Thứ Bảy, 3 tháng 12, 2022

Chim Ăn Trái Hồng


bộ ảnh mang tựa đề Chim ăn trái hồng”)
(Bài Hát Nói cảm ơn Nhiếp Ảnh Gia taotran Trần Đức Tạo đã chuyển đến ngày 27/12/2022

Chim xinh Hồng ngọt!
Tạo Hóa huyền diệu sinh ra Chim để hót tuyệt vời?
Và cây Hồng để đơm bông kết trái ngọt chơi vơi?
Quyến rũ Chim đến tìm thức ăn ngon không lời nào tả hết!

Chim trời, cá nước tằm tơ dệt!
Quả chín duyên lành đức độ sinh!
Hồng chín cây ngọt lịm, tràn đầy chất bổ trong mình!
Chim khôn đánh mùi thức ăn ngon, thích hợp! Chìm trong hạnh phúc!

Chim! Thật là cảnh thái bình, thịnh vượng no đầy sung túc!
Hồng! Quả là chứng cớ rành rành kẻ phàm tục phá hoại thê lương!
Bắt Chim ngay tại hiện trường!

Đức Hùng
Sydney, Úc Châu, 28/12/2022


 

Hình Ảnh: Trần Đức Tạo


Lục Bát Sau Mưa - Thơ Mộc Lan Nhạc Nguyên Bích - Ca Sĩ Duyên Quỳnh


Thơ:Mộc Lan  
Nhạc: Nguyên Bích 
Ca Sĩ: Duyên Quỳnh

Vô Tận

  

Chữ nghĩa đi đâu mất hết rồi
Biệt ly nào mặn đắng bờ môi
Trăm năm lỗi hẹn xin đừng trách
Về trước về sau cũng thế thôi

Còn dấu môi hồng để làm tin
Mai kia nhắc lại chuyện chúng mình
Vòng tay chờ đợi còn say đắm
Hay chỉ xa xôi mỏi mắt nhìn

Còn dáng hiền ngoan áo học trò
Chiều lên phố nhỏ nhớ mưa to
Choàng chung áo ấm quên mưa gió
Mặc kệ nhân gian mặc đói no

Đã hẹn cùng đi bảo đợi chờ
Mà sao riêng bóng lạnh bơ vơ
Như hai đường thẳng song song mãi
Vô tận lòng đau gặp hững hờ

Chiều bỏ mây đi vào lãng quên
Bao nhiêu lá úa rụng quanh thềm
Mùa đi mùa đến rêu thay áo
Bia đá mòn tan xoá tuổi tên

Đường vắng mênh mông những dấu buồn
Bụi nhoà bóng cũ bóng tan thương
Chân đã lạnh rồi tay cũng lạnh
Không thể cùng đi đến hết đường

Xin lỗi hẹn nhau đến kiếp nào
Không buồn không cách không thương đau
Bao nhiêu tình tứ cho nhau hết
Mãi mãi tuyệt vời như chiêm bao…

MD 02/10/03
LuânTâm

Gọi Thu

 

Lặng lẽ thu về mắt nhẹ vương
Mây như trốn biệt chốn thiên đường
Sương mù giăng lối chim thôi hót
Mấy khóm hoa hồng rũ sắc hương

Nhớ dáng Hoàng Thành áo tím nhung
Nhìn O ngày nớ quyết theo lùng
Ai nghiêng mái tóc huyền ngây dại
Lá rụng muôn bề nhịp gió rung

Thu vàng mấy độ nét hoang sơ
Vỹ Dạ, sông Hương huyễn ảo mờ
Phím lạc cung đàn đêm dệt mộng
Mơ màng thiếu nữ gợi hồn ngơ

Bị chừ xứ Huế đã vời xa
Gởi gấm bờ thương nỗi nhớ nhà
Cả bóng hình em vào ký ức
Tình thu phủ xuống buổi chiều tà

Minh Thuý Thành Nội
Tháng 9/10/2020

Đá Hỏng Quả Phạt Đền



(Messi đá hỏng phạt đền trận Argentina - Poland November 30, 2022)

Hỡi đôi chân huyền thoại
Đá hỏng quả phạt đền
Như người tình phản bội
Quả bóng đi lạc đường.

Chàng cầu thủ thẫn thờ
Đau buồn và thất vọng
Người hâm mộ ngẩn ngơ
Tiếc cung đàn lỡ nhịp.

Có những điều đơn giản
Mà bỗng hóa gian nan
Anh không thể ghi bàn
Khung thành ngay trước mặt.

Nhưng chúng tôi vẫn nhớ
Những tình huống khó khăn
Đôi chân vàng của anh
Đã ghi bàn thắng đẹp.

Dù thiên tài bóng đá
Cũng có lúc không may
Chỉ với đôi chân này
Thắng thua đầy kịch tính.

Hỡi đôi chân huyền thoại
Đã lập bao chiến công
Xin chia buồn cùng anh
Quả phạt đền thất bại.

Nguyễn Thị Thanh Dương
( December, 01, 2022)
***
(Em Đáp Lại Chị Bông)

Tim em đang tan vỡ
Tiễn đội Đức ra về
Và Canada nữa
WorldCup rầu tái tê

Mai này ai sẽ thắng?
Pháp hay Bồ Đào Nha?
Brazil hay Nhật Bản
Bỉ, Argentina??

Ôi WorldCup là thế
Có đầy đủ buồn, vui
Nụ cười và nước mắt
Hạnh phúc với ngậm ngùi

Chỉ một đội "Vô Địch"
Bao nhiêu đội sầu vơi
Người hâm mộ thổn thức
Hẹn mùa sau người ơi!!

Tim em đang tan vỡ
Tiễn đội Đức ra về
Và Canada nữa
WorldCup rầu tái tê

Mai này ai sẽ thắng ?
Pháp hay Bồ Đào Nha ?
Brazil hay Nhật Bản
Bỉ, Argentina ??

Ôi WorldCup là thế
Có đầy đủ buồn, vui
Nụ cười và nước mắt
Hạnh phúc với ngậm ngùi

Chỉ một đội "Vô Địch"
Bao nhiêu đội sầu vơi
Người hâm mộ thổn thức
Hẹn mùa sau người ơi!!

Kim Loan

Gởi Nữ Sĩ Sao Khuê!

  

(Bài Hát Nói cảm ơn và đáp lễ Nữ Sĩ Sao Khuê đã có Lời Bình ngày 27/11/2022 về các sáng tác Hát Nói của Đức Hùng, trong đó có câu “. . . chớp mắt đã “hát” xong, chắc kiếp trước anh hay hát cô đầu?”)

Sao Khuê đẹp lắm!
Khuê Tú, Khuê Mộc Lang! Chòm sao sắm nắm trong bảy chòm thuộc Bạch Hổ ở phương Tây
Tượng trưng cho Kim trong Ngũ Hành và mùa Thu có gió Heo May
Cùng với Sao Khôi là Thần Chủ Quản Văn Chương, Trí Tuệ! Đầy “uy quyền”, thông minh tuyệt hảo!

Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo!
“Nữ Sĩ trí bình chiếu Ả Đào!”
Câu đầu Minh Quân Lê Thánh Tông tạc bia ca ngợi Danh Tài Nguyễn Trãi năm nào!
Câu kế Đức Hùng “mạo muội” sửng sốt thấy một Nữ Thi Nhân đã dám “thì thào” về Cô Đầu, Hát Nói!

Đức Hùng thuộc Thổ. Sao Khuê thuộc Kim. Thổ sinh Kim! “Hợp mệnh”, không bị “chõi”!
Nên khi “bị” Sao Khuê hỏi “kiếp trước anh hay hát cô đầu?”
Đức Hùng không “giận” mà còn hoan hỉ , nhã ý vội vã gởi Sao Khuê một “chầu”!
“Tom chát” tưng bừng, vang động làm cho đêm thâu mải miết giải sầu, quên sáng!

Sao Khuê sóng sánh tràn lênh láng!
Hùng Đức lung linh tỏa mượt mà!
“Duyên Văn Nghệ” dẫu thẳm xa
Chỉ như đối mặt giao hòa thơ văn
Xin “thôi” khủng bố dữ dằn!
Kẻo hồn “thất tán” bỏ ăn, trùm mền!
“Bình” này hồ dễ ai quên!

Đức Hùng

Sydney, Úc Châu, 29/11/2022
***
Hát Nói

(Kính gửi anh Đức Hùng và quý vị)

Hỏi rằng là “hát” hay “nói” đây

Mà sao lại nhanh đến thế này
Kiếp xưa “tôm chát” đà quen lối
Nay mới “bình”thôi đã “nói” đầy

“Hát”đã hay mà “Biết”cũng hay
Đức Hùng sao lại giỏi thế này
Nơi chốn trần gian rành điển tích
Thượng giới trời xanh tinh tú bay…

Khuê Tú, Mộc Lang, Bạch Hổ Tây* (1)
Venus, Hôm, Mai, Kim, Khuê này*( sao Hôm, sao Mai, sao Kim, sao Venus ) (2)
Gặp gỡ chắc là Kim do Mộc ( mộc sinh kim -trong ngũ hành)
Ngũ Hành tương ứng, rõ duyên may …

Nguyễn Trãi ngày xưa chịu án oan
Quần thần kết tội “Lộ” lăng loàn
Chu đi tam tộc, ôi thảm thiết
Hỏi có hay không phụng vầy loan?

“Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”
“Vi thần” án nặng lòng đáu đau (3)
Khanh tướng công hầu hơn trận mạc
Cũng bởi minh quân chửa ló đầu

Nhanh mồm vụng miệng khiến long đong
Lưỡi ngắn bẩy lần uốn chửa xong
Lời đã vụt ra hơn tên bắn
Bút hiệu Sao Khuê tỏ nỗi lòng (4)

Sao Khuê
1, 2-Tất cả các tên trên chỉ cùng một sao: sao Khuê.
3- Nguyễn Trãi dùng mỡ viết vào lá: Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” khi cùng Lê Lợi
chống quân Minh.
3-Vì hay bị hiểu lầm nên lúc viết bài SK lấy tên Sao Khuê, ý chỉ bị hàm oan như
Nguyễn Trãi .

*****” (Lời) Bình “ngắn mà “hồ( = bầu) dài nên SK xin đáp lễ trường bạch (thưa dài)
Xin thưa quý vị: Tất cả, chỉ là nói. cho vui chứ không có ý gì cả đâu ạ.
Mô Phật, thiếu chánh niệm! thiếu tỉnh thức . Xin chừa!
 

Đức Phật Đã Giác Ngộ Tứ Diệu Đế Như Thế Nào


Đúng là chỉ nhờ Quán Tứ Niệm Xứ, Phật đã thấy:

Tất các pháp thế gian đều Vô Thường, Khổ, và Vô Ngã, sinh diệt biến đổi Tùy Duyên, không theo ý.muốn của mình ( Ngã ).

Ý.muốn của mình là gi? 

Ý.muốn của mình là kamachanda ( kama = khoái lạc, chanda = muốn ), luôn.muốn hưởng lạc, không muốn bị khổ. Trong khi ngồi Thiền và Quán, Ngài cũng đã thấy điều đó; có những lúc thấy Lạc, có những lúc thấy Khổ. Lạc hay Khổ đều sinh diệt biến đổi tùy duyên chứ không.theo ý.muốn của mình:

- Lạc đủ duyên.mới sinh khởi, không còn đủ duyên thì diệt. Mình muốn.Lạc tới ngay cũng không được. Muốn Lạc ở lại với.mình lâu hơn cũng không.được:Bất Như Ý, Bất Toại Nguyện: Khổ Tâm. 

- Khổ, mình không.muốn Khổ tới  nhưng khi đủ duyên thì Khổ vẫn cứ tới. Mình muốn Khổ đi ngay, nhưng Khổ không đi ngay mà Khổ chỉ mất đi khi duyên tạo Khổ không còn. Cuối cùng thì Khổ vẫn vô thường biến đổi nhưng không biến đổi theo ý.muốn của mỉnh, tùy duyên.mà bệnh có thể bớt rồi dứt, nhưng cũng cón thể tủy duyên.mà bệnh nặng lên rồi chết: Bất Như Ý, Bất Toại Nguyện: Khổ Tâm

Và từ đó Phật  ngộ ra rằng: Khổ Tâm là do Vô Minh và Tham Ái. Tham Ái vì Vô Minh : không thấy rõ tính Vô Thường Tùy Duyên và Vô Ngã của tất cả các pháp thế gian. 

Do đó để không bị khổ thì phải diệt Vô Minh. Vô Minh diệt thì Tham Ái diệt.

Làm sao có thể diệt Vô Minh?

Thiền + Quán, như Phật đã làm, là con.đường đưa.tới Chánh Kiến (Tuệ) để thấy rõ 3 Chân Tánh của tất cả các pháp thế gian.
Phật cũng nhờ Thiền + Quán mà thấy rằng:  khi còn tại thế cùng với Sắc Thân, thì không thể thoát khỏi Khổ Thân.
Rồi Phật nghiệm ra Lý Duyên Khởi của Thập Nhi Nhân Duyên và thấy Vô Minh diệt thì Tham Ái diệt, Tham Ái diệt thì Nghiệp Hữu diệt. Nghiệp Hữu diệt thì Không còn Tái Sinh: Thân diệt Tâm diệt. Không còn Khổ Thân vả Khổ Tâm. Tất cả Khổ đều diệt. Viên Tịch. Niết Bàn.

Phật Pháp chỉ có bấy nhiêu thôi! 

An Vui


Hà Nội, Hai Người Bạn Thủa Ấu Thơ


Trận đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945 xảy ra tại miền Bắc VN đi qua được khoảng nửa năm thì tôi được sinh ra. Quê tôi một làng quê nghèo dọc theo hữu ngạn sông Hồng, thuộc phủ Xuân Trường tỉnh Nam định. Trong 4 năm tuổi đầu đời, tôi hoàn toàn không nhớ gì về những khốn khổ đã xảy ra cho gia đình tôi, khoảng thời gian nền chính trị của VN rất phức tạp đó. Nhưng qua lời kể lại từ bố mẹ đã cho tôi hình dung ra được phần nào những tang thương, đói khổ vì chiến tranh và thiên tai như bão lũ, vỡ đê…mà phần lớn người dân miền Bắc nhất là ở những vùng thôn quê hay cao nguyên phải lãnh chịu.

Không chỉ khốn khổ với thiên nhiên tàn phá, mà dân làng của tôi còn bị đày đọa với những đoàn lính Lê Dương của quân đội Pháp, từ các xứ thuộc địa bên Phi châu sang. Lũ quân mọi rợ, tàn bạo này không có gì là chúng không dám làm, giết người cướp của, hãm hiếp đàn bà con gái trong những khu vực mà chúng đi qua

Bố mẹ tôi cho biết, thời đó người dân dù có muốn bám lấy ruộng vườn, nơi ông cha mình đã nhiều đời sinh sống, lập nghiệp cũng không được. Nhưng bỏ làng ra đi, tìm nơi khác yên ổn hơn để kiếm kế sinh nhai cũng không phải dễ dàng nếu không có người quen, thân thích đã sống ở đó giúp đỡ. Nhất là những ngày đầu tiên còn ngờ nghệch thì chuyện định cư lâu dài được coi không dễ !
Trong những năm tôi còn ẵm bế trên tay đó, bố mẹ tôi đã bao nhiêu lần bỏ làng đi lánh nạn, khi thì lên tỉnh thị Nam Định, lúc thì đến Hà nội… Ăn nhờ ở đậu vài ba người họ hàng, nhưng thấy họ cũng chẳng khá gì hơn, cũng phải chui rúc vào những xó xỉnh nào đó trong thành phố. Buổi sáng khi mặt trời chưa mọc đã chia nhau đi làm đủ mọi việc ở bến cảng, nhà ga xe lửa để kiếm sống. Với tình trạng như vậy, gia đình tôi cũng chỉ dám làm phiền một vài ngày hay quá lắm một tuần lễ cho qua cơn hoạn nạn, rồi nghe ngóng tình hình, thấy có tí yên ổn lại dắt díu nhau trở về làng. Được vài ba tháng hay nửa năm, bom đạn, chém giết, thiên tai… lại đến và lại bồng bế ra đi. Cứ thế suốt khoảng 4-5 năm đầu đời của tôi toàn là chạy loạn.

Từ năm 1951, dù chỉ mới 5 tuổi nhưng ký ức tôi đã hằn sâu biết bao nhiêu cảnh tượng kinh hoàng của thời loạn ly đó. Những lần anh em chúng tôi đang chơi đùa hay đang ăn dở bữa cơm, nghe thấy tiếng máy bay hay người làng hô hoán… Bố mẹ vội vàng ôm lấy chúng tôi nhảy vội vào đường hầm chữ chi lõm bõm nước mưa tránh bom phía sau nhà. Trên trời chiếc máy bay gầm rú thả bom hay bắn phá.
Buổi tối, dưới ánh trăng mù mờ trên sân phơi thóc, hàng chục người rên la, đau đớn, thân mình cháy đen vì bom Napalm. Món thuốc chữa phỏng duy nhất cho nạn nhân là mỡ bò, mỡ lợn.

Tôi còn nhớ, những lần chạy loạn, bố tôi một tay vác bao quần áo, vài dụng cụ linh tinh, tay kia nắm lấy tôi, Mẹ thì gánh hai cái thúng, mỗi thúng một đứa em, nối theo đoàn người chạy loạn trên những con đường đê hay bờ ruộng. Xa xa phía sau những cột khói đen lan tỏa trên bầu trời mang theo mùi cháy khét của bom đạn. Trong những cuộc tản cư, chạy loạn đó, lúc thì đi bộ, lúc thì đi xe bò kéo, lúc thì đi thuyền. Hình ảnh những xác chết vô thừa nhận ung rữa theo bờ ruộng hay bập bềnh trên dòng sông, mương rạch… mãi mãi khắc sâu vào ký ức kinh hoàng tuổi ấu thơ của tôi trong những lần chạy loạn đó.

Đến khoảng cuối năm 1951, thiên tai, loạn lạc đã làm cho cuộc sống gia đình tôi đến mức kiệt quệ, không thể nào tiếp nối những cuộc tản cư “ du mục “ đó được nữa. Cứ ra đi rồi lại trở về, rồi lại ra đi, ruộng vườn bỏ hoang, làm sao mà sống ? Bố mẹ tôi và một gia đình người cùng làng quyết định lên Hà nội, nương tựa vào nhau để sống và tìm cách định cư tại đó. Tôi còn nhớ rõ căn nhà ọp ẹp đầu tiên, gia đình tôi gồm 5 người và gia đình người đồng hương có 2 đứa con khoảng 3, 4 tuổi, cùng thuê trong một ngóc ngách nghèo nàn, nhầy nhụa rác rưởi trong khu phố Hàng Bột, Hà Nội. Căn nhà trống hoác, đúng nghĩa một chòi lá, diện tích không quá 15, 16 mét vuông dành cho 9 người sinh sống. Một tấm liếp ngăn ở giữa chia ra làm 2 phòng dành cho hai gia đình, mọi người tự vun vén mà sống với nhau. Phía sau nhà, một chái nhỏ hớ hênh dùng cho việc bếp núc và tắm rửa, vệ sinh cá nhân thì ra bãi rác gần nhà mà giải quyết.

Hàng ngày, gà chưa gáy hai bà mẹ đã thức dậy nấu nướng sơ sài bữa cơm “độn ngô khoai “ cho mọi người dằn bụng trước khi bốn người lớn chia nhau đi làm kiếm sống. Công việc thì bất định, lúc thì lên chợ Đồng xuân, khi thì đến nhà ga xe lửa… làm bất cứ việc gì miễn là kiếm được tiền chu cấp cho việc ăn uống của hai gia đình. Còn lũ trẻ con chúng tôi thì loanh quanh chơi đùa trong xóm. Đến trưa người lớn thu xếp chạy vội về nhà lo cho bữa cơm trưa đơn sơ, có gì ăn nấy rồi lại ra đi cho đến tối mịt mới trở về nhà .

Chúng tôi sống như vậy được khoảng nửa năm, đúng lúc có phong trào nhập ngũ tuyển quân để thành lập quân đội Việt Nam do Pháp và Mỹ giúp đỡ. Nhờ sự dẫn dắt của một người quen biết với một ông quan Năm ( đại tá ?) trong quân đội Pháp, bố tôi và vài người cùng làng gia nhập vào quân đội VN. Ông quan Năm kéo bố tôi cùng vài người lính khác về làm lính hầu cho gia đình trong một căn biệt thự to lớn tại Hà nội. Đó là điểm mốc khởi đầu cuộc sống mới, tạm gọi là an định của gia đình tôi tại Hà nội. Một gia đình gốc nông dân tay lấm chân bùn chỉ vì sự chấn ép của thời cuộc, phải rời xa ruộng vườn, bước vào một dạng sinh nhai mới của kiếp tôi tớ tại thành phố, nơi mà chúng tôi chẳng có gì ngoài sức lao động và sự nhẫn nhịn để vươn lên.

Gia đình tôi cùng với khoảng 5,6 gia đình cùng khổ khác đến từ các vùng quê loạn lạc của miền Bắc chen chúc nhau trong một dãy nhà dành cho tôi tớ ở góc vườn phía sau căn biệt thự đồ sộ hai tầng của gia đình ông quan Năm. Cuộc sống tạm gọi là yên định vì có đồng lương hàng tháng của quân đội, dù bố và cả mẹ tôi cũng phải è lưng ra làm việc không kể ngày đêm trong vị trí của kẻ tôi tớ. Ngoài việc hầu hạ cho gia đình chủ nhân còn phải phục dịch cho những buổi tiệc tùng, khiêu vũ linh đình, khách mời là những ông Đốc, bà Tham, quan Tây, quan Việt… trong quân đội Pháp và VN mới thành lập .

Chúng tôi thực sự định cư tại Hà nội từ đó! Với khoảng 4 năm trước khi di cư vào Nam (1954 ), dù đã bước vào tuổi đi học nhưng tôi vẫn hoàn toàn xa lạ với trường lớp. Hàng ngày tôi cũng như những đứa trẻ khác trong dãy nhà tự tìm lấy nguồn vui để chơi đùa với nhau, trong khi cha mẹ phải lo toan những công việc không có giới hạn thời gian cho chủ nhân. Trong khoảng thời gian đó tôi đã có hai người bạn đầu tiên trong đời. Cũng giống như tất cả sự quen biết, gần gũi nhau của những đứa trẻ khác, chúng tôi sống gần nhau, hàng ngày chơi đùa với nhau rồi dần dần trở nên thân thiết. Hai người bạn này đã khắc sâu vào trí nhớ tôi những dấu nhấn rất đậm vì cá tính của họ cũng như những biến chuyển cuộc đời họ khi trưởng thành mà người ta gọi là định mệnh. Bài viết này như một sự hoài nhớ của tôi dành cho họ và cũng muốn nói lên một trong hàng trăm, hàng ngàn dạng thức bi thương của cuộc sống trong một nước Việt nam đói nghèo và trầy trụa với chiến tranh ngày đó…

Hiền, người bạn thứ nhất

Hiền, tên người bạn, anh ta hơn tôi 2 tuổi, con trai lớn của ông Quế, người Hà Nam, một tỉnh nhỏ, nghèo phía nam sát cạnh Hà nội. Cũng vì loan ly, gia đình ông Quế phiêu bạt lên Hà nội từ năm 1950 rồi cũng vì đưa đẩy ông Quế cùng nhập ngũ với Bố tôi, làm lính hầu cho ông quan Năm và cùng sống trong dãy nhà phía sau của căn biệt thự. Hiền có cô em gái tên Yến kém tôi 2 tuổi. Mẹ tôi cho biết trước khi lên Hà nội bà Quế có bầu đứa con thứ 3, trong một lần chạy loạn bị tai nạn đường thuỷ bị sẩy thai và từ đó bà Quế mất khả năng sinh sản.

Trong gần 4 năm trời tại Hà nội, tôi và Hiền rất thân thiết nhau, gần như hàng ngày tôi đều theo Hiền đi chơi. Có lẽ vì gia đình Hiền sống gần và thường lên Hà nội kiếm sống nên Hiền biết khá nhiều về đường phố, lối sống con người của Hà nội. Chính cũng vì theo Hiền lang thang trong suốt khoảng thời gian ở Hà nội, trước khi di cư vào Nam, tôi đã biết một phần nào của Hà nội. Những địa danh nổi tiếng trong khu phố cổ Hà nội, với những căn nhà nhỏ bé chen chúc xếp cạnh nhau như tổ chim bồ câu, hồ Hoàn Kiếm, tháp Rùa, đền Ngọc Sơn, Tháp bút ,chợ Đồng xuân, nhà thờ Lớn, Bưu điện..v..v.. ( quận Hoàn Kiếm ngày nay ) là những nơi, gần như hàng ngày tôi theo Hiền lê lết tại đó như những đứa trẻ không nhà.

Không xa khu phố cổ, một khu vực thoáng mát, đường xá rộng rãi, xanh mướt với những hàng cây me, cây sấu to lớn trồng dọc lề đường, đây là khu sang trọng nhất của Hà nội với những dinh thự to lớn dành cho những người Việt hay Pháp có danh vọng trong xã hội sinh sống.( quận Ba đình ngày nay). Nơi đây, dù không ồn ào, vui thú như khu phố cổ nhưng thỉnh thoảng Hiền cũng dẫn tôi đến đó lang thang. Nhờ vậy tôi cũng biết tí chút về chùa Một Cột, Văn Miếu Quốc Tử Giám, chùa Trấn Quốc, một trong vài ngôi chùa cổ xưa nhất Việt nam tọa lạc trên một khu đất nằm cạnh con đường Cổ Ngư râm mát đẹp đẽ, con đường chia cách hồ Trúc Bạch với hồ Tây…

Hiền cũng dẫn tôi đến phố Khâm Thiên, nơi chốn ăn chơi , trác táng của Hà nội, ngày đó người ta gọi là phố Cô Đầu. Tại đây có những nhà hàng khiêu vũ, cờ bạc, đĩ điếm hay hút thuốc phiện…Chung quanh của khu phố bệnh hoạn này là những khu sình lầy hay khu đổ rác của thành phố. Cư dân tại đây từ tứ xứ di cư đến Hà nội kiếm ăn hay tị nạn chiến tranh. Hàng Bột nơi gia đình tôi cư ngụ lúc mới trôi dạt lên Hà nội cũng thuộc vào khu khốn khổ, tối tăm này.
Trong khoảng 4 năm gần gũi, lang thang hàng ngày tại Hà nội với người bạn đầu đời, rất khôn ngoan và lanh lợi đó, tôi đã có biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn khắc sâu vào ký ức, có lẽ cho đến ngày xuôi tay nhắm mắt tôi cũng không bao giờ quên được anh ta.

Nhiều lần hai chúng tôi chán câu cá dưới bóng mát của những khóm liễu rủ bên cạnh hồ Hoàn Kiếm, Hiền dẫn tôi lang thang dọc theo bờ hồ, hai đứa chỉ trỏ đếm những cặp tình nhân, Tây cũng như Ta thân thiết bên nhau đi dạo bên cạnh bờ hồ. Đôi lần, Hiền bảo tôi đứng đợi còn Hiền lăng quăng đến gần những cặp tình nhân đang ngồi hóng mát trên những ghế đá hay đang đi dạo … Nói gì đó với họ, tôi hoàn toàn không biết. Nhưng một lúc sao Hiền trở lại , mang cho tôi một vài miếng kẹo kéo hay một gói bắp rang. Có chút ngạc nhiên, tôi hỏi nhưng không bao giờ có câu trả lời rõ ràng mà Hiền chỉ cười, ra dấu dục tôi ăn đi.

Có một lần, vào ngày chủ nhật, trời đã xâm xẩm tối, chúng tôi đến phố Khâm Thiên, đúng lúc băng qua đường thì một chiếc xích lô chở một “ ông tây “ đâm sầm vào, làm tôi và Hiền ngã. Trong lúc tôi đau đớn, nằm lăn trên đường nhựa, Hiền đã lồm cồm đứng bật dậy, chỉ tay vào người phu xích lô với vẻ giận dữ trách mắng ông ta, rồi quay sang ông tây, Hiền làm ra vẻ đau đớn , khoa tay ra hiệu và nói gì đó với ông ta… Thành thật tôi chẳng biết Hiền nói cái gì và có phải là tiếng Tây hay không ? Nhưng ông Tây quay nhìn người phu xích lô ra vẻ bực tức, giơ tay lên tát một cái khá mạnh vào mặt anh ta rồi vẫy tay ra vẻ xua đuổi anh ta. Người phu xích lô sợ hãi, vội vàng lên xe và đạp nhanh như trốn chạy, không dám đòi tiền xe. Ông Tây nhìn chúng tôi , đưa tay vỗ nhẹ lên đầu hai chúng tôi ra vẻ an ủi rồi móc túi ra đưa cho Hiền tờ giấy bạc. Không một tí lưỡng lự, rất nhanh Hiền cầm lấy tờ giấy bạc, quay ra nói câu gì đó ( tôi cũng chẳng biết Hiền nói tiếng Tây hay tiếng Việt ?) với ông Tây, rồi kéo tay tôi đi thẳng. Ngày hôm đó, dù trời đã tối, thay vì phải về nhà để ăn bữa tối như mọi ngày, chúng tôi đã có những món ăn vặt no nê từ những quán trên lề đường nhờ đồng bạc mà Hiền đóng kịch thành công.

Một vài lần khác cũng trong phố Khâm Thiên, Hiền dẫn tôi đến những căn nhà có cơ sở nhầy đầm. Hiền bảo tôi đứng nép vào bên cửa, rồi bỏ tôi đi đâu đó. Tôi nhìn vào bên trong, vài hàng ghế kê sát vách trong căn sảnh khá rộng có những cô vũ nữ diêm dúa ngồi chờ khách. Thỉnh thoảng vài người đàn ông tây cũng có, ta cũng có đến gần hàng ghế, chỉ vào cô nào , cô gái đó đứng dậy và theo ông khách ra sàn nhẩy. Tôi có cảm tưởng Hiền khá quen biết nơi đó, thỉnh thoảng có cô vũ nữ hay người đàn ông (chắc là người làm của vũ trường ?) gọi Hiền đến gần và sai bảo làm việc gì đó cho họ ..v..v.. ngày hôm đó tôi lại được Hiền cho ăn những món ăn đường phố .

Rồi ngày di cư, gia đình Hiền cùng với nhiều gia đình khác, kể gia đình tôi sống trong dãy nhà lính hầu được theo chủ nhân vào Nam. Tôi nhớ chính xác thời gian vài ba tháng đầu tiên gia đình Hiền cũng hội tụ với gia đình tôi trong những căn nhà cất tạm phía sau của một dinh thự rất rộng của chủ nhân ông trên đường Lê văn Duyệt ( nay là đường Cách mạng tháng tám ) gần trường học công giáo Thánh Mẫu. Nhưng sau đó gia đình tôi theo chủ nhân lên Đà lạt làm rẫy, gia đình Hiền không đi và làm gì, đi đâu tôi không biết. Khoảng một năm ở Đà lạt, gia đình tôi dọn về lại Saigon có lẽ vì chủ nhân và nhóm thân cận bị vướng vào lao lý vì lem nhem, ăn chận tiền cứu trợ của dân di cư. Nhưng chỉ nhóm cận thần bị ra tòa, lãnh án tù còn chủ nhân nhanh chân trốn sang Pháp lưu vong.

Suốt nhiều năm sau đó, tôi không gặp và biết tin tức gì về gia đình của Hiền. Nhưng vào khoảng năm 1962, cả Saigon rúng động với một bản tin giết người tàn bạo xảy ra tại Gia Định. Người vợ cả đã xô người vợ hai khi bà ta đang có thai, gần ngày sinh đẻ xuống cái giếng sau nhà, người chồng trong vụ án là ông Quế, kẻ sát nhân là mẹ của Hiền. Tôi chỉ biết có vậy về gia đình Hiền qua bản tin kinh hoàng đó mà thôi.
Mãi đến năm 1966 khi vừa lên đại học, một lần tôi theo mẹ tôi lên chợ Cầu Ông Lãnh mua chuối về bán tại lề đường Tô Hiến Thành. Trong lúc tôi cùng với mẹ và người phu xe đang chăm chú vào việc chất những buồng chuối lên xe ba gác. Thình lình có người vỗ vào vai tôi với giọng ngạc nhiên, vui mừng :
-Tê, phải không?

Tôi giật mình quay lại. Đứng trước tôi một thanh niên vóc dáng khá bặm trợn, vài hình xăm trên cánh tay, lồng ngực, đúng dáng dấp một kẻ giang hồ. Anh ta chau mày nhìn tôi kỹ hơn, trong khi tôi vẫn còn lạ lùng không biết anh ta là ai và tại sao biết cái tên “ quê mùa , thời ấu thơ “ của tôi. Hình như biết tôi chưa nhận ra mình, anh ta vỗ mạnh hơn vào vai tôi, rất thân thiện anh ta nói :
-Hiền, ở Hà nội ngày xưa đây! Tê, mày không nhận ra tao hả?
Lúc này thì tôi không còn một tí gì bỡ ngỡ, lạ lùng nữa thay vào đó là sự mừng vui vô cùng. Một tay nắm chặt lấy cánh tay của Hiền, tay kia vỗ liên hồi vào vai người bạn ấu thơ :
-Nhận ra rồi. Đúng là thằng Hiền, mày thay đổi quá nhiều.

Rồi cứ thế, tôi bỏ cả việc giúp mẹ chất chuối lên xe để hàn huyên với Hiền. Đại khái Hiền cho tôi biết sau khi vào Nam được vài năm, ông Quế, bố của Hiền giăng díu với một cô gái trẻ, cô ta có bầu và đem đến vụ án ghen tuông tàn bạo như báo đã đăng. Bà Quế sau khoảng hơn sáu năm tù tội, ra tù,trở về nhà rồi bị bệnh liên miên và đã mất hơn một năm trước. Hiện nay ông Quế về sống với Yến, em gái của Hiền bên bờ bên kia Rạch Bến Nghé, đối diện với chợ Cầu Ông Lãnh . Hiền không có chỗ cư trú chắc chắn, thỉnh thoảng tạt về nhà gặp bố và em gái. Dù được hoãn dịch gia cảnh vì là con trai độc nhất trong gia đình, nhưng khoảng 3 năm trước Hiền theo chúng bạn đầu quân vào binh chủng nhảy dù, nhưng chỉ được một thời gian ngắn rồi đào ngũ trở về đời sống dân sự. Hiện nay, Hiền cùng nhóm bạn xa xưa lo việc bảo kê cho những nhà buôn trong khu chợ Cầu Ông Lãnh cũng như cho những tàu thuyền chở hàng từ các tỉnh miền đồng bằng Cửu Long đến Saigon bằng rạch Bến Nghé.

Lúc kèm xe chuối về nhà, Mẹ tôi cho biết cũng rất ngạc nhiên khi nhận ra Hiền, một tên trùm du đãng tại chợ Cầu Ông Lãnh, dù đã gặp nhiều lần nhưng mẹ tôi hoàn toàn không biết đó là Hiền, thằng bé từng là bạn ấu thơ của tôi xa xưa. Mẹ khuyên tôi không nên dính dấp hay liên hệ với Hiền để tránh những rắc rối.
Sau đó thỉnh thoảng tôi cũng gặp lại Hiền trong những lần đi mua chuối với mẹ. Hiền rất vui mừng mỗi khi gặp tôi, lần nào cũng kéo tôi ra quán ăn ở đầu chợ, cho tôi ăn uống no nê nhưng không một lần nào Hiền để tôi trả tiền. Tôi vẫn khắc sâu trong trí nhớ, một lần ăn cơm với Hiền trong quán. Đưa ánh mắt nhìn xa xa ra vẻ suy tư với giọng buồn buồn, Hiền nói như than thở với tôi:
-Thành thật tao rất qúi mến và cảm phục mày! Một đứa bé nghèo hèn, lang thang ở Hà nội, không biết gì đến sách vở trường học mà ngày nay, mày đã vươn lên trong môi trường đại học. Còn tao và cả con em gái tao nữa, vẫn chẳng ra gì! Tương lai thì mờ mịt, việc làm kiếm sống thì chẳng giống ai.

Buông tiếng thở dài, buồn bã Hiền nói tiếp:
-Có lẽ một phần vì bố mẹ tao đã không hiền thục, hy sinh và chịu đựng như bố mẹ mày để giúp anh em chúng tao có niềm tin, động lực để vượt khó, vươn lên như mày. Nhưng nghĩ kỹ, phần lớn vẫn là do anh em tao ham chơi, buông thả theo vật chất. Đua đòi chúng bạn mà không nghĩ đến việc học hành, xây dựng tương lai! Bây giờ, tất cả đã muộn màng rồi.
Tôi im lặng, cảm thông nỗi buồn của thằng bạn thủa ấu thơ. Với chút suy nghĩ tôi chậm rãi trả lời:
-Có lẽ mày nói đúng. Anh em chúng mày đã trưởng thành, con đường trở về với sách vở, tìm đường tiến thân đã qua rồi. Nhưng theo tao, đó không phải là con đường duy nhất. Hãy tìm một con đường khác hợp với khả năng, hoàn cảnh để đi lên, nó thực tế và tốt hơn là buông xuôi, bị động theo những cái mà mình đã thấy là sai lầm.

Suy nghĩ một chút, tôi nói tiếp:
-Tại sao mày không nghĩ đến tìm cách mở một cơ sở buôn bán hay sửa chữa xe cộ, máy móc ....
Hiền cười nhẹ thành tiếng, ngắt lời tôi:
-Mày tưởng bước vào thương mại, tạo một cơ ngơi kiếm sống với bàn tay trắng và hoàn toàn mù mờ về chuyên môn như tao, trong một xã hội đầy rẫy bấp bênh vì chiến tranh dễ lắm sao? Nói rất thật với mày, nếu tao không hư hỏng, bỏ ngang việc học, có được tấm bằng tú tài, có lẽ cuộc đời tao sẽ khác với hiện tại, một kẻ đâm thuê, chém mướn.
Dừng lại một tí chút, đưa bàn tay thân thiện nắm lấy cánh tay tôi, với vẻ rất chân thành Hiền nói tiếp :
-Tao mong mày học hành thành tài, tương lai làm ông này, ông kia, khi tao già, không còn gân sức nữa để làm cái việc không giống ai này, mày hãy tìm cho tao một việc làm, việc gì cũng được. Dù là tên coi nhà, đóng cổng cho mày, tao vẫn vui lòng, không một tí than van, vì ít ra tao biết mình dốt nát nên phải làm cái việc thấp hèn nhưng vẫn có niềm vui và hãnh diện vì được làm cho thằng bạn thân thiết của mình.

Thời gian trôi qua, không lâu sau đó, với sự tính toán trong chuyên môn, tôi đã tạo dựng được một cơ ngơi nho nhỏ cho gia đình ở Bà Quẹo. Mẹ tôi bỏ việc bán chuối cực nhọc, về làm việc cho gia đình. Tôi và Hiền không có dịp gặp nhau nữa. Nhưng đến năm cuối đại học, không biết vì lý do gì, bố tôi rủ tôi cùng đến thăm ông Quế, người bạn cố tri mà nhiều chục năm bố tôi không gặp.

Đứng trước căn nhà gạch 2 tầng khá khang trang, nằm trên con đường lộ chạy dọc theo rạch Bến Nghé, chúng tôi, có chút ngại ngần không dám bước vào vì đó là một quán “đèn màu”. Nhìn vào bên trong, thấp thoáng vài ba người khách đàn ông ngồi quanh những chiếc bàn thấp chân đang lơi lả với vài cô gái phấn son loè loẹt. Có lẽ vì chúng tôi đi qua đi lại nhiều lần đã làm cho người phía trong quán chú ý. Một phụ nữ trẻ, trang phục khá hở hang với thái độ không vui từ trong tiệm đi ra. Nhìn bố con chúng tôi, cô ta hỏi những câu rất xấc xược như xua đuổi. Nhưng sau khi nghe chúng tôi trả lời, cô ta giương mắt nhìn, với tí chút vui mừng, ngạc nhiên, cô ta nói :
-À, bác Tiêng, anh Tê phải không? Cháu là Yến đây.
Có lẽ đoán được mục đích của chúng tôi và đã quen thuộc với những phiền phức từ những ông bạn già luộm thuộm, nhà quê của bố. Yến chẳng cần để chúng tôi mở lời, cô ta đưa tay chỉ vào phía sau nhà, nói tiếp:
-Bác và anh Tê cứ đi thẳng xuống căn phòng gỗ cuối cùng xây trên con rạch, Bố cháu đang ở đó.

Theo chỉ dẫn của Yến, chúng tôi đi sâu vào phía sau, qua một căn phòng mịt mù khói thuốc, sát phía sau nơi bán cà phê, đang ồn ào những tiếng chửi thề. Nơi đó có khoảng 5 ,6 người đang quây quần nhau trên chiếc phản gỗ đánh bạc. Bố con chúng tôi im lặng, đưa mắt nhìn nhau như đã hiểu rõ cuộc sống của gia đình ông Quế. Tiếp tục đi đến phần cuối của căn nhà. Sau vài tiếng gọi và gõ cửa của bố tôi, ông Quế hiện ra, mời chúng tôi vào. Hoàn cảnh nghèo túng của ông Quế hiện ra trước mắt chúng tôi, một chiếc giường cũ kỹ với chiếc bàn gỗ lỏng khỏng, trên đó có chiếc điếu thuốc lào nhem nhuốc cùng vài cái ly uống nước bằng sành cáu đen. Tuy nhiên căn phòng khá mát mẻ nhờ gió thổi từ con rạch nước phía sau và xuyên qua từ những khe hở trên vách gỗ .

Ông Quế có vẻ già và lọm khọm và yếu hơn bố tôi nhiều dù ông ta kém bố tôi vài ba tuổi. Sau một lúc hỏi thăm và nói chuyện. Tôi đã thẫn thờ buồn bã khi ông Quế cho biết khoảng gần một năm trước, dù được hoãn dịch nhưng Hiền vẫn xung phong vào Thuỷ quân lục chiến và đã tử trận trong một lần hành quân tại Kiến Hoà. Hiền chết đi, ông đã mất nơi nương tựa và nguồn giúp đỡ từ thằng con trai duy nhất, thay vào đó ông phải nhận lấy nỗi cô đơn buồn tẻ . Hiện nay ông phải sống nhờ vào sự cưu mang của Yến, nhưng hình như tình bố con cũng không có gì êm thấm lắm!

Buông tiếng thở dài, nói vài câu an ủi, chia buồn với ông Quế, tôi im lặng dành riêng ít phút để nhớ đến người bạn xa xưa. Lại thêm một người bạn nữa ra đi, để lại cho tôi những suy tư buồn bã vì nhớ thương.
Nhiều người nói với tôi, trong một đất nước ngập sâu trong chiến tranh, bom đạn như Việt Nam, người ta sẽ dần dần chai sạn với những tin buồn chết chóc hay thương tật từ những người thân thương, bất hạnh của mình mang đến. Nhưng với tôi, trong nhiều năm qua, cứ vài ba tháng tôi lại nhận được những tin không vui, chết chóc từ bạn bè, người thân. Nhưng hình như nó vẫn chưa làm cho lòng tôi vô cảm, không đau buồn được. Những tin buồn đó vẫn làm tôi ngẩn ngơ, lịm người đôi khi làm cho tôi chảy nước mắt khi nhớ đến những kỷ niệm mà họ đã có với tôi lúc còn sống.

Hình ảnh của Hiền trở về trong trí nhớ tôi. Một thằng bé khôn lanh đã dẫn dắt tôi lang thang nhiều năm trời trên phố phường Hà nội. Đã láu lỉnh tìm được những đồng tiền từ những chốn ăn chơi, mua cho tôi những chiếc bánh đa, khúc kẹo kéo, túi bắp rang …Những món ăn đường phố của Hà nội xa xưa, nơi đó tôi đã phải sống gần trọn tuổi ấu thơ đói khổ của mình. Có lẽ, nếu không có Hiền thì chẳng bao giờ tôi biết đến mùi vị của những món ăn đó vì nó quá xa bàn tay nghèo khổ của tôi ngày đó.
Trong cái cảm giác buồn thương nhớ đó, hình ảnh của lần Hiền kéo tôi vào quán ở đầu chợ Cầu Ông Lãnh lại hiện về trong trí nhớ của tôi. Trong bữa ăn, với giọng rất buồn Hiền đã bộc lộ với tôi tất cả những đau xót, chán chường khi nghĩ về mình, thân phận của một kẻ đâm thuê, chém mướn! Hiền đã nhìn vào con đường học hành tiến thân của tôi. Mong ước, chúc tụng cho tương lai của tôi trở thành ông này, ông nọ để giúp cho Hiền có một công việc kiếm sống lúc về già, dù là một tên gác cổng cho tôi. Hôm nay, lời chúc tụng và dự tính tương lai đó, tất cả chỉ còn là ảo tưởng, đùa vui khi Hiền đã ra người thiên cổ. Nhưng với tôi hình như vẫn còn cái gì đó buồn đau, ân hận vì tôi sẽ không bao giờ có dịp trả lại tình thân cho người bạn thủa ấu thơ của mình nữa !...

Mai, người bạn thứ hai

Mai hơn tôi một tuổi, là con gái lớn của ông bà Quản. Mai có 3 người em, Tuấn người em trai lớn, thua tôi một tuổi, còn lại là 2 cô em gái còn ở tuổi chập choạng biết đi. Ông bà Quản là dân gốc Hà nội, hình như tên Quản không phải là tên trong giấy tờ mà là tên gọi từ chức vụ thượng sĩ của ông trong quân đội ? ( thời đó, hạ sĩ được gọi là ông Cai, trung sĩ là ông Đội, thượng sĩ là ông Quản sau đó là ông Quan một, Quan hai…).

Ông Quản điều khiển một tiểu đội lính lo việc canh gác bảo vệ ông quan Năm và gia đình. Với chức vị đó gia đình ông được sống trong một căn nhà khá khang trang, gần mặt đường lộ dọc theo cạnh của khu vườn thuộc căn biệt thự của chủ nhân. Còn gia đình người hầu cận hay lính gác như gia đình tôi thì chia nhau, chen chúc sống trong dãy nhà ở phía sau .

Tất cả trẻ con của cư dân hầu cận và lính gác sống trong khu nhà đó không có đứa bé nào đi học, vì còn nhỏ chưa đến tuổi hay vì cha mẹ nghèo không có khả năng chi trả tiền học phí. Duy nhất Mai và Tuấn người em trai được đi học tại một nhà thờ công giáo nào đó trong khu vực. Gia đình Mai theo đạo Công giáo rất thuần thành, được mọi người coi là thành phần có ăn học, vì vậy Mai cũng như mọi người trong gia đình ông bà Quản sống có phần nào tách biệt với mọi người. Tuy vậy, thỉnh thoảng Mai và Tuấn, sau giờ đến trường học, về nhà cũng tham gia vào những cuộc chơi đùa với lũ trẻ con chúng tôi.

Với 4 năm trời sống tại Hà nội trước ngày di cư vào Nam, tôi không có nhiều kỷ niệm với Mai như với Hiền. Nhưng ít hay nhiều, ở cái tuổi ấu thơ, ham vui, dễ hòa nhập trong những trò chơi trẻ con, tôi cũng giữ lại trong ký ức mình một vài dấu tích khó quên với Mai.

Nhiều lần đi học về, khi gặp lũ trẻ nghèo, hèn chúng tôi Mai thường mang những truyện trong Kinh Thánh, học từ các sơ trong trường học kể cho chúng tôi nghe. Nhiều đứa trẻ khác, nhất là Hiền thường có thái độ không tin, không chú ý, đôi khi còn nói những câu chế giễu nữa. Tôi thì ngược lại, rất thích và chăm chú nghe… Có lẽ cũng vì tính thích nghe truyện thần thoại nên tôi đã nghe Mai kể một cách say sưa, càng làm cho Mai gần gũi và muốn kể cho tôi nghe nhiều hơn. Thỉnh thoảng Mai còn cho tôi những cái bánh, cục kẹo… dậy tôi làm dấu thánh giá và học những bài kinh công giáo. Đến nay dù, thời gian đã qua hơn 65 năm, tôi vẫn còn nhớ khá tốt một vài câu kinh mà tôi đã thuộc nằm lòng nhờ cô bạn tuổi ấu thơ chỉ dậy trong thời gian tôi lưu lạc lại Hà nội :

Kính mừng mẹ Maria đầy ơn phúc, Đức chúa trời ở cùng bà, bà có phước lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con bà gồm phúc lạ .
Thánh Maria, Đức mẹ chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử. Amen!

Hay:
“Lạy Chúa con, con xin kính mến Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự vì Chúa là đấng trọn tốt, trọn lành vô cùng. Lại vì Chúa mà con thương yêu người ta như mình con vậy. Amen! “

Một kỷ niệm khác với Mai, cũng làm tôi nhớ mãi. Sự việc xảy ra trước ngày di cư vào Nam khoảng một vài tuần lễ. Ngày hôm đó, tôi, Mai, Hiền và nhiều đứa trẻ khác trong khu nhà, chúng tôi đang ồn ào với chơi trò chơi “ bịt mắt bắt dê “. Lần đó tôi là kẻ bịt mắt, tất cả lũ trẻ khác là những con dê, chúng la hét cho tôi biết vị trí của chúng để rượt bắt mong tóm được một con dê thay thế mình! Không biết ngẫu nhiên làm sao ( Chắc là vì cách cảm thần giao hay vì sắc suất trong toán học ?) tôi đã chụp được Mai, con dê, mà tôi rất muốn bắt được nó !! Bởi vì nó đã từng cho tôi những chiếc bánh, chiếc kẹo và dậy tôi thuộc những bài kinh Công giáo.

Đúng lúc chụp được Mai, có lẽ quá mừng rỡ, chạy quá đà hay vì Mai có phần to lớn hơn tôi ( vì hơn tuổi tác và lại là con nhà giàu đầy đủ dinh dưỡng chăng ?) hay vì vướng víu tay chân mà cả hai cùng bị ngã chồng lên nhau trên bãi cỏ! Có lẽ sự việc cũng chẳng có gì rắc rối vì đó là chuyện rất thường trong trò chơi khá kích động này. Nhưng ngay lúc đó Hiền (thằng bạn ranh ma, nhanh miệng ) thích thú la to :
-Thằng Tê đã bắt được con dê vợ nó rồi…. ha ha…!
Tiếng la của thằng Hiền đã làm lũ trẻ vỗ tay cười ầm lên. Mai lấy tay xô mạnh tôi ra, vùng vã đứng dậy, giận dữ chỉ tay sát vào mặt tôi, hét lớn :
-Thằng mất dạy, tao không thèm chơi với chúng mày nữa !

Nói xong , Mai đưa tay phủi bụi trên quần áo, không thèm nói hay nhìn lại phía sau, cô bé đi thẳng vào nhà. Tôi ngơ ngác nhìn theo với một chút ngỡ ngàng, nhưng hình như tôi cũng chẳng giận hờn, buồn phiền hay tiếc rẻ gì cả ( vì tôi lúc đó chỉ là thằng bé 8 tuổi đầu! biết gì đâu những giận hờn vớ vẩn của con gái! ). Đúng như vậy sau cuộc chơi không vui đó, Mai rất hiếm ra ngoài sân và không gia nhập với bất cứ cuộc chơi nào của lũ trẻ chúng tôi nữa, cho đến ngày gia đình tôi, gia đình Hiền và vài gia đình khác luộm thuộm di cư vào Nam.

***

Ngày di cư, tôi không gặp hay nghe ai nói gì về việc di cư của gia đình của Mai, nhưng khi chúng tôi vào Saigon, lúc tạm trú tại căn biệt thự tại đường Lê văn Duyệt, tôi có thoáng thấy ông Quản, bố của Mai đứng nói chuyện với vài ba người khác trong khuôn viên căn biệt thự. Có lẽ ông đến để thăm hỏi gia đình ông quan Năm. Sau đó gia đình tôi và vài gia đình tôi tớ khác lên Đà lạt làm rẫy cho chủ nhân. Khoảng một năm sau, chúng tôi về lại Saigon, sinh sống tại xóm Tre, đường Tô Hiến Thành. Đó là lúc tôi thực sự cắp sách đến trường, khởi đầu thời gian đi học của tôi. Nhờ biết đọc biết viết, làm được 4 phép tính (nhờ ông nội tôi chỉ dạy tại nhà), tuổi đã lớn nên tôi được đi thẳng vào lớp tư (lớp 2 ngày nay) trường tiểu học Chí Hoà.

Thời gian và cố gắng học hành đã đẩy tôi lên trung học, trường Chu Văn An. Nhưng đầu năm lớp đệ lục (lớp 8) bố tôi bị đổi lên sư đoàn 22 tại Kontum, mẹ tôi bị bệnh lê thê, gia đình tôi rơi vào khó khăn cùng cực. Tôi phải làm những việc lặt vặt cho hàng xóm, bán báo kiếm tiền giúp gia đình. Có thể nói 2 năm, đệ lục và đệ ngũ, thời gian bố tôi ở Kontum, việc học của tôi coi như ở mức thê thảm, luôn luôn xếp hạng sát gần mức độn sổ !

Hàng ngày, buổi trưa sau khi đi học về, tôi ăn vội bữa cơm èo ọt dinh dưỡng “có gì ăn nấy” rồi làm bài tập hay chuẩn bị những bài học cho ngày hôm sau (việc xong hay không chỉ là chuyện thứ yếu !) ! Khoảng sau 3 giờ chiều, đạp vội xe lên Saigon, đến khu trung tâm phát hành báo ( tôi không nhớ tên con đường ngày xưa nhưng nay là đường Lý Tự Trọng, chạy song song với đường Lê Thánh Tôn, sau chợ Saigon ). Lấy báo xong rồi vội vàng đạp xe đến Ngã Sáu Sàigon (công trường Phù Đổng Thiên Vương ) hay xuống Ngã Sáu Lê văn Duyệt ( giao tụ với đường Yên Đổ, Hiền Vương…) để mời chào khách mua báo vào lúc giờ 5 giờ chiều, giờ tan sở. Sau đó khoảng 6 giờ, mới đạp xe đi rao bán, đồng thời bỏ báo tháng hay đổi báo mới cho những người mướn báo.

Một hôm, vào giờ tan sở, tôi đang cầm xấp báo vẫy vẫy, rao bán cho người đi làm về tại Ngã Sáu Lê văn Duyệt. Thình lình mấy tiếng gọi cái tên xưa cũ, nhà quê của tôi:
-Tê! Tê đó phải không ?

Ngạc nhiên tôi quay lại, Mai đang đứng cùng với một người bạn gái trên lề đường. Cả hai sang trọng trong tà áo trắng đang mỉm cười nhìn tôi. Mai đã lớn hơn tôi tưởng, dáng dấp của một cô nữ sinh khôn lớn hiện ra lồ lộ, không còn tí dấu tích gì của Mai, người bạn ấu thơ xa xưa của tôi nữa. Nhìn vẻ sang giàu của Mai, tôi thoáng có chút mặc cảm thua kém khi nghĩ đến gia cảnh nghèo túng và thân phận của tên bán báo của mình. Cũng ngay lúc đó, nhìn dáng dấp “ trưởng thành” của Mai, tôi chợt nhớ ra là mình đã bước vào tuổi 15 thì Mai đã sang 16 rồi! Ở tuổi đó, người con gái vẫn chưa được gọi là người lớn nhưng chắc chắn không phải là đứa trẻ ngây ngô chưa biết gì nữa! Với cảm giác không vui, tôi quay sang nhìn Mai và nói vài câu chào hỏi vu vơ.

Hình như nhìn thấy sự ngượng ngập, thiếu thân thiện của tôi, Mai quay nhìn người bạn nói gì đó, rồi với giọng nói nhè nhẹ có chút ngần ngừ, Mai hỏi tôi về nhà cửa, gia đình bố mẹ tôi và cả việc học hành của tôi nữa. Dù không muốn, nhưng tôi vẫn trả lời tất cả những gì Mai muốn biết. Mai cũng cho tôi biết đang là học sinh trường công giáo Régina Pacis trên đường Tú Xương, gia đình Mai vẫn bình thường, đang có một cơ sở bán quần áo trẻ con trên đường Nguyễn Thông và rất mong có dịp mời bố mẹ tôi đến chơi.

Ngay lúc đó, có một người khách dừng xe sát gần tôi, ông ta muốn mua báo đã làm gián đoạn câu chuyện của chúng tôi. Có lẽ nhìn thấy, tôi vội vã khi đưa báo, nhận tiền từ người khách, Mai và cô bạn nói vài câu từ giã tôi rồi quay đi. Nhưng chỉ được vài bước Mai đưa tay kéo người bạn đứng lại rồi quay lại phía sau nói rất rõ ràng:
-Tê, bán cho tôi một tờ “Saigon mới “ !

Tôi nhíu mắt nhìn Mai, như muốn kiểm chứng việc mua báo của Mai có phải là đùa giỡn hay không ? Nhưng nhìn thấy tờ giấy bạc 5 đồng trên tay Mai, tôi chẳng có gì để ngần ngại, rút trong tập báo của mình đưa cho Mai tờ Sàigon Mới đồng thời nhận lấy tờ bạc 5 đồng cho vào túi áo, rồi tôi rút ra 3 đồng tiền dư đưa lại cho Mai. Nhưng hai cô gái đã lui ra xa, Mai đưa tay vẫy vẫy ra vẻ chối từ 3 đồng còn dư, rồi nói với lại phía sau :
-Thôi, thế là đủ rồi, tôi tặng Tê mua kẹo đó !

Chẳng để cho tôi trả lời hay cám ơn, hai cô gái cầm tay nhau vội vàng bước nhanh hướng đến khúc quẹo của con đường Yên Đổ. Đứng nhìn theo, hình ảnh những chiếc bánh, chiếc kẹo ngày xưa mà Mai vẫn cho tôi khi chúng tôi còn là những đứa trẻ con tại Hà nội. Những món quà nho nhỏ đó đã cho tôi những cảm khoái với sự ngọt bùi, ngày đó với tôi nó thật sự là một niềm vui to lớn! Với một chút thẫn thờ, tôi đưa mắt nhìn theo hai tà áo trắng vừa biến mất sau góc quanh của con đường. Lắc đầu nhè nhẹ cùng với tiếng thở dài, tự nhiên tôi nói thầm như chỉ để cho chính tôi nghe : “ Lại một món quà ân tình ! Biết làm sao ta trả được đây!? “


Tôi chỉ gặp Mai lần đó, lúc tôi còn là một thằng bé bán dạo, rồi bẵng đi một thời gian khoảng 6 năm, khi tôi đã lên đại học được vài năm. Một lần thằng em của tôi bị chó cắn, gia đình lo lắng với “ bệnh dại” . Bố mẹ thì bận rộn vì đi làm và buôn bán nên mỗi ngày tôi phải dẫn em tôi lên viện Pasteur để chích phòng ngừa. Một hôm, sau khi chích xong, trên đường về nhà, anh em chúng tôi đang đi bộ trên con đường Yên Đổ. Thình lình, một cô gái mặc áo dài xanh với chiếc xe Velo Solex ép sát vào lề đường ngay trước mặt chúng tôi. Cô ta quay lại nhìn, với vẻ mừng rỡ, nói khá to:
-Đúng rồi, Tê phải không?
Chẳng cần tôi trả lời , cô ta nói tiếp :
-Tê đi đâu vậy. Bố mẹ tôi luôn luôn nhắc đến hai bác và Tê đó !

Đúng là Mai! Thời gian dĩ nhiên cũng làm tôi lớn khôn, đã là một sinh viên, quần áo chỉnh tề nhưng vẫn còn dấu tích của người chưa đi làm việc. Nhưng Mai thì thay đổi hoàn toàn, một người phụ nữ, đúng nghĩa, một phụ nữ khá xinh đẹp đã ra đời…Không còn vướng víu một tí gì của một cô gái ngây ngô nữa.

Thế là chúng tôi lại hàn huyên, có lẽ lần gặp mặt này tôi nói chuyện với Mai vững trãi, tự tin hơn. Lý do rất dễ hiểu là tôi đã ra dáng một thanh niên với tí chút tự hào là một sinh viên đại học, tôi không còn là một đứa bé bán báo của 6 năm về trước nữa. Mai cho tôi biết đã 2 lần không qua được văn bằng tú tài bán phần nên ông Quản đã nhờ quen biết xin cho Mai một chân thư ký trong một công ty buôn bán mỹ phẩm tại Sàigon. Mai cũng cho biết thêm, Tuấn, em trai của Mai cũng chẳng khá hơn, cuộc thi tú tài bán phần vừa qua cũng chẳng đến đâu và đang loay hoay với vấn đề hoãn dịch . Cứ thế, chúng tôi vừa đi, vừa nói với nhau đủ chuyện. Đến lúc chia tay, với vẻ hơi buồn Mai nói với tôi :
-Tê học giỏi thật! Hoàn cảnh gia đình nghèo túng mà được như vậy, đúng là đáng nể thật. Trong khi gia đình Mai đầy đủ tất cả nhưng chẳng có đứa nào có được cái tú tài phần nhất. Cứ thi là đã thấy trượt. Chán thật !
Đưa mắt nhìn theo chiếc Velo Solex với tà áo dài xanh rẽ vào con đường Nguyễn Thông, tôi nói nho nhỏ như chỉ muốn cho chính mình tôi nghe :
-Tôi phải cố học hành, vì đó là con đường duy nhất để cho những người vô thần, vô thế, hoàn cảnh nghèo khó như tôi vươn lên khỏi nghịch cảnh mà thôi, Mai ạ.

Đúng như vậy, cố gắng của bản thân và sự hy sinh tột cùng của bố mẹ, cuộc sống của gia đình tôi càng lúc càng vững trãi, nhất là từ khi tôi tốt nghiệp đại học rồi xuống Cần Thơ làm viêc.

Một lần vào khoảng giữa năm 1973 từ Cần thơ tôi cùng với một người lao công và tài xế mang chiếc xe díp về Sàigon công tác. Chúng tôi ghé vào trạm xăng của chính phủ ( hình như trên đường Hiền Vương hay Yên Đổ ?) để đổ xăng dùng cho việc công tác vào ngày mai. Trong khi tài xế và ông lao công đang lo việc đổ xăng, tôi xuống xe đứng bên lề đường nhìn người, nhìn xe qua lại. Thình lình một chiếc xe Vespa, do một thiếu uý cầm lái, chở theo một thiếu phụ mang bầu ngồi phía sau. Chiếc xe chậm chạp dừng lại trước mặt tôi. Người phụ nữ chậm chạp bước khỏi xe với khuôn mặt vui mừng, rạng rỡ tiến gần phía tôi. Không một tí lạ lùng, tôi nhận ra Mai ngay, dù đã hơn 4 năm qua, sau lần gặp nhau trên đường Yên Đổ khi tôi dẫn thằng em đi chích ngừa bệnh chó dại.

Mai cho biết đã nghỉ làm việc và đã lập gia đình hơn 2 năm về trước. Chồng của Mai, anh Đức là thiếu uý đang làm việc tại nha quân cụ tại Gò Vấp. Vợ chồng Mai tỏ ra rất ngạc nhiên và vui vẻ khi biết tôi đang làm việc tại Cần thơ, cũng là quê nhà của Đức. Hai vợ chồng nằng nặc mời tôi về nhà để cho sự quen biết giữa tôi và họ thân thiết hơn, Mai cũng cho biết ông bà Quản đã nhiều lần muốn liên hệ với bố mẹ tôi.

Không làm sao hơn, cuối cùng tôi phải nói người tài xế chạy xe theo họ đến nhà ông bà Quản. Một căn nhà đúc 3 tầng khang trang còn khá mới trên đường Nguyễn Thông, tầng trệt dành cho việc buôn bán quần áo trẻ em khá bề thế. Đây cũng là nơi mà vợ chồng Mai và toàn thể gia đình ông bà Quản cư trú. Ông Quản đã giải ngũ, ở nhà trông coi cửa hàng với vợ . Trong bốn người con, Mai được coi là khá nhất, học hành không tốt nhưng đã có gia đình và chồng cũng có chút chức vị trong quân đội. Tuấn, em trai của Mai, là con trai duy nhất của gia đình, học hành chẳng đến đâu, ăn chơi giỏi hơn làm việc! Ông bà Quản cũng rầu rĩ nhưng cũng đã lo cho con trai vào làm lính kiểng, không phải ra tác chiến, hiện đang làm việc tại Tổng tham mưu. Hai cô con gái, em của Mai, bỏ học đã lâu, theo bạn bè , đi đi, về về … vẫn sống dựa vào cha mẹ .

Trong cuộc nói chuyện với ông bà Quản và vợ chồng Mai, Mỗi khi nhắc đến những thành tựu, yên vui của gia đình tôi, ông bà Quản cũng như hầu hết bạn bè, họ hàng của bố mẹ tôi, mọi người đều dùng chữ “Phúc Đức” hay “ May mắn “ để giải thích sự thăng tiến của chúng tôi. Tôi đã phải nghe đi, nghe lại nhiều lần nhận xét đó của mọi người. Nhiều khi tôi nhớ lại những đắng cay, khổ cực trong quá khứ của mình mà mỉm cười trong bụng!

Họ không bao giờ quay nhìn lại quá khứ, những năm tháng khốn khổ, nhục nhã kéo dài hàng nhiều chục năm trời của bố mẹ tôi! Họ cũng không bao giờ thông hiểu được cái cảm giác buồn đau của một thằng bé 14, 15 tuổi hàng ngày đạp xe đến trường hay đi bỏ báo … qua những con đường, phố xá đầy rẫy những quán ăn. Nó chỉ dám cúi đầu đi qua, nhưng lại cố mở rộng lồng ngực, mong hít được nhiều những mùi vị thơm tho, hấp dẫn từ những chiếc bàn chất đầy thức ăn đang bốc khói bay ra!

Họ cũng chưa bao giờ cảm nhận được cái lạnh lẽo từ da thịt ( và cả từ con tim ) của thằng bé bán báo dưới trời mưa tầm tã, bụng đói cào … khi phải nhìn qua khung cửa sổ của một căn phòng dưới ánh đèn ấm cúng. Những đứa trẻ cũng trạc tuổi của nó đang cười vui ngồi quanh chiếc bàn ăn, trên đó chất đầy những món ăn thơm tho đang bốc khói của một gia đình hạnh phúc!….

Đúng như vậy, tôi đã nghe bao nhiêu người nói về chữ PHÚC ĐỨC và MAY MẮN mà ông trời đã dành cho gia đình tôi! Tôi im lặng chấp nhận cho họ vui nhưng trong lòng tôi lại mỉm cười vì có cảm giác mình đang xem một bản TẤU HÀI mà những người nghệ sĩ chính lại là họ !

Cuộc gặp gỡ đó đã khởi đầu cho sự thân tình của gia đình tôi và gia đình ông bà Quản. Bố mẹ tôi và ông bà Quản thỉnh thoảng đến tận nhà thăm nhau, nói chuyên vu vơ, nhưng chưa một lần nào vào đúng lúc tôi về Saigon nên cũng không gặp được nhau. Có một lần, vợ chồng Mai về thăm quê nội tại Cần Thơ, họ có đến nhà trọ tìm tôi, nhưng không gặp,vì tôi đang đi công tác, không có nhà !

Rồi thời gian vẫn trôi qua đều đặn, tôi chuẩn bị đi Nhật bản tu nghiệp, Trước khi đi tôi có ý định đến gặp và chào từ giã gia đình Mai, nhưng bận rộn và căng thẳng với những giấy tờ hành chánh cho chuyến đi, nên cuối cùng ý muốn cũng không thành. Sau này nghĩ lại tôi rất ân hận vì đã mất một dịp được gặp lại người bạn tuổi ấu thơ của mình thêm một lần nữa để rồi mãi mãi chia ly!

Tháng 4 năm 1975 xảy đến! Gia đình tôi ở VN cũng như tất cả mọi người khác phải lăn lưng vào kiếm sống cho hợp với những đổi thay của thời thế. Tôi hoàn toàn không nghe bố mẹ, các em tôi gửi thư nhắc gì đến gia đình Mai và ông bà Quản. Sau đó tôi bỏ Nhật bản sang định cư tại Thụy sĩ. Trong một dịp đón tiếp một người bạn ngày từ Texas, Hoa kỳ sang chơi. Qua lần nói chuyện, tôi mới biết anh ta quen biết khá thân với gia đình bà Quản từ ngày còn ở Việt Nam, hiện nay anh ta và bà Quản cùng sống gần nhau tại Texas.

Tôi đã lịm người đau xót khi anh ta cho biết một tin rất buồn. Sau khoảng hơn 2 năm đi cải tạo trở về, Đức không thể hòa nhập với cuộc sống quá khắt khe, nghèo đói nên đã cùng với Mai và đứa con trai 6 tuổi đầu lòng cùng với 2 cô em gái của Mai vượt biên bằng đường biển. Chuyến đi đau thương đó không bao giờ đến đích, đúng là một bi kịch của thời thế!

Không lâu sau đó, ông Quản không chịu được nỗi đau, sinh bệnh và mất trong hoàn cảnh nghèo túng, buồn tẻ. Cuộc sống của gia đình bà Quản tại Việt Nam càng lúc càng lún sâu vào khó khăn. Tuấn, em trai còn lại duy nhất của Mai sau 2 lần tìm cách vượt biên nhưng thất bại! Tốn kém, nghèo túng càng lúc càng chồng chất lên vai bà Quản. Nhưng cuối cùng may mắn đã đến với Tuấn trong lần vượt biên thứ 3, Tuấn đã thành công đến được Mỹ, vài ba năm sau bà Quản và đứa cháu gái, con út của Mai được sang Mỹ đoàn tụ với Tuấn. Hiện nay họ đang sống cùng với gia đình Tuấn, nhưng cũng gặp khá nhiều khó khăn về kinh tế.

Tôi đã vài lần trực tiếp điện thoại sang Mỹ hỏi thăm bà Quản, nhưng lần nào cũng nghe được những tiếng than khóc của bà khi nhắc lại quá khứ quá đau buồn của gia đình. Không lâu sau đó, cũng từ người bạn học, anh ta cho biết bà Quản sau một lần ốm nặng, phải đưa vào bệnh viện cứu cấp, nhưng cũng không qua khỏi ! Tôi vội vàng điện thoại đến Tuấn chia buồn nhưng có lẽ quá chán nản vì hoàn cảnh của gia đình nên Tuấn chỉ nói với tôi vài câu cám ơn và cắt máy! Sau đó tôi viết thư thăm hỏi nhưng không bao giờ có hồi âm. Tất cả có lẽ đã vào quên lãng. Tình thân và kỷ niệm gắn bó tuổi ấu thơ của tôi, Mai và gia đình đã thực sự trôi vào quá khứ !

Mai đã yên nghỉ! Tôi vẫn còn hiện hữu trong tư thế của một ông lão ngoài 70 nhưng vẫn phải sống, vẫn phải làm việc, tính toán, lo âu … Nhưng đôi khi, những lúc ngồi một mình trong cái không gian vắng lặng, cô đơn của Thuỵ sĩ hay những lần về Việt Nam, hòa nhập vào giòng người ồn ào với hàng ngàn, hàng vạn chiếc xe đua nhau xả khói. Cả những lúc trầm lặng ngồi trên những chuyến xe bus mà chính tôi cũng không biết nó sẽ mang tôi đi đâu, về đâu! Bởi vì tôi chỉ muốn ngồi nhìn lại những nơi nó chạy qua. Mong tìm lại một vài dấu tích xa xưa nào đó còn sót lại tại Sàigon hay bất cứ nơi nào mà ngày xưa tôi đã có lần đi qua, để tạo ra một kích thích cho tôi thêm một lần nữa được trở về với những hoài niệm mà tôi mãi mãi không quên.

Rất nhiều lần, mỗi khi có dịp đi qua những ngôi giáo đường, lại làm tôi nhớ đến Mai. Nhớ đến những năm tháng tôi còn là thằng bé nhem nhuốc ở Hà Nội. Ngày đó Mai đã cho tôi những món quà rất đơn sơ, mẩu bánh ngọt hay miếng kẹo… dậy cho tôi những bài kinh Công Giáo, kể cho tôi nghe những câu truyện thần thoại trong Kinh Thánh. Tất cả vẫn còn trong trí nhớ của tôi, dù thời gian đã lùi rất xa vào dĩ vãng với biết bao nhiêu gió bão cuộc đời, nhưng tôi vẫn còn thuộc nằm lòng những bài kinh đó cũng như còn nguyên mùi vị ngọt ngào của những chiếc bánh, chiếc kẹo... mà Mai đã cho tôi. Bao lần có dịp đi qua những ngôi thánh đường, nhớ đến Mai, tôi lại nhẩm đọc vài câu kinh như một lời chào vĩnh biệt, tưởng nhớ cho người bạn bất hạnh bé nhỏ tuổi ấu thơ của tôi . - /-

Zuerich, Switzerland
Lưu An, Vũ ngọc Ruẩn

Thứ Sáu, 2 tháng 12, 2022

Nhớ Thành Đô- Sáng tác: Hoàng Thi Thơ - Tiếng Hát Thái Thanh


 Sáng tác: Hoàng Thi Thơ 
 Tiếng Hát Thái Thanh
Thực Hiện: Đặng Hùng

Khóc Mẹ

 

Trái sầu riêng mang nhiều gai nhiều cạnh
Đời mẹ già
Chi chít nhánh sầu riêng.
Mỗi đưá con một nhánh nặng ưu phiền
Mẹ đeo mãi nên lưng còng trước tuổi.
Con tép rời sông,
Con tép lội.
Ngày Mẹ tản cư xa Hà Nội,
Rong rêu
Mẹ long đong chạy gạo mỗi chiều
Mắt muốn nhắm mà chân luôn đều bước
Đưá địu trên vai,
Đưá đeo đằng trước
Vẫn sợ "mọt chê" xé nát con trai
Nên tay mẹ dài ra
Cuốn lại sau vai
Để chắc chắn đầu con còn đó
Rồi những ngày ngược xuôi
Nhanh không kịp thở
Bùi Chu, Nam Định , Phủ Lý, Hưng Yên
Mẹ như chiếc xe "ca",
Bụi đỏ gập gềnh
Đò ngang , đò dọc, thuyền đinh, tầu thuỷ
Mẹ qua những đoạn đường
Mìn phá tung xương tuỷ
Tay chân người vương vãi bụi cây
Tầu đắm, ca nô chìm, đạn rải trên mây
Mẹ vẫn dịu dàng: " Các con còn đói""
Tuy có lúc làn roi mẹ vút qua,
Bốc khói!
Con dẫu tung người,
Vẫn ôm mẹ, ăn năn
Vẫn nghe mẹ ngâm thơ , kể chuyện "Nửa chừng Xuân"
"Cô giáo Minh", "Gánh hàng hoa", "Đôi Bạn"...
Và cuộc sống cứ trôi đi , tản mạn
Con mang hồn thơ, hồn dân Việt tang thương
Cũng giang hồ, xuôi ngược long đong
Nhìn lục bình trôi, nghe giọng hò ngọt mát
Trong vườn sầu riêng, tưởng như còn tiếng hát
Mẹ ru con những năm tháng xa mờ
Cho đến bây giơ,
Con vĩnh viễn không còn nghe tiếng mẹ
Dù mẹ mắng, mẹ la, hay dịu dàng khe khẽ
Mẹ đã thiên thu rồi!
Trong khi,
Con vẫn chưa trọn đạo làm người
Vẫn là chiếc lá khô trong dòng đời xuối ngược
Con chỉ có vài câu thơ thấm nước
Nước mắt con, hay máu tự trái tim
Dâng mẹ già trong khói nến cuộn lên
Cầu xin cho mẹ về với Chúa bình yên
Để mai mốt con cũng về gặp mẹ.

Chu Tất Tiến

Một Sáng Thu



Mặt trời mọc rực ánh bình minh
Rừng buổi chớm thu thật hữu tình
Mấy hạt sương khuya đeo lấp lánh
Chùm tia nắng sớm chiếu lung linh
Sóc nâu dạn dĩ cong đuôi vẫy
Nai đốm hiền khô ngước mắt nhìn
Cảnh tĩnh mịch muôn màu diễm ảo
Nét hoang sơ tựa thuở nguyên sinh


Nhất Hùng


Mưa Thu



Cà phê đen nóng không đường
Chạnh lòng, ghế trống, đêm trường, ngày qua
Vài vầng tâm sự gọi là
Mong người thấu hiểu lời xa ý gần

Lạnh lùng lá úa mưa rơi
Nhâm nhi vài hớp lại khơi tình buồn
Tình buồn trời góp mưa tuôn
Thu chưa từ giã, đông luồn tóc mai

Suốt ngày rả rích gió gào
Khung trời ảm đạm một màu xám tro
Lặng yên không chút nghĩ lo
Thời gian còn lại dành cho vui cười

Nguyễn Cao Khải


Thuở Áo Lá

 

Thơ viết mãi giữa trời hoa đất bướm
Chuyện ở đi ai biết được vô cùng
Tôi đi tìm những cái đẹp nhưng không
Đời thật khó tình đời cũng rất khó

Thuở áo lá tâm hồn trong như lụa
Biết được gì những chuyện mộng với mơ
Ngày tháng đi với sáng nắng chiều mưa
Cuộc đời cứ lớn dần sau giấc ngủ

Chuyện cơm áo biết sao cho vừa đủ
Mà công danh phú qúy lắm cơ cầu
Vinh quang nào vàng võ cũng theo sau
Vai càng nặng tuổi đời càng thêm khó

Như bọt biển tan tành theo sóng vỗ
Bọt với mình đâu có khác gì nhau
Là lẽ đời lên xuống trước và sau
Tôi giữ trọn hoa lòng cùng bè bạn

Yêu thương nào tuổi đời cũng hữu hạn
Vẫn vui cho cuộc sống được an bình
Tôi tìm về với câu chữ lung linh
Nên thấy được chút tình em lửa ấm.

11/25/2022
Hoa Văn

Dấu Chân Trên Cát


(Danh tánh các nhân vật trong câu chuyện nếu có sự trùng hợp ngoài đời, chỉ là do ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của người viết)

Anh là một họa sĩ nghèo, 23 tuổi, mới tốt nghiệp trường Mỹ Thuật được một năm. Anh chưa có tác phẩm nào được sự chú ý của những người sưu tầm tranh hay của giới hội họa. Những bức tranh anh vẽ, được bán với giá khiêm tốn tại các tiệm tranh, các phòng trưng bày tại Sài Gòn. Anh sống trong một xóm nghèo thuộc thị xã Biên Hòa.

Anh tên Triều, yêu mến biển cả, nên dùng bút hiệu Hải Triều ghi dưới những bức tranh của mình. Mùa Hè năm ấy, anh dùng chiếc xe gắn máy đã cũ, mang theo hành trang nhẹ, thêm dụng cụ cùng giá vẽ loại có thể xếp gọn, một mình đến Bãi Sau của Vũng Tàu. Anh mướn một góc nhỏ trong căn nhà đơn sơ của một ngư phủ nghèo, rồi hàng ngày ra bờ biển, vẽ tranh... Anh chú ý đến một thiếu nữ, nàng hay đi biển với mấy người em. Đôi khi vào buổi chiều, nàng thong thả dạo bước một mình trên bờ cát. Là một họa sĩ, anh quan sát nhân dáng nàng. Khuôn mặt thanh tú, ngây thơ học trò. Chiếc cổ dài và thon. Đôi chân đẹp, hai bàn chân gót nhỏ. Anh liên tưởng đến thơ văn người xưa, thường ví bước đi của người phụ nữ đẹp là những bước trổ ra những đóa hoa sen. Với chân không, cô gái đi với dáng đẹp dịu dàng trên bờ cát, rồi trên vùng cát nhỏ bên ghềnh đá. Anh thầm ước ao được nàng làm người mẫu cho một bức tranh của mình.

Thế rồi một buổi còn chút nắng chiều, nàng dạo biển. Một làn gió làm bay chiếc nón rơm rộng vành che nắng của nàng. Chiếc nón đẹp tình cờ dừng ngay bên giá vẽ của anh. Vì thế anh và nàng quen nhau. Nàng ngắm nhìn bức tranh đang được anh phác họa và khen tranh đẹp. Nàng hỏi, giọng ngây thơ:
- Là họa sĩ, anh thích vẽ những gì?

Anh trả lời, thật vui vì có dịp nói về lãnh vực của mình với một cô gái đẹp dễ thương, anh may mắn được quen:
- Tôi yêu mến biển, mùa hè ra đây để vẽ tranh. Vẽ cảnh biển lúc sáng ban mai. Vẽ dân chài thuyền lưới ra khơi. Ghềnh đá xanh, với mây trời, chim hải âu... Cảnh sinh hoạt nơi bờ biển. Một hai em bé chơi cát. Vài thiếu nữ dạo biển đó đây. Hoàng hôn trên biển... Nhưng nơi phòng vẽ tranh tại nhà, tôi vẽ cả tĩnh vật và chân dung... Tôi không có xu hướng vẽ tranh trừu tượng, tranh lập thể hay tranh theo trường phái tượng trưng.

Anh khen nàng có dáng đi và đôi chân thật đẹp.

Quen nhau ít ngày, Triều được biết nàng có tên là Ngọc Quỳnh. Cha nàng là một doanh nhân ở Sài Gòn. Nàng mới đậu xong Tú Tài, được cha mẹ cho đi nghỉ Hè cùng các em một tháng tại đây. Mấy chị em đang cư ngụ tại một phòng rộng có bếp núc, trong một khách sạn của một người bạn cha nàng. Có cả một chị giúp việc tin cậy đi theo, nấu ăn và săn sóc cho mấy chị em. Mấy ngày sau, anh dùng bút than đen, nhanh chóng vẽ tặng nàng một phóng ảnh chân dung, và vẽ sơ một bức nữa, hình ảnh nàng, anh giữ để làm kỷ niệm. Anh ngỏ ý, có dịp về Sài Gòn, xin nàng làm người mẫu cho anh vẽ một bức tranh thiếu nữ, tranh sẽ công phu hơn. Nàng nhẹ nhàng:
- Ba mẹ em nghiêm túc lắm, ít muốn em quen với bạn trai. Anh lại để tóc dài, hút thuốc lá hoài, em không dám để cha mẹ biết đâu, nói gì đến việc em làm người mẫu. Em hẹn anh, bỏ tóc dài đi, đừng hút thuốc nữa. Hè sang năm vào đầu tháng bảy, em sẽ gặp lại anh ở đây. Ba Mẹ nói có thể cả nhà sẽ cùng ra đây nghỉ Hè năm tới.

Hôm chia tay, anh và nàng dùng nước dừa trong một quán nước bên bờ biển. Một đôi vợ chồng người Âu, còn trẻ tuổi ngồi một bàn gần bên. Họ có hai đứa con, còn nhỏ chừng bốn năm tuổi, đang đùa chạy quanh mấy bàn trống trong quán. Ông chồng dáng dấp thể thao, gọn gàng. Bà vợ khuôn mặt đẹp nhưng khá đầy đặn, mập mạp, bà phải cân nặng trên 80 ki lô. Ngọc Quỳnh nói rỡn với anh:
- Anh Triều, nếu cô này làm người mẫu, anh có chịu không?

Triều kín đáo nhìn người phụ nữ ngoại quốc rồi nói:
- Nhiều người mập cũng có những nét đẹp riêng, như Dương Quý Phi của Đường Minh Hoàng ngày xưa. Nhưng cho hình ảnh phụ nữ đẫy đà, đem vào tranh nghệ thuật, khó có thể hấp dẫn người thưởng ngoạn.

Nàng không cho anh địa chỉ hay điện thoại để liên lạc, lấy cớ gia đình rất khó. Anh về Biên Hòa, cắt tóc ngắn, bỏ thuốc hút. Anh đổi bút hiệu là Triều Hoài Ngọc. Tranh anh vẽ ngày càng tiến bộ và bán khá hơn. Trong ba năm liền, vào tháng bảy Mùa Hè, anh lại ra Bãi Sau Vũng Tàu một tháng, vẽ tranh. Anh vẫn trông tìm lại hình bóng người thiếu nữ đẹp, gặp gỡ mùa Hè năm ấy. Nhưng ba năm qua rồi. Chờ mong, mỏi mòn. Anh không gặp lại nàng! 

(Xin mời nghe tâm sự của người họa sĩ trẻ tình si qua bài nhạc Dấu Chân Trên Cát) 

Dấu Chân Trên Cát

Hôm nao, em đi bước nhẹ
Trên bờ cát êm
Đôi chân gót nhỏ
Gieo từng đóa sen.

Hôm nao, em đi bước nhẹ
Bên ghềnh đá xanh
Đôi chân gót nhỏ
Ghi từng bước em

Hôm nao, em đi bước nhẹ
Khi chiều sớm buông
Đôi chân gót nhỏ
Anh còn vấn vương

Biết bao người đã bước trên bờ cát ấy
Sao anh tìm lại được dấu chân em
Biết bao người đã đến bên ghềnh đá đó
Lớp rêu xanh cũng đã nhạt mờ

Hôm nay, anh quay bước lại
Trên bờ cát xưa
Đôi chân đã mỏi
Mấy mùa nắng mưa

Hôm nay, anh quay bước lại
Bên ghềnh đá quen
Đôi chân dẫu mỏi
Vẫn tìm dáng em

Đôi chân dẫu mỏi
Vẫn tìm..., vẫn tìm... dáng em.

Ngọc Quỳnh sau mấy tuần nghỉ Hè thật vui năm ấy, nàng về Sài Gòn, ghi danh vào Đại Học Khoa Học. Nửa năm sau, nàng được cha mẹ sắp xếp cho đi du học tự túc tại Pháp Quốc, cùng với một người chị họ. Sau một năm sống tại Pháp Ngọc Quỳnh quen rồi được gia đình đồng ý, cho phép thành hôn với một kỹ sư cơ khí trẻ tuổi, cũng người Việt, đang làm việc cho một hãng sản xuất xe hơi tại Pháp. Hôn lễ tổ chức tại Paris. Song thân Ngọc Quỳnh và các em đều sang Kinh đô Ánh Sáng tham dự. Trong gần bốn năm, nàng sanh được hai em bé rất dễ thương. Nàng sống thật hạnh phúc bên chồng, bên con.
Nhưng cuộc đời "không đẹp mãi như thơ". Gặp rủi ro trong một tai nạn xe hơi, Ngọc Quỳnh thoát chết nhưng bị tàn tật, hư hại nhiều nơi chân trái. Nàng đi đứng không bình thường nữa!

***
Sáu năm sau dịp gặp và biết Ngọc Quỳnh, Triều đã trở thành một họa sĩ có tên tuổi. Tranh của anh được trưng bày và bán với giá cao tại nhiều phòng triển lãm. Khách mua họa phẩm của anh thường là những người giàu có trong nước và cả khách ngoại quốc. Những nhà sưu tầm thường tìm kiếm tranh có những đường nét sáng tạo mới lạ. Triều chỉ ra Bãi Sau Vũng Tàu vào ba mùa Hè kế tiếp, sau khi quen biết Ngọc Quỳnh, để vẽ tranh. Không gặp lại người xưa. Những mùa Hè sau đó, một phần vì thất vọng, một phần muốn tìm quên lãng và tìm cảnh vật khác, anh ra Nha Trang, Mũi Né và Phú Quốc...

Hè năm nay, anh dự định đi Đà Nẵng vẽ những cảnh biển đẹp tại đây và vùng phụ cận như Lăng Cô, Sơn Trà, Mỹ Khê, Hội An... Mấy ngày trước khi lên đường, anh ghé lại một phòng bán tranh đường Lê Lợi, rồi qua một cửa tiệm trưng bày khác tại đường Lê Thánh Tôn, hai nơi có nhiều họa phẩm của anh. Cô Bích Liên, người tiếp viên duyên dáng của phòng tranh sau, vừa gặp anh đã vui mừng báo tin:

- Anh Triều! Hôm qua có một bà từ nước ngoài mua luôn hai bức tranh của anh. Bức Bên Ghềnh Đá và bức Trên Bờ Cát. Bà ấy có vẻ ngưỡng mộ tranh của anh lắm. Bà còn định mua thêm bức họa Hoa Quỳnh. Ông chồng bà có lẽ không phải là dân sưu tầm tranh. Ông ấy nói hành lý nhiều rồi, đem theo tranh nặng nề thêm. Ngày mai hai vợ chồng còn đi Vũng Tàu.

Triều vội hỏi:
- Bà ấy người ra sao?
- Bà ấy đẹp, đi cùng với chồng, có cả hai đứa con còn nhỏ, thêm một bà giữ trẻ đi theo.

Từ khá lâu Triều biết Bích Liên, cô tiếp viên phòng triển lãm tranh này, có nhiều cảm tình với anh. Mấy tháng trước, anh vẽ tặng cô bức họa Thiếu Nữ Bên Hồ bằng phấn màu. Bức tranh có cô gái, bên một hồ sen, rất nghệ thuật. Bích Liên hãnh diện trưng bày bức họa tại phòng tranh này. Vài người hỏi mua, nhưng cô không bán, vì là tranh kỷ niệm.

4
Triều bỏ dự định đi Đà Nẵng, Hội An. Ngay hôm sau anh đi Vũng Tàu. Bây giờ Triều đã có chiếc xe hơi nhỏ. Anh vẫn ở Biên Hòa nhưng đã có nhà, khang trang hơn trước nhiều. Tới Vũng Tàu, anh mướn phòng ngắn hạn tại một khách sạn, gần bên biển, tại Bãi Sau.

Triều đặt giá vẽ ở nơi có kỷ niệm gặp gỡ năm xưa. Anh vừa phác họa tranh, thỉnh thoảng lại nhìn biển khơi, nhìn bờ cát. Anh lại có ý trông tìm một hình bóng..., tuy biết có thể là vô vọng. Đây là bờ cát, với nhiều dấu chân mới. Kia là ghềnh đá quen, chênh vênh, vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt". Chỉ khác là cảnh cũ, nhưng không thấy hình bóng người xưa.

Khá đông người đứng phía sau Triều, coi anh vẽ tranh. Vài người bàn tán nhỏ, đôi lời khen ngợi. Triều không phân tâm nhìn về phía sau. Chuyện những người du khách, dừng chân, xem họa sĩ vẽ tranh, đối với anh thường rồi. Nhưng Triều không biết rằng trong đám đông đang theo dõi đường nét vẽ của mình, có vợ chồng Ngọc Quỳnh. Bây giờ Ngọc Quỳnh chợt nhớ lại cuộc gặp gỡ người họa sĩ năm xưa. Ngày ấy, vì bận chuẩn bị gấp đi du học, rồi lấy chồng, Ngọc Quỳnh đã vô tình quên người họa sĩ và quên lời hẹn năm nào! Lời hẹn mà nàng đã vô tâm coi như một chuyện thoáng qua. Nàng thích tranh đẹp, yêu mến nghệ thuật hội họa nên ngày đó có đôi chút cảm tình với người nghệ sĩ tình cờ gặp gỡ. Năm xưa ấy, nàng chưa có một lời nói, một cử chỉ nào xa hơn tình bạn. Nhưng là con gái, thường rất tinh tế, nàng cảm nhận được tình cảm có vẻ thiết tha của Triều . Ngày đó, nàng còn quá trẻ, mới mười tám tuổi, chưa muốn vướng bận, phân tâm về tình yêu, khi chưa gặp "đối tượng" làm mình rung cảm, chưa gặp "người trong mộng". Sau này, nàng được những người bạn yêu hội họa ca tụng những tác phẩm của họa sĩ Triều Hoài Ngọc. Nàng chợt nghĩ tới người họa sĩ. Hôm qua, khi tìm mua tranh, Ngọc Quỳnh được cô bán hàng cho biết người họa sĩ Hải Triều, tác giả mấy bức tranh, đã đổi bút hiệu cả năm, sáu năm về trước. Nàng thấy bồi hồi. Nhưng nàng không hỏi thêm nhiều về người họa sĩ. Ngọc Quỳnh cũng không kể chuyện quá khứ, đã sáu năm qua đi, với chồng. Giờ đây, thấy người nghệ sĩ, tóc hết để dài, không còn hút thuốc, thoáng có nét phong trần già dặn hơn xưa, cô đơn ngồi vẽ, nàng bồi hồi hơn! Ngọc Quỳnh định đến hỏi han và trò chuyện ít câu cùng người quen ngày trước. Nhưng nàng ngập ngừng, suy nghĩ. Rồi nàng lặng lẽ cùng chồng, chậm chạp tiếp tục đi trên lối nhỏ, bên cạnh các hàng quán. Ngọc Quỳnh tự nhủ thầm. Bây giờ đã có gia đình. Một chân vì tai nạn, khiến đi đứng không bình thường. Còn đâu nữa dáng đẹp ngày xưa! Sanh đẻ hai lần, lại ít vận động vì tai nạn, hiện tại nàng đã nặng trên 60 ki lô. Thôi, chuyện xưa đã qua rồi! Nên để cho người nghệ sĩ giữ nguyên vẹn những hình ảnh đẹp, còn mãi trong tâm hồn...

5
Ánh sáng quan trọng trong hội họa. Khi mặt trời đã khuất, sau những hàng cây xa xa phía sau, Triều thu xếp giá vẽ và dụng cụ. Anh trở về khách sạn của mình.

Chiều tối hôm đó trời mát. Ngọc Quỳnh gửi con cho người giúp việc. Nàng vịn một bên tay chồng, đi chậm chạp từng bước bên bờ biển. Những dấu chân trên cát của nàng không còn đều đặn như xưa, không đẹp như xưa. Vì tật nguyền, lại thêm cân nặng, những dấu ấn của bàn chân bên phải sâu và đậm hơn bên trái...

Khoảng chín giờ sáng hôm sau, Triều lại ra chỗ cũ vẽ tranh. Thỉnh thoảng anh nhìn ra bờ cát xưa. Những dấu chân hôm qua đã được sóng biển và thủy triều ban đêm dâng lên, xóa hết. Lại có những dấu chân mới, sáng hôm nay, in trên cát. Rất vô thường. Đẹp hay không đẹp, vui hay buồn, hạnh phúc hay đau khổ..., trong cuộc sống "chuyện gì rồi cũng qua đi", như những dấu chân trên cát. Triều nhìn những làn sóng lớn nhỏ, hàng hàng lớp lớp, hết đợt này tới đợt kia, xô vào bờ cát, rồi tan! Kể cả những bọt nước trắng xóa tung lên cao hay rất li ti dưới chân ghềnh đá. Anh tự triết lý với mình: những chuyện to tát hay nhỏ bé trong cuộc đời, cũng như những đợt sóng kia, rồi cũng vào quá khứ, vào quên lãng...

Triều chợt nhìn thấy Bích Liên, cô tiếp viên của tiệm trưng bày tranh đường Lê Thánh Tôn Sài Gòn. Cô đang cùng bà mẹ và người em gái nhỏ đi bên bờ biển. Anh nhận ra Bích Liên cũng có thân hình và dáng đi đẹp, đôi chân thon gót nhỏ...

Triều qua cơn mê tình cảm. Ít nghệ sĩ như anh,"si" lâu đến thế. Anh đã ngộ, nhận ra hạnh phúc nhiều khi ở gần bên, trong tầm tay, đâu cần chờ mong tìm kiếm xa xôi...

Trần Văn Khang

Thứ Năm, 1 tháng 12, 2022

Đêm Mưa - Thơ Lê Nguyễn Nga - Nhạc Nguyễn Tuấn - Tiếng Hát Lâm Dung


Thơ: Lê Nguyễn Nga
Nhạc:  Nguyễn Tuấn 
 Tiếng Hát:  Lâm Dung

Cuộc Đời Như Giấc Mộng



Trăm Năm có mặt cõi trần dương
Tôi đã vân du khắp nẻo đường
Giày giang hồ mòn hơn nửa gót
Sờn hai vai chiếc áo phong sương.

Trên những quảng đường tôi đã qua
Nhiều đoạn đầy chông gai, sỏi đá
Tôi vẫn tiến lên gây sự nghiệp
Nay trắng tay, thành kẻ không nhà!

Tạo cơ ngơi, mồ hôi nước mắt
Ngày đổi đời phủi sạch tay không
Công dã tràng xe cát biển Đông
Tôi chợt thấy Đời Như Giấc Mộng

Kiếp sau nguyện chẳng làm người
Làm cây cổ thụ nhìn đời sắc, không.

Trần Công/Lão Mã Sơn


Nghiệp



Nghiệp vô lượng kiếp, biết từ đâu!
Nghiệp non còn trẻ đã quay đầu
Lắm kẻ già đời chồng chất nghiệp
Buồn nhưng chẳng lý, nghiệp tàn mau…

Niềm vui thoáng đến đã lìa tan
Biển sầu vướng nghiệp tiếp theo hàng
Vay nhiều, trả ít sao vơi được
Nghiệp chẳng tìm tòi, há lấp hang?

Nghiệp từ vô thỉ tựa sông sâu
Làm sao biết nghiệp cuối hay đầu
Chập chùng duyên nghiệp đầy sân hận
Vốn cộng thêm lời, trả hẳn lâu!

Khi thảnh thơi lòng, nghiệp ẩn đâu
Lúc tơi bời dạ, nghiệp tràn đầu
Nghiệp nào tự đến - Ta gieo nghiệp
Nghiệp như hình bóng, chẳng rời đâu!

Buồn, vui, cười, khóc, yêu, thương, hận
Than, trách, đếm, đong…còn lẩn thẩn
Bồ Tát sợ nhân, nhân lấp đâu?
Chúng sanh sợ nghiệp, nghiệp chèn đầu!

Do ta khởi nghiệp, hoặc theo sau?
Thai từ bụng mẹ, kết duyên đầu
Chớ vay khỏi trả, nghiệp nào vướng
Gieo nhân tạo nghiệp biết là đâu!

Chẳng trước sinh thì không tử sau
Luân hồi sinh tử chẳng đuôi đầu
Chữ Duyên đơn giản mà thăm thẳm
Chữ Nghiệp trùng trùng bờ bến đâu…

Đừng như cổ đức từng trăn trở
“Trước ta, ai đã là ta đó
Sau ta, ta sẽ là ai vậy… ?”
Không trước đầy vui, chẳng dậy sầu!


CA. Nov/30/2022
Kim Phú