Theo câu nói của Lịch Thực Kỳ 酈食其 trong Sử Ký của Tư Mã Thiên là :"Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên 王者以民為天,而民以食為天". Có nghĩa : "Kẻ vương già lấy dân làm trời, còn dân thì lấy cái ăn làm trời". Ý là : "Vua thì phải lấy dân làm trên hết, vì không có dân thì làm vua với ai đây ? Còn dân thì lấy cái ăn làm nhu cầu trên hết, vì không có cái ăn thì làm sao mà sinh sống cho được !" Vế sau của câu nói nầy thường bị nói trại thành "Dân dĩ thực vi TIÊN 民以食為先". Có nghĩa : "Dân lấy cái ăn làm TRƯỚC NHẤT".
Vì dân lấy cái ăn làm trên hết, nên ông Táo cũng được thờ cúng trịnh trọng nhất trong gia đình. Ông Táo được tôn xưng là "Ngũ Tự Chi Thủ 五祀之首", là đứng đầu trong năm nơi phải tế tự ở trong nhà là Môn Thần, Hộ Thần, Tỉnh Thần, Táo Thần và Trung Lưu (Thổ Địa Thần và Trạch Thần) 門神、户神、井神、灶神、中溜 (土地神和宅神). Nên người Hoa khi rước dâu về đến nhà, sau khi lạy bàn thờ Trời Đất trước cửa thì người trưởng tộc dẫn cô dâu thẳng ra sau bếp lạy Ông Táo trước tiên rồi mới trở ra lạy Thần Tài Thổ Địa và bàn thờ ông bà. Cho ta thấy Ông Táo là ông thần được tôn vinh hàng đầu trong gia đình. Lại theo truyền thuyết dân gian là mỗi cuối ngày ông Táo phải bẩm báo với Ngọc Hoàng Thượng Đế về tất cả những hành vi tốt xấu của các thành viên trong gia đình; Nhưng diễn tiến theo thời gian lần hồi thì mỗi năm ông chỉ về chầu trời để bẩm báo có một lần thôi. Đó là vào ngày cuối năm 23 tháng Chạp, sau khi đã dọn dẹp quét tước nhà cửa sạch sẽ ngăn nắp để chuẩn bị ăn Tết.
Bắt đầu từ đời nhà Chu, hơn một ngàn năm trước Công Nguyên, tục tế Táo đã được đưa vào hoàng cung thành một nghi lễ chính thức. Còn trong dân gian thì theo như câu nói "Quan tam, dân tứ, thuyền gia ngũ 官三民四船家五" Có nghĩa : Quan thì cúng đưa ông Táo ngày 23, còn dân thì 24 và những người dưới ghe thuyền theo đời sống thương hồ thì cúng đưa ông Táo ngày 25. Vì có truyền thuyết là Ông Táo về trời sẽ tâu trình mọi việc tốt xấu trong nhà, nên thường thì cúng ông Táo không thể thiếu món ngon món ngọt, để ông Táo ăn cho ngọt mà báo cáo toàn việc "ngọt" việc tốt, lại thêm giấy vàng mã và xếp hình cò bay ngựa chạy để cho ông Táo có đầy đủ phương tiện để về trời. Trong văn học Việt Nam ta còn có thêm con cá chép để cho ông bà Táo cởi bay lên trời. Cung phụng đủ điều chỉ cốt lấy lòng để được báo cáo tốt mà thôi, lại còn phải van vái "nài nỉ ông đừng nói đến những chuyện không cần nói" như bài thơ Tống Táo Thi dưới đây :
送 竈 詩 TỐNG TÁO THI
麥芽糖餅餞行蹤, Mạch nha đường bỉnh tiễn hành tung,
拜祝佯癡且作聾。 Bái chúc dương si thả tác lung.
只有一般應開口, Chỉ hữu nhất ban ưng khai khẩu,
煩君報我一年窮。 Phiền quân báo ngã nhất niên cùng !
CHÚ THÍCH:
1. Đường Bỉnh: là Kẹo bánh. Đường là Đường, mà cũng có
nghĩa là Kẹo nữa, còn Bỉnh là Bánh.
2. Dương: là Giả đò.Tác : là Làm, ở đây có nghĩa là Làm bộ.
3. Si : là Ngây, là Dại. Lung : là Điếc.
4. Nhất ban: là Mạo từ (Article) chỉ : Một Điều, Một Cái.
5. Nhất niên: là Cả năm, suốt năm, chớ không phải MỘT NĂM.
DỊCH NGHĨA:
Mạch nha, Kẹo, bánh... đưa tiễn bước chân ông đi. Khi bái kiến và chúc tụng Thượng Đế xin ông giả ngây giả điếc dùm cho (đừng nói lung tung những chuyện không tốt của tôi). Chỉ có một điều ông nên mở miệng nói là.... Cảm phiền ông báo với Ngọc Hoàng là sao tôi lại nghèo suốt cả năm vậy ?!
DIỄN NÔM:
THƠ TIỄN ÔNG TÁO
Mạch nha kẹo bánh tiễn chân ông,
Lên đó giả ngây giả điếc dùm.
Chỉ có một điều nên mở miệng,
Rằng ta nghèo suốt một năm ròng!
Táo Thần 灶神 còn được gọi là Táo Quân 灶君, Táo Vương 灶王, Táo Vương Gia 灶王爺, Táo Công Táo Mẫu 灶公灶母 (Táo Ông Táo Bà ) và Đông Trù Ty Mệnh 東厨司命 là cái Tước được Ngọc Hoàng phong cho, nên ta thường thấy bốn chữ hoành phi viết ngang phía trên bàn thờ ông Táo là TY MỆNH TÁO QUÂN 司命灶君 để chứng tỏ là được Ngọc Hoàng Thượng Đế phong tước hiệu đàng hoàng chớ không phải làm thần "ngang xương ". Về câu đối mà ta thường thấy nhất ở hai bên bàn thờ ông Táo là :
上天奏好事, Thướng thiên tấu hảo sự,
下界保平安. Há giới bảo bình an.
Có nghĩa :
- Lên trời thì tâu những việc tốt (việc xấu hãy quên đi!). Còn...
- Xuống dưới hạ giới thì nên phù hộ cho gia chủ được bình an.
Ta thấy, con người bình dân luôn luôn tỏ ra rất thân thiện và thực tế, coi thần thánh như là một thành viên đáng kính có nhiệm vụ phải bảo vệ và phù hộ cho gia đình. Nên bài vị thờ Thần Táo còn được viết là ĐỊNH PHƯỚC TÁO QUÂN 定福灶君. Có nghĩa "Táo Quân là người quyết định cho cái Phúc Lộc của gia đình. Cao hơn một bậc, kẻ sĩ có học thức thì làm ra vẻ trang trọng đàng hoàng hơn, nên đòi hỏi phải có tiêu chuẩn hẵn hoi như câu đối sau đây :
有德能司火, Hữu đức năng ty hỏa,
無私可達天。 Vô tư khả đạt thiên.
Có nghĩa:
- Có ĐỨC thì mới có thể trông coi việc củi lửa bếp nút được.
- Phải CHÍ CÔNG VÔ TƯ thì mới được lên chầu trời (để trình tấu mọi việc)
Như vậy là cái TIÊU CHUẨN để được làm ông Táo đâu phải dễ dàng gì đâu. Phải có TÀI có ĐỨC và còn phải CHÍ CÔNG VÔ TƯ nữa ! Nên được làm Thần Táo là một việc rất đáng tự hào, như câu đối dưới đây :
天上四時春作首, Thiên thượng tứ thời xuân tác thủ,
人間五祀灶為先。 Nhân gian ngũ tự Táo vi tiên !
Có nghĩa :
- Trên trời có bốn mùa thì muà xuân là mùa đầu tiên, còn...
- Ở dưới nhân gian nầy có năm điều tế tự thì tế Táo là việc đầu tiên !
Ngày cúng đưa ông Táo, người Hoa gọi là Qúa Tiểu Niên 過小年, (Người Hoa gọi ĂN TẾT là QUÁ NIÊN, nên QUÁ TIỂU NIÊN không phải là Ăn Tết nhỏ, mà có nghĩa là Ăn Tết Sớm). Vì sau khi đưa ông Táo về trời thì tất cả các bàn thờ trong nhà đều dứt hương khói, chưn nhang cũ được đốt đi chỉ chừa lại ba cây coi cho đẹp, đến ngày ba mươi Tết làm lễ Rước Ông Bà về ăn Tết mới tiếp tục hương khói mới. Trong khoảng thời gian ăn Tết sớm và Tết Nguyên Đán gọi là "những ngày vô cấm kỵ", có làm gì cũng khỏi phải coi ngày tốt xấu gì cả. Vì thần thánh đã về trời hết rồi, cho nên một số thanh niên nam nữ lợi dụng những ngày luôn luôn tốt và vô cấm kỵ nầy để "Kết Hôn". Ta thường nghe nói là "Tân tuế Tân hôn Tân nương tử 新歲新婚新娘子" Năm mới, đám cưới mới, cô dâu mới. Việt Nam ta nói là "Cưới vợ ăn Têt" chính là lúc nầy đây. Không nói đến cái háo hức rạo rực của các anh chàng thanh niên, các cô gái cũng bàn luận nhỏ to xôn xao không kém, muốn có chồng trước Tết phức cái cho rồi ! Ta hãy đọc bài thơ tứ tuyệt truyền khẩu trong dân gian sau đây sẽ rõ :
歲晏鄉村嫁娶忙, Tuế yến hương thôn giá thú mang,
宜春帖子逗春光。 Nghi xuân thiệp tử đậu xuân quang.
燈前姊妹私相語, Đăng tiền tỉ muội tư tương ngữ,
守歲今年是洞房! Thủ tuế kim niên thị động phòng!
Có nghĩa:
Cuối năm đám cưới khắp nơi nơi,
Cánh thiệp mừng xuân đã gởi rồi.
Tỉ muội trước đèn to nhỏ hẹn,
Giao thừa ta sẽ động phòng thôi!
Đó là chuyện vui cuối năm. Bây giờ nhìn lại thân ta...
Tha phương cầu thực, gởi thân nơi xứ lạ quê người, ta cũng không tránh khỏi chạnh lòng khi đến ngày cúng đưa tiễn Táo Quân về trời, vì đó là tín hiệu của năm hết Tết đến. Lòng kẻ tha hương không tránh khỏi bồi hồi xúc động khi trông ngóng về quê xa. Mời cùng đọc bài thơ của nhà thơ yêu nước Văn Thiên Tường 文天祥 đời Tống khi thất cơ bại binh bị giặc bắt ở Yên Kinh. Cuối năm ngày 24 tháng Chạp ông đã cảm khái khi trông về quê cũ và quyết chí hy sinh :
燕朔逢窮臘, Yên sóc phùng cùng lạp,
江南拜小年。 Giang Nam bái tiểu niên.
歲時生處樂, Tuế thời sanh xứ lạc,
身世死為緣。 Thân thế tử vi duyên.
鴉噪千山雪, Nha táo thiên sơn tuyết,
鴻飛萬里天。 Hồng phi vạn lý thiên.
出門意寥廓, Xuất môn ý liêu quách,
四顧但茫然。 Tứ cố đản mang nhiên !
Có nghĩa:
Yên bắc năm đà hết,
Giang Nam Tết sớm rồi.
Năm tàn vui cũng dứt,
Thân thế chết thì thôi.
Qụa kêu ngàn núi tuyết,
Hồng bay vạn dặm khơi.
Ra cửa quê chẳng thấy,
Bốn phương bát ngát trời !
Đưa Táo Quân về trời, cầu mong cho ông Táo tâu với Ngọc Hoàng Thượng Đế giúp cho thế giới năm châu năm tới Nhâm Dần 2022 sớm ngày vượt qua cơn dịch lớn, để cho mọi người mọi nhà đều được KHỎE MẠNH, VUI VẺ và AN KHANG THỊNH VƯỢNG !
Mong lắm thay !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét