừng nghĩ về sự hủy diệt dưới sức hút khắc nghiệt của đời.

Em có thấy một dòng sông mới
dâng phù sa vào gốc mạ thơm
trên cánh đồng anh vừa nghĩ tới
không hề lưu dấu vết căm hờn

Time goes, you say? Ah no!
Alas, Times stays, we go.

Thời gian qua? Nàng ơi...
Không phải,
Chúng ta qua, Thời gian ở lại.

Lời trong bài "The Paradox of Time" của Henry Austin Dobson hay tuyệt vời phải không em!
Dưng không, chiều nay sao thấy buồn chi lạ, khi ngoài trời mưa Xuân lay bay. Lại phản phất những dòng chữ qua mưa tạt vào mái hiên xưa.

Mưa! mưa! mưa rộn đường thơ
về mai em nhé, ngõ chờ nắng hong
Tháng Năm, không phải là năm tháng
chỉ là Tháng Năm còn những cơn mưa
để anh có cớ làm vừa lòng em

Mưa! mưa! mưa em, trời mưa
nép gần lại chút cho vừa ấm nhau!

Cao Nguyên

Tình Mưa!


Nếu anh là mưa em xin nắng ban trưa dập tắt.
Để đầu trần mình bắt gặp trong mưa
Má môi thắm tóc đẫm mới vừa…
Chút ve vuốt.. mưa ơi…mưa ơi… đừng tạnh

Nếu anh là mưa em không biết lạnh
Đôi tay choàng hong ấm bờ vai
Mưa dai dẳng lòng hoài lưu luyến
Mưa dùng dằng xao xuyến …Tình mưa!

Vô tình hứng sợi mưa Ngâu
Tưng tiu kết chuỗi xinh màu em đeo.
Hạt mưa hạnh phúc trong veo
Hạt thương hạt nhớ hạt gieo mong chờ

Kim Oanh




Thứ Năm, 9 tháng 6, 2016

Gửi Gió


Thơ&ThơTranh: Kim Quang


Cảm Giác Chiều



Giang tay ôm gọn chiều tà
Ngở môi thiếu nữ bỗng hoà lên môi
Ngực nghe trống loạn từng hồi
Chân chôn tục luỵ giữa trời giao phong
Làn da nắng nhạt phiêu bồng
Từng đầu tay ngón nồng nồng say say
Tựa đầu cỏ lá nhẹ bay
Thả hồn cùng tận vào mây chập chùng
Mặt trời má đỏ thẹn thùng
Giòng hương hạ toả mịt mùng đôi vai
Ngẫn đầu hơi thở trùng lai
Cúi hôn nắng hạ tưởng đài hoa sương
Chiều tà mặc áo qua đường
Đêm còn vương mắc vô thường cảm quan
Hạ ơi! giây phút chiều tàn
Ôm trời ửng đỏ bàng hoàng ta ta


Hoài Tử

Tìm Về



Em ở phương đoài nhớ phương đông
Có nghe nỗi nhớ dậy trong lòng
Bao nhiêu kỷ niệm thời áo trắng
Tim còn vương vấn thuở xưa không

Ta đứng bờ đông lặng nhớ về 
Một thời hoa mộng với đam mê 
Hồn em trong sáng tình thơ dại 
Nay biệt trùng khơi hết vẹn thề

Mỗi một lần yêu mỗi đoạn trường
Bao lần tim mở ngõ yêu đương
Bấy nhiêu vị ngọt hòa cay đắng
Mãi đọng nơi lòng nỗi nhớ thương

Đếm mùa lá rụng đếm thời gian 
 Nhặt lá thu phai những mơ màng 
 Lắng nghe lưu luyến màu mực tím 
 Cảm nhận tình xưa sắp lụn tàn.

Quên Đi

Xa Xứ




Tây nguyên đèo ải ngăn sinh lộ
Trăm đứa lên có mấy kẻ về
Giày trận bám bùn mưa tối mặt
Mùa hè gió thốc bụi tê tê

Trần Hoài Thư


Tẩy Sạch Ruột Già, Tránh Ung Thư


Rửa sạch ruột già và sẽ không còn bị ung thư kết tràng nếu biết làm điều

Nếu để ruột già tích tụ nhiều độc tố thì việc tử vong do ung thư chỉ là chuyện sớm muộn.
Bạn có biết tỉ lệ mắc ung thư ruột già (ung thư kết tràng) tại Việt Nam đứng thứ 4 ở nam giới (xếp sau ung thư gan, ung thư phổi và ung thư dạ dày), đứng thứ 3 ở nữ giới (xếp sau ung thư vú và ung thư tử cung). Đây là tỉ lệ không hề thấp.

Lý do cho việc ruột già bị bẩn đến từ chính chức năng dự trữ thực phẩm không tiêu hóa được của nó. Hằng ngày, bề mặt ruột già vẫn phủ 1 lớp chất thải cặn bả dù bạn đã đi tiêu rồi. Lớp màn đó tồn đọng lâu ngày sẽ lên men và tạo thành độc tố, ngấm qua thành ruột đi vào máu và dần khiến cho các cơ quan nội tạng trong cơ thể cũng bị ngộ độc, dễ bị mệt mỏi, đau đầu, tăng cân, …

Để tránh rơi vào cảnh bệnh tật quấn thân mà không cần sử dụng thuốc, bạn chỉ cần định kỳ làm sạch ruột già 4 lần/ năm bằng phương pháp tự nhiên sau đây.

CHUẨN BỊ
+ 1 quả táo sạch đã cắt nhỏ.
+ 1 muỗng cà phê mật ong nguyên chất.
+ 1 muỗng canh hạt chia.
+ 1 muỗng canh hạt flaxseed
+ 1 chén nước lớn (khoảng 200ml).

Hột Flaxsee, Hột Chia

THỰC HIỆN
+ Cho toàn bộ các món, ngoại trừ hạt chia, vào máy xay sinh tố với nước để đánh tan.
+ Sau đó, mới bỏ hạt Chia vào khuấy đều.
+ Chờ khoảng 5 phút cho hạt Chia nở ra rồi mới uống hết ly sinh tố đó.

KẾT QUẢ
Ruột già sạch bong hoàn toàn một cách an toàn và ít tốn kém.
Sau 4 lần uống ly sinh tố làm sạch ruột này, bạn sẽ cảm nhận sự thay đổi tuyệt vời trong toàn cơ thể. Những lợi ích lớn về sức khỏe:
+ Làm mịn da (làm đẹp da từ trong ra ngoài) và chống lão hóa.
+ Làm sạch toàn bộ đường tiêu hóa, tẩy các chất độc kết tụ từ nhiều năm và chống táo bón.
+ Phòng chống ung thư kết tràng triệt để.
+ Tẩy giun xán.

BÀI TẬP KẾT HỢP
Sau khi thực hiện phương pháp trên, ngày hôm sau, bạn nên kết hợp với vài động tác yoga đơn giản của Shank Prakshalana được chia sẻ trong clip sau để nâng cao tác động tích cực lên ruột già nhé!

Trần Ngọc sưu tầm

Thứ Tư, 8 tháng 6, 2016

Lục Bát Từ Denver - Thơ Quýdenver - Guitar Vô Thường

Ta đã khóc như chưa từng được khóc
Người vẫn cười hay cũng héo hắt môi 
Ai ở ai đi biết bao giờ gặp 
Ngoảnh lại nhìn xa xót tuổi thôi nôi... 
(Quýdenver)


 Thơ & PPs: Quýdenver 
Guitar Vô Thường


Dương Xuân Bạch Tuyết


Một người hát khúc Hạ Lí Ba Nhân ngoài đường, thiên hạ bu lại nghe một cách thích thú. Đến lúc người đó chuyển qua khúc Dương Xuân Bạch Tuyết thì thiên hạ từ từ bỏ đi! Đó là phần đông người ta chỉ thích những bài dễ hiểu dễ hát! Ôi! Đa số người ta chỉ thích những tác phẩm bình dân, dễ đọc, dễ nghe, dễ nhìn! Còn nếu tác giả lập ngôn, dụng ý cao xa, ẩn ý , uyên áo thì người ta chẳng hiểu ông ta viết gì? hát gì?vẽ gì?
Từ hình thức tới nội dung càng cao xa thì người ta càng quay đi, không truyền bá và … chẳng nhớ tác giả là ai!
Một trí thức uyên bác như ông Vũ ngọc Phan mà khi nói tới bài Màu Thời Gian của Đoàn Phú Tứ cũng gọi đó là thứ thơ “ hũ nút “. Một người đọc nhiều như Hoài Thanh mà cũng không hận ra Bích Khê là một thi sĩ lớn. Hoặc trích tuyển một thi sĩ mà chỉ nhè những bài tầm thường mà bỏ sót những bài tuyệt tác!
Người ta trích dẫn những bài kia, mà bỏ sót những bài Đà Lạt Trăng Mờ và bài Bẽn Lẽn của Hàn Mặc Tử.
Thơ miền Bắc người ta ít biết đến Đôi Bờ của Quang Dũng và bài Em Bé Và Củ Khoai Lang của Hoàng Cầm. Ở Miền Nam người ta càng ít biết đến Trăng Thiếu Phụ của Quách Thoại và Khóc Quách Thoại của Thanh Tâm Tuyền.
Truyện Bước Qua Lời Nguyền của Tạ Duy Anh tuy được một số người ca tụng, nhưng hình như những người này là văn sĩ chuyên nghiệp, chứ có lẽ nhiều trí thức cũng chưa biết tới! Muối Của Rừng của Nguyễn Huy Thiệp cũng cùng chung số phận.
Tôi nhớ cụ Nguyễn Hiến Lê có nói: Một Đám Cưới là chuyện ngắn hay nhất của Nam Cao! Tôi cũng đồng ý với cụ rằng Một Đám Cưới hay hơn Chí Phèo nhiều lắm!
Trần Thùy Mai viết Nữ Thần Đi Chân Đất, thật là tuyệt vời! Có lẽ bà muốn ngụ ý: Vua chúa ngày xưa cũng biết tuyên truyền chứ bộ! Nhưng hình như dụng ý này của bà ít người biết đến.
Lỗ Tấn viết những: Thuốc, Lễ Chúc Phúc, Người Ngu Người Thông Minh và Người Điên là những truyện ngắn tuyệt vời. Nhưng có lẽ nhiều người đọc không thấm!!!
Vũ Ngọc Tiến viết: Âm Bản Chiến Tranh, Vị Phồn Thực, Chù Mìn Phủ Và Tôi, Phạm lưu Vũ viết Chị Cả Bống cũng không được nhiều người đọc đâu! Một anh bạn tôi cũng trí thức , cũng viết văn , nhưng… lại không biết Phạm lưu Vũ là ai! Người ta chỉ sưu tầm rới rở những cuốn bị kiểm duyệt , bị thu hồi, bị… cho vào máy nghiền! Trong đó có những vị sưu tầm với giá rất đắt để trưng ở phòng khách … chơi ! Rồi sau đó người ta quên luôn Phạm lưu Vũ mà không biết rằng ông còn nhiều bài hay nữa!
Người ta chỉ thích những bài dí dỏm, đặc sệt giọng miền tây nam bộ, tươi rói, nghe sướng tai cũa Nguyễn ngọc Tư trong khi người ta ít biết tới : Cái Nhìn Khắc Khoải, Núi Lở, Chuyện Cục Kẹo của cô!
Phan Nhật Nam viết: Bắt Đầu Từ Một Đêm Trăng, thật là đầy tâm hồn nghệ sĩ. Một thứ tự do phóng khoáng đầy tình người của các chàng nghệ sĩ, nhưng không được người ta thưởng thức bằng thứ văn ngổ ngáo, thời thượng trong Mùa Hè Đỏ Lửa.
Vũ Thư Hiên rất nổi đình đám, Tôi không dám nói là tôi không thích, nhưng tôi thích nhất là: Lời Xưng Tội Lúc Nửa Đêm của chàng! Đây chính là: Dương Xuân Bạch Tuyết !!!

Chân Diện Mục

Một Mình




Bóng chiều đổ xuống hoang mang
Rừng cây đen đứng hàng hàng lặng câm
Người ơi ở cõi xa xăm
Có nghe trời đất đầm đầm nhớ thương
Chạy tìm ai khắp mười phương
Mới hôm nào đó sao dường chiêm bao
Người ơi ở một kiếp nào
Giữa muôn trùng bỗng gặp nhau bàng hoàng
Qua rồi ngày tháng lang thang
Đưa nhau về chốn thiên đàng ta xưa
Ở đây kiếp sống đã thừa
Ở đây dằng dặc sớm trưa những ngày
Lặng người trong buỗi chiều nay
Một mình giữa cõi trần ai. Một mình

Khánh Hà
2015

Vầng Trăng Khuyết


Bài Xướng:

Vầng Trăng Khuyết


Khép nép giữa dòng vầng trăng khuyết
Ai tình nhân biền biệt phương nao
Để người thơ thẩn ra vào
Trăng không tròn vẹn bến nào trăng neo
Trên sông vắng trăng theo sóng nước
Thuyền có về chở được hay không
Chớ gieo hy vọng chờ mong
Để trăng lại nhớ đau lòng cho trăng

Quên Đi
***
Bài Họa:


Trăng Làm Chứng Nhân


Dần xoay một mảnh trăng tròn khuyết
Con đò xưa đã biệt nơi nao
Bến đây trăng hỡi ghé vào
Lắng nghe tâm sự cớ nào gieo neo
Sao trăng mãi đùa theo con nước
Lờ lượn hoài có được gì không
Bến đành thôi hết đợi mong
Tệ chi trăng cũng bạc lòng hỡi trăng

Kim Phượng

Thứ Ba, 7 tháng 6, 2016

Lặng Lẽ Tình Đi - Thơ Yên Dạ Thảo - Nguyễn Văn Thơ Phổ Nhạc



  

Thơ: Yên Dạ Thảo
Nhạc: Nguyễn Văn Thơ
Hòa âm: Phan Thanh
Trình bày: Kiều Lệ


Thèm Nắng Sài Gòn


Hôm nay sao anh thèm nắng quá
vạt nắng Sài Gòn chảy sáng vai em
vạt nắng hong mềm hương tóc sả
vạt nắng ngào thơm đôi má dậy thì
*
... Từ Paris qua Newyork
từ Moscow đến Chicago
từ Hồng Kông sang California...

Em gom cho anh
những giọt nắng Sài Gòn rơi rớt
rồi về đây với anh
hai đứa ngồi vẽ nắng Sài Gòn

Vẽ nắng nghiêng nghiêng trên triền dốc nhỏ
anh đón em mỗi chiều tan học ở Gia Long
vẽ nắng nhuộm hồng hàng me phố cũ
tay nắm tay đi suốt đường Duy Tân...
vẽ nắng lên tên những con đường cũ
cho anh nhớ về những góc phố xưa
hẹn hò
gặp gỡ

Có chút nắng Sài Gòn
ta ru mình trọn giấc

Bình minh nào
hoàng hôn nào
nắng gọi ta đi

Rồi cũng nắng
gọi ta về nhớ lại
những ngày vui
thuở đó
chúng mình.

Em ơi!
anh mãi thèm vạt nắng Sài Gòn.

Cao Nguyên



Sơn Hà Xã Tắc



Nhìn về đất mẹ mãi ven trời,
Cách Thái Bình Dương quê quán ơi!
Từ Bắc vô Nam cùng Tổ quốc,
Bên bờ chữ S đã xa khơi!
Ra đi nhớ nước đau lòng lắm,
Ở lại làm nông đói rách tơi.
Thuở trước cha, ông mình một cõi,
Sơn hà xã tắc vọng vang lời...

Mai Xuân Thanh
Ngày 11 tháng 05 năm 2016

Phượng Xa


Phượng Xa

Giờ đây hoa rụng ven sông
Theo dòng nước cuốn bềnh bồng trôi xa
Sắc hương héo hắt nhạt nhoà
Tiếc ve thương hạ xót xa nát lòng

Kim Oanh
***
Bài Họa:
Anh gởi bài Hoạ "Phượng Xa" của Oanh nè, nhưng chấp nhận Thất Vận ở vần lưng của câu 4:

Mỗi chiều lặng đứng bên sông
Bóng mây trên nước trôi bồng xa xa
Tình xưa đâu dễ phai nhoà
Ve buồn nhớ phượng còn ta đau lòng.

Quên Đi

Thứ Hai, 6 tháng 6, 2016

Tháng Sáu Độc Hành


Cố giấu thương đau nén thở dài
Sao nghe hờn tủi lẫn bi ai
Mênh mông biển cả nơi nào đó
Hạt cát trần gian hẳn thoát thai

Tháng sáu buồn giăng u ám trời
Cuồng lưu định mệnh rẻ chia đôi
Đại dương hò hẹn nơi nào đó
Sóng nước vọng âm tha thiết lời

Một kiếp phù sinh mộng chửa thành
Tàn hương cuộn khói sợi mong manh
Bờ mi lệ ướt chưa nguôi nhớ
Sương phụ bơ vơ bước độc hành

Kim Phượng
6-6-2016

Nghĩa Cũ


"Xót thay chút nghĩa cũ càng 
Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng "
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Mỗi độ chuyển mùa dạ xốn xang 
Hồn thơ lãng đãng đỉnh non vàng.
Trời trong mây bạc trôi lờ lững 
Rừng biếc lá phong rụng ngỡ ngàng.
Nhớ ráng nắng hồng thời trẻ dại 
Thương đời cò trắng kiếp lang thang.
Cố nhân biền biệt từ thu ấy,
Biết gửi về đâu nghĩa cũ càng.

(Mây Tần - Ý Thu)

Phạm Khắc Trí

Em Và Dòng Sông


Em về quê cũ mấy năm xa
Nhìn lại dòng sông vẫn mượt mà
Kỷ niệm chất đầy trong ký ức
Con đò, bến nước, ánh trăng xa

Em nhận ra dòng sông quen thuộc quá!
Hương phù sa màu đất của quê mình
Mùa gió chướng hoa lục bình nở rộ
Chuyến đò chiều chở tím cả hoàng hôn

Dòng sông quen sao chẳng nhận ra em?
Mắt xanh, tóc vàng…giày cao, váy ngắn…
Cái giả tạo đã phủ lên đời thực
Em có thêm nhiều
Và mất cũng nhiều hơn…

Hoa lục bình quê nhà xưa vẫn tím
Chỉ nỗi buồn trôi dạt giữa lặng thinh
Giữa quê nhà em biến thành khách lạ
Dòng sông nào thao thức mối tình ta

Ngọc Hiệp


Gửi Người Phương Ấy


Ngồi buồn đếm giọt mưa rơi
Mưa người bên ấy mưa tôi bên này?
Hay bên đó nắng gắt gay
Rát mềm mái tóc rát tay người hồng

Có dài ánh mắt nhớ mong?
Cho tình tôi gửi mấy dòng mưa qua
Ướt lòng chiếc áo bà ba
Ướt bờ mi khép chiều tà nhớ thương

Hay là bên ấy người buồn
Thơ tôi làm cánh chuồn chuồn bay sang
Gửi theo chiều biếc mơ màng
Dòng sông xưa sóng ngân vang hẹn hò

Ngát hương làn tóc thơm tho
Vòng tay đôi bóng con đò còn neo
Nửa vầng trăng khuyết trời treo
Nửa kia người đã đem theo mất rồi

Hay là bên ấy người vui
Gửi về tôi mấy nụ cười được không ?
Để tôi cất giấu trong lòng
Mở ra xem lúc buồn trông phương trời


Trầm Vân

Những Nguy Hại Khi Thức Khuya

Một số người luôn mong muốn khỏe mạnh, nhưng lại liên tục thức khuya nhiều đêm liền, thức dậy vào buổi sáng hôm sau đột nhiên cảm thấy rất mệt mỏi và muốn ngủ với đôi mắt thâm quầng, lưng mỏi vai đau, nhưng đến đêm tinh thần lại tỉnh táo lên. Đừng cho rằng đây là chuyện nhỏ, theo ý kiến của các nhà y học cổ truyền Trung Quốc, mệt mỏi gây ra bởi sự mất cân bằng âm dương các cơ quan trong cơ thể, dần dần các bộ phận nội tạng sẽ đấu đá nội bộ bên trong và cuối cùng dẫn đến suy thoái các cơ quan và thậm chí tử vong.


Giấc ngủ vào ban đêm là cách giải độc tốt nhất:

Giấc ngủ là lúc cơ thể tự điều chỉnh thời gian, đó là thời gian bạn xâm chiếm nó, và nó sẽ xâm chiếm lại sức khỏe của bạn, hy vọng những cái chết vì kiệt sức sẽ không tái diễn.
9- 11 giờ đêm là khoảng thời gian thoát nước hệ thống miễn dịch (bạch huyết), giai đoạn này cần được yên tĩnh hoặc nghe nhạc.

11- 1:00 giờ đêm là khoảng thời gian giải độc gan, cần đượcngủ.

Rạng sáng 1- 3 giờ là khoảng thời gian túi mật giải độc, cần được ngủ.

Rạng sáng 3- 5 giờ là khoảng thời gian giải độc phổi. Đây lý do tại sao người ta thường ho vào lúc trời gần sáng, hành động này xúc tiến giải độc phổi; không nên sử dụngthuốc ho, để tránh gây ra ức chế trầm tích chất thải.

5- 7 giờ sáng là khoảng thời gian đại tràng giải độc, làm vệ sinh đường ruột.

7- 9 giờ sáng là giai đoạn ruột non hấp thụ chất dinh dưỡng, nên ăn bữa ăn sáng. Bệnh nhân đang điều trị thì nên ăn trước 6:30, những người bình thường nên ăn trước 7:30, những người không ăn sáng nên học cách thay đổi thói quen, ngay cả khi kéo đến 9, 10 giờ cũng nên ăn một cái gì đó.

Từ giữa khuya đến rạng sáng 4:00 giờ là giai đoạn tủy tạo máu mới, lúc này nhất thiết phải ngủ, không nên thức khuya.

Những nguy hại của việc thiếu ngủ:

1. Da có những dấu hiệu lão hóa:

Da khô, nếp nhăn, mụn, nám, từ22:00 - 02:00 giờ đêm là giai đoạn chuyển hóa da hiệu quả nhất, nếu cơ thể chìm trong giấc ngủ, chất thải trao đổi chất trong da có thể được giảm thiểu và xử lý. Nếu bạn thức cả đêm, da của bạn sẽ bị nở lỗ chân lông, các chất độc hại được hấp thụ vào da, và nó sẽ làm cho tăng hormone gây mất cân bằng dẫn đến mụn trứng cá và các loại mụn ngoài da khác.

2. Mắt có những dấu hiệu lão hóa:

Giảm thị lực, tầm nhìn mơ hồ, vào ban đêm hầu hết các cơ quan của mắt đều mệt mỏi, nếu kéo dài tình trạng này có thể gây mất thị lực tạm thời, tầm nhìn bị hạn chế vào ban đêm hoặc giảm khả năng phân biệt màu.

3. Hệ tiêu hoá có những dấu hiệu lão hóa

Đau dạ dày, tăng axit trong dạ dày, và thậm chí dẫn đến viêm loét, dạ dày là cơ quan nhạy cảm nhất của cơ thể, thức khuya dễ dàng sản sinh ra nhiều axit dạ dày gây viêm loét dạ dày, Đồng thời, trong đêm khuya thường sử dụng thuốc lá, trà, cà phê cũng gây ra những kích thích có hại đối với niêm mạc dạ dày.

4. Não xuất hiện những dấu hiệu lão hóa:

Sự suy giảm trí nhớ, phản ứng chậm chạp, nhức đầu, mất ngủ, khi ngủ các tế bào não chịu trách phục hồi bộ nhớ, nếu như nghỉ ngơi không đầy đủ,các tế bào của bộ phận này sẽ bị tổn thương, dẫn đến giảm trí nhớ. Thức cả đêm, có nghĩa là có thể chịu trách nhiệm buộc các dây thần kinh tăng ca, hậu quả khiến hệ thần kinh bị chùng xuống vì mệt mỏi,cơ thể xuất hiện triệu chứng không thể tập trung, phản ứng chậmchạp, hoặc nhức đầu, dẫn đến tình trạng mất ngủ.

5. Hệ miễn dịch có nhữngdấu hiệu lão hoá:

Sức đề kháng trong cơ thể thấp, thường dễ bị bệnh,giai đoạn nửa đêm là thời điểm để cơ thể sản sinh ra các tế bào mới, thức khuya sẽ khiến cơ thể luôn trong trạng thái tiêu thụ, hệ thống miễn dịch chống lại các tác động bên ngoài,cơ thể phải thực hiện tăng gấp đôi công việc sửa chữa các mô. Theo khảo sát, người đã trưởng thành nếu liên tiếp ba đêm không đảm bảo 7- 8 giờ ngủ, hệ thống miễn dịch có thể bị suy giảm đến 60%.

Không ngủ đúng giấc, đồng nghĩa với việc là chất độc của bạn sẽ không được thải ra gây tích tụ lâu ngày, cơ thể của bạn sẽbị mất cân bằng, các quy luật tự nhiên sẽ bị phá vỡ, rơi vào vòng tuần hoàn ác tính.

Yên Đỗ sưu tầm từ Net

Chủ Nhật, 5 tháng 6, 2016

Xa Xứ



Thơ: Trần Hoài Thư
Thơ Tranh: Kim Oanh

Em Là Ai?



Em là ai hay em là ma nữ
Hút hồn ta vào cõi chết vì yêu
Ôi, kiếp người còn có được bao nhiêu
Nỗi nhớ ấy muốn quên sao cứ nhớ
Ta đã mất em, mất em từ độ
Quay lại tìm, ngơ ngác biết tìm đâu
Dù tàn hơi xin vẫn mãi tìm nhau
Tìm một nơi êm chờ đời quỵ ngã
Tìm một đêm mềm nựng ru giấc ngủ
Giấc ngủ sâu chìm quên hết cô đơn
Giấc ngù sâu chìm quên cả tủi buồn
Giấc ngủ sâu chìm quên luôn hơi thở
..
Mai sau hóa kiếp thành con gió
Từ cõi mênh mông thổi xuống đời...

Quýdenver 
.

Lặng Bước



Thiền hành sáng sáng gió xuân lay
Còn lạnh, hàng cây vạt nắng dài
Liên tiếp mấy ngày trời nắng ấm
Cành đà mơn mởn lá non thay

Mùi hoa thoang thoảng mũi ngây ngây,
Xác tím phượng rơi trải lớp dầy
Hoa dại ngoi mình từ kẽ đá
Khoe tươi hương sắc chỉ vài ngày

Bước lần trong xóm dưới làn sương
Bỗng thấy cõi lòng chút vấn vương
Tận hưởng trần gian từng phút một,
Đâu đâu cũng thấy đẹp thiên đường

Phút chốc nơi đông ửng sắc hồng
Xa xa núi biếc tựa mày cong
Chim trời ríu rít mừng ngày mới
Tôi thả hồn mình vút cõi không

Bên đường, bạn Mỹ với xe lăn
Tay vẫy cười cười, ít nói năng
Cả tháng đâu rồi người bạn ấy
Xe lăn còn đó, chó nằm gần

Đã biết đời người tựa giấc mơ
Sóng lòng phẳng lặng nước như tờ
Vô thường như thể trêu người mãi
Buông xả tâm như bến giác chờ 

Mailoc
Mùa Phật Đản 2016

Vì Sao Cao Nguyên


Em ở Pleiku em là Vì Sao
Em ở Pleiku em là Tiên Nữ

Ta cố giữ kẽo hồn lạc mất
Theo giòng đời ngây ngất chân son
Vượt thời gian đọng nét yêu còn
Yêu quá lối mòn Hoa Bất Tử

Muôn vạn hình dung chữ ngợi hoa
Dáng kiêu sa khoác áo lụa là
Đêm huyền hoặc cung ngà điện ngọc
Mùi hương xưa mật bọc lừng thơm

Pleiku cao từng ôm giông bão
Anh đến đây chao đảo cuộc đời
Đúng vào thời chiến cuộc nhiễu nhương
Tình Nghĩa nặng không đường gánh xuể

Nợ nước,tình ta....thành dâu bể
Cao Nguyên buồn để chữ " Thiên Thu "
Pleiku ơi! Mưa nắng mặc dù
Giữ giùm tôi u tình đất đỏ

Vĩnh Long 26-6-2010

Lê Kim Hiệp


Sinh Nhật Nguyễn Thị Ngọc Sương. CHS Trung Học Tống Phước Hiệp NK 62-69; Cựu Giáo Sinh khoá 8 SP Vĩnh Long.

Đúng 11 giờ ngày 30 tháng 5, các bạn đến mừng Sinh Nhật Ngọc Sương tại quán Huỳnh Giỏi- V.Long


 Vợ chồng Xuân - Sương
Từ trái sang phải: Khải (Dương) - Khai - Đức - Xuân - Lượm - Huệ.
 Các cháu nội của Chí Thanh - Thơ và con của Khai.
Huệ - Khải  (Dương) - Điệp (Lê).
 Chí Thanh ngồi chung với các cháu nhỏ. 


Đầu bàn là Thơ - Duyên
 Các cháu nhỏ Mừng Sinh Nhật bà Sương với chiếc bánh thật xinh xắn.


 Buổi tiệc kết thúc vào lúc 13 giờ cùng ngày.

Hình ảnh: Huỳnh Hữu Đức