tiêu đề Nhãn
- BIÊN KHẢO
- CÂU ĐỐI
- CỔ THI
- GIA CHÁNH
- GIẢI TRÍ
- HÌNH ẢNH HỘI NGỘ
- HÌNH ẢNH NAY
- HÌNH ẢNH XƯA
- HỘI HỌA
- KHOA HỌC
- LỊCH SỬ
- LỜI HAY Ý ĐẸP
- LƯU NIỆM
- NHẠC
- SỨC KHOẺ
- SƯU TẦM
- THƠ
- THƠ CẢM TÁC
- THƠ DỊCH
- THƠ DIỄN NGÂM
- THƠ NHẠC
- THƠ PHỔ NHẠC
- THƠ SƯU TẦM
- THƠ TRANH
- THƠ TRANH NGHỆ SĨ
- TIN BUỒN
- TIN VUI
- VĂN
- VŨ HỐI THƯ HỌA
- VƯỜN THƠ VIÊN NGOẠI
- XƯỚNG HỌA
- YOUTUBE
Thứ Bảy, 14 tháng 8, 2021
Dòng Sông Tương Tư - Thơ Quách Như Nguyệt - Nhạc& Hòa Âm Văn Duy Tùng - Ca sĩThanh Hoài
Sụt Sùi Mưa Tháng Bảy
Xướng:
Sụt sùi Ô Thước chuyển mùa Ngâu
Trời đày hai đứa chia đôi ngả
Giăng mắc mưa thu lạnh nhịp cầu
Nước mắt mùa Thu tiếng thở dài
Lệ mừng tơ tóc chửa phôi phai
Sông Ngân khắc khoải lòng Ngưu Chức
Chỉ tội...chao ôi lại đếm ngày
Kim Phượng
Mênh mang nhẹ gío vấn vương sầu
Lối đó em đi giữa tháng ngâu
Trĩu nặng tâm tư xa cố quận
Bỏ quên tay vẫy đứng bên cầu.
Mưa nay ấy thể tiếng than dài
Của kẻ si tình mơ đã phai
Chết lặng thu về theo gío chuyển
Lời xưa hò hẹn kết bao ngày.
Thái Huy
Ngâu Buồn
Heo may lành lạnh vẻ thu sầu,
Sùi sụt mưa tràn xót lệ ngâu!
Mố hẫng đôi đầu buồn thấu dạ,
Trăng lòa Ô Thước lạnh chân cầu!
Hun hút đêm thâu gió thổi dài
Phấn hường khuây biếng lạt mầu phai,
Cách ngăn hụt hẫng mùa hạnh ngộ...
Ngưu Lang - Chức Nữ nén chờ ngày...
14-8-2021
Nguyễn Huy Khôi
Mưa
Vẳng đâu đây tiếng tơ vàng
Hòa theo khúc nhạc dịu dàng giọng ai
Như lạc vào chốn thiên thai
Nghê thường vuông lụa phẩy dài tỏa hương
Bổng trầm âm vọng vấn vương
Du hồn lối mộng dẫn đường vào yêu
Suối đêm róc rách êm reo
Bóng lung linh bóng như trêu kẻ khờ
Vớt lên nửa mảnh hồn mơ
Ghép chung nửa mảnh tôn thờ siết bao
Tiếng yêu cung bậc quyên vào
Dưới trăng dạ lý ngạt ngào hương đưa
Như Lang và Chức trong mưa
Cầu Ô rút ngắn chạm vừa tay ôm
Đắm say trao vội môi hôn
Đêm dần khuất dạng bồn chồn xa nhau
Thinh vắng chỉ gió xạc xào
Sợ trời mau sáng cùng trao hẹn chờ
Dẫu cho kiếp sống chơ vơ
Giấc say vẫn gặp xướng thơ họa vần
Phổ thành ca khúc song ngân
Cùng Tiên giáng thế khi cần ước mong
Bừng tỉnh trời ló vừng hồng
Mùi quen áo cũ thoảng trong nồng nàn.
Kim Oanh
Ô, Ôm, Ông
Ngày Song Thất
Thương Thay Ngưu Chức
Bài Xướng:
Hẹn Năm Tới
Năm tới may ra chắc được vầy…
Chức Nữ gắng chờ-dù nhớ đó
Ngưu Lang đừng hối-dẫu buồn nay
Bệnh nhân điều trị-thầy đang xét
Covid dẹp yên-cầu sẽ xây
Nước mắt vỡ òa khi nối nhịp
Bù cho ngăn cách đã bao ngày.
11/78/21
Ngưu - Chức Hẹn Lại Tháng Bảy Năm Sau...
Ngưu Lang Chức Nữ nhớ nhau đây
Tháng Bảy uyên ương lỡ hẹn vầy
Hai kẻ đang yêu bao kiế́p trước
Đôi đàng vẫn quý một đời nay
Cô Vy biến thể người đi trốn
Ô Thước bắc càu kẻ lại xây ?
Dưới đất, chăn trâu lo sợ bệnh...
Trên trời, dệt vải đếm từng ngày...
Chiếc cầu Ô Thước tính sao đây?
Khó bắc ngang qua để hợp vầy!
Vì thế Ngưu Lang đành lỡ trước
Cho nên Chức Nữ phải buồn nay
Thôi chờ Covid mau tan rã
Nán đợi thuốc ngừa chóng đắp xây
Hy vọng sang năm cầu nối nhịp
Dòng Ngân tháng bảy kịp sang ngày
songquang
20210814
( ngày mùng 7 tháng 7 âml)
Tháng 7 có mưa ngâu
Ngưu Lang& Chức Nữ sẽ gặp nhau
Cho thỏa tình thương nhớ
Chim Ô thước bắc cầu
Giọt Mưa - Thơ Hồng Thúy - Phạm Mạnh Cương -Ngọc Mỹ Hùng Đặng
Mùa Đã Vào Thu
Tháng năm bước đời dong ruỗi
Hay đâu mùa đã sang thu
Trông về phương mây trắng nổi,
Một chiều hoang tái tâm tư.
Êm êm theo từng bước nhỏ
Tóc mây trắng điểm bao giờ!
Ta nghe nỗi niềm dâu bể,
Giọt buồn rụng xuống cung tơ.
Ta nhớ ngày xưa, ngày xưa
Tao nôi từ thuở giao mùa.
Cánh cò bay vào năm tháng
Ca dao còn nghe sớm trưa.
Tháng năm đời còn xuôi ngược.
Mẹ vẫn cho con mùa xuân
Tháng năm con còn đếm bước
Bây giờ bóng mẹ phù vân.
Hạt muối còn hương vị biển
Hạt gạo còn thơm hương đồng.
Bóng mẹ khói sương từ độ...
Nước nguồn, cây cội...mênh mông.
Ngàn xưa tiếng chuông thiên cổ
Vẫn còn vọng bến trầm luân.
Ngàn sau bóng người Mục Tử,
Vẫn còn dâng bát cơm hương.
Chao ôi, thu đã sang rồi!
Gió chiều hiu hắt vàng rơi bóng chiều.
Chạnh niềm trên bến cô liêu,
Mây Tần trắng nẻo lòng hiu hắt lòng!
South Dakota, vào thu 2020.
Mặc Phương Tử
Sài Gòn Trong Dịch
Trời đương tháng bảy đổ mưa ngâu
Từng chập rơi khi tạnh lúc rào
Đường quạnh quẽ im hơi xế nổ
Phố đìu hiu thoảng tiếng ve sầu
Cảnh như thể sau cơn hồng thủy
Người khác chi giữa cuộc bể dâu
Chức Nữ-Ngưu Lang đang nhỏ lệ
Khóc Sài Gòn buổi quá cơ cầu
Nhất Hùng
Thứ Sáu, 13 tháng 8, 2021
Phượng Hồng
Mùa Hạ Cuối
Buổi học cuối cùng, sầu tiếng ve
Sân trường nắng quái làm lưu luyến
Nặng trĩu bước chân em đi về
Ngẩn ngơ Thầy đứng trên bục giảng
Bàn ghế im lìm nhớ dáng ai
Từ nay sẽ không còn thấy nữa
Suối tóc dịu dàng, đôi mắt nai …
Cổng trường khép lại, em bâng khuâng
Ngàn lời muốn nói bỗng ngại ngần
Rộn rã những giờ Thầy lên lớp
Đâu ngờ ngày vui trôi qua nhanh
Bóng em xa khuất cuối con đường
Hành lang lớp học, Thầy vấn vương
Vì cô bé có chiếc răng khểnh
Áo trắng ngây thơ buổi tan trường
Ép đôi cánh phượng vào lưu bút
Nâng niu kỷ niệm một mùa hè
(Em viết tên Thầy vào trang cuối
Với một bài thơ …dẫu vụng về)
Bên bài giáo án, Thầy thao thức
Ngọn đèn khuya, điếu thuốc trên môi
Dòng nhật ký em ghi dang dở
Nhìn ánh sao đêm nhớ một người
Thế là ngày mai ta xa nhau
Mùa Hạ cuối cùng, tim em đau...
Edmonton July 7/2021
Kim Loan
Giữa Tiếng Chuông Ngân
Em về giữa tiếng chuông ngân
Giữa dòng kinh ngọc giữa lần chuỗi hoa
Giữa môi son giữa mặn mà
Giữa trần thế bụi giữa tà áo xanh
Em về giữa mái chùa cong
Giữa mùi hoa sứ về trong ánh vàng
Em về sợi tóc mùa tan
Trắng từng nỗi nhớ giữa ngàn mây bay
Ngày rơi theo tiếng kinh dài
Mái hiên chùa cũ bàn tay nhớ người
Bây giờ mây đã qua đồi
Bỏ quên bao nỗi ngậm ngùi phía sau
Em về từng giọt mưa mau
Thắm trong dâu bể ngàn câu kinh buồn
Lần tay giữa những hồi chuông
Em mang theo cả nỗi phiền muộn tôi..!
Durham, North Carolina
Người Chợ Vãng
Linh Hồn Ngôn Ngữ
1. Nhà văn Cao Hành Kiện:
Giải Nobel Văn Chương thường được trao cho các nhà văn đã đem lại "một hình ảnh rõ rệt về cuộc sống của con người cũng như một lý tưởng cao đẹp". Năm 2000 khi trao giải thưởng Nobel Văn Chương cho Cao Hành Kiện (Gao Xingjian), một nhà văn Trung Hoa lưu vong hiện có quốc tịch Pháp. Viện Hàn Lâm Thụy Điển đã đưa ra nhận định rằng "tác phẩm của ông có tầm ảnh hưởng quốc tế, ghi đậm nét một nhận thức chua chát và một bút pháp tài tình, vạch ra những con đường mới cho nghệ thuật tiểu thuyết và kịch nghệ Trung Hoa".
Đã có vài nhà văn Á châu đoạt giải Nobel văn chương như Rabindranath Tagore (1913), Yasunari Kawabata (1968), Kenzaburo Oe (1994), nhưng đây là lần đầu tiên Hàn Lâm Viện Thụy Điển trao giải cho một người Trung Hoa, mà lại là một người Trung Hoa đã từ bỏ đảng Cộng Sản, sống nương náu tại Paris, viết cả tiếng Trung Hoa lẫn tiếng Pháp.
Ông sinh tại Cống Châu, Giang Tây vào năm 1940, năm của một nước Trung Hoa loạn lạc trong khung cảnh cuộc chiến Trung Nhật. Có lẽ giống nhiều đứa trẻ Á châu sau này, ông đã chào đời, như lời mẹ ông nói với ông, " ngay trong lúc máy bay đang thả bom". Cuộc sống của ông bắt đầu trong bom đạn và tiếp diễn trong xáo trộn, chống đối, đàn áp, trốn chạy... Đúng, hầu như lúc nào cũng trốn, cũng chạy...như tựa đề của cuốn sách "Kẻ Trốn Chạy" của ông. Ông nói : " Tôi là kẻ tị nạn từ thuở lọt lòng mẹ.".
Ông ly khai đảng cộng sản Trung Hoa năm 1989 khi cộng sản Trung Quốc mang xe tăng đàn áp những người biểu tình ở quảng trường Thiên An Môn. Ông sống lưu vong tại Pháp và tiếp tục sự nghiệp văn chương của ông với những tác phẩm viết cả bằng tiếng Trung Hoa lẫn tiếng Pháp. Năm 1992, ông lãnh Huân Chương Nghệ Thuật và Văn Chương và năm 1994 ông đoạt Giải Cộng Đồng Pháp của Vương Quốc Bỉ với tác phẩm "Kẻ Miên Hành" và Giải Tân Niên của cộng đồng Trung Hoa năm 1997 với tác phẩm "Linh Sơn" (Soul Mountain). Ông lấy quốc tịch Pháp vào năm 1998 và sống tại một căn phòng tầng thứ 18 của một chung cư tại Paris, thành phố mà ông cho là nơi trú thân lý tưởng nhất cho những tâm hồn nghệ sĩ khát vọng tự do và sáng tạo. Từ căn phòng của ông, như lời ông nói, ông có thể nhìn ngắm tháp Eiffel với cảnh hoàng hôn tắt nắng, và Paris chầm chậm đi vào màn đêm thơ mộng, êm ái, nhưng cũng đầy rạo rực, nồng ấm.
Tác phẩm quan trọng nhất của ông, cuốn tiểu thuyết " Linh Sơn" (Soul Mountain) được ông khởi sự viết từ năm 1982. Đây là một hành trình của một tâm hồn qua thời gian và không gian, trong khung cảnh của các đồi núi, đồng cỏ, làng mạc Trung Hoa, để tìm lại cội rễ, sự an bình và tự do của nội tâm. Chuyến đi xa vào năm 1986 chắc chắn đã giúp ông nhiều ý tưởng, hình ảnh, tài liệu cho cuốn tiểu thuyết nổi tiếng này mà mãi đến năm 1995 mới được xuất bản tại Pháp. Tờ báo Le Monde của Pháp đã dành một bài viết đặc sắc để giới thiệu cuốn tiểu thuyết quan trọng này ngay sau khi Cao Hành Kiện đoạt giải Nobel văn chương. Tác giả bài viết này, tên viết tắt là J.L.D, giới thiệu tác phẩm " Linh Sơn " của Cao Hành Kiện, xin được thoáng dịch một đoạn như sau:
"Trong tác phẩm 'Linh Sơn' này, một người với túi sắc trên vai, đã ngược xuôi, khi thì chân đất, khi thì trên yên xe đạp hay lắc lư theo nhịp một chiếc xe thồ, để đi tìm một ngọn núi bí mật, tượng trưng cho một nơi lý tưởng để con người có thể 'rũ bụi trần ai'. Theo chân các di tích của Trung Hoa cổ xưa, một Phương Đông huyền bí và ma quái, với khoa học của Lão Tử, gã ta đã đi kiếm một nơi nương náu, trú thân với bao nhiêu những kỳ tích hoang đường tưởng chừng như đã biến với thuở hoang sơ: những đồng lúa chín vàng và rừng tre xanh biếc, những vị phù thủy hét ra lửa, những con khỉ gào thét, rú lên từng hồi, những con rắn chọc phá, cướp bóc mồ mả; gã ta nói đến sự bảo vệ giống gấu mèo cũng như sự tàn phá môi trường trong vùng sông Dương Tử. Cao Hành Kiện đã trở về với những chiến công của các nữ hiệp sĩ trong các truyện kiếm hiệp, những lễ hội tưng bừng với những lồng đèn rồng, những con kỳ nhông khổng lồ hay những con chim vĩ đại khao khát mật ngọt của cây lệ quyên... những kinh kệ ê a bên cửa chùa, những thuyền mành mỏng manh, những chiếc dù xinh xắn, những thiếu nữ đùa nghịch, chạy trốn và khẽ kêu một tiếng đầy hoan lạc khi ngón chân vừa chạm vào làn nước sông trong xanh."
Khi nhận xét Cao Hành Kiện là " một kẻ quan sát đầy ngờ vực nhưng sáng suốt không nhằm giải thích thế giới" và trao giải thưởng Nobel văn chương cho ông, Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã không chỉ trao giải thưởng cho một tài năng văn chương, mà còn cho một tấm lòng kiên trì của một nghệ sĩ đã dùng nghệ thuật của mình để chống lại tất cả sức mạnh của bạo quyền và hận thù để nói lên tiếng nói của cuộc sống đích thực, tiếng nói muôn đời của tự do và hạnh phúc. Ông là một "Kẻ Miên Hành", nhưng là một kẻ miên hành vẫn đủ tỉnh táo để trình bày, phê phán và tìm kiếm chân lý của cái đẹp.
2. Nhà văn Kim Thúy:
Một tên tuổi xa lạ, là một phụ nữ trẻ gốc Việt, hiện sống ở Canada. Cũng như bao nhiêu người Việt sau biến cố 30/04/1975 đã bỏ nước ra đi, gia đình cô bé Kim Thúy cũng đã tìm cách vượt biên bằng thuyền đến Mã Lai, được đưa vào trại tị nạn, sống ở đấy chờ đợi cho đến khi được nhận vào đệ tam quốc gia là Canada.
Kim Thúy sinh tại Sài Gòn trong một gia đình thuộc giai cấp trưởng giả, nhiều thành viên trong gia đình là công chức cao cấp hay ít ra cũng sống một cuộc sống thong thả mà với xã hội Sài Gòn hồi ấy, nếu cô chịu tiết lộ một số tên tuổi thì có lẽ chúng ta sẽ có thể nhận ra cô là ai, thân phụ cô hoặc những bà con xa gần của cô là những người nào; tiếc thay cô đủ kín đáo và kiêu hãnh để không nói rõ hơn. Kim Thúy sinh đúng vào Tết Mậu Thân, một biến cố lịch sử mà không một người dân miền nam nào có thể quên được cho dù họ thuộc phe nào, khuynh hướng chính trị nào. Cô lên mười tuổi khi gia đình cô lên thuyền vượt biển trốn khỏi Việt Nam.
Cuốn truyện kể mang tựa đề là "RU" vừa có nghĩa tiếng Việt vừa có nghĩa Pháp. Trong Pháp ngữ : giòng suối nhỏ, theo nghĩa đen, và sự chảy (chảy nước mắt, chảy máu) nghĩa bóng. Trong tiếng Việt RU có nghĩa là bài hát để ru trẻ con vào giấc ngủ an lành. Tác giả cho biết là cô từng là chủ một quán ăn ở một thị trấn nào đó thuộc xứ Canada, mang tên là "Ru de Nam". Khi lấy tên ấy làm tên tác phẩm đầu của mình hẳn tác giả có một dụng ý.
"... Trước khi tàu chúng tôi nhổ neo giữa đêm bên bờ biển Rạch Giá, đa phần các hành khách chỉ có một nỗi sợ, sợ cộng sản, nguyên do khiến họ bỏ trốn. Nhưng ngay khi bao quanh con tàu, bủa vây con tàu chỉ còn độc một chân trời xanh lơ đồng nhất, nỗi sợ bèn biến thành một con quỷ trăm mặt, cưa chân chúng tôi, khiến chúng tôi không cảm nhận được những cơ bắp bất động của mình đang tê cứng. Chúng tôi chết sững trong sợ hãi, vì sợ hãi. Chúng tôi không chợp nổi mắt nữa khi nước tiểu của đứa bé có cái đầu ghẻ lở bắn lên người chúng tôi. Chúng tôi không còn bịt mũi nữa khi nhìn những người xung quanh nôn mửa. Chúng tôi tê cứng, bị kẹt giữa những bờ vai người này, những chân cẳng người kia và nỗi sợ của tất cả. Chúng tôi tê liệt.
Câu chuyện về một cô bé bị biển khơi nuốt chửng khi bước hụt chân lên tàu lan khắp lòng tàu bốc mùi như một thứ khí gây mê, hoặc gây đê mê, thứ khí ấy biến cái bóng đèn duy nhất thành ngôi sao Bắc cực còn những chiếc bánh bít cốt đầy dầu máy thành bánh quy bơ. Cái mùi dầu máy trong họng, trên lưỡi và trong tâm trí đưa chúng tôi thiếp đi theo nhịp bài hát ru của người phụ nữ ngồi bên." (dịch một trích đoạn trong tác phẩm RU).
Cuốn truyện vừa in ra là được đón tiếp nồng nhiệt, được dịch và in trên nhiều nước. Ở Pháp truyện được chọn nhận giải Lire-RTL (Lire là tên của một tạp chí văn chương chuyên ngành và RTL là hãng truyền thanh và truyền hình). Vào chiều ngày 10 tháng 5, 2010 nhân buổi lễ khai mạc tuần lễ sách tại Paris (Salon du Livre) người phụ nữ nhỏ bé mảnh mai ấy đứng giữa hai ông hộ pháp François Busnel chủ bút tờ Lire và Philippe Labro giám đốc đài RTL, cả hai đều là những nhà văn nổi tiếng, trịnh trọng trao giải thưởng cho Kim Thúy và giải thích lý do sự chọn lựa tác phẩm của cô. Sau khi "RU" ra mắt tại Pháp thì nghe rằng ở Canada sách cô không còn tìm thấy trên kệ nữa. Số sách in đã lên đến 25,000 cuốn.
3. Nhà văn Lan Cao:
Tác giả Lan Cao cũng được Viking Penguin phát hành cuốn sách thứ hai, có tên "The Lotus and the Storm" (Hoa Sen và Bão Tố) sau khi xuất bản cuốn "Monkey Bridge" (Cầu Khỉ) rất thành công vào năm 1997. Tuy là một nhà văn, Lan Cao lại theo đuổi ngành luật. Bà hiện là giáo sư giảng dạy môn luật kinh tế quốc tế tại Chapman University.
“Cầu Khỉ” của Lan Cao viết về chiến tranh, và những hệ lụy còn rơi rớt lại trong đời của một số người Việt lưu vong. Tâm sự và cuộc đời của họ ở chừng mực nào đó cũng chơi vơi, cũng chênh vênh như những nhịp cầu tre bắc ngang dòng sông chảy xiết. Một độc giả đọc “Cầu Khỉ” rồi đã ghi lại cảm nhận: "Một mai cố quận tìm về / Qua sông cầu khỉ vọng hề tiếng xưa / Con đường đi vội quá trưa / Bến ni bờ nọ cũng vừa thiên thu".
Ngôn ngữ, trong “Monkey Bridge” (Cầu Khỉ) đã được nhìn ngắm ở hai phía trái ngược. Một là ngăn cách trở ngại của ngôn ngữ. Và hai là, sức mạnh của ngôn ngữ. Trong lá thư bí mật mà bà Thanh gửi lại cho con, bà đã viết rằng Mai đã xấu hổ vì bà nói tiếng Anh không đúng “accent” mặc dù bà nói tiếng Việt và tiếng Pháp rất chuẩn. Và ở một phía khác, Mai đã nhìn thấy được uy lực của “tặng phẩm của ngôn ngữ”:
"Ở trong thanh âm mới của tôi, thanh âm mà tôi thực sự phát ra từ cổ họng, là một uy lực kinh ngạc mới mẻ. Đối với mẹ tôi và những người láng giềng, tôi bắt đầu nắm giữ cả thế giới, một độc nhất với thế giới tiến bộ xán lạn. Giống như ông Adam, tôi đã như được Thượng Đế ban cho quyền năng chỉ danh tất cả các loài chim chóc ở trên trời và các loài thú vật trên cánh đồng. Quyền được chỉ danh, tôi nhanh chóng tìm kiếm được quyền giữ gìn ngôn ngữ và quyền thỉnh cầu thẩm quyền tiếng nói của thuần khiết không giả tạo" (trích đoạn "Cầu Khỉ").
Cả ba nhà văn đều viết các tác phẩm ở ngoài quê hương của họ, bằng ngôn ngữ không phải tiếng “mẹ đẻ” của mình. Nhưng không ai có thể phủ nhận trong từng câu, từng chữ mang đậm nét văn hóa, tính dân tộc và linh hồn của quê hương dù ngàn dặm cách xa. Tự tình dân tộc quyện lẫn, khắc sâu trong mỗi trang lịch sử của đất nước, dân tộc được trân trọng và nâng cao đến một tầm cao của nhân loại. Hình ảnh đất nước và con người của quê hương họ, như những chuỗi sao kết nối, soi sáng trên mỗi thân phận và hơi thở của từng nhân vật trong tác phẩm.
Đã có hàng triệu người Việt nói, đọc và viết tiếng Việt như ngôn ngữ “mẹ đẻ” nhưng lại mang tinh thần lai căng, vọng ngoại. Giá trị của ngôn ngữ không phải chỉ là việc lặp lại như một "con chim biết nói" mà sử dụng và biểu hiện như linh hồn của tiếng nói từ trái tim của chúng ta. Đó chính là linh hồn của ngôn ngữ, sâu thẳm bên trong tâm hồn, nhân cách chứ không phải chỉ là thứ phương tiện của tiếng nói và chữ viết trong cuộc sống giao tiếp vô hồn.
Durham, North Carolina
Nguyễn Hoài Nam
Thứ Năm, 12 tháng 8, 2021
Chuỗi Đời
Đời là một chuỗi muôn màu
Lần tay chạm biết hạt nào yêu thương
Hạt nào là hạt vấn vương
Hạt nào là hạt sầu tương người tình
Lóng lánh hạt chuỗi bình minh
Soi chung nhịp bước bóng hình có nhau
Hạt sầu hạt khổ hạt đau
Hạt gieo ai oán nhuộm màu hoàng hôn
Kim Oanh
Cảm Tác Trên Sông Tiền
Sông dài lấp lánh bóng tà dương
Rải rác ven sông trẹt lãi xuồng
Gió lật nước lùa lay bóng nắng
Sóng nhồi phơi lớp phủi hơi sương
Vẳng nghe câu hát trên bờ vọng
Xót dạ xổ lồng giọt lệ tuông
Ghe bẹo về đâu chiều bảng lảng
Bỏ ta ở lại hắt hiu buồn
Hãy Nhớ Cho Anh
Có lúc cuộc đời như vỡ tan rồi
Có lúc cuộc đời như giấc mơ
Dù ra sao anh cũng vẫn xin được yêu
Người con gái đang theo anh đến cuối đời
Nhiều lúc bão tố như cuốn trôi
Nhiều lúc nắng cháy như tuốt da
Mà vẫn thấy ai nắm tay
Vùng vẫy cũng không thoát ra
Đành phải nuốt nước mắt thôi
Ngậm ngùi anh cảm ơn trời
Lòng hứa ngàn muôn kiếp sau
Nợ cũ anh sẽ trả vay
Dù có trải qua đắng cay
Anh thề sẽ luôn kiếm em
Và dẫu có phải đấu tranh
Anh cố nói riêng với em
Nợ lớn năm xưa đã vay
Xin hãy cho anh dịp may
Trả hết nợ em kiếp này
Và đó không phải là đớn đau
Vì với một người giống như em
Điều đó luôn luôn là ước mơ
Dù có trải qua ngàn kiếp sau
Nợ đó bao giờ dám quên đâu
Cho dẫu một ngày được xóa đi
Thì anh vẫn mơ được có em
Vi dấu trong tận đáy trái tim
Hình bóng em kết đã thành tinh (thể quý)
Lung linh...lung linh trong mắt anh
……..
Anh sẽ chẳng bao giờ quên đâu
Dù có trải qua ngàn kiếp sau
Hai ta đã có nợ nần nhau
Hãy nhớ cho anh một dịp may
Tính Trước
Thứ Tư, 11 tháng 8, 2021
Trả Lại Cho Tôi
(Đọc thơ tưởng nhớ Giỗ lần thứ 5 của anh Bảy)
Xin trả cho tôi con phố nhỏ
Có đường xưa rợp bóng me che
Có nàng Phượng thắm đêm Hè khóc
Những dốc dài thăm thẳm về đâu
Khóe Buồn
Ừ! Rồi mình cũng xa nhau
Biết ai ai biết nghẹn ngào biệt ly
Tiễn em ừ tiễn em đi
Tìm trong hồi ức những gì thu xưa
Năm năm cách biệt như chưa
Em theo cánh gió tiễn đưa thu tàn
Chiều nay mây tím giăng hàng
Khóe buồn muôn giọt trên ngàn xót xa
Kim Phượng
11.8.2021
5 Năm Rồi 7 Hiệp Ơi!
Bảy Ơí!
Để những lời khấn nguyện đêm đêm
Anh chắc nhận tất lòng người em gái
Anh đã đi ... đi biền biệt năm dài
Mà hình ảnh vẫn hoài trong tiềm thức
Nỗi hằn đau tràn đầy lồng ngực
Nhớ nhớ thật nhiều kỷ niệm giựt trong em
Thôi nhé anh! Ngủ giấc ngủ êm đềm
Và anh em mình sẽ trò chuyện trong mơ...
Kim Oanh
Nhớ về Bảy Giỗ 11/8/2021
Thứ Ba, 10 tháng 8, 2021
Thuở Ấy Có Em - Sáng Tác: Huỳnh Anh Tiếng Hát Đình Lộc
Nhân Sinh Như Mộng
Nhân sinh như mộng
Nhân sinh như mộng
(1)
Phố cũ nhìn lạ lẫm
Người về lạc bước vỉa hè quen
Tiếng ve sầu râm ran
Khung trời xanh tuổi dại
Đường xưa em nón nghiêng tóc thả
Hoa nắng động xôn xao
Quả bàng khô rụng khẽ
Nồi kê ai bếp còn đỏ lửa
Rượu Tầm Dương nào say
Sóng êm sau lũ dữ
Gốc bèo trôi giạt lạc bờ xa
Ta mất nhau rồi sao?
(2)
Một chiều cuối thu Hà nội
Gió thoảng se lạnh đầu đông
Lạc lõng vỉa hè phố cổ
Thời gian như có như không
Bàn tay luống cuống nắm vội
Hơi ấm trao nhau buổi đầu
Theo suốt tháng năm mưa gió
Có giây phút nào quên đâu
Cuối đời tìm về chốn cũ
Ngày xanh tuổi dại không còn
Bơ vơ trời dài đất rộng
Bạc đầu một tấm lòng son!
(3)
Về đâu về đâu
Nước chảy dưới cầu
Người đã đi rồi đâu trở lại
Lưng trời cánh nhạn rướn bay mau
Về đâu về đâu
Đau xót vàng thau
Biệt ly từ thuở thu chia cắt
Thôi rồi bao nỗi hờn bể dâu
Về đâu về đâu
Đường đời muôn lối
Tình thơ một thuở thiên thu hận
Cuối đời vẫn mãi nhớ thương nhau!
Phạm Khắc Trí
Xin Cho Em
Xin cho em còn chiếc nơ trên tóc
Để tháng ngày vơi bớt nỗi xanh xao.
Quên đớn đau những dối gian lừa lọc
Đời còn tin vẫn đẹp một phương nào….
Xin cho em về giấc mơ tuổi nhỏ
Thuở môi hồng mắt ngọc chửa âu lo
Áo trắng bay cành phượng thắm học trò
Nghiêng nắng hạ ngập sân trường ngày đó.
Xin cho em đồng xanh mùa gặt mới
Thả diều bay trong tiếng gió vi vu
Chiều làng quê hoàng hôn tím chân trời
Không gian vọng hồi chuông chùa xóm cũ.
Vui lên em hỡi nụ hoa cỏ dại
Cố vươn mình dù lỡ gót vực sâu
Rồi cũng qua hết khúc quanh thời đại
Về sông xưa đời sẽ giải nỗi sầu.
Tuổi 49
Cười chi cho lắm để đời thấy ra?
Tóc xanh bạc mấy sợi kìa
Bốn mươi chín tuổi sắp lìa bỏ ta.
Như vầy là nửa đời chưa?
Đâu rồi mười chín? Thật thà tiếc ghê!
Phải chi quay ngược được về
Vui chơi cùng bạn thỏa thê tuổi hồng
Nghêu ngao như sáo ngoài đồng
Tràn trề nhựa sống thả rong suốt ngày.
Á Nghi
12.9.2008
Góc Nghiêng Không Vẹn
Khăn áo màu trăng úa giống trăng
Xuôi ngược giữa dòng trôi ngược dốc
Màu yêu màu nhớ sánh đâu bằng
Anh về từ góc nghiêng không hẹn
Ánh mắt nhìn nhau thoáng sững sờ
Tóc rối vì sao em biếng chải
Để từng cuộn rối rớt trong thơ?
Điều chia ly đó xưa từng đến
Chẳng ước đâu em chuyện vá trời
Chỉ ước bàn tay em bé bỏng
Nắm truyền hơi thở của nhau thôi
Ngày rơi chiều xuống bao niềm nhớ
Như nắng như mưa rát cuộc trần
Như những dòng sông buồn lạc bến
Đôi bờ em có thấy bâng khuâng?
Thì thôi nếu có nghiêng sầu cũ
Ngan ngát hồn anh cuối vực này
Em hãy, cho dù như suối cạn
Chảy vào sa mạc thiếu mưa bay
Nhược Thu
Túc Tấn Xương Đình Văn Kinh Cầm 宿晉昌亭聞驚禽 - Lý Thương Ẩn
宿晉昌亭聞驚禽 Túc Tấn Xương Đình Văn Kinh Cầm
羈緒鰥鰥夜景侵 Ky tự quan quan dạ cảnh xâm,
高窗不掩見驚禽 Cao song bất yểm kiến kinh cầm.
飛來曲渚煙方合 Phi lai Khúc Chử yên phương hợp,
過盡南塘樹更深 Quá tận Nam Đường thụ cánh thâm.
胡馬嘶和榆塞笛 Hồ mã tê hoà Du tái địch,
楚猿吟雜橘村砧 Sở viên ngâm tạp Quất thôn châm.
失群掛木知何限 Thất quần quải mộc tri hà hạn,
遠隔天涯共此心 Viễn cách thiên nhai cộng thử tâm.
李商隱 Lý Thương Ẩn
Dịch thơ
Trọ đình Tấn Xương thấy chim sợ
Lữ khách đêm thâu dạ bất an
Cửa song bỏ ngỏ thấy chim than
Bay qua bãi ngoặt lồng sương khói
Đến tận lùm cây ao phía Nam
Vượn Sở nhịp chày thôn Quất đập
Ngựa Hồ hòa sáo ải Du ngân
Lạc bầy ẩn khóm bao giờ thoát
Ta cũng chân trời sống một thân
Con Cò
***
Nguyên tác: Phiên âm:
宿晉昌亭聞驚禽 Túc Tấn Xương Đình Văn Kinh Cầm
羈緒鰥鰥夜景侵 Cơ tự quan quan dạ cảnh xâm,
高窗不掩見驚禽 Cao song bất yểm kiến kinh cầm.
飛來曲渚煙方合* Phi lai Khúc Chử yên phương hợp,
過盡南塘樹更深 Quá tận Nam Đường thụ cánh thâm.
胡馬嘶和榆塞笛 Hồ mã tê hoà Du Tái địch,
楚猿吟雜橘村砧 Sở viên ngâm tạp Quất Thôn châm.
失群掛木知何限 Thất quần quải mộc tri hà hạn,
遠隔天涯共此心 Viễn cách thiên nhai cộng thử tâm.
李商隱 Lý Thương Ẩn
Ngự Định Toàn Đường Thi cho 1 dị bản trong câu 3: hành行 thay vì phi飛.
Lý Hy San Thi Tập (Đường) của Lý Thương Ẩn 李羲山詩集 (唐) 李商隱, Văn Uyển Anh Hoa - Tống - Lý Phưởng 文苑英華-宋-李昉, cũng như Thạch Thương Lịch Đại Thi Tuyển (Minh) của Tào Học Thuyên 石倉歷代詩選 (明) 曹學佺 không có dị bản.
Ghi chú:
Tấn Xương: tên tự của Phùng Hy (438-495) sanh tại Tín Đô, Trường Lạc nay là Ký Châu, Hà Bắc, đại thần thời Bắc Ngụy, tên làng/phường/huyện ở Trường An
Khúc Chử: tức Khúc Giang Trì, tên ao đời Đường ở đông nam Trường An, phía đông phố Chu Tước, nay là Tây An, Thiểm Tây. Ao dài như con sông ngắn, khúc khuỷu quanh co, nên gọi Khúc Giang.
Nam Đường: ao trước chùa Đại Từ Ân ở Tấn Xương, Trường An. Chùa là một trong nhiều trung tâm dịch thuật Kinh Phật do sư Huyền Trang gầy dựng từ thời nhà Đường.
Khúc Chử: thử chỉ Khúc Giang Trì 曲渚:此指曲江池 Khúc Chử chỉ Khúc Giang Trì . Nam Đường: tức Đại Từ Ân Tự tiền đích nam trì 南塘:即大慈恩 寺前的南池 Nam Đường là ao phía nam chùa Đại Từ Ân. Nhị xứ giai dữ Tấn Xương lý vi cận 二处皆与晋昌里为近. Hai nơi này gần làng Tấn Xương.
Hồ mã: ngựa nuôi ở đất Hồ, vùng dân tộc Tây Bắc; quân lính của người Hồ. Ẩn dụ cho lòng thương nhớ quê hương vì ngựa Hồ, mỗi khi gió bắc thổi, thì ngẩng cao đầu hí dài thảm thiết.
Du Tái: địa danh ở tây bắc Trung Hoa, còn có tên là Du Quan hay Du Lâm Tái ở Cam Túc, nơi tướng Mông Điềm 蒙恬 nhà Tần xây ải để chống Hung Nô, tên chung là đồn biên phòng.
Sở viên: vượn đất Sở, vùng Tam Vu Tam Giáp tỉnh Hồ Bắc.
Quất Thôn: Quất Châu, nay là Hán Thọ, Hồ Nam, xưa là đất được giao Ngô Lý Hành 吴李衡 để trồng cam.
Phân tích bài thơ:
Túc Tấn Xương Đình Văn Kinh Cầm
Trọ Đình Tấn Xương Nghe Chim Sợ Hãi Kêu
Bài thơ Đường luật, thất ngôn, bát cú, luật trắc, vần bằng, hoàn hảo về niêm, vận, đối xứng, tiết tấu và bố cục.
Đề:
Cơ tự quan quan dạ cảnh xâm,
Cao song bất yểm kiến kinh cầm.
Lòng cô đơn man mác trong đêm dần đến,
Cửa sổ cao không đóng, thấy con chim sợ hãi.
Đêm cuối thu năm Đại Trung thứ 5, Tử Châu khí trời oi ả, khách trọ tại đình Tấn Xương cô đơn, buồn man mác không ngủ được. Bỗng nghe tiếng kêu sợ hãi của chim, khách đứng lên sau màn cửa sổ cao đang mở rộng nhìn thấy bên ngoài.
Thực:
Phi lai Khúc Chử yên phương hợp
Quá tận Nam Đường thụ cánh thâm.
Đã bay qua bãi Khúc Chử mà sương vừa phủ kín.
Vượt đến ao Nam Đình, phía sau cây cối càng rậm rạp.
Những con chim lạc bầy bay qua bãi Khúc Chử, mà mây vừa phủ kín. Qua khỏi ao ở Nam Đường, cây cối rậm rạp hơn nên không biết chúng bay về đâu.
Đối xứng: Phi lai Khúc Chử yên phương hợp
Quá tận Nam Đường thụ cánh thâm
Luận:
Hồ mã tê hoà Du tái địch,
Sở viên ngâm tạp Quất thôn châm.
Ngựa Hồ hí hoà với tiếng sáo từ quan ải Du,
Vượn Sở hú lẫn với tiếng chày giặt thôn Quất.
Cảnh hoang dã không những làm chim sợ hãi, còn làm ngựa Hồ hí vang hòa vào tiếng sáo từ quan ải Du. Vượn Sở gần Tam Hiệp hú không cùng nhịp với tiếng chày giặt áo quần từ thôn Quất.
Đối xứng: Hồ mã tê hoà Du tái địch
Sở viên ngâm tạp Quất thôn châm
Kết:
Thất quần quải mộc tri hà hạn,
Viễn cách thiên nhai cộng thử tâm.
Lạc bầy nương vào cây, biết đến bao giờ mới hợp lại,
Tấm lòng ta cũng thế dù ở nơi chân trời xa cách.
Chim lạc đàn chỉ biết nương tựa vào cây cối không biết bao giờ mới hợp lại nhau? Dù ở chân trời xa cách lòng ta cũng cảm thông nỗi lo buồn và sợ hãi của kẻ lạc bầy xa cách cô đơn.
Dịch thơ:
Chim Sợ Hãi
Cô đơn buồn thoảng màn đêm xuống,
Chợt thấy ngoài xa chim hoảng bay.
Khúc Chử bãi sông sương chớm phủ,
Nam Đường ao lạnh cạnh rừng cây.
Ngựa Hồ hí thảm sáo Du ải,
Vượn Sở thê lương lẫn tiếng chày.
Lạc bạn lìa đàn sao hợp lại?
Phương trời xa cách thấu lòng này.
Staying at the Jin Chang Temple Hearing Frightened Birds
by Li Shang Yin
Feeling lonely and sad as the night was approaching slowly,
Suddenly I heard and seen a frightened bird through the opened high window.
It was flying over the river bend Qu Zhu, just covered by fog,
To arrive at the Nan Tang pond, beyond trees were much darker.
Hu horse neighed in harmony with flute from Yu fort,
Chu apes cries were lost in washing bat sounds from Orange village.
Separated from their flock and relying only on trees, who knew how long it would take for them to reunite?
From this far and separated corner of heaven, my heart shared in the sorrow.
Phí Minh Tâm
***
Trừng trừng lữ khách bóng đêm thâu
Không khép cửa cao thấy điểu sầu
Khúc Chử bay qua mù khói tỏa
Nam Đường vượt đến khắp rừng sâu
Ngựa Hồ hí, sáo Du biên vắng
Vượn Sở kêu, chầy Quất đập mau
Bầy lạc nương cây đâu lúc hết?
Ta nơi trời thẳm cũng lòng đau!
Lôc Bắc
***
Một Mình
Từ bào thai đã một mình
Cô đơn dẫu có thêm hình bóng ai
Riêng ta đau ốm lai rai
Riêng ta lủi thủi sớm mai chiều tà
Đói no cũng một mình ta
Lạnh nóng, tê dại nuột nà thịt da
Đáy lòng, môi miệng lời ra
Lết lê giữa chốn ta bà một thân
Đồ Cóc
Nhạc Sĩ Lan Đài & Nỗi Nhớ Xa Xôi
Nhạc sĩ Lan Đài và nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn cùng sinh năm 1926 tại Quảng Nam, cùng trải qua thời kỳ sinh hoạt với nhau từ thời kháng chiến và hai thập niên thời Việt Nam Cộng Hòa.
Nhạc sĩ Lan Đài tên thật là Nguyễn Kim Đài sinh năm 1926 tại Hội An. Vào đầu thập niên 1940, nhạc sĩ La Hối thành lập Hội Hiếu Nhạc Faifo (La Philharmonique de Faifo) có nhiều bạn trẻ tại địa phương như Lan Đài, Lê Trọng Nguyễn, Trương Đình Quang, Huỳnh Sỏ, Hoàng Tú Mỹ (nay còn sống ở Hội An)… tham gia sinh hoạt âm nhạc. Nhạc sĩ La Hối (1920-1945), trong những năm 1936-1938 theo học ở Sài Gòn, trau dồi âm nhạc cổ điển Tây phương, trở về Hội An làm Hội Trưởng Hội Hiếu Nhạc, hướng dẫn nhạc lý, sáng tác ca khúc cho các hội viên: (ký âm (solfège), hoà âm (harmonie), và sáng tác (composition).
Trong những năm 1946-47, Lan Đài và Lê Trọng Nguyễn tham gia trong vùng chiến khu Nam Ngãi Bình Phú, hoạt động văn nghệ ở Liên Khu, sau đó bị Việt Minh theo dõi vì nghi ngờ ông thuộc thành phần có hoc, tiểu tư sản đang có ý định “dinh tê” trốn về “thành” như một số văn nghệ sĩ nên bắt ông bỏ tù, giam tại nhà lao Tiên Hội, một trong những nhà lao giam giữ khắc nghiệt nhất thời bấy giờ thuộc vùng Tiên Phước, Quảng Nam. Nhưng may mắn cho ông, ông được “phóng thích” năm 1954 sau khi có hiệp định đình chiến Genève, trở về vùng Quốc Gia. Lê Trọng Nguyễn ghi lại những dòng chia sẻ của ông rất khó khăn và nguy hiểm khi rời vùng chiến khu trốn về Hội An.
Năm 1955, Lan Đài dạy âm nhạc tại trường Trung Học Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phan Rang. Năm 1956, dạy âm nhạc tại trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức. Năm 1957 làm việc tại Bộ Thông Tin ở Sài Gòn. Năm 1959 ông phụ trách “Chương Trình Lan Đài”, chương trình chuyên về âm nhạc trên đài truyền hình Sài Gòn. Ca sĩ Diễm Hồng (Vũ Thị Hồng Lê), người bạn đời của ông cùng các ca sĩ ở Sài Gòn góp mặt trong chương trình truyền hình được khán giả ái mộ.
Từ năm 1959 trở về sau Lan Đài mở lớp dạy nhạc ở Sài Gòn, viết các thể loại về âm nhạc. Có thể nói ông là nhạc sĩ, dạy âm nhạc trong hai thập niên nên đã sáng tác nhiều nhất về âm nhạc. Sách của ông được các nhà xuất bản như Xuân Thu, Khai Trí, Văn Hiến hợp đồng ấn hành nên phổ biến rộng rãi ở miền Nam Việt Nam:
Tự học Tây Ban Cầm theo phương pháp cấp tốc: Sơ Cấp, Trung Cấp.
Tự học Tây Ban Cầm (nhạc khiêu vũ, nhạc Jazz)
Tự học Hạ Uy Cầm (Guitare Hawaienne) Hạ Băng Cầm (Banjo Alto)
Tự học Đại Hồ Cầm (Contre Basse)
Nghệ Thuật Độc Tấu Tây Ban Cầm
Tự học Ukulele (viết chung với Lê Trọng Nguyễn)
Tự học Khiêu Vũ
Tự học Khẩu Cầm (Harmonica) (dị chuyển và đồng chuyển) (viết chung với Đằng Vân)
Để Sáng Tác Một Bản Nhạc Phổ Thông
Kỹ Thuật Hòa Âm
Hòa Điệu Sơ Cấp
Hòa Điệu Tổng Quát
Nhạc Lý Căn Bản
Tự học Tây Ban Cầm Điện, TBC Điện Trầm
Tự Điển Tây Ban Cầm (2000 Thế Bấm)
Tự học Măng Cầm (Mandoline) và Băng Cầm (Banjoline)…
Nhạc sĩ Lan Đài sáng tác nhiều ca khúc và phổ biến rộng rãi: như Chiều Thương Nhớ (Phổ thơ Hoàng Hương Trang, ca khúc nầy trùng tên với ca khúc của Thẩm Oánh), Nuối Tiếc, Đôi Tay Ngọc Nữ, Câu Chuyện Tâm Tình, Quán Chiều, Tìm Về, Nụ Cười Tái Ngộ, Tà Áo Trinh Nguyên, Nói Đi Em, Sao Vẫn Còn Thương, Em Là Tất Cả (Viết chung với Mạnh Phát), Tà Áo Tím (Viết chung với Mạnh Phát, nhạc sĩ Hoàng Nguyên ca khúc trùng tên Tà Áo Tím), Nhạc Ru Tuổi Hồng (Tuyển Tập Nhạc viết chung với Nguyễn Hiền, Anh Việt, Hoàng Nguyên, Lê Trọng Nguyễn), Nhạc Xanh (Tập Nhạc viết chung với Y Vân)…
Nhạc sĩ qua đời tháng 3 năm 1982 tại Long Hương, Bà Rịa. Tháng 3 năm 1983, gia đình Lê Trọng Nguyễn định cư tại Los Angeles, Hoa Kỳ theo diện bảo lãnh (ODP).
Trước năm 1975, nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn không sống bằng âm nhạc. Với khả năng chuyên môn nên từ năm 1965 đến năm 1975, làm Giám Đốc các công ty Centra Co., Sealand, nhà máy Dầu Hỏa Cửu Long. Những nhạc phẩm của ông trong khoảng ba thập niên đã tạo nên tên tuổi nhạc sĩ trong nền tân nhạc Việt Nam. Khi Lê Trọng Nguyễn được định cư tại Hoa Kỳ, giấc mơ với âm nhạc được hồi sinh, những tình khúc của Lê Trọng Nguyễn được phổ biến rộng rãi.
Trong khi đó, nhạc sĩ Lan Đài đã sống và đóng góp nhiều ca khúc nổi tiếng và sách về âm nhạc lại sống lặng lẽ tại quê nhà. Sau khi qua đời ít ai nhắc đến tên nhạc sĩ Lan Đài.
Viết những dòng nầy, kèm theo những ca khúc của ông, rất quen thuộc đã được các ca sĩ thành danh ở miền Nam VN trình bày (kèm trong YouTube) để gởi đến quý vị.
Áo Tím Ngày Xưa rất quen thuộc với giới thưởng ngoạn
“Thơ ấu đi vào trong giấc mơ
Yêu mến xưa tìm lên trang thơ
Lòng vẫn nhớ một mùa thu xưa
Một mùa thu dệt nhiều mộng mơ
Tôi đã yêu đã thương đã nhớ…”
Ca khúc Áo Tím Ngày Xưa với tiếng hát Thái Thanh
https://www.youtube.com/watch?v=zIdAx2jO7dc
Với tiếng hát Giao Linh
https://www.youtube.com/watch?v=ICSdrQ_jCNI
Ca khúc Khói Lam Chiều đã một thời rất thịnh hành
“Mỗi lúc hoàng hôn sắp về ngàn lối
Nuối tiếc ngày xanh đã tàn mơ rồi
Bùi ngùi, xao xuyến, thương nhớ xa xôi
Thương về quê hương mến yêu
Có bóng cô em diễm kiều.
… Khói lam chiều lên chơi vơi
Khói lam chiều vương nơi nơi
Khói lam chiều gieo đơn côi
Đưa người tha phương vào trong lãng quên”
Ca khúc Khói Lam Chiều với tiếng hát Phương Dung
https://www.youtube.com/watch?v=W3Q-A9A8Yug
Ca khúc Chiều Tưởng Nhớ phổ thơ Hoàng Hương Trang (ca khúc nầy trùng tên với ca khúc của Thẩm Oánh)
“Chiều đi lặng lẽ
Thương nhớ muôn bề
Khi người yêu đã chết
Nhạc thu chưa thấy về
… Bàn tay đâu tìm không thấy nữa
Bờ môi đâu, mắt đâu, ôi tìm đâu
Dấu chân em xa vời vợi
Nghìn muôn xưa quên lãng rồi”
Ca khúc Chiều Tưởng Nhớ với tiếng hát Lệ Thu:
https://www.youtube.com/watch?v=LI3oPEZGFaM
Với tiếng hát Thanh Lan
https://www.youtube.com/watch?v=F8mIOiJz16Y
Ca khúc Tà Áo Trinh Nguyên
“Một chiều vàng ngát ý thơ
Vương nắng thu trên làn má
Dịu dàng người hoa thướt tha
In bóng duyên trên đường tà.
… Đường đời dù sóng gió
Mà mong ước không bao giờ nhạt phai
Lòng người thường tiếc nuối
Một dĩ vãng đã xa rồi”
Ca khúc Tà Áo Trinh Nguyên với tiếng hát Hà Thanh
https://www.youtube.com/watch?v=_iP15Y8BAtA
Ca khúc Tìm Về của Y Vân & Lan Đài cũng rất quen thuộc trong giới mộ điệu âm nhạc
“Đêm vắng anh ơi có buồn lắm không
Về đây cùng tôi cho hết chờ mong
Hết đi đường vắng âm thầm
Hết đi lẻ bóng cô đơn
Hết mang nỗi sầu vấn vương
… Nơi đây có vòng tay chờ đợi
Đang tha thiết mong anh trở lại
Quê hương ấm êm trong tình người
Anh nhớ mau về anh ơi
Ca khúc Tìm Về với tiếng hát Phương Thoa
https://www.youtube.com/watch?v=yZG92gKyZ4k
Ca khúc Quán Chiều
“Hoàng hôn theo nắng tắt cô liêu
Riêng bóng tôi ngồi trong quán chiều
Đường xưa đâu có khác bao nhiêu
Nhưng người xưa đã xa tôi nhiều
… Ai ơi, mộng đời bao, hoa đẹp tươi
Vì đời bao trái ngang buồn vui
Nhớ chăng những lời nói trong tiếng cười
Mà mến thương người”
Ca khúc Quán Chiều với tiếng hát Hà Thanh
https://lyric.tkaraoke.com/16129/quan_chieu.html
Không hiểu vì lý do gì mà nhạc sĩ Lan Đài sáng tác nhiều ca khúc mang nỗi buồn man mác xa xôi trong khi nghề nghiệp và tình yêu với cuộc sống cũng là niềm ước mơ của nhiều người.
Trong thời gian qua, tôi đã viết nhiều về thơ văn nơi phố cổ Hội An, càng về già càng nhớ nơi chốn với bao nhiêu kỷ niệm của thuở học trò. Hai đêm qua, tôi nghe lại những ca khúc của nhạc sĩ Lan Đài và viết những dòng nhạc về ông với niềm thương cảm.
Little Saigon, July 16, 2021
Vương Trùng Dương